Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Khóa luận tốt nghiệp toán học:Bước đầu vận dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm trong dạy học một số nội dung Toán trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 60 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC


NGUYỄN THỊ HOÀN




BƯỚC ĐẦU VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
HỢP TÁC THEO NHÓM TRONG DẠY HỌC MỘT SỐ
NỘI DUNG TOÁN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG












KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC









Sơn La, năm 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC






NGUYỄN THỊ HOÀN




BƯỚC ĐẦU VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
HỢP TÁC THEO NHÓM TRONG DẠY HỌC MỘT SỐ
NỘI DUNG TOÁN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG



Chuyên ngành: Phương pháp dạy học môn Toán


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Người hướng dẫn: ThS. Nguyễn Hải Lý



Sơn La, năm 2013
Lời cảm ơn

Đầu tiên em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo – ThS. Nguyễn Hải lí đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành khoá luận.
Thứ hai, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy giáo, cô giáo trong khoa
Toán - Lý - Tin, Phòng khoa học công nghệ và Quan hệ quốc tế, Trung tâm thông tin
thư viện trường Đại học Tây Bắc đã giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này.
Thứ ba, em muốn gửi lời cảm ơn đặc biệt đến các giáo viên và học sinh của
trường THPT Trần Quốc Tuấn – Quảng Ninh đã giúp đỡ và hợp tác giúp em
trong quá trình thực nghiệm sư phạm tại trường.
Qua đây, chúng em cũng xin cảm ơn tập thể lớp K50 ĐHSP Toán - Lý cùng
toàn thể bạn bè, những người đã giúp đỡ, khuyến khích và ủng hộ nhiệt tình
trong quá trình em tiến hành nghiên cứu khoá.
Nội dung của khoá luận không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo cùng toàn thể các
bạn để khoá luận hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn !
Sơn la, tháng 05 năm 2013
Sinh viên
Nguyễn Thị Hoàn














MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn khoá luận 1
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu 2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
5. Phương pháp nghiên cứu 2
6. Giả thiết khoa học 3
7. Đóng góp của đề tài 3
8. Cấu trúc của khoá luận 3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 4
1.1. Bản chất của sự học và chức năng của sự dạy 4
1.1.1. Bản chất của sự học tập 4
1.1.2. Bản chất của sự dạy 4
1.2. Tiếp cận lí luận phương pháp sư phạm tương tác 5
1.2.1. Một số khái niệm 5
1.2.2. Các tương tác trong ba tác nhân 5
1.2.3. Bản chất của phương pháp sư phạm tương tác 6
1.2.4. Các nguyên tắc cơ bản của phương pháp sư phạm tương tác 6
1.3. Phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm 7
1.3.1. Khái niệm dạy học hợp tác theo nhóm 7

1.3.2. Cơ sở của việc dạy học hợp tác theo nhóm 9
1.3.3. Đặc điểm của dạy học hợp tác theo nhóm 10
1.3.4. Phân loại nhóm 11
1.3.5. Cách chia nhóm 11
1.3.6. Cơ cấu tổ chức và hoạt động nhóm 12
1.3.7. Quá trình tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm 13
1.3.8. Ưu điểm và hạn chế của dạy học họp tác theo nhóm 14
1.3.9. Khả năng vận dụng dạy học hợp tác theo nhóm ở trường THPT 16
1.4. Thực trạng việc vận dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm
trong dạy học Toán ở một số trường trung học phổ thông 17
1.4.1. Đối với giáo viên. 17
1.4.2. Đối với học sinh 18
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC HỢP TÁC THEO
NHÓM TRONG DẠY HỌC MỘT SỐ NỘI DUNG TOÁN TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG 20
Ví dụ 1: Bài : Phương trình quy về phương trình bậc nhất, bậc hai (tiết 2). 20
Ví dụ 2: Bài: Cấp số cộng (tiết 1). 23
Ví dụ 3: Bài: Phương trình mặt phẳng (tiết 1). 26
Ví dụ 4: Bài: Tổng và hiệu của hai vectơ (tiết 1). 29
Ví dụ 5: Bài: Tích của vectơ với một số (tiết 1). 31
Ví dụ 6: Bài: Vi phân. 33
Ví dụ 7: Bài: Khái niệm về khối đa diện (tiết 1). 35
Ví dụ 8: Bài: Dấu của tam thức bậc hai (tiết 1). 36
Ví dụ 9: Bài 3: Phương trình và hệ phương trình bậc nhất nhiều ẩn (tiết 1). 39
Ví dụ 10: Bài 3: Hàm số liên tục (tiết 1). 40
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 43
3.1. Mục đích thực nghiệm 43
3.2. Nhiệm vụ của thực nghiệm sư phạm 43
3.4. Phương pháp thực nghiệm 43
3.3. Nội dung thực nghiệm 43

3.5. Tổ chức thực nghiệm 43
3.5. Tiến hành thực nghiệm 44
3.6. Kết quả thực nghiệm sư phạm 45
3.6.1. Thực nghiệm có đối chứng 45
3.6.1. Phát phiếu điều tra thăm dò ý kiến 45
Kết luận 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt và kí hiệu
Nghĩa

Cao đẳng
CH
Cao học
DH
Dạy học
ĐC
Đối chứng
ĐH
Đại học
GD & ĐT
Giáo dục và đào tạo
G
Giỏi
GTTĐ
Giá trị tuyệt đối
GV
Giáo viên
H
Huyện

HS
Học sinh
K
Khá
PP
Phương pháp
SGK
Sách giáo khoa
SGV
Sách giáo viên
T
Tỉnh
TB
Trung bình
THPT
Trung học phổ thông
TN
Thực nghiệm
Tr
Trường
Y
Yếu

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn khoá luận
Đất nước ta đang bước vào thời kì hội nhập quốc tế về mọi mặt, sự phát
triển nhanh, mạnh với tốc độ mang tính bùng nổ của khoa học công nghệ, cũng
như khả năng ứng dụng chúng vào thực tế đòi hỏi người học và người dạy phải
thường xuyên trang bị cho mình những kiến thức cơ bản phục vụ chuyên môn.

Để đáp ứng được thực tế đó đòi hỏi ngành giáo dục phải đổi mới trên mọi
phương diện đặc biệt là đổi mới PPDH. Vì vậy người giáo viên ngoài việc dạy
cho học sinh kiến thức thì còn phải dạy cho học sinh cách học để có thể học suốt
đời. Luật giáo dục Việt Nam chương II, mục 3, điều 27 đã viết: “ Mục tiêu của
giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể
chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng
động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh đi vào cuộc
sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc…”
Trong ngành giáo dục, đã có rất nhiều cuộc cải cách và hội thảo về đổi mới
PPDH tuy nhiên cách dạy học truyền thống “thông báo - đồng loạt” vẫn được
nhiều GV vận dụng trong dạy học hiện nay. GV quan tâm trước hết đến việc
hoàn thành trách nhiệm của mình là truyền đạt cho hết nội dung quy định trong
chương trình và SGK, cố gắng làm cho mọi học sinh trong lớp hiểu và ghi nhớ
những lời thầy giảng. Từ đó HS sẽ học thụ động, thiên về ghi nhớ ít suy nghĩ.
Tình trạng này ngày càng phổ biến, đã hạn chế chất lượng và hiệu quả dạy học,
không đáp ứng được yêu cầu của xã hội đối với sản phẩm giáo dục của nhà
trường. Tình trạng đó cũng đã và đang dần được khắc phụ, PPDH cần hướng
vào phát huy tính sang tạo, tích cực và chủ động của học sinh. Vì vậy, trong quá
trình giáo dục - dạy học người học vừa là đối tượng vừa là chủ thể. Thông qua
quá trình dạy học dưới sự chỉ đạo của GV, HS phải tích cực chủ động cải biến
bản thân mình, không ai làm thay cho mình được. Các PPDH tích cực lấy người
học làm trung tâm đã đáp ứng được yêu cầu này của giáo dục hiện đại. Một
trong những phương pháp dạy học tích cực đang được quan tâm và ứng dụng đó
là PPDH hợp tác theo nhóm nhỏ. Tuy nhiên trong thực tế việc vận dụng PP này
trong dạy học vẫn còn chưa được nhuần nhuyễn và thường xuyên trong dạy học.
Đổi mới PPDH trong đó có môn Toán nói riêng và các môn học khác nói
chung là một yêu cầu cần thiết và cấp bách của giáo dục nước ta hiện nay.
Trong nghị quyết trung ương 4 khoá VI đã đề ra nhiệm vụ: “ Đổi mới phương
pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bài học”.


2
Từ những lý do trên, với mong muốn nâng cao chất lượng dạy học Toán ở
trường THPT, tôi mạnh dạn nghiên cứu khoá luận: “Bước đầu vận dụng
phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm trong dạy học một số nội dung
Toán trung học phổ thông”.
2. Mục đích nghiên cứu
Khoá luận nghiên cứu nhằm mục đích:
Bước đầu vận dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm trong dạy học
một số nội dung Toán THPT nhằm nâng cao việc dạy học toán.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích nghiên cứu ở trên, khoá luận cần giải quyết
các nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Nghiên cứu các quan điểm dạy học hiện đại, dạy học tích cực và làm rõ
cơ sở lí luận của dạy học hợp tác theo nhóm.
- Nghiên cứu chương trình SGK hiện hành, SGV và các tài liệu tham khảo
có liên quan.
- Vận dụng cơ sở lí luận của dạy học hợp tác theo nhóm tổ chức dạy học
một số nội dung Toán THPT.
- Tiến hành thực nghiệm: Tổ chức dạy học một số nội dung Toán THPT
theo kế hoạch đã thiết kế, kiểm tra, chấm bài kiển tra, phát phiếu thăm dò, đánh
giá các số liệu thực nghiệm và rút ra những kết luận cần thiết.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm trong dạy
học một số nội dung Toán THPT.
- Phạm vi nghiên cứu: HS trường THPT Trần Quốc Tuấn (Quảng Yên -
Quảng Ninh).
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ trên, tôi sử dụng phối hợp các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.

- Phương pháp Điều tra - Quan sát.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.



3
6. Giả thiết khoa học
- Nếu áp dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm một cách hợp lý,
đúng cách, có phối hợp các phương pháp dạy học tích cực khác sẽ góp phần tích
cực hoá hoạt động học tập của học sinh, giúp học sinh chủ động sáng tạo trong
việc chiếm lĩnh kiến thức cũng như hình thành các kĩ năng.
- Vận dụng cơ sơ lí luận của DH hợp tác theo nhóm có thể tổ chức DH một
số nội dung Toán THPT theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của HS trong học tập.
7. Đóng góp của đề tài
- Vận dụng cơ sở lí luận của dạy học hợp tác theo nhóm vào tiến trình DH
một số nội dung Toán THPT.
- Là tài liệu tham khảo tốt cho giáo viên, sinh viên ngành sư phạm toán
nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
8. Cấu trúc của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo khoá
luận còn có ba chương.
Chương 1 : Cơ sở lí luận và thực tiễn.
Chương 2 : Vận dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm trong dạy
học một số nội dung Toán THPT.
Chương 3 : Thực nghiệm sư phạm.
















4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Bản chất của sự học và chức năng của sự dạy
1.1.1. Bản chất của sự học tập
Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào não người - đó là sự
phản ánh tâm lí của con người bắt đầu từ cảm giác đến tư duy, tưởng tượng. Sự
học tập của học sinh cũng là quá trình như vậy. Sự phản ánh đó không phải thụ
động như chiếc gương mà bao giờ cũng bị khúc xạ qua lăng kính chủ quan của
mỗi người như thông qua tri thức, kinh nghiệm, nhu cầu, hứng thú của chủ thể
nhận thức. Sự phản ánh đó có tính tích cực thể hiện ở chỗ nó được thực hiện
trong tiến trình hoạt động phân tích - tổng hợp của não người và có tính lựa
chọn. Quá trình học tập của HS cũng diễn ra theo công thức nổi tiếng của
V.I.Lênin về quá trình nhận thức : ‘‘Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của nhận
thức chân lí, nhận thức hiện thực khách quan’’
Quá trình nhận thức của HS thể hiện tính độc đáo : Quá trình nhận thức
của HS không phải là quá trình tìm ra cái mới cho nhân loại mà chủ yếu là sự tái
tạo những tri thức của loài người đã tạo ra, nên HS nhận thức những điều rút ra
từ kho tàng tri thức chung của loài người đối với các em còn mới mẻ.

Quá trình nhận thức của HS không diễn ra theo con đường mò mẫm, thử sai
như quá trình nhận thức nói chung của loài người mà diễn ra theo con đường đã
được khám phá, được những nhà xây dựng chương trình, nội dung dạy học gia
công sư phạm. Chính vì vậy, trong một thời gian nhất định HS có thể lĩnh hội
khối lượng tri thức rất lớn một cách thuận lợi.
Quá trình học tập của HS phải được tiến hành đảm bảo theo các yêu cầu
của quá trình dạy học : Lĩnh hội tri thức mới, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo nhằm
biến chúng thành tài sản của bản thân.
Thông qua hoạt động nhận thức của HS trong quá trình dạy học cần hình
thành ở HS thế giới quan, động cơ, các phẩm chất và nhân cách phù hợp với
chuẩn mực xã hội.
Nhận thức của HS trong quá trình DH diễn ra dưới vai trò chủ đạo của giáo
viên (lãnh đạo, tổ chức, điều khiển) cùng với những điều kiện sư phạm nhất định.
1.1.2. Bản chất của sự dạy
Bản chất của quá trình DH là quá trình nhận thức độc đáo của HS dưới vai
trò chủ đạo của giáo viên.
Quá trình DH cần phải chú ý tới tính độc đáo có trong quá trình nhận thức
của HS để tránh sự đồng nhất quá trình nhận thức chung của loài người với quá

5
trình nhận thức của người HS. Song, không vì quá coi trọng tính độc đáo mà
thiếu quan tâm đến việc tổ chức cho học sinh dần dần tìm hiểu và tập tham gia
các hoạt động tìm tòi khám phá khoa học vừa sức, nâng cao dần để chuẩn bị cho
các em tự khai thác tri thức, tham gia nghiên cứu khoa học trong tương lai.
1.2. Tiếp cận lí luận phương pháp sư phạm tương tác
1.2.1. Một số khái niệm
Phương pháp sư phạm tương tác là phương pháp đặc biệt đánh giá các mối
quan hệ qua lại tồn tại giữa các tác nhân khác nhau tham gia vào hoạt động sư phạm.
Ba tác nhân : người học, người dạy và môi trường tạo thành hạt nhân của
phương pháp sư phạm tương tác, tất cả các yếu tố của phương pháp này đều gắn

liền với bộ ba đó. Trong đó, người học với năng lực cá nhân của mình tham gia
vào quá trình thu lượm tri thức mới, người học trước hết là người đi học chứ
không chỉ đơn thuần là được dạy. Người dạy bằng kiến thức, kinh nghiệm của
mình chịu trách nhiệm hướng dẫn người học, chỉ cho họ cái đích cần tới. Cần
lưu ý rằng chức năng chính của người dạy chỉ là hướng dẫn và giúp đỡ người
học chứ không thể làm thay công việc của người học. Môi trường là tất cả
những yếu tố xung quanh người học và người dạy, bao gồm cả yếu tố bên
trong (như :tình cảm, cảm xúc, nhân cách con người…) và bên ngoài (như : gia
đình, nhà trường, bạn bè và xã hội…).
1.2.2. Các tương tác trong ba tác nhân
Phương pháp sư phạm tương tác dựa trên mối quan hệ qua lại giữa ba tác
nhân: người học, người dạy và môi trường, mối quan hệ đó được thể hiện qua sự
tương hỗ sao cho mỗi tác nhân hoạt động và phản ứng dưới ảnh hưởng của hai
tác nhân còn lại.
Người học bằng phương pháp học, kết quả học tập, cách cư sử, thái độ của
mình truyền các thông tin cho người dạy và người dạy phản hồi lại bằng cách
cung cấp thêm thông tin, trả lời các câu hỏi, đánh giá kết quả học tập tập của
người học, từ đó điều chỉnh, tìm ra hướng đi mới cho hoạt động dạy của mình.
Như vậy, người học đã hành động và người dạy đã phản ứng.
Tương tự người dạy bằng phương pháp sư phạm của mình, gợi ý, hướng
dẫn người học, hướng họ tới cái đích cần đạt tới, về phần mình người học tiếp
thu những gợi ý đó và tự mình thu lượm tri thức. Nếu người học thấy thoả mãn
thì họ sẽ có cảm tình với người dạy và ngược lại. Lúc này, người dạy lại hành
động và người học lại phản ứng.
Môi trường có thể ảnh hưởng đến phương pháp học của người học và
phương pháp sư phạm của người dạy, vì thế mà nó ảnh hưởng đến quá trình dạy

6
học. Người học và người dạy không phải là sự trừu tượng chung chung, họ là
những con người cụ thể tồn tại trong thế giới vật chất, bên trong họ là tình cảm,

là suy nghĩ, là thái độ…xung quanh họ là gia đình, bạn bè, nhà trường và xã
hội…, do đó tất cả sự biến đổi của các yếu tố bên trong hay bên ngoài (hay
chính là các yếu tố của môi trường) đều tác động đến họ và đều tham gia thay
đổi kết quả dạy và học.
Sự tương tác qua lại giữa ba tác nhân này rất đa dạng, phong phú và theo
nhiều chiều hướng khác nhau. Chính điều đó làm nên cơ sở của phương pháp sư
phạm tương tác.
1.2.3. Bản chất của phương pháp sư phạm tương tác
Hiện nay đang tồn tại một số trào lưu sư phạm như sau:
+ Phương pháp sư phạm tự do: xuất phát từ người học và lợi ích của người học.
+ Phương pháp sư phạm đóng, được gọi là hình thức: dựa vào chương trình học.
+ Phương pháp sư phạm bách khoa: hướng về người dạy, người học chỉ
ngoan ngoãn tuân theo quyết định của người dạy.
+ Phương pháp sư phạm mở, được gọi là không hình thức: đặc biệt quan
tâm đến mối quan hệ giữa người học, người dạy và môi trường.
Mỗi trào lưu sư phạm đều có những ưu điểm riêng nhưng thực tế lại có sự
đan xen giữ các yếu tố của trào lưu này với trào lưu khác.
Phương pháp sư phạm tương tác thuộc loại trào lưu mở, nó tập trung trước
hết vào người học và cơ bản dựa vào mối quan hệ qua lại giữa người học, người
dạy và môi trường. Phương pháp sư phạm tương tác rất linh hoạt: bản chất thuộc
về phương pháp sư phạm mở vì nó dựa trên sự tác động qua lại giữa người học,
người dạy và môi trường, tuy nhiên nó cũng mang đặc tính của phương pháp sư
phạm tự do: coi người học là trung tâm của hoạt động sư phạm, nó đồng thời
cũng mang đặc tính của phương pháp bách khoa: có tính đến kiến thức và kinh
nghiệm của người dạy. Cuối cùng nó cũng mang đặc tính của phương pháp sư
phạm đóng đó là chương trình học đưa ra định hướng cho việc học.
1.2.4. Các nguyên tắc cơ bản của phương pháp sư phạm tương tác
Người học là người thợ chính trong quá trình đào tạo. Khẳng định vai trò
quyết định của người học, họ phải dựa trên chính tiềm năng của mình để chủ
động, sáng tạo chiếm lĩnh kiến thức, cũng giống như một người thợ hoàn thành

tác phẩm của mình.

7
Người dạy chỉ là người hướng dẫn của người học, giống như người thuyền
trưởng đã trao tay lái cho một thuyền viên, điều đó có nghĩa là người dạy không
trực tiếp cầm lái mà với các kiến thức, kinh nghiệm của mình, bằng phương pháp
sư phạm họ chỉ gợi ý, giúp đỡ, để chính người học phải tự cầm lái.
Môi trường ảnh hưởng đến phương pháp học của người học và phương
pháp dạy của người dạy, vì thế có ảnh hưởng đến hai tác nhân trên.
Mặt tích cực của phương pháp sư phạm tương tác là đã chú ý đáng kể đến
môi trường, đây là nơi diễn ra hoạt động dạy và học, đồng thời xác lập các tương
tác của ba yếu tố trong quá trình dạy học. Do vậy, trong quá trình tổ chức dạy
học theo phương pháp tương tác đòi hỏi phải chú ý một yếu tố mới, cần được
quan tâm đúng mức đó là môi trường.
Tóm lại, phương pháp dạy học tương tác cho thấy mối quan hệ tương hỗ
của ba tác nhân: người học - người dạy - môi trường, đây là một phương pháp sư
phạm sẽ đem lại hiệu quả cao trong quá trình đào tạo, nó đồng thời khẳng định
vai trò của ba tác nhân, từ đó nhận thấy rằng: ‘‘ Mỗi học sinh là một cá nhân, có
nhu cầu học tập khác nhau nhưng sự học tập của con người là một quá trình xã
hội, trong đó nguời khác cũng tham gia vào hoạt động hợp tác với người học”.
Người khác và người học ở đây chính là muốn đề cập đến quan hệ thầy - trò và
trò - trò. Quan hệ trò - trò chính là biểu hiện của sự tác động qua lại giữa người
học và môi trường. Quan hệ ấy được thể hiện tích cực nhất ở sự thảo luận giữa
các nhóm học tập, giữa các thành viên trong nhóm và ngược lại nhóm học tập lại
là môi trường thuận lợi để gắn kết người học với nhau, trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ chung. Đó không chỉ đơn thuần là sự gắn kết về mặt học tập mà còn là
sự gắn kết về mặt đạo đức, tâm lí, không chỉ có thế, nhóm học tập còn coi như
môi trường xã hội thu nhỏ.
Theo định hướng của phương pháp dạy học tích cực: tích cực hoá hoạt
động của người học thấy rằng quan hệ giữa người học với nhau đang là một vấn

đề cần được quan tâm, trong đó có vấn đề trọng tâm là sự hợp tác làm việc của
người học để việc học đạt kết quả cao. Như vậy, phương pháp sư phạm tương
tác theo khía cạnh nào đó có thể coi là cơ sở lí luận cũng như nguồn gốc sự đòi
hỏi phải ra đời phương pháp dạy học tích cực nói chung và phương pháp dạy
học hợp tác nói riêng. Phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm chính là biểu
hiện mối quan hệ học sinh - học sinh theo lí thuyết dạy học tương tác.
1.3. Phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm
1.3.1. Khái niệm dạy học hợp tác theo nhóm

8
Nhóm là tập hợp những cá thể từ hai người trở lên theo những nguyên tắc
nhất định, có tác động lẫn nhau để cùng thực hiện một nhiệm vụ trong một thời
gian nhất định.
Nhóm học tập được lập ra với mục đích đã được xác định rõ ràng, chung
cho cả nhóm, đó là việc học tập đạt kết quả cao hơn và hứng thú hơn khi học
riêng lẻ.
Nhóm học tập có những đặc trưng sau :
- Là một đơn vị, một bộ phận của tập thể lớp học.
- Hoạt động của nhóm được thống nhất với nhau bởi các thành viên cùng thực
hiện nhiệm vụ học tập, đây vừa là nguyên nhân vừa là điều kiện của nhóm học tập.
- Các thành viên trong nhóm không chỉ liên kết với nhau về mặt trách
nhiệm mà còn có mối quan hệ tình cảm, đạo đức, lối sống.
Như vậy nhóm học tập cũng là nơi diễn ra quá trình xã hội, không chỉ đơn
thuần là một đơn vị cấu thành nên lớp học mà còn là môi trường thuận lợi cho
sự phát triển và hình thành nhân cách cho học sinh.
Dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ là phương pháp dạy học trong đó GV sắp
xếp HS thành những nhóm nhỏ theo hướng tạo ra sự tương tác trực tiếp giữa
các thành viên, mà theo đó HS trong mỗi nhóm trao đổi, giúp đỡ và cùng nhau
phối hợp làm việc để hoàn thành nhiệm vụ chung của nhóm.
Khái niệm này nhấn mạnh một số điểm sau:

 Dạy học theo nhóm ở đây được coi là một phương pháp dạy học.
 Những người tham gia trong nhóm phải có mối quan hệ tương hỗ, giúp đỡ và
phối hợp lẫn nhau. Nói cách khác là tồn tại tương tác “ mặt đối mặt ’’ trong
nhóm HS.
 HS trong nhóm cùng thực hiện nhiệm vụ chung. Điều này đòi hỏi trước tiên
là phải có sự phụ thuộc tích cực giữa các thành viên trong nhóm. Mỗi thành viên
trong nhóm cần hiểu rằng họ không thể trốn tránh trách nhiệm, hay dựa vào
những người khác. Trách nhiệm cá nhân là then chốt đảm bảo cho tất cả các
thành viên trong nhóm thực sự tốt lên trong học tập theo nhóm.
Phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ là một trong những phương
pháp dạy học tích cực mang lại hiệu quả cao và đã được sử dụng rất nhiều trong
dạy học ở các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước phương tây. Ở Việt Nam,
hiện nay theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học, đây là một trong
những phương pháp dạy học tích cực cần được phát triển ở phổ thông.

9
Trong phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm, lớp học được chia thành
các nhóm nhỏ, tuỳ mục đích yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân
chia ngẫu nhiên hoặc có chủ định, cố định hay thay đổi trong từng phần của tiết
học, được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau.
1.3.2. Cơ sở của việc dạy học hợp tác theo nhóm
a. Cơ sở về mặt tâm lý
Động cơ đúng sẽ tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú
và tự giác là hai yếu tố tâm lý tạo nên tính tích cực, tính tích cực sản sinh tư duy
độc lập, suy nghĩ độc lập là mầm mống của sự sang tạo. Ngược lại, PP học tập
tích cực sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng thú, bồi dưỡng động cơ học tập.
Như vậy, để đạt được sự tự giác, tính tích cực, độc lập, sáng tạo trong học tập thì
cần đảm bảo ba yếu tố quan trọng khởi đầu trong quá trình học tập là: nhu cầu,
động cơ và hứng thú. Dạy học hợp tác theo nhóm là phương pháp dạy học phù
hợp với cả ba yếu tố của người học.

PP dạy học hợp tác theo nhóm góp phần tăng cường hoạt động của học
sinh, tạo bầu không khí thoải mái để người học tích cực, tự giác chiếm lĩnh tri
thức. Bằng hoạt động nhóm các học sinh - những người bạn, những người bằng
vai phải lứa với nhau có thể tự do thảo luận, phát biểu ý kiến, phân tích vấn đề,
từ đó nắm được bản chất kiến thức, việc tiếp cận tri thức không còn khó khăn
như khi phải một mình học tập nữa. Chính điều đó làm cho những hứng thú
nhận thức luôn được nảy sinh ở người học. Song, hiệu quả đó chỉ có thể được
phát huy khi người GV có năng lực tổ chức, điều khiển hoạt động nhóm.
b. Cơ sở về mặt giáo dục
Trong giáo dục cần phân biệt ‘‘nhóm” với ‘‘đám đông”. Nhà giáo dục
người Pháp, Reiniger cho rằng: ‘‘nhóm có sẵn trong mỗi cá nhân” còn ‘‘đám
đông là một sự tạo lập tự do ở bên ngoài”. Như vậy, trong mỗi nhóm, chính cá
tính của mỗi cá nhân đã kết nối họ với nhau để cùng giải quyết nhiệm vụ chung.
Mục tiêu của PPDH hợp tác theo nhóm không chỉ dừng lại ở việc nâng cao
chất lượng dạy học mà còn phát triển kĩ năng làm việc theo nhóm - một kĩ năng
rất cần thiết và ngày càng được chú trọng phục vụ cho công việc cũng như trong
cuộc sống. Như vậy, làm việc theo nhóm có hiệu quả giúp phát triển được cả
khía cạnh nhận thức lẫn xã hội của việc học. Đó chính là ý nghĩa cũng là cơ sở
về mặt giáo dục của phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm.



10
1.3.3. Đặc điểm của dạy học hợp tác theo nhóm
Trong khuôn khổ khoá luận chúng ta xét đặc điểm của dạy học hợp tác theo
nhóm ở hai góc độ về phía học sinh và về phía giáo viên.
a. Về phía học sinh
Thông qua hoạt động nhóm, học sinh có thể cùng làm với nhau để hoàn
thành những công việc mà một mình không thể tự mình hoàn thành được trong
một thời gian nhất định.

Trong dạy học hợp tác theo nhóm, học sinh có cơ hội bộc lộ và thể hiện
mình về các mặt giao tiếp, làm việc hợp tác… cũng như có cơ hội rèn luyện, phát
triển các kĩ năng về các mặt đó. Đặc biệt, một số em học sinh có những nhược
điểm nhút nhát hay khả năng diễn đạt kém… sẽ có điều kiện rèn luyện, tập dượt,
từng bước khắc phục nhược điểm, khẳng định được mình trong tập thể.
Dạy học hợp tác theo nhóm tạo điều kiện cho học sinh học hỏi lẫn nhau,
hình thành và phát triển các mối quan hệ qua lại trong các em góp phần đem lại
bầu không khí đoàn kết, giúp đỡ, tin tưởng lẫn nhau trong học tập.
Hiệu quả của hoạt động nhóm phụ thuộc vào hoạt động của từng thành
viên trong nhóm. Nếu có học sinh nào có thái độ xấu, bất hợp tác hay quá yếu
kém, không hoàn thành được phần việc của mình đều dẫn đến kết quả không tốt
hay sự chậm trễ chung của cả nhóm.
b. Về phía giáo viên.
Trong dạy học hợp tác theo nhóm, giáo viên có vai trò là người tổ chức,
hướng dẫn các hoạt động, là người cố vấn, gợi mở, khuyến khích và hỗ trợ việc
học của học sinh.
Trong dạy học hợp tác theo nhóm, yêu cầu về kĩ năng sư phạm của giáo
viên cũng mở rộng hơn so với các phương pháp dạy học truyền thống vì sẽ bao
gồm cả các kĩ năng về các mặt: xây dựng các hình thức thích hợp với hoạt động
nhóm; hướng dẫn, hỗ trợ học sinh trong khi các nhóm hoạt động nhóm; phát
triển cho học sinh kĩ năng phản ánh, trình bày quan điểm của mình,…
Trong dạy học hợp tác theo nhóm, yêu cầu về đánh giá, xử lí thông tin từ
phía học sinh của giáo viên cũng cao hơn vì trong một thời gian ngắn, giáo viên
thu nhận được nhiều thông tin đa dạng từ các nhóm, cá nhân học sinh và những
thông tin này đều phải xử lí, đưa ra những kết luận phản hồi ngay.
Trong dạy học hợp tác theo nhóm, với trường hợp lớp quá đông học sinh
dẫn đến số các nhóm là nhiều, việc bao quát, kiểm soát các mặt, giúp đỡ từng
nhóm hoạt động hiệu quả cũng như trình bày, phản ánh tốt kết quả hoạt động
của nhóm sẽ là khó khăn lớn đối với giáo viên.



11
1.3.4. Phân loại nhóm
a. Phân loại dựa vào số lượng: gồm có nhóm nhỏ và nhóm lớn.
+ Học tập theo nhóm nhỏ: số lượng học sinh trong mỗi nhóm ít, cụ thể hai
hoặc ba người hoặc bốn đến sáu người một nhóm.
Ưu điểm: mỗi cá nhân đều phải nỗ lực, đều được giao một nhiệm vụ và
toàn nhóm phải phối hợp với nhau để hoàn thành công việc chung. Thông qua
sự hợp tác, nghiên cứu, thảo luận trong nhóm, ý kiến của mỗi cá nhân sẽ được
khẳng định, điều chỉnh hay bác bỏ. Qua đó sẽ tạo được hứng thú và sự tìm tòi
trong học tập, tạo điều kiện cho các em rèn luyện năng lực làm việc theo nhóm.
Nhược điểm: đôi khi gây mất trật tự và có thể vẫn có một số thành viên ỷ lại.
+ Học tập theo nhóm lớn: “ nhóm trong nhóm”, hình thức chủ yếu là vòng
tròn bên ngoài bao quanh vòng tròn bên trong. Những người ngồi vòng tròn bên
trong thảo luận một vấn đề nào đó, những người ở vòng tròn bên ngoài quan sát,
kết quả được thu thập, ghi chép sau đó đổi vị trí cho nhau. Loại hình nhóm này
ít được vận dụng hơn.
b. Phân loại dựa vào nhiệm vụ được giao
Gồm có nhóm đồng việc (tất cả các nhóm đều thực hiện chung một nhiệm
vụ) và nhóm khác việc (mỗi nhóm thực hiện một nhiệm vụ khác nhau phục vụ
cho bài học)
1.3.5. Cách chia nhóm
Tuy thuộc vào nội dung học tập, mức độ khó, dễ của các nhiệm vụ học tập
và trình độ của học sinh mà có các cách chia nhóm khác nhau, thường có các
cách chia nhóm sau:
* Chia ngẫu nhiên: thường được tiến hành khi không cần sự phân biệt giữa các
đối tượng học sinh, nhiệm vụ không khác nhau nhiều về nội dung, ít có sự chênh
lệch về mức độ cùng chung yêu cầu. Giáo viên có thể chia theo tổ, theo bàn….Cách
chia này có ưu điểm là học sinh không phải di chuyển, hạn chế mất trật tự.
* Chia theo trình độ: gồm chia thành nhóm có cùng trình độ và nhóm khác

trình độ.
+ Nhóm cùng trình độ: được áp dụng khi cần có sự phân hoá về mức độ
khó, dễ của nội dung bài học cho từng đối tượng, thường chia thành bốn nhóm:
giỏi, khá, trung bình và yếu.

12
Giáo viên có thể có những yêu cầu khác nhau đối với từng nhóm trong cách
giải quyết cùng một nhiệm vụ học tập, và có thể gợi ý cho nhóm yếu, đưa ra yêu
cầu cao hơn cho những nhóm khá, giỏi.
Ưu điểm: tác động đến từng đối tượng trong lớp, khuyến khích, động viên
các em, tạo hứng thú học tập cho cả lớp.
Nhược điểm: việc đánh giá đúng trình độ của học sinh để chia vào các
nhóm là rất khó khăn và phải thận trọng vì trình độ của học sinh có thể thay đổi
theo thời gian và đôi khi ranh giới chưa rõ ràng . Nếu cho học sinh khá vào
nhóm yếu, các em đó không cần cố gắng hoặc các học sinh yếu sẽ ỷ lại. Một
nhược điểm nữa là về mặt tâm lí đòi hỏi giáo viên phải hết sức khéo leo, tránh
tâm lí tự ti cho nhóm kém và tự kiêu cho nhóm giỏi.
+ Chia nhóm khác trình độ: thường đuợc sử dụng khi nội dung hoạt động
dạy học cần có sự hỗ trợ lẫn nhau. Ví dụ: khi tổ chức thực hành ngoài lớp học,
ôn tập, vận dụng kiến thức vào thực tế. Trong trường hợp này, vai trò của nhóm
trưởng rất quan trọng, để phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm.
* Chia nhóm theo sở trường: thường được tiến hành trong các buổi ngoại
khoá, mỗi nhóm gồm nhũng học sinh có cùng sở trường, hứng thú.
Tóm lại, có nhiều cách chia nhóm khác nhau, mỗi cách đều có ưu và
nhược điểm riêng, giáo viên phải cân nhắc dựa vào mục tiêu bài học, loại bài
học, không gian học tập, trình độ, sở trường của học sinh để chọn cách chia
nhóm phù hợp.
1.3.6. Cơ cấu tổ chức và hoạt động nhóm
 Cơ cấu tổ chức: Một nhóm thường gồm có:
+ Nhóm trưởng: Thường là người có kiến thức vững vàng, có năng lực lãnh

đạo, làm nhiệm vụ phân công công việc, điều khiển hoạt động của nhóm, chỉ
đạo việc thảo luận, rút ra kết luận cuối cùng và có thể sẽ báo cáo kết quả hoạt
động của nhóm
+ Thư kí: Tổng hợp và ghi chép kết quả thảo luận của các thành viên, ghi
lại các hoạt động và kết quả hoạt động của nhóm, có thể nộp cho giáo viên nếu
giáo viên yêu cầu.
+ Các thành viên: Tuỳ vào mục đích và yêu cầu của nhiệm vụ học tập được
giao, các nhóm có thể có các cách phân công khác nhau: các thành viên có thể
thực hiện cùng một nhiệm vụ hoặc các nhiệm vụ khác nhau.

13
+ Trong phương pháp nhóm chuyên gia còn có thêm các chuyên gia: các
chuyên gia được chuyên môn hoá từng nhiệm vụ riêng tuỳ thuộc vào sở trường,
năng lực riêng, có thể đóng vai trò tham mưu, cố vấn trong nhóm.
 Cách tổ chức hoạt động nhóm
Có nhiều cách tổ chức hoạt động nhóm, trong đó thường sử dụng các kiểu
nhóm như: Nhóm rì rầm, nhóm gánh xiếc, nhóm bể cá, nhóm kim tự tháp, nhóm
chuyên gia,….
+ Nhóm rì rầm: Trao đổi nhỏ trong cặp 2 - 3 người ngồi cạnh nhau trước
khi chia sẻ ý kiến trong lớp.
+ Nhóm bể cá: Một nhóm đang hoạt động được quan sát im lặng bởi một
nhóm học sinh khác để học cách lập luận. Sau đó đổi vai trò cho nhau, trao đổi
kinh nghiệm về cách thảo luận, về cách hoạt động nhóm.
+ Nhóm kim tự tháp: Là hình thúc mở rộng nhóm “rì rầm”, vấn đề được
đưa ra trong nhóm nhỏ để tạo ra tư tưởng ban đầu sau đó được trao đổi sâu hơn
bằng cách gộp hai nhóm nhỏ thành lớn, rồi lại gộp hai nhóm lớn thành nhóm lớn
hơn. Càng về sau ý kiến càng được chọn lọc, sâu sắc, chính xác hơn.
+ Nhóm gánh xiếc: các nhóm tiến hành giải quyết cùng một nhiệm vụ lớn
có chứa các nhiệm vụ nhỏ theo thứ tự khác nhau. Như vậy, vào một thời điểm
bất kì mỗi nhóm sẽ có các hoạt động khác nhau, nhưng cuối giờ các nhóm các

nhóm đều thực hiện xong tất cả các nhiệm vụ nhỏ.
+ Nhóm chuyên gia: Trong nhóm có một số thành viên có kiến thức tốt về
một số lĩnh vực được xem là chuyên gia, có vai trò tham mưu, cố vấn cho cả
nhóm về lĩnh vực ấy.
1.3.7. Quá trình tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm
Trong tài liệu lí luận cơ bản về dạy và học tích cực của giáo sư Trần Bá
Hoành và một số tác giả khác đã đưa ra và cụ thể hoá cấu tạo một tiết học (hoặc
một buổi làm việc) theo nhóm như sau:
1. Làm việc chung của cả lớp.
+ Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức.
+ Tổ chức các nhóm làm việc thông báo thời gian.
+ Hướng dẫn cách làm việc theo nhóm để việc thảo luận đạt hiệu quả. Giáo
viên cần xác định mục đích chỉ dẫn nhiệm vụ cần thực hiện ấn định thời gian,
nghĩa là học sinh phải hiểu ý nghĩa, mục đích việc sắp làm, nắm vững các bước
thực hiện và biết trước thời gian cần thực hiện nhiệm vụ bao lâu.
2.Làm việc theo nhóm.
+ Phân công trong nhóm.

14
+ Trao đổi ý kiến, thảo luận trong nhóm.
+ Cử đại diện trình bày kết quả làm việc của nhóm.
Sau khi xác định nhiệm vụ cần thực hiện học sinh thực hiện theo nhiệm vụ cá
nhân, sau đó trao đổi ý kiến thảo luận trong nhóm để rút ra vấn đề chung cuối
cùng đại diện nhóm báo cáo kết quả thảo luận của nhóm mình.
3. Thảo luận tổng kết trước lớp.
+ Các nhóm báo cáo kết quả.
+ Thảo luận chung.
+ Giáo viên nhận xét, bổ xung, tổng kết khi thời gian thảo luận kết thúc
giáo viên tổ chức để đại diện các nhóm báo cáo kết quả thảo luận trước lớp, các
nhóm khác nhận xét, bổ xung.

+ Nếu kết quả thảo luận của giữa các nhóm chưa thống nhất, giáo viên đưa
vấn đề ra thảo luận chung cả lớp rồi mới đưa ra đáp án đúng, hoàn chỉnh kiến
thức cho học sinh đồng thời đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của các nhóm.
Lưu ý: GV là người hướng dẫn giúp đỡ các nhóm nếu các nhóm gặp khó
khăn trong quá trình thảo luận.
Không can thiệp quá sâu vào quá trình làm việc của nhóm (đóng góp ý kiến
kiểu như một thành viên của nhóm hoặc hỏi nhiều câu hỏi làm ảnh hưởng đến sự
tập trung của nhóm.
Để việc hoạt động nhóm thật sự có hiệu quả phải phân công nhiệm vụ quy
định thời gian rõ ràng cụ thể cho các nhóm. Nhóm trưởng đóng vai trò quan
trọng nhất. Nhóm trưởng phải là người khởi động buổi thảo luận nhóm bằng
cách tạo không khí thoải mái cho các thành viên trong nhóm.
Trong khi thảo luận nhóm trưởng phải điều động tất cả các thành viên tham
gia tích cực vào buổi thảo luận, người nhóm trưởng phải biết lắng nghe, khuyến
khích các bạn rụt rè, điều chỉnh buổi thảo luận.
Các thành viên trong nhóm thay nhau làm nhóm trưởng, thư kí…ở mỗi lần
làm việc nhóm. Như thế sẽ đảm bảo cho tất cả HS đều tham gia làm việc một
cách chủ động.
Luôn cho các nhóm thi đua với nhau.
1.3.8. Ưu điểm và hạn chế của dạy học họp tác theo nhóm
a. Ưu điểm
Dạy học hợp tác theo nhóm không những giúp HS giải quyết tốt nhiệm vụ
học tập mà còn giúp HS hình thành các phẩm chất nhân cách và các kỹ năng xã
hội tốt hơn. Cụ thể là:

15
 Học theo nhóm phát huy cao độ vai trò chủ thể, tích cực của mỗi cá
nhân trong việc thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao: các nghiên cứu đã chỉ ra
rằng khi học theo nhóm, vai trò chủ thể, tính tích cực, tự giác, sáng tạo, năng
động, tinh thần trắch nhiệm của HS thường được phát huy hơn, cơ hội cho HS

thể hiện, tự khẳng định khả năng của mình nhiều hơn. Đặc biệt, khi HS học theo
nhóm thì kết quả học tập thường cao hơn, hiệu quả làm việc tốt hơn, khả năng ghi
nhớ lâu hơn. Nhóm làm việc còn cho phép các em thể hiện vai trò tích cực đối với
việc học của mình - hỏi, biểu đạt, đánh giá công việc của bạn, thể hiện sự khuyến
khích và giúp đỡ, tranh luận và giải thích…rất nhiều kĩ năng được hình thành như:
biết đưa ra ý tưởng của mình trong môi trường cùng phối hợp, giải thích, học hỏi
lẫn nhau bằng ngôn ngữ và phương thức tác động qua lại. Hay nói cách khác, HS
trở thành chủ thể đích thực của hoạt động học tập của cá nhân.
 Phát triển năng lực cộng tác làm việc: cộng tác làm việc là phương
pháp làm việc được HS ưa thích. HS được luyện tập những kĩ năng cộng tác làm
việc như tinh thần đồng đội, sự quan tâm đến những người khác và tính khoan
dung.
 Hỗ trợ quá trình học tập mang tính xã hội: dạy học nhóm là quá trình
học tập mang tính xã hội. Học sinh học tập trong mối tương tác lẫn nhau trong
nhóm, có thể giúp đỡ lẫn nhau, tạo lập, củng cố các quan hệ xã hội và không
cảm thấy phải chịu áp lực của GV.
 Phát triển năng lực giao tiếp: thong qua cộng tác làm việc trong
nhóm, giúp HS phát triển năng lực giao tiếp như biết lắng nghe, chấp nhận và
phế phán ý kiến người khác, biết trình bày, bảo vệ ý kiến của mình trong nhóm.
 Tăng cường sự tự tin cho HS: vì học sinh được liên kết với nhau qua
giao tiếp xã hội, các em sẽ mạnh dạn hơn và ít sợ mắc phải sai lầm. Mặt khác,
thông qua giao tiếp sẽ giúp khắc phục sự thô bạo, cục cằn.
 Phát triển năng lực phương pháp: thông qua quá trình tự lực làm việc
và làm việc nhóm giúp HS rèn luyện phát triển phương pháp làm việc.
 Dạy học nhóm tạo khả năng dạy học phân hoá: lựa chọn nhóm theo
hứng thú chung hay lựa chọn ngẫu nhiên, các đòi hỏi như nhau hay khác nhau
về mức độ khó khăn, các học tập như nhau hay khác nhau, phân công công việc
như nhau hoặc khác nhau, nam HS và nữ HS làm bài cùng nhau hay riêng rẽ.
 Nâng cao kết quả học tập: những nghiên cứu so sánh kết quả học tập
của Hs cho thấy rằng, những trường học đạt kết quả dạy học đặc biệt tốt là

những trường có áp dụng và tổ chức tốt hình thức dạy học nhóm.
b. Hạn chế

16
 Dạy học nhóm đòi hỏi thời gian nhiều. Thời gian 45 phút của một tiết
học cũng là một trở ngại trên con đường đạt được thành công cho công việc hoạt
động nhóm. Một qua trình học tập với các giai đoạn dẫn nhập vào một chủ đề,
phân công nhiệ vụ, làm việc nhóm và tiếp theo là sự trình bày kết quả của nhiều
nhóm,…những việc đó khó được tổ chức một cách thoả đáng trong một tiết học.
 Công việc nhóm không phải bao giờ cũng mang lại kết quả như mong
muốn. Nếu được tổ chức và thực hiện kém, nó thường sẽ dẫn đến kết quả ngược
lại với những gì dự định sã đạt.
 Trong các nhóm chưa được luyện tập dễ xảy ra hỗn loạn. Ví dụ, có thể
xảy ra chuyện là môt học sinh phụ trách nhóm theo kiểu độc đoán, đa số các
thành viên trong nhóm không làm bài mà lại quan tâm đến những việc khác,
trong nhóm và giữa các nhóm phát sinh tình trạng đối địch, lo sợ và giận giữ.
Khi đó, sự trình bày kết quả làm việc sẽ cũng như quá trình làm việc của nhóm
sẽ diễn ra theo cách không thoả mãn.
 Thường khó để đánh giá từng HS một cách công bằng và một vài em có
thể cảm thấy không thoải mái với việc đánh dựa trên sự nỗ nực của nhóm.
 HS phải học cách học trong môi trường nhóm, nhưng đôi khi không dễ
cho các em khi mà các em đã quen với các phương pháp giảng dạy lấy GV làm
trung tâm.
1.3.9. Khả năng vận dụng dạy học hợp tác theo nhóm ở trường THPT
Trong điều kiện của các trường phổ thông hiện nay đều trang bị tương đối
đầy đủ phương tiện, thiết bị, đồ dùng dạy học, thí nghiệm…Đây là điều kiện
thuận lợi cho GV tổ chức dạy học theo nhóm. Để đạt được kết quả đó cần bảo
đảm các yêu cầu sau:
+Nội dung bài học phù hợp với PPDH học theo nhóm. Tức là có thể tổ
chức theo các cách thức như đã giới thiệu ở phần trên. Đối với môn Toán nói

riêng, để vẫn đảm bảo dạy và học theo phân phối chương trình vào trong các tiết
học chính khóa như hiện nay, GV cần căn cứ vào nội dung kiến thức cần xây
dựng từ đó có thể thiết kế tiến trình DH theo nhóm cho nội dung cả bài hoặc có
thể chỉ một đơn vị kiến thức trọng tâm nào đó của bài.
+ Không gian lớp học phù hợp với cách chia nhóm.
+ Thiết bị đồ dùng, phương tiện dạy học và tư liệu đảm bảo đầy đủ.
+ Giáo viên: GV nhiệt tình, tích cực, có năng lực về chuyên môn, năng lực
tổ chức DH tích cực và kĩ năng thiết kế tổ chức DH hợp tác theo nhóm.
+ Học sinh: Số lượng HS phù hợp với không gian lớp học.

17
1.4. Thực trạng việc vận dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm
trong dạy học Toán ở một số trường trung học phổ thông
Để tìm hiểu thực trạng việc vận dụng phương pháp dạy học hợp tác theo
nhóm trong dạy học Toán ở một số trường trung học phổ thông, tôi tiến hành
điều tra trên hai đối tượng:
 Giáo viên: Trường THPT Trần Quốc Tuấn (Quảng Yên, Quảng Ninh)
 Học sinh các lớp : 10A
1
, 10A
2
, 11A
1
, 11A
2
, 11A
3
, 12A
1
, 12A

2

(
Trường THPT Trần Quốc Tuấn, Quảng Yên, Quảng Ninh)
1.4.1. Đối với giáo viên.
Bảng 1. Bảng điều tra giáo viên trường THPT Trần Quốc Tuấn:
45
STT
Họ và tên GV
Tuổi
nghề
Hệ đào tạo
Chất
lượng
giảng dạy
Danh hiệu
dạy giỏi
cấp
CH
ĐH

G
K
TB
Tr
H
T
1
Nguyễn Đình Nghĩa
7


+

+





2
Tăng Đình Hương
7

+

+





3
Nguyễn Minh Nguyệt
7

+

+



+


4
Nguyễn Trung Hiếu
5

+

+


+


5
Nguyễn Văn Được
5

+

+






Nhận xét: Qua điều tra cho thấy đa số giáo viên đã có thâm niên công tác lâu
năm nên có nhiều kinh nghiệm trong công tác giảng dạy. Do đó, về trình tự các

bước lên lớp và phương pháp giảng dạy bộ môn đều nắm vững.
Về trình độ đào tạo thì 100% GV được đào tạo hệ Đại học chính quy.
Về chất lượng giảng dạy đa số giáo viên đạt chất lượng giảng dạy loại giỏi.
Đặc biệt cũng có một số giáo viên đạt chất lượng giảng dạy loại giỏi và đạt danh
hiệu dạy giỏi ở các cấp, tuy số lượng chưa nhiều nhưng nó cũng đóng vai trò
tích cực trong việc cổ vũ động viên các nhà giáo không ngừng học hỏi để nâng
cao tay nghề.

18
Bảng 2. Đánh giá mức độ tổ chức hoạt động nhóm của GV.
Câu hỏi
A
B
C
D
E
Câu 2
100%
0%
0%
0%
0%
Câu 3
20%
60%
20%
0%
0%

Nhận xét: Tất cả các GV có tổ chức hoạt động nhóm trong giờ dạy học toán cho

HS mặc dù mức độ của các GV là khác nhau. GV cũng thừa nhận sự đóng góp
của hoạt động nhóm vào thành công của một giời học và họ thừa nhận rằng họ
nên dành một khoảng thời gian nhất định cho HS của họ hoạt động nhóm trong
giờ học Toán (phụ lục câu 1 và câu 4).
1.4.2. Đối với học sinh.
Bảng 3: Bảng điều tra HS một số lớp trường THPT Trần Quốc Tuấn.
STT
Lớp
Tổng
số HS
Học lực học kì I
Hứng thú khi học toán
Giỏi
khá
Trung
bình
Yếu
Kém
Yêu
thích
Bình
thường
Không
thích
1
10A
1
37
0
11

24
2
0
13
14
10
2
10A
2
32
1
13
16
2
0
16
11
5
3
11A
1
45
0
12
29
4
0
12
20
13

4
11A
2
38
0
15
20
3
0
21
15
2
5
11A
3
49
0
13
29
7
0
15
24
10
6
12A
1
47
0
15

27
5
0
12
21
14
7
12A
2
48
1
17
28
2
0
28
14
6

Nhận xét: Về phía học sinh qua phát phiếu điều tra, quan sát tôi có một số nhận
định ban đầu như sau: Đa số các em có học lực khá (32%), trung bình (58,4%)
các em có hứng thú khi học toán chiếm tỉ lệ cao.

19
Bảng 4: Đánh giá mức độ hoạt động nhóm của HS.
Câu hỏi
A
B
C
D

E
Câu 3
100%
0%
0%
0%
0%
Câu 4
18%
57%
17%
8%
0%
Câu 8
25%
48,5%
24.5%
2%
0%
Nhận xét: Theo bảng 4 thì 100% HS đã được tham gia hoạt động nhóm trong giờ
học Toán với các mức độ khác nhau tuỳ theo GV giảng dạy lớp. Qua bảng cũng cho
chúng ta thấy phần lớn các em thích làm việc theo nhóm trong giờ học Toán.























×