Tải bản đầy đủ (.docx) (117 trang)

Phật giáo trên nhiều góc độ lịch sử tư tưởng văn hóa khác nhau mang tính tổng quát trên phạm vi cả nước hay từng khu vực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.69 KB, 117 trang )

1

Mở ĐầU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Phật giáo có mặt ở Việt Nam gần 2000 năm, trải qua nhiều thời kỳ
biến động lúc thịnh, suy khác nhau, nhng đà tự khẳng định nh một thành tố
không thể tách rời của nền văn hóa dân tộc và trở thành một trong những
tôn giáo có sức sống lâu dài tồn tại mÃi cho tới ngày nay, đồng thời ảnh hởng khá sâu rộng trong đời sống của nhân dân ta.
Lâm Đồng là một vùng cao nguyên trù phú, khí hậu quanh năm mát
mẻ, nhiều cảnh quan xinh đẹp nổi tiếng trong và ngoài nớc, vì thế từ lâu đÃ
trở thành nơi thu hút nhiều c dân ở mọi miền đất nớc đến đây sinh sống, lập
nghiệp. Khi đến Lâm Đồng, họ mang theo nhiều phong tục, tập quán, tín
ngỡng tôn giáo truyền thống riêng của địa phơng mình, góp phần làm cho
đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân Lâm Đồng ngày càng phong phú,
đa dạng... trong đó có ảnh hởng không nhỏ của Phật giáo.
Những năm gần đây cùng với sự phát triển của xà hội, Phật giáo
Lâm Đồng ®ang cã nh÷ng thay ®ỉi ®Ĩ "thÝch nghi" víi thêi đại, xu hớng thế
tục hóa ngày càng rõ nét. Đạo đức và một số sinh hoạt Phật giáo mang tính
nhân văn đích thực, có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng cuộc
sống văn hóa mới, đà có tác dụng tích cực đối với đời sống xà hội.
Mặt khác, cũng nh các tôn giáo khác, Phật giáo ra đời là nhằm
thực hiện chức năng đền bù h ảo nhu cầu hạnh phúc của nhân dân trong
khi cuộc sống hiện thực ở trần thế còn nhiều khó khăn, may rủi, cùng với
tiêu cực xà hội ngày càng nhiều. Mâu thuẫn ấy, cùng với những quan
niệm duy tâm tôn giáo đà làm cơ sở nảy sinh những mặt tiêu cực, chi


2

phối t duy và những hoạt động của con ngời, gây cản trở đối với sự phát


triển xà hội.
Hơn nữa, tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng là vấn đề rất
nhạy cảm, luôn bị các thế lực thù địch phản động lợi dụng, chống phá sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xà hội của nhân dân ta, trong đó nổi bật nhất
vẫn là lĩnh vực t tởng văn hóa, một trong những mục tiêu trọng điểm của
chúng.
Để góp phần làm rõ ảnh hởng của Phật giáo đối với con ngời Việt
Nam trong quá trình phát triển, việc nghiên cứu ảnh hởng của Phật giáo đối
với đời sống văn hóa tinh thần nhân dân Lâm Đồng hiện nay là điều rất cần
thiết có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, nó giúp các nhà hoạch định chính
sách có cơ sở đề ra chủ trơng, chính sách đúng đắn đối với công tác tôn
giáo nói chung và Phật giáo nói riêng, nhằm phát huy những giá trị văn hóa
tinh thần tốt đẹp, khắc phục những mặt hạn chế của Phật giáo, góp phần
xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ngày càng phong phú, lành mạnh ở
Lâm Đồng và trong phạm vi cả nớc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu ảnh hởng của Phật giáo đối với con ngời Việt Nam nói
chung và trên từng khía cạnh của đời sống văn hóa tinh thần nói riêng đà có
nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả nh: Nguyễn Tài Th (chủ
biên) "ảnh hởng của các hệ t tởng và tôn giáo đối với con ngời Việt Nam
hiện nay"; Nguyễn Lang "Việt Nam Phật giáo sử luận"; Đăng Nghiêm Vạn
"Đặc điểm tình hình tôn giáo Việt Nam"; Nguyễn Đăng Duy "Phật giáo và
văn hóa Việt Nam" ; Lê Hữu Tuấn "ảnh hởng của những t tởng triết học
Phật giáo trong đời sống văn hóa tinh thần ở Việt Nam"; Lê Mạnh Thát
"Toàn Nhật thiền s toàn tập"; Trần Văn Giáp "Phật giáo ở Việt Nam từ đầu
đến thế kỷ XIII"; Ngun Duy Hinh "T tëng PhËt gi¸o ViƯt Nam".


3


ở từng khu vực nh Bắc Bộ, có tác giả Nguyễn Thị Bảy "Văn hóa
Phật giáo và lối sống của ngời Việt ở Hà Nội và châu thổ Bắc Bộ".
ở Nam Bộ có tác giả Nguyễn Hiền Đức "Lịch sử Phật giáo Đàng
trong"; Trần Hồng Liên "Đạo Phật trong cộng ®ång ngêi ViƯt ë Nam Bé
ViƯt Nam".
ë miỊn Trung cã tác giả Phạm Thị Xê "ảnh hởng của t tởng Phật
giáo trong lối sống của ngời Huế"; Trần Cao Phong "Phật giáo Huế và ảnh
hởng của t tởng Phật giáo đối với sự hình thành nhân cách con ngời Huế
hiện nay".
ở Lâm Đồng có "Một số vấn đề cơ bản về tôn giáo tỉnh Lâm Đồng
và công tác tôn giáo trong tình hình mới từ năm 1995 - 2000", "Lịch sử
hình thành và phát triển các tôn giáo ở Lâm Đồng", đề tài khoa học cấp tỉnh
của Ban tôn giáo tỉnh Lâm Đồng; "Sự hình thành và phát triển Phật giáo ở
Lâm Đồng" của Hoàng Thị Lan, luận văn tốt nghiệp cử nhân.
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều khẳng định, qua hàng ngàn
năm tồn tại và phát triển ở Việt Nam. Phật giáo đà có ảnh hởng sâu đậm
trong đời sống văn hóa tinh thần đối với con ngời Việt Nam. Các công trình
nghiên cứu đó đà đề cập đến Phật giáo trên nhiều góc độ lịch sử, t tởng, văn
hóa khác nhau, mang tính tổng quát trên phạm vi cả nớc, hay từng khu vực.
Riêng vấn đề "ảnh hởng của Phật giáo đối với đời sống văn hóa tinh
thần nhân dân Lâm Đồng hiện nay" cho đến nay vẫn cha có một công
trình nghiên cứu nào đề cập đến một cách cụ thể, có hệ thống. Vì vậy,
nghiên cứu Phật giáo và ảnh hởng của nó đối với đời sống văn hóa tinh thần
của nhân dân Lâm Đồng còn là vấn đề mới mẻ và không ít khó khăn, vì vậy
đòi hỏi sự nỗ lực nhiều mặt của ngời viết.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu


4


Mục đích chủ yếu của luận văn là nhận diện Phật giáo Lâm Đồng và
trên cơ sở đó phân tích ảnh hởng của Phật giáo đối với đời sống văn hóa
tinh thần của nhân dân Lâm Đồng, đồng thời đề xuất một số giải pháp
nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của Phật giáo, góp phần
xây dựng đời sống văn hóa tinh thần nhân dân Lâm Đồng ngày càng phong
phú, lành mạnh theo định hớng xà hội chủ nghĩa.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát quá trình du nhập và phát triển Phật giáo ở Lâm Đồng.
Phân tích ảnh hởng của Phật giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần nhân
dân Lâm Đồng.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy ảnh hởng tích cực và hạn
chế mặt tiêu cực của Phật giáo ở Lâm Đồng hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đời sống văn hóa tinh thần là một lĩnh vực rộng lớn, luận văn chỉ
giới hạn nghiên cứu trong một số lĩnh vực của đời sống văn hóa tinh thần,
cụ thể là đạo đức, lối sống và văn hóa nghệ thuật của Phật giáo trong đời
sống văn hóa tinh thần nhân dân Lâm Đồng.
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài đợc tiến hành dựa trên cơ sở vận dụng các quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chính sách của
Đảng và Nhà nớc ta về tôn giáo, đồng thời, kế thừa một cách có chọn lọc
những lý luận thích hợp của các công trình nghiên cứu của nhiều tác giả có
liên quan đến nội dung của luận văn.
4.2. Phơng pháp nghiên cứu


5


Trên cơ sở phơng pháp luận chung là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, luận văn chú trọng phơng pháp lôgic - lịch sử, phơng
pháp phân tích - tổng hợp.
Ngoài ra luận văn còn sử dụng phơng pháp khảo sát và tổng kết thực
tiễn một số kết quả của các tài liệu điều tra xà hội học để nghiên cứu và
trình bày.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn khái quát đợc quá trình du nhập và phát triển của Phật
giáo vào Lâm Đồng, nêu đợc ảnh hởng của Phật giáo trên một số lĩnh vực
đời sống văn hóa tinh thần nhân dân ở Lâm Đồng.
Đa ra đợc một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những mặt tích
cực, khắc phục những mặt hạn chế của Phật giáo trong việc xây dựng đời
sống văn hóa tinh thần nhân dân Lâm Đồng, góp phần xây dựng đời sống
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Lâm Đồng trong giai đoạn hiƯn
nay.
6. ý nghÜa lý ln vµ thùc tiƠn cđa ln văn
- Luận văn góp phần xây dựng những luận cứ khoa học nhằm củng
cố và hoàn thiện quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nớc ta về tôn giáo
và công tác tôn giáo trong tình hình hiện nay.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các đề tài
nghiên cứu có nội dung liên quan đến Phật giáo, cũng nh có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo để giảng dạy về tôn giáo ở các Trờng Đại học, Cao
đẳng và Trờng Chính trị tỉnh.
- Ngoài ra luận văn còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, bồi
dỡng, tập huấn đối với cán bộ làm công tác tôn giáo, công tác vận động
quần chúng nói chung và ở Lâm Đồng nói riêng.


6


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận văn đợc kết cấu thành 2 chơng, 4 tiết.


7

Chơng 1
Quá Trình DU Nhập, Phát Triển
Và ảnh Hởng Của Phật Giáo Đối Với Đời Sống
VĂN HóA TINH Thần NHÂN DÂN LÂM Đồng

1.1. Quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo ở
Lâm Đồng

Muốn tìm hiểu quá trình hình thành phát triển, cũng nh ảnh hởng
của một tôn giáo ®èi víi ®êi sèng x· héi ë mét quèc gia, dân tộc hay một
địa phơng cụ thể, không thể không nghiên cứu những đặc điểm của mảnh
đất hiện thực đà nảy sinh ra nó. Đó là điều kiện tự nhiên, kinh tế, xà hội.
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xà hội và tín ngỡng
tôn giáo của sự du nhập Phật giáo vào Lâm Đồng
Điều kiện tự nhiên
Lâm Đồng là một tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên. Ngoài những đặc
điểm chung của cao nguyên miền tây nam Trung Bộ, Lâm Đồng còn có
những đặc điểm riêng do các điều kiện địa lý và quá trình lịch sử chi phối.
Tỉnh Lâm Đồng có diện tích là 10.172 km, chiếm 3,12% diện tích, chiếm 3,12% diện tích
cả nớc, gần bằng 1/5 diện tích toàn vùng Tây Nguyên. Nhìn chung trong số
các đơn vị hành chính cấp tỉnh hiện nay từ đồng bằng Thanh - Nghệ trở vào
đồng bằng Sông Cửu Long, Lâm Đồng là tỉnh duy nhất có lÃnh thổ nằm
trọn trong nội địa của đất nớc, không có đờng biên giới quốc gia, không có

bờ biển [53, tr. 12].
Lâm Đồng gồm có 1 thành phố, 1 thị xà và 9 huyện với 135 xÃ, phờng. Thành phố Đà Lạt là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của tỉnh, có
thế mạnh phát triển du lịch, nghỉ dỡng. Quá trình hình thành địa giới hành


8

chính của tỉnh nh hiện nay, Lâm Đồng đà trải qua một quá trình lịch sử đầy
biến động, nhiều lần thay đổi, đà tách, nhập ở một số thời kỳ khác nhau
(năm 1899 toàn quyền P. Doumer cho thành lập tỉnh Đồng Nai Thợng, năm
1950 ủy ban Kháng chiến liên khu ủy sát nhập 2 tỉnh Lâm Viên và Đồng
Nai Thợng thành tỉnh Lâm Đồng, năm 1958 Ngô Đình Diệm thành lập tỉnh
Lâm Đồng gồm thị xà Đà Lạt và 3 quận Đơn Dơng, Đức Trọng, Lạc Dơng.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, tỉnh Thuận Lâm đợc thành lập
trên cơ sở sát nhập 5 tỉnh cũ gồm: Lâm Đồng, Tuyên Đức, Ninh Thuận,
Bình Thuận và Bình Tuy, thành phố Đà Lạt trực thuộc Trung ơng. Đầu năm
1976 tỉnh Lâm Đồng (hiện nay) đợc thành lập trên cơ sở sát nhập Lâm
Đồng cũ với Tuyên Đức và Đà Lạt) [53, tr. 17-18].
Phần lớn diện tích Lâm Đồng là rừng núi và cao nguyên, với địa
hình mấp mô lợn sóng, thấp dần theo hớng đông bắc - tây nam, tạo nên
những bậc thềm dài, rộng ở các độ cao khác nhau từ 2.000 xuống 300m so
với mặt nớc biển.
Cao nguyên Lâm Đồng là nơi đầu nguồn của hệ thống sông, suối đổ
về miền Đông Nam Bộ và duyên hải miền Trung. Với độ dốc cao, các dòng
chảy trên sơn nguyên đà tạo nên nhiều thác nớc, mang đến cho xứ sở này
những cảnh đẹp kỳ thú nh Pren, Cam Ly, Đatanla, Pongour v.v... những
dòng thác này mở ra điều kiện thuận lợi để phát triển thủy điện. Hai nhà
máy thủy điện Đanhim (160.000 KW/năm) và Suối Vàng (3.000 KW/năm)
đà phục vụ nguồn sáng đến cho thành phố Hồ Chí Minh, Đà Lạt và nhiều
vùng dân c khác. ở đây cũng đà để lại nhiều đầm, hồ, có thể vừa nuôi thả,

khai thác thủy sản nớc ngọt, vừa kinh doanh du lịch nghỉ dỡng nh: Hồ Xuân
Hơng, Hồ Than Thở, Thung lũng Tình yêu [53, tr. 19].
ở Lâm Đồng có một kiểu khí hậu đặc biệt: khí hậu nhiệt đới gió
mùa vùng cao nguyên, một năm chia thành hai mùa rõ rệt: mùa khô và mùa
ma. Nhìn chung khí hậu Đà Lạt ôn hòa, quanh năm mát mẻ, cùng với nhiều


9

cảnh quan xinh đẹp, nên từ lâu nơi này đà thu hút nhiều du khách đến đây
tham quan và nghỉ dỡng.
Đất đai của Lâm Đồng bao gồm nhiều loại: đất đỏ Bazan
(200.000ha), đất phù sa màu mỡ để phát triển cây trồng (50.000ha), đất
Feralit (710.000ha) để phát triển rừng và trồng cây công nghiệp. Nhờ có đất
đai màu mỡ, khí hậu mát mẻ, Lâm Đồng thích hợp trồng cây công nghiệp
(trà, cà phê, dâu tằm), rau quả ôn đới (bắp cải, súp lơ, cà rốt, khoai tây) và
các loại cây trái nổi tiếng (hồng, bơ, đào, mận, actichaut) [53, tr, 20].
Ngoài ra, Lâm Đồng còn có những tiềm năng khá lớn về năng l ợng
và khoáng sản, đặc biệt là tiềm năng thủy điện và trữ lợng Bôxít, Cao
lanh...
Điều kiện kinh tế, văn hóa, xà hội
Nếu thiên nhiên Lâm Đồng có một bề dày lịch sử phát triển đà lâu
thì lịch sử kinh tế, văn hóa, xà hội nơi đây trái lại rất trẻ, nhng không kém
đặc sắc, có thể chia làm 2 giai đoạn.
Giai đoạn từ năm 1975 trở về trớc
Năm 1899 ngời Pháp phát hiện ra vùng đất này, với ý đồ xây dựng
một trạm nghỉ dỡng. Từ đó Lâm Đồng chuyển sang một bộ mặt mới. Cơ sở
hạ tầng thiết yếu đợc xây dựng nh: đờng bộ, đờng sắt nối liền các tỉnh,
thành phố Hồ Chí Minh, Ninh Thuận v.v... cải tạo, nâng cấp quốc lộ 20; xây
dựng nhà ga, sân bay Liên Khơng, Cam Ly; xây dựng Thủy điện Đa Nhim,

xây dựng một số trờng học, trờng dạy nghề, lập viện Đại học Đà Lạt, xây
dựng lò phản ứng hạt nhân phục vụ nghiên cứu khoa học. Có thể coi đây là
giai đoạn khai thác và phát triển các u thế khí hậu, đất đai, hình thành nền
sản xuất hàng hóa đi đôi với phát triển xà hội.
Tuy nhiên, trải qua thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ở
địa bàn này nổi lên hai vùng kinh tế - xà hội rõ rệt, đó là vùng đang phát
triển và vùng lạc hậu.


10

Vùng đang phát triển: bao gồm thành phố Đà Lạt, Thị xà Bảo Lộc
và các thị trấn huyện, lỵ nh: Di Linh, Đức Trọng, Đơn Dơng... khu vực
ngoại thị và ven các lộ giao thông chính. Đó là nơi quy tụ của đồng bào
Kinh từ nhiều địa phơng đến đây làm ăn sinh sống. Đây là vùng mà kinh tế
hàng hóa đà có điều kiện để phát triển, giao lu với các tỉnh lân cận và là đòn
bẩy thúc đẩy trồng trọt nông phẩm, chăn nuôi, công nghiệp chế biến và phát
triển một số ngành tiểu thủ công nghiệp.
Vùng lạc hậu: bao gồm những khu vực miền núi cao hẻo lánh, vùng
sâu, vùng xa, ở đó chủ yếu là đồng bào các dân tộc thiểu số. Nơi đây vẫn
tồn tại phơng thức sinh hoạt kinh tế cổ truyền mang tính chất tự cung, tự
cấp, dựa vào thiên nhiên là chủ yếu. Phơng thức canh tác hầu nh dựa vào
nông cụ thô sơ, đa chức năng để đốt, phát rừng, chọc tỉa đất làm nơng rẫy.
Cuộc sống du canh, du c, nay đây, mai đó, trình độ dân trí thấp, nạn đói xảy
ra thờng xuyên trong những tháng giáp hạt hàng năm, cộng với giao thông
đi lại khó khăn, nên sự giao lu với những vùng đang phát triển gặp nhiều trở
ngại [53, tr, 40-45].
Từ năm 1975 đến nay
Sau chiến tranh, bớc vào xây dựng chủ nghĩa xà hội, nền kinh tế
Lâm Đồng gặp nhiều khó khăn, vừa phải khắc phục hậu quả chiến tranh và

giải quyết vấn đề Fulro; vừa tiếp quản và cải tạo lại nền kinh tế; vừa tõng bíc x©y dùng mét nỊn kinh tÕ míi. Nhng dới sự lÃnh đạo của Đảng, với ý chí
tự lực, tự cờng, nhân dân Lâm Đồng đà từng bớc vợt qua khó khăn, xây
dựng quê hơng giàu đẹp.
Bớc sang thời kỳ đổi mới, Lâm Đồng có nhiều bớc tiến đáng kĨ
trong ph¸t triĨn kinh tÕ. Thêi kú 1990 - 1995, tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) tăng gần 13%, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo chiều hớng tích cực,
các tiềm năng thế mạnh đợc khai thác. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần ở Lâm Đồng phát triển, xuất nhập khẩu đợc khuyến khích, hợp tác đầu


11

t với nớc ngoài đợc mở rộng, đầu t tăng nhanh, giải quyết việc làm đợc chú
ý; đời sống nhân dân không ngừng đợc cải thiện và nâng cao, các vấn đề xÃ
hội đợc quan tâm giải quyết [53, tr. 47-48].
Nông nghiệp phát triển tơng đối toàn diện trên cơ sở phát huy thế
mạnh cây công nghiệp dài ngày; rau, hoa, quả đặc sản phát triển theo hớng
đầu t thâm canh; đất đai đợc sử dụng có hiệu quả, hình thành nhiều vùng
chuyên canh phát triển trên cơ sở bảo vệ tài nguyên và phát triển vốn rừng.
Các ngành tiểu, thủ công nghiệp tăng với tốc độ cao, sản phẩm đa dạng,
phong phú nh hàng thêu lụa, đan len, đồ gỗ. Công nghiệp chế biến đang
khẳng định đợc chỗ đứng của mình và tìm đợc thị trờng tiêu thụ khá ổn
định nh trà, cà phê, dâu tằm, hạt điều. Dịch vụ ngày càng giữ vai trò quan
trọng trong nền kinh tế, du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh,
số lợng du khách trong, ngoài nớc đến Lâm Đồng ngày càng tăng, các khu
du lịch đợc chỉnh trang, cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch ngày càng đợc hoàn
thiện đáp ứng đợc yêu cầu phát triển kinh tế, xà hội.
Sau hơn 20 năm giải phóng, nhân dân các dân tộc trong tỉnh Lâm
Đồng dới sự lÃnh đạo của Đảng đà phát huy các tiềm năng, thế mạnh của
địa phơng, xây dựng nền kinh tế với cơ cấu công - nông - lâm - du lịch,

kinh tế hàng hóa đợc đợc phát triển, bộ mặt Lâm Đồng ngày càng đổi mới,
đời sống nhân dân ngày càng đợc nâng cao, cơ sở hạ tầng ngày càng khang
trang đẹp đẽ.
Các thành phần dân c và dân tộc hiện có ở Lâm Đồng
Hiện nay ở Lâm Đồng song song tồn tại 2 thành phần dân c. Bao
gồm khối dân c ngời Kinh, chủ yếu sinh sống tập trung ở địa bàn đang phát
triển và khối dân c dân tộc thiểu số, chủ yếu sinh sống trên địa bàn chậm
phát triển. Theo số liệu điều tra dân số năm 1999, dân số tỉnh Lâm Đồng là
998.774 ngời, trong đó có trên 30 dân tộc thiểu số, chiếm 20% dân số toàn
tỉnh, bao gồm các dân tộc bản địa vùng Tây Nguyên nh K’ho, M¹, Chu


12

ru,... Ngoài ra còn có một số dân tộc thiểu số khác ở miền núi phía Bắc đến
đây cùng chung sống nh Hoa, Tày, Thái, Nùng... [46, tr. 30].
Nhìn chung, các dân tộc - c dân Lâm Đồng có trình độ phát triển
kinh tế,xà hội không đồng đều; ngôn ngữ, phong tục tập quán, tín ngỡng,
tôn giáo và sắc thái văn hóa cũng khác nhau, từ đó tạo nên bức tranh tổng
thể về đời sống văn hóa tinh thần hết sức phong phú, đa dạng.
Phần lớn c dân Lâm Đồng đều có xuất xứ từ các tỉnh đồng bằng Bắc
Bộ và miền Trung. Họ đến Lâm Đồng mang theo truyền thống, bản sắc văn
hóa của những địa phơng đà có độ dày bền vững và những nét cá biệt độc
đáo, riêng biệt.
Ngời miền Bắc đến sinh sống ở Lâm Đồng phần lớn là ngời Hà Nội
và các tỉnh xung quanh. Họ đà có một truyền thống văn hiến lâu đời với
nhiều nghi lễ, tập tục, phong cách, lối sống riêng biệt. Ngôn ngữ và lối sống
của nhóm c dân này cịng mang vỴ chÝnh thèng ë mét chõng mùc nhÊt định,
nên có ảnh hởng khá lớn trong đời sống c dân Lâm Đồng. Với nhiều u thế,
họ đà có đóng góp tích cực vào việc hình thành đời sống văn hóa tinh thần

của ngời dân Lâm Đồng. Trong ngời dân Lâm Đồng hiện nay có thể dễ
dàng nhận ra cái tế nhị, nhẹ nhàng, âm sắc giọng nói, thái độ ân cần niềm
nở, nhất là sự nhà nhặn, lịch thiệp, trọng lễ nghi... của ngời Hà Nội nghìn
năm văn hiến [52, tr. 41-44].
Ngời Trị Thiên phần lớn sống bằng nghề làm vờn, công chức, giáo
viên và buôn bán nhỏ. Họ vào Lâm Đồng không ồ ạt nhng liên tục, đều đặn
nên hiện nay số ngời Trị Thiên rất đông. Đa số họ sống ở nội thành xen lẫn
với các nhóm c dân khác. Ngời Trị Thiên vào Lâm Đồng mang theo phong
tục tập quán chịu ảnh hởng nghi lễ cung đình triều Huế, từ cách ăn mặc, bố
trí nhà ở, trang trí nội thất đến ma chay, đình đám, hội hè, cới hỏi... còn giữ
nhiều tập tục cổ truyền. Nhóm ngời này có tinh thần gia tộc và quê hơng
mÃnh liệt. ở đâu có ngời Trị Thiên là ở đó có nhà thờ họ, tế tự, giỗ chạp


13

theo chu kỳ nh ở quê cũ. Qua đó thắt chặt mối tình tơng thân, tơng ái không
chỉ giữa những ngời đồng hơng trên quê mới mà còn gắn bó với bà con
dòng họ chốn quê nhà. Ngời Trị Thiên kỹ tính trong làm ăn cũng nh trong
sinh hoạt, chiếc áo dài, chiếc nón bài thơ là cách điệu chính của ngời dân
Trị Thiên. Đến bây giờ, Huế vẫn là nơi sản xuất và cung cấp nón cho đại bộ
phận thiếu nữ Lâm Đồng. Đến chùa Linh Sơn trong ngày lễ Phật giáo, ngời
ta có cảm tởng nh đang ở giữa thành phố Huế. Điều đó nói lên ảnh hởng
văn hóa Trị Thiên khá mạnh đối với đời sống của ngời dân Lâm Đồng [52,
tr. 45-46].
Ngời Nam - NgÃi - Bình - Phú vào Lâm Đồng rất sớm, họ chủ yếu
làm công khai thác tài nguyên và xây dựng cơ sở hạ tầng thành phố Đà Lạt.
Họ định c trong những ấp dọc theo đờng sắt và đờng bộ Phan Rang - Đà
Lạt. Với truyền thống cần cù chịu thơng, chịu khó, họ đà tự lực cánh sinh
xây dựng cuộc sèng míi. Kh¸c víi ngêi H, Ngêi Nam - Ng·i - Bình - Phú

rất thực tế, không chú ý hình thức. Điều kiện ăn, ở, sinh hoạt, phục sức còn
nặng về bền chắc, tiện lợi hơn thẩm mỹ, trng bày. Xuất thân từ vùng quê có
truyền thống cách mạng và tinh thần thợng võ, nhóm ngời này giàu ý chí,
nghị lực và cá tính rất rõ ràng [52, tr. 47-48].
Nói về đời sống văn hóa tinh thần của c dân Lâm Đồng hiện nay,
không thể bỏ qua sự đóng góp của ngời Pháp xuất hiện ở thành phố Đà Lạt
- Lâm Đồng, đa số họ là những ngời văn minh, lịch sự, khác với lính viễn
chinh Pháp trong các cuộc càn quét hay những ông chủ thực dân trong các
đồn điền, hầm mỏ. Do đó, họ có ảnh hởng đáng kể đến lối sống ngời Lâm
Đồng. Ngời Lâm Đồng có đầu óc rộng mở, không bảo thủ, cố chấp. Họ tiếp
nhận văn minh, văn hóa Pháp một cách có chọn lọc. Họ loại trừ những biểu
hiện của lối sống tha hóa, lai căng, giẫm đạp lên truyền thống dân tộc, đồng
thời tiếp nhận những giá trị văn minh, nhân bản, tiến bộ. Điều này giữa hai
dân tộc Pháp - Việt có nhiều điểm tơng đồng dễ chấp nhận lẫn nhau [52, tr.
49-50].


14

Về tình hình tín ngỡng tôn giáo
Cùng với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xà hội thì tình hình tín ngỡng
tôn giáo trớc và trong khi Phật giáo du nhập vào Lâm Đồng có những nét
nổi bật sau:
Một là, Có thĨ nãi r»ng, tríc khi Yersin kh¸m ph¸ ra vïng đất Đà
Lạt (Lâm Đồng)1893, cho đến khi thực dân Pháp bắt đầu đầu t, xây dựng
Đà Lạt thành khu du lịch - nghỉ dỡng thì tín ngỡng tôn giáo ở Lâm Đồng
chủ yếu là của đồng bào dân tộc thiểu số bản địa, vốn là c dân nông nghiệp
và xà hội nguyên sơ. Vì thế tín ngỡng dân gian ở đây là đa thần nguyên
thủy, chủ yếu là tín ngỡng nông nghiệp, thờ thần lúa (Yang Roi), thần rừng
(Yang Bri), thần núi (Yang Bờ nôm), thần lửa (Yang us) v.v... của Ngời

KHo, Chu ru, Mạ. Những nghi lễ thờ cúng các vị thần nông nghiệp đợc
tiến hành theo chu kỳ canh tác rẫy hàng năm, nhng quan trọng nhất vẫn là
lễ cúng vào thời kỳ bắt đầu gieo hạt gọi là lễ cúng hồn lúa (Le Yang Tuyt
coi) để mong đợc "phong đăng hòa cốc" và lễ cúng cơm mới (Nôlir Bơơng)
diễn ra khoảng một tuần, cúng vào lúc kết thúc mùa thu hoạch trên rẫy
nhằm tạ ơn các thần linh ®· phï hé cho mét vơ gieo trång trän vẹn [46, tr.
70-71].
Ngoài các nghi lễ nông nghiệp còn có các nghi lễ, phong tục đợc thể
hiện trong chu kỳ sống của đời ngời nh vào các dịp cới, hỏi, sinh đẻ, làm
nhà mới, kết nghĩa anh em. Họ tổ chức hiến sinh khi bị ốm đau, bệnh tật,
tang ma, thiên tai, hạn hán... Đó cũng là dịp để gia chủ thể hiện tinh thần
cộng đồng đối với mọi ngời: vui, buồn, tối lửa tắt đèn có nhau, cùng nhau lo
toan, gánh vác những công việc trọng đại trong đời sống. Đó là những dịp
diễn ra nhiều tập tục lạ, nhiều lễ tiết riêng biệt tùy theo từng dân tộc, từng
dòng họ, từng buôn làng, rất phức tạp, có cái thật sự là nhân bản, có cái là
mê tín dị đoan, lạc hậu. Trong các lễ nghi này, thuần phong mü tơc cã, mµ
hđ tơc cịng cã.


15

Do sự tồn tại của chế độ mẫu hệ, vai trò của ngời phụ nữ trong xÃ
hội cũng đợc coi trọng và đợc phản ánh vào tín ngỡng dân gian, v× thÕ cã
tơc thê mĐ lóa (hay hån lóa) cđa ngời KHo, thờ mẹ Hoa (bà mẹ thần bảo
vệ trẻ nhỏ) của ngời Hoa, mẹ cửa (thần trông nhà) của ngêi Nïng. Mét
quan niƯm phỉ biÕn trong x· héi cđa đồng bào bản địa là "vạn vật hữu
linh", mọi sự vật - hiện tợng tồn tại ở thế giới xung quanh đều có hồn và
hồn đó linh thiêng.
Nh vậy, tín ngỡng dân gian phản ánh trình độ t duy đồng thời chi
phối khá mạnh đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc bản địa từ xa xa cho

đến tận ngày nay.
Hai là, ở Lâm Đồng còn có nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa, lễ
hội truyền thống phản ánh quan niệm về thế giới tự nhiên và tín ngỡng của
họ. Đây là các lễ nghi với tập quán canh tác nông nghiệp còn mang đậm nét
sơ khai. Tiêu biểu nh:
- Lễ hội Đâm trâu: Một nghi lễ có từ xa xa, thờng diễn ra sau mùa
thu hoạch, trùng vào dịp tết đầu xuân, để tạ ơn thần linh. Nghi lễ đ ợc tổ
chức ngoài trời, kéo dài nhiều ngày, bao gồm nhiều công đoạn công phu,
từ việc dựng cây nêu, chuẩn bị ché rợu cần, đến chọn ngời thể hiện vũ điệu
tế thần, cách thức đâm trâu, xẻ thịt... bao giờ cũng phải có dàn cồng
chiêng đi cùng, sau ngày lễ này, mọi công việc trong năm mới đợc thùc
hiƯn.
- LƠ héi Cång chiªng: Theo quan niƯm cđa ngêi Tây Nguyên, cồng
chiêng là biểu tợng của Thần đất hay mặt trăng; còn trống là biểu hiện cho
mặt trời, cho nên lễ hội cồng chiêng ngoài ý nghĩa là một hoạt động văn
hóa cộng đồng, nó còn là dịp để con ngời giao tiếp với thần linh.
Ba là, Cùng với tín ngỡng đa thần nguyên thủy, coi trọng các đấng
siêu nhiên, thờ các vị thần nông nghiệp, còn có tín ngỡng thờ cúng tổ tiên
không chỉ ở ngời Kinh mà còn có ở ngời dân tộc thiểu số (Chu ru).


16

Tuy nhiên, thờ cúng tổ tiên (Pơ-khi-mô-cay) ở đây khác hẳn với lễ
thờ cúng tổ tiên của ngời Kinh, việc hành lễ không tùy thuộc vào một ngày
tháng nào nhất định, mà nó tùy thuộc vào hoàn cảnh kinh tế của mỗi gia
đình, mỗi dòng họ, trong nhà không bài trí bàn thờ hay bài vị. Họ chỉ lập
bàn thờ và tiến hành nghi lễ vào một dịp nào đó ngoài nghĩa địa [46, tr. 50].
Có thể nói, nếu loại trừ sự lÃng phí, loại trừ yếu tố mê tín, lạc hậu thì
chính xà hội truyền thống đà giải quyết tốt mối quan hệ giữa cá nhân và cộng

đồng một cách có văn hóa. Nếu không hiểu thấu đáo, đầy đủ và sâu sắc các
phong tục, tập quán tín ngỡng thì không bao giờ có thể tạo nên đợc một nếp
sống mới vừa văn minh, vừa phù hợp với tâm lý của từng tộc ngời.
Bốn là, Năm 1893 sau khi ngời Pháp khám phá ra vùng đất Đà Lạt
và bắt đầu đầu t khai thác xây dựng vùng đất mới, quá trình đó đà thu hút
nhiều c dân khắp mọi miền đất nớc về Đà Lạt làm ăn, sinh sống tập trung
trong đó chủ yếu là ngời miền Bắc (Hà Đông, Nghệ Tĩnh, Thanh Hóa) và
ngời miền Trung (Quảng Nam, Quảng NgÃi, Bình Định, và Phú Yên) khi ấy
Bình Định đợc xem là trung tâm Phật giáo của Nam trung phần và về địa lý lại
rất gần với Đà Lạt. Do vậy, các tăng ni, phật tử đầu tiên đến Lâm Đồng đều là
ngời Bình Định và đó cũng là cơ sở, nền móng để đạo Phật du nhập vào
Lâm Đồng. Năm 1920 Phật giáo đà có mặt ở Lâm §ång [11, tr. 10-12].
Cïng víi sù xt hiƯn cđa PhËt giáo ở Lâm Đồng thì đạo Công giáo
cũng theo chân ngời Pháp đến đây. Năm 1917, Linh Mục quản lý cđa Héi
thõa sai Pari (Misslion Etrangres de Paris, viÕt t¾t là MFP) tại Viễn Đông là
linh mục Nicolas Couvreur đà đến Đà Lạt, mục đích tìm nơi an dỡng cho
các giáo sĩ: Ông đà xây dựng một viện giáo đồ (Saratorium - Presbytere) nay
là một phần Nhà thờ Chánh tòa. Năm 1920 thành lập Giáo sở tại Đà Lạt Lâm §ång, bỉ nhiƯm linh mơc Frediric Sidat phơ tr¸ch [11, tr. 15-16].
Năm 1932, đạo Tin Lành "hệ phái Hội Liên hiệp truyền giáo phúc
âm" (The Chistian and Missionary Alliance) viết tắt là CMA, đợc truyền


17

vào các tỉnh Tây Nguyên (trong đó có Lâm Đồng). Năm 1933, vợ chồng Mục
s Jackson ngời Pháp (quốc tịch Mỹ) đến truyền đạo và bắt đầu xây dựng hệ
thống đạo Tin lành tại tỉnh Đồng Nai Thợng (nay là Lâm Đồng) [11, tr. 17-20].
Năm 1938, đạo Cao Đài đợc truyền vào Lâm Đồng. Tòa Thánh Tây
Ninh cử giáo s Trần Ngọc Quê ở Nam Bộ về làm Khâm Châu phụ trách tỉnh
đạo Lâm Đồng và ông Lễ Sanh Ngọc Cao Thanh làm Tộc đạo đầu tiên tại

Thánh thất Đa Phớc, Trại mát Đà Lạt [11, tr. 21-25].
Theo chân c dân ngời Kinh lên Lâm Đồng, ngoài tín ngỡng bản địa,
và sự du nhập của một số tôn giáo lớn trên thế giới (Phật giáo, Công giáo,
Tin lành, Cao Đài) còn có cả phong tục tập quán, tín ngỡng của ngời Kinh.
Trong đó nổi bật là thờ cúng tổ tiên. §èi víi ngêi d©n ViƯt Nam nãi chung,
ngêi d©n L©m Đồng nói riêng chết cha phải là đà hết. Tổ tiên luôn ở gần
ngời sống, "tự tại" trên bàn thờ của mỗi gia đình, động viên, trợ giúp con
cháu trong cuộc sống thờng nhật. Vì vậy, tín ngỡng này đợc hầu hết mọi
ngời dân Lâm Đồng thực hiện. Mặt khác, c dân Lâm Đồng đa số là ngời xa
quê hơng, vì vậy, thờ cúng tổ tiên đợc coi trọng để bày tỏ tình cảm của gia
đình, con cháu đối với tổ tiên và những ngời đà khuất, mong tổ tiên phù hộ,
và che chở cho con cháu đợc mọi điều tốt lành nơi quê mới, qua đó, gắn bó,
nhớ về cội nguồn của mình.
Ngoài ra, trong thôn, xóm, nơi đâu cũng có các đền, chùa, miếu thờ
thần Hoàng; miếu thờ các vị thần bảo hộ cho cộng đồng, thờ những ngời có
công khai phá đất đai. Trong nhà thờng thờ thổ công, thổ địa, thờ thần tài
để đợc an khang, thịnh vợng.
Có thể nói tín ngỡng tôn giáo trớc và trong khi Phật giáo du nhập đÃ
phát triển tơng đối mạnh, hình thức phong phú, đa dạng đáp ứng đợc nhu
cầu tâm linh của cộng đồng c dân Lâm Đồng.
Tuy nhiên cùng với sự phát triển của xà hội, nhận thức con ngời
cũng ngày càng đợc nâng lên. Thế nhng, những tín ngỡng thô sơ đó không


18

thỏa mÃn đợc nhu cầu nhận thức và tâm lý của con ngời đà phát triển. Ngời
dân Lâm Đồng ngày càng muốn hiểu biết ý nghĩa cuộc sống của mình,
muốn biết sự sinh thành của mình, muốn biết quan hệ nhân quả trong cuộc
đời, muốn có cái nhìn về mình phù hợp hơn với sự vận động của con ngời

trong hiƯn thùc... PhËt gi¸o víi lý thut: khỉ, tËp, diƯt, đạo, nghiệp, vô thờng, vô ngÃ... đà đáp ứng đợc phần nào yêu cầu đó. Phật giáo do đó đà thay
thế đợc các tín ngỡng cổ truyền và trở thành tôn giáo lớn ở Lâm Đồng,
phát triển ngày càng mạnh, thu hút đợc nhiều tín đồ theo đạo.
1.1.2. Quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo ở Lâm Đồng
Phật giáo ra đời ở ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ VI trớc Công
nguyên, do Thái tử Tất Đạt Đa sáng lập. Qua hơn 2000 năm tồn tại và phát
triển, Phật giáo đà trở thành một tôn giáo lớn, phát triển rộng khắp trên toàn
thế giới, đặc biệt là các nớc châu á, trong đó có Việt Nam.
Phật giáo đợc truyền vào Việt Nam từ đầu Công nguyên, đến thế
kỷ thứ II đà có vị trí đáng kể trong tín ngỡng và sinh hoạt văn hóa tinh
thần ở Phủ Luy Lâu, Thuận Thành (Bắc Ninh). Với t tởng bình đẳng, bác
ái, cứu khổ, cứu nạn... Phật giáo thực sự gần gũi với tín ngỡng, văn hóa
truyền thống của c dân Việt Nam nên dễ dàng đợc c dân Việt Nam chấp
nhận.
Cùng với quá trình du nhập và lan tỏa của Phật giáo trên khắp mọi
miền đất nớc. Phật giáo cũng đà đợc du nhập vào Lâm Đồng. Tuy nhiên quá
trình du nhập và phát triển Phật giáo vào Lâm Đồng có những nét đặc thù
riêng, do hoàn cảnh lịch sử xà hội lúc bấy giờ quy định, mà trớc hết là do
các đợt di c của ngời Kinh lên Lâm Đồng.
Sự du nhập theo các đợt di c của ngêi Kinh
Tõ nưa thÕ kû XV trë vỊ tríc, vïng đất Lâm Đồng nằm trong địa
phận nớc Nam Bàn. Theo "Phủ biên tạp lục" của Lê Quý Đôn nó là phần
lớn Tây Nguyên ngày nay. Năm 1471, sau khi đánh Chiêm Thành, Lê


19

Thánh Tông phong vua nớc Nam Bàn là Nam Bàn Vơng, năm 1558,
Nguyễn Hoàng vào lập nghiệp phía nam, Chúa Nguyễn mới coi Tây
Nguyên là một phiên quốc, cứ 3 năm 1 lần phải cống nộp. Dới triều

Nguyễn, lÃnh thổ Lâm Đồng là thuộc quốc của triều đình và 1867 (Đinh
MÃo) vẫn cha có sự khai khẩn lớn ở Tây Nguyên. ý định dùng Tây Nguyên
làm chỗ dựa chống giặc của triều Nguyễn nảy ra khi Pháp chiếm 3 tỉnh
Miền Đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định, Định Tờng), năm 1869 Tây
Nguyên đợc đề nghị làm căn cứ kháng chiến lâu dài, nhng trên thực tế Lâm
Đồng vẫn cha có hoạt động khai khẩn gì lớn [46, tr. 35-40].
Đợt di dân thứ nhất của ngời Việt bắt đầu khi toàn quyền Pháp có
chủ trơng thành lập tỉnh Đồng Nai Thợng, xây dựng Đà Lạt làm nơi nghỉ
mát (1899). Luồng ngời di c lớn này nhằm có đủ lao động để mở mang đờng sá (ôtô Phan rang - Đà Lạt), xây dựng cơ sở hạ tầng điện nớc, công sở,
chợ, bệnh viện, trờng học... ngoài ra lao động ngời Kinh còn cần để khai
thác các đồn điền trồng chè, rau quả. Nổi bật trong đợt di dân này là di
chuyển một số nhóm ngời Nghệ Tĩnh, Hà Đông vào do Nhà nớc tổ chức.
Còn lại chủ yếu là ngời lao động miền Trung (Quảng NgÃi. Quảng Nam,
Bình Định, Phú Yên) vào kiếm việc làm, lúc đầu là thời vụ, sau là định c lập
nghiệp lâu dài. Ngoài ra còn một số ít là công chức Nhà nớc, từ năm 1940
trở về sau một số hộ giàu có nên đặt cơ sở nghỉ dỡng tại đây. Đến năm
1945, ngời Kinh mới tập trung nhiều ở vùng Đà Lạt, Đơn Dơng, một sè Ýt ë
B¶o Léc, Di Linh, ven quèc lé 20. Từ năm 1945 đến 1954, sự di dân đến
Lâm Đồng bị hạn chế hơn [46, tr. 42-47].
Cùng với đợt di c này, Phật giáo đợc c dân ngời Kinh (là tăng ni, tín
đồ đạo Phật) gốc Bình Định mang theo lên Đà Lạt (Lâm Đồng). Mặt khác
do yêu cầu sinh hoạt tín ngỡng tâm linh của nhóm c dân này nên Phật giáo
đến Lâm Đồng đà có điều kiện để tồn tại và bén rễ. Đây đợc xem là giai


20

đoạn đặt nền móng, bắt đầu xây dựng cơ sở chùa chiền để Phật giáo phát
triển.
Đợt di dân thứ hai (từ năm 1954 - 1975). Trong giai đoạn này, một

đợt di dân ồ ạt đà diễn ra trong năm đầu, chủ yếu là ngời Bắc ở các tỉnh
Nam Định, Thanh Hóa... và một ít ở Cao Bằng, Lạng Sơn. Phần lớn trong
họ là giáo dân và những ngời bị mua chuộc đợc chính quyền Việt Nam
Cộng Hòa "tổ chức di dân tập thể". Họ đến ở những địa bàn đợc chuẩn bị trớc và hình thành nên những vùng tập trung kinh tế mới nh: Thanh Bình
(Đức Trọng), Nam Sơn (Tùng Nghĩa). Đợt di dân ngời Bắc đến đây chấm
dứt vì ranh giới vĩ tuyến 17. Các năm tiếp theo là sự di dân tự do, chủ yếu là
ngời ven biển miền Trung từ Quảng Trị trở vào. Một số trong họ là do lánh
nạn, một số khác mu cầu một cuộc sống bảo đảm hơn. Thời kỳ này, do đầu
t xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế hàng hóa, do đó, đời sống kinh
tế, văn hóa xà hội của c dân có nhiều thay đổi ổn định và khang trang hơn.
Chính vì sự phát triển ấy mà Phật giáo càng có điều kiện bám chân vững
chắc ở Lâm Đồng [46, tr. 48-60].
Đợt di dân thứ ba (từ năm 1975 đến nay). Động lực chính của đợt di
dân này là chiến lợc điều chỉnh lao động ở miền Bắc, miền Trung, nhằm mở
rộng phát triển vùng kinh tế mới ở Tây Nguyên và Miền Đông Nam Bộ.
Trong những năm đầu, cuộc di dân này khá lớn và có tổ chức. Nguồn dân
đến Lâm Đồng chủ yếu là ngời Hà Nội vào định c tập trung ở Lâm Hà. Ngời Hà Đông, Quảng NgÃi, Thừa Thiên - Huế vào các huyện Cát Tiên, Đạtẻh,
Đạhuoai, Ngời Nam Hà, Nam Định vào định c tập trung ở Di Linh - Lâm
Đồng. Đồng thời có sự điều chỉnh c dân cũ trong nội bộ tỉnh, nh giÃn dân
Đà Lạt vào vùng kinh tế mới Tà In (Đức Trọng), Tân Châu (Di Linh).
Sau đợt này, việc di dân có tổ chức giảm đi, chỉ còn các đợt nhỏ, lẻ
tẻ theo quy hoạch. Thay vào đó, gần chục năm lại đây là phong trào di dân
tự do, chủ yếu là ngời miền núi phía Bắc vào ở xen kẽ với các cộng đồng



×