Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

ĐỀ TÀI: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (801.25 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA QUẢN TRỊ NGUỒN NHÂN LỰC

ĐỀ TÀI: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN
DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Ở VIỆT
NAM.
BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN

Học phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Mã phách:…………………………………

Hà Nội – 2021


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
NỘI DUNG....................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN ............................................... 2
1.1.

Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ..................... 2

1.2.

Tinh hoa văn hóa nhân loại ............................................................ 2

1.3.

Chủ nghĩa Mác – Lênin................................................................... 3


1.4.

Trí tuệ và phẩm chất của Hồ Chí Minh ........................................ 4

CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN .. 5
2.1. Khái quát về những quan điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ................. 5
2.2. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ......................................................... 6
2.2.1. Nhà nước của nhân dân ................................................................ 6
2.2.2. Nhà nước do nhân dân.................................................................. 8
2.2.3. Nhà nước vì nhân dân ................................................................... 9
2.2.4. Kết luận ........................................................................................ 10
CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM............................................................... 11
3.1. Cải cách thể chế, củng cố bộ máy nhà nước ................................. 11


3.2.

Về chiến lược, chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ... 12

3.3.

Liên hệ thực tế phát huy dân chủ, xây dựng nhà nước của dân,

do dân, vì dân ở nước ta hiện nay............................................................ 14
3.5.


Giải pháp nhằm phát huy tối đa hiệu quả của bộ máy nhà nước

bảo đảm quyền làm chủ và đem lại lợi ích cho toàn thể nhân dân ...... 18
KẾT LUẬN .................................................................................................... 19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 20


LỜI MỞ ĐẦU
Sau nhiều năm kháng chiến chống Pháp và Mỹ giành lại được độc lập,
Chủ tịch Hồ Chí Minh có quan điểm nhất quán về xây dựng một nhà nước mới
ở Việt Nam là một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ. Đây là quan điểm
cơ bản nhất của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà do Người sáng lập. Dân chủ trong xã hội Việt Nam được thể hiện trên tất
cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội…Trong đó, dân chủ thể hiện
trên lĩnh vực chính trị là quan trọng nhất, nổi bật nhất và được biểu hiện tập
trung trong hoạt động của nhà nước, bởi vì quyền lực của nhân dân được thể
hiện trong hoạt động của Nhà nước với tư cách nhân dân có quyền lực tối cao.
Quan niệm dân chủ, theo Hồ Chí Minh, còn biểu hiện ở phương thức tổ chức
xã hội. Khẳng định một chế độ dân chủ ở nước ta là “bao nhiêu lợi ích đều vì
dân”, “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, đồng thời Hồ Chí Minh cũng
chỉ ra phương thức tổ chức, hoạt động của xã hội nước ta muốn khẳng định là
một nước dân chủ thì phải có cấu tạo quyền lực xã hội mà ở đó người dân, cả
trực tiếp, cả gián tiếp qua dân chủ đại diện, một hệ thống chính trị do “dân cử
ra” và “do dân tổ chức nên”. Khi xác định quyền hành và lực lượng của xã hội,
Hồ Chí Minh cịn vạch rõ nguồn gốc, lực lượng tạo ra quyền hành đó là nhân
dân. Đó là quan điểm gốc để Người coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng
nhân dân; công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng Đảng, kháng chiến kiến quốc
là trách nhiệm và công việc của dân. Quan điểm xây dựng nhà nước của Hồ
Chí Minh khơng những kế thừa mà cịn phát triển học thuyết Mac – Lênin về

nhà nước cách mạng. Hiểu một cách tổng quát nhất đó là quan điểm nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

1


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
1.1.

Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
Những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta được thể hiện, trước hết

đó là “chủ nghĩa yêu nước” và cùng với đó là “yêu nước gắn liền với yêu dân”.
Chủ nghĩa yêu nước là nền tảng tư tưởng, điểm xuất phát và động lực thúc
đẩy Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác –
Leenin con đường cứu nước, cứu dân. Chính từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đã
đúc kết chân lý: “dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống
quý báu của ta…”.
Lịch sử dựng và giữ nước lâu đời đã hình thành nên những giá trị truyền
thống hết sức cao quý của dân tộc Việt Nam. Đó là truyền thống “yêu nước gắn
liền với yêu dân”. Yêu nước gắn liền với yêu dân là kiên cường, bất khuất, là
sự đoàn kết, dân chủ, tương thân, tương ái, lịng nhân nghĩa, là ý chí vươn lên
vượt qua mọi khó khăn, thử thách, là trí thông minh, tài sáng tạo, quý trọng
hiền tài, khiêm tốn tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho văn hóa
dân tộc…Và trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất, là nhân
tố quyết định thành công của cách mạng, dân là gốc của nước, nước lấy dân
làm gốc, gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân.
1.2.


Tinh hoa văn hóa nhân loại
Kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa Phương Đơng với các thành

tựu hiện đại của văn minh Phương Tây – đó chính là nét đặc sắc trong quá trình
hình thành tư tưởng, nhân cách và văn hóa Hồ Chí Minh:
Kế thừa từ tinh hoa văn hóa, tư tưởng phương Đơng, được kết tinh trong
ba học thuyết lớn: Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo.

2


Trên phương diện Nho giáo, Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển tư tưởng
Nho giáo và xây dựng một xã hội lý tưởng, cơng bằng, bác ái, đó là xã hội bình
trị, hịa mục, hịa đồng. Đặc biệt, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tinh
thần trong đạo đức của Nho giáo về tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của con người
và cả trong công tác xây dựng Đảng về đạo đức.
Về phương diện Phật giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa 4 tư tưởng. Đó là
tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, thương người như thể thường
thân; nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm việc thiện; tinh thần
bình đẳng, dân chủ, chống phân biệt đẳng cấp; việc đề cao lao động, chống lười
biếng.
Đối với Lão giáo, Người kế thừa, phát triển tư tưởng của Lão tử, khun
con người nên sống gắn bó với thiên nhiên, hịa đồng với thiên nhiên, hơn thế
nữa là phải biết bảo vệ mơi trường sống. Bên cạnh đó, là chú ý kế thừa phát
triển tư tưởng của Mặc Tử, Hàn Phi Tử, Quản Tử.
Tinh hoa văn hóa phương Tây, Người đã kế thừa quan điểm “nhân quyền,
dân quyền” trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776, Bản Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791 và đề xuất quan điểm về quyền
mưu cầu độc lập tự do, hạnh phúc của các dân tộc trong thời đại ngày nay.

1.3.

Chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận

quyết định bước phát triển mới về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tháng 12 năm 1920, trong Đại hội thứ XVIII của Đảng xã hội Pháp họp
ở thành phố Tua, Hồ Chí Minh đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng
sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu một bước
ngoặt trong đời hoạt động cách mạng của Người, bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu
nước đến chủ nghĩa cộng sản, bước ngoặt đứng hẳn về con đường cách mạng
tháng Mười, đứng hẳn về chủ nghĩa Mác - Lênin và đứng hẳn về Quốc tế cộng
3


sản. Chính chủ nghĩa Mác- Lênin đã giúp Người tổng kết lý luận và kinh nghiệm
thực tiễn của loài người để tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc.
1.4.

Trí tuệ và phẩm chất của Hồ Chí Minh
Chúng ta cần phải xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân là tư tưởng

bao trùm, là nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ chí Minh về Nhà nước, là mục
tiêu xuyên suốt cuộc đời và lãnh đạo cách mạng của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh là hiện thân của trí tuệ, phẩm chất đạo đức và truyền thống
văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Người là có lối sống giản dị, giàu lịng
nhân ái, thơng minh, nhạy bén về chính trị, rất ham học hỏi, có tư duy độc lập,
sáng tạo, trí tuệ un bác, kiến thức sâu rộng, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa
của các dân tộc trên thế giới. Người thơng thạo nhiều thứ tiếng: Pháp, Anh,
Trung Quốc, Ý, Đức, Nga.

Đối với Người, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân là mục đích duy nhất trong mọi
suy nghĩ cũng như hành động của Người. Từ những suy nghĩ đó mà trong mọi
hành động cũng như việc làm, Người luôn luôn đặt địa vị và quyền lợi của nhân
dân lên trên hết, trước hết. Người rất gương mẫu và cũng luôn căn dặn, giáo
dục cán bộ, đảng viên phải kính dân, trọng dân, yêu dân, gần dân, học dân, tin
tưởng vào trí tuệ và lực lượng của dân. Nét đặc biệt trong phong cách chính trị
Hồ Chí Minh là luôn gần gũi với nhân dân, lắng nghe ý kiến của quần chúng,
quan tâm đến mọi tầng lớp nhân dân.

4


CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN
2.1. Khái quát về những quan điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
Nhà nước được sinh ra trong xã hội có giai cấp nên bao giờ cũng thể hiện
bản chất giai cấp sâu sắc. Tính giai cấp của Nhà nước được thể hiện qua việc
nhà nước là công cụ thống trị trong xã hội. Nhà nước sinh ra là để thực hiện ý
chí của giai cấp thống trị, củng cố và bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị.
Nhà nước thiết lập nên hệ thống pháp luật, các thiết chế xã hội, chính phủ, tịa
án, qn đội… để duy trì trật tự xã hội theo ý muốn của giai cấp thống trị.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ,
nhưng nó khơng phải là “Nhà nước tồn dân” – nhà nước phi giai cấp. Nhà
nước ở đâu và bao giờ cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định. Theo
quan điểm của Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một
nhà nước mang bản chất của giai cấp cơng nhân, và nó được thể hiện qua các
phương diện:
Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vị trí và vai trị cầm quyền.

Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước Việt Nam thể hiện ở tính định
hướng xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp phát triển đất nước.
Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước thể hiện ở nguyên tắc, tổ
chức và hoạt động của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ.
Trong Nhà nước Việt Nam, bản chất giai cấp cơng nhân thống nhất với
tính nhân dân và tính dân tộc. Đó là Nhà nước Việt Nam ra đời là kết quả của
cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của rất nhiều thế hệ người Việt Nam, của toàn
thể dân tộc; Nhà nước Việt Nam ngay từ khi ra đời đã xác định rõ và ln kiên
trì, nhất qn mục tiêu vì quyền lời của nhân dân, lấy quyền lợi của dân tộc làm
nền tảng.

5


Bản chất của Nhà nước của dân, do dân, vì dân được thể hiện qua các đặc
trưng sau:
- Nhân dân là chủ thể tối cao của nhà nước.
- Nhà nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của các dân
tộc trên lãnh thổ Việt Nam.
- Nhà nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt
động dựa trên nguyên tắc bình đẳng trong mối quan hệ giữa Nhà nước và cơng
dân.
- Tính chất dân chủ rộng rãi của Nhà nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế - xã hội.
- Nhà nước thực hiện chính sách đối ngoại hịa bình, hữu nghị, giao lưu và
hợp tác với tất cả các nước trên thế giới.
Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở chủ nghĩa lập hiến: Theo
quan niệm của Hồ Chí Minh, nghĩa là một nhà nước dân chủ, tiến bộ phải là
một nhà nước có Hiến pháp, cơ chế tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước
phải được quy định trong Hiến pháp. Một nhà nước không được tổ chức và hoạt

động trên cơ sở những quy định của Hiến pháp thể hiện ý chí của nhân dân thì
nhà nước đó là bất hợp hiến, bất hợp pháp.
2.2. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân
2.2.1. Nhà nước của nhân dân
Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập tất cả mọi quyền lực
trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Quan điểm này của Hồ
Chí Minh được thể hiện trong các bản hiến pháp do Người lãnh đạo soạn thảo,
cụ thể: Hiến pháp năm 1946 nêu rõ: tất cả quyền bình đẳng trong nước đều là
của tồn thể nhân dân Việt Nam, khơng phân biệt nịi giống, gái trai, giàu
nghèo, giai cấp, tôn giáo; những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra

6


tồn dân phúc quyết. Nhân dân có quyền làm chủ về chính trị, kinh tế, văn hố
– xã hội, bầu ra quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thể hiện quyền
tối cao của nhân dân.
Trong Nhà nước dân chủ, nhân dân thực thi quyền lực thông qua hai hình
thức dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Dân chủ trực tiếp là hình thức dân
chủ trong đó nhân dân trực tiếp quyết định mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh
quốc gia, dân tộc và quyền lợi của dân chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi
trọng hình thức dân chủ trực tiếp vì đây là hình thức dân chủ hồn bị nhất và
tạo mọi điều kiện thuận lợi để thực hành dân chủ trực tiếp. Dân chủ gián tiếp
là hình thức dân chủ được sử dụng rộng rãi nhằm thực thi quyền lực của nhân
dân. Đây là hình thức dân chủ mà trong đó nhân dân thực thi quyền lực của
mình thơng qua các đại diện mà họ lựa chọn, bầu ra và những thiết chế quyền
lực mà họ lập nên. Theo Hồ Chí Minh, muốn bảo đảm được tính chất nhân dân
của nhà nước phải xác định được và thực hiện được trách nhiệm của cử tri và
đại biểu do cử tri bầu ra.

Quyền lực nhà nước là “ thừa ủy quyền” của nhân dân, tự bản thân nhà
nước khơng có quyền lực, quyền lực của nhà nước là do nhân dân ủy thác cho.
Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn xác định rõ vị thế và mối quan hệ giữa nhân dân
với cán bộ nhà nước trên cơ sở nhân dân là chủ thể nắm giữ mọi quyền lực. Hồ
Chí Minh quan niệm dân chủ có nghĩa là “dân là chủ” đối lập với quan niệm
“quan chủ”. Đây là quan niệm được Hồ Chí Minh diễn đạt ngắn , gọn, đi thẳng
vào bản chất của khái niệm trong cấu tạo quyền lực của xã hội. Mở rộng theo
ý đó, Hồ Chí Minh cịn cho rằng: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là
dân, vì dân là chủ”.
Theo Người, nhà nước của dân, do dân làm chủ phải là nhà nước ln ln
đặt dưới sự kiểm tra, kiểm sốt của nhân dân. Nhân dân có quyền kiểm sốt,
phê bình nhà nước, có quyền bãi miễn những đại biểu mà học đã lựa chọn, bầu
7


ra và có quyền giải tán những thiết chế quyền lực mà họ đã lập nên. Sự kiểm
tra, kiểm soát của nhân dân đối với nhà nước khơng có nghĩa là bó buộc nhà
nước, là nhân dân khơng tin vào nhà nước; trái lại là để nhà nước ngày càng
trưởng thành và lớn mạnh hơn, luôn giữ vững được bản chất cách mạng của
mình.
Bên cạnh đó, luật pháp dân chủ và là công cụ quyền lực của nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, khác với luật pháp của các chế độ tư sản, phong kiến thì
luật pháp trong Nhà nước Việt Nam mới phản ánh được ý nguyện và bảo vệ
quyền lợi của dân chúng. Luật pháp đó là của nhân dân, là công cụ thực thi
quyền lực của nhân dân, là phương tiện để kiểm soát quyền lực nhà nước.
2.2.2. Nhà nước do nhân dân
Nhà nước do nhân dân trước hết là nhà nước do nhân dân lập nên sau thắng
lợi của sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Nhà nước do nhân dân cịn có nghĩa là “dân làm chủ”. Chính vì vậy Hồ

Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ cửa những người cách mạng là phải làm
cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ,
nâng cao được ý thức trách nhiệm chăm lo xây dựng nhà nước của mình.
Trong nhà nước do nhân dân làm chủ, nhà nước phải tạo mọi điều kiện để
nhân dân được thực thi những quyền mà Hiến Pháp và pháp luật đã quy định,
hưởng dụng đầy đủ quyền lợi và làm tròn nghĩa vụ làm chủ của mình. Hồ Chí
Minh khẳng định: Việc nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách nhiệm
"ghé vai gánh vác một phần". Nhà nước do dân là do nhân dân ủng hộ, giúp đỡ,
đóng thuế để nhà nước chi tiêu, hoạt động theo đúng quy định của pháp luật.
Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ. Hồ Chí
Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân
dân.
8


Nhà nước do nhân dân cần coi trọng việc giáo dục dân, bên cạnh đó nhân
dân cũng phải tự giác phấn đấu để có đủ năng lực thực hiện quyền dân chủ của
mình. Hồ Chí Minh nói: “ Chúng ta là những người lao động làm chủ nước nhà.
Muốn là chủ được tốt, phải có năng lực làm chủ”. Khi nói về nhà nước do dân,
Hồ Chí Minh thể hiện tư tưởng dân chủ triệt để, đó là khơng chỉ tuyên bố quyền
làm chủ của nhân dân, cũng không chỉ đưa nhân dân tham gia cơng việc nhà
nước, mà cịn cần chuẩn bị và động viên nhân dân chuẩn bị tốt năng lực làm
chủ.
2.2.3. Nhà nước vì nhân dân
Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân
dân, khơng có đặc quyền đặc lợi, trong sạch, cần kiệm liêm chính. Ngồi mục
đích phục vụ nhân dân, Nhà nước ta khơng có mục đích nào khác. Sinh thời Hồ
Chí Minh từng nói: “Cả đời tơi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi
Tổ Quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non,
hoặc ra vào chốn tù tội, xơng pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó. Đến lúc

nhờ quốc dân đồn kết, tranh được chính quyền, ủy thác cho tơi gánh việc Chính
phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục đích đó”.
Trong Nhà nước vì dân, cán bộ từ Chủ tịch nước trở xuống đều là công
bộc của dân. Bác thường căn dặn cán bộ: Tất cả những thứ chúng ta đang dùng
hàng ngày đều do dân cung cấp. Do vậy phải hết lòng hết sức phục vụ nhân
dân: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải
hết sức tránh”. Theo Hồ Chí Minh, thước đo một Nhà nước vì dân là phải được
lịng dân. Người đặt vấn đề với cán bộ Nhà nước phải “làm sao cho được lòng
dân, dân tin, dân mến, dân yêu”, đồng thời chỉ rõ: “ muốn được dân yêu, muốn
được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy,
phải có một tinh thần chí cơng vô tư”

9


Nhà nước vì dân, cán bộ vừa là đày tớ, nhưng đồng thời phải vừa là người
lãnh đạo nhân dân. Một nhà nước vì dân, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là
từ chủ tịch nước đến cơng chức bình thường đều phải làm công bộc, làm đầy
tớ cho dân chứ không phải “làm quan cách mạng” để “đè đầu cưỡi cổ dân”. Đối
với chức vụ chủ tịch nước của mình, Hồ Chí Minh cũng quan niệm là do dân
uỷ thác cho và như vậy phải phục vụ nhân dân, tức là làm đầy tớ cho nhân dân.
2.2.4. Kết luận
Nhà nước ta, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh đó là được lập nên từ nhân dân,
vì quyền, tự do và hạnh phúc của nhân dân mà phục vụ. Nhà nước khơng có
mục đích tự thân, khơng phục vụ cho lợi ích của riêng bất cứ giai cấp, tầng lớp
nào trong xã hội, mà đó là nhà nước của tồn thể dân tộc Việt Nam. Nhà nước
ra đời và hoạt động là vì quyền và lợi ích của thể dân tộc Việt Nam, khơng làm
được điều đó thì khơng cịn lý do để nhà nước tồn tại. Vậy để xây dựng một
Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, trước hết, phải giữ vững bản chất
giai cấp công nhân của Nhà nước; phải đảm bảo quyền tự do dân chủ của nhân

dân trong việc lựa chọn và bầu ra Chính phủ thơng qua Tổng tuyển cử với chế
độ phổ thơng đầu phiếu; phải đảm bảo cho dân có quyền kiểm sốt Chính phủ;
phải xây dựng một hệ thống luật pháp chặt chẽ và khoa học dựa trên nguyện
vọng và quyền lợi của nhân dân, đồng thời làm cho pháp luật có hiệu quả trong
thực tế và cuối cùng, phải xây dựng được đội ngũ cán bộ từ Trung ương đến
địa phương thực sự trong sạch, vững mạnh, đủ sức, đủ tài, vừa bảo đảm tốt vai
trò người lãnh đạo, quản lý vừa thực sự là người đầy tớ trung thành của nhân
dân.

10


CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
3.1. Cải cách thể chế, củng cố bộ máy nhà nước
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, để phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
Người chỉ rõ con đường và biện pháp thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp,
nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội của quần chúng.
Việc đầu tiên là kiên quyết xây dựng nhà nước pháp quyền dân chủ, cụ thể
hóa quy định của Hiến pháp về tổ chức và hoạt động của Hội đồng bầu cử quốc
gia và triển khai thực hiện bầu cử theo Luật bầu cử đại biểu Quốc hội.
Thứ hai là đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện
pháp luật. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa đòi hỏi tiếp tục đổi mới quy trình lập pháp, nâng cao năng lực xây
dựng pháp luật, bảo đảm có hệ thống pháp luật tồn diện, đồng bộ, thống nhất, minh
bạch, khả thi, phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và phản ánh đầy đủ ý
chí, nguyện vọng của nhân dân. Việc đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp
luật và tổ chức thực hiện pháp luật xuất phát từ yêu cầu thượng tôn Hiến pháp, bảo
đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị

trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và khắc phục những hạn chế, bất cập của
hệ thống pháp luật hiện hành.

Thứ ba, khẩn trương thể chế hóa các quy định về quyền con người, quyền
và tự do hiến định của công dân, bảo đảm trách nhiệm hai chiều giữa Nhà nước
và công dân. Thật ra, tất cả các quyền của công dân đều đã nằm trong Hiến
pháp Việt Nam, chỉ cần triển khai và thật sự áp dụng.
Thứ tư, hồn thiện cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước, đẩy mạnh chống
quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà nước. Cơ chế kiểm sốt
quyền lực nhà nước phải bảo đảm tất cả các loại quyền lực và thực thi quyền
lực nhà nước phải bị kiểm sốt; khơng có cơ quan, tổ chức, khơng có chức danh
nào được đặt ngồi tầm kiểm sốt, nhất là kiểm soát của nhân dân; bảo đảm
11


mọi vi phạm hoặc lạm dụng quyền lực để trục lợi đều có khả năng phát hiện và
khi phát hiện phải có chế tài xử lý nghiêm minh mới bảo đảm hiệu lực, hiệu
quả của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.
Thứ năm, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, phẩm chất,
đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền.Thực hiện tốt quy chế dân
chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, bảo đảm cho dân tiếp xúc dễ dàng với
các cơ quan cơng quyền, có điều kiện kiểm tra cán bộ, công chức, nhất là những
người trực tiếp làm việc với dân.
3.2. Về chiến lược, chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
Nói dân chủ trước hết là dân chủ trong kinh tế, đây là mấu chốt và quyết
định. Nghĩa là nhà nước phải tạo mọi điều kiện để nhân dân làm ăn hợp pháp,
giải phóng sức sản xuất, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là
động lực cho tăng trưởng kinh tế, ổn định. Theo đó, trong Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội từ năm 2011 đến năm 2020, Đảng ta xác định 5 quan điểm lớn

như sau:
Thứ nhất, phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền
vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược.
Thứ hai, đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây
dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
Thứ ba, mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người
là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.
Thứ tư, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, cơng
nghệ ngày càng cao; đồng thời hồn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

12


Thứ năm, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều
kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Cùng với đó, phát triển kinh tế theo hướng bền vững trong đó ưu tiên hàng
đầu là tạo công ăn việc làm cho người dân và nhanh chóng cải cách việc điều
hành và quản lý doanh nghiệp quốc doanh trong đó có các tập đồn kinh tế và
hướng tới tồn dụng lao động cần đẩy mạnh cơng nghiệp hóa theo hướng ngày
càng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và chú trọng phát triển nông thôn.
Về văn hóa - xã hội, thứ nhất là tiếp thu các tư tưởng để thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Cần học hỏi và tiếp thu nhiều hệ tư tưởng, không nên tự ràng buộc vào
một ý thức hệ duy nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, nếu chỉ biết học thuyết
Mác-Lênin mà khơng tiếp thu mọi tư tưởng tiến bộ của thế giới thì đã khơng
viết được bản Tun ngơn độc lập gói ghém những giá trị phổ quát của nhân
loại. Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là rất hợp
lịng dân. Các hệ tư tưởng là cơng cụ nhằm giúp đạt mục tiêu trên.

Thứ hai là ngăn chặn sự xuống cấp của văn hóa và đạo đức xã hội. Văn
hóa và đạo đức xã hội đang xuống cấp nghiêm trọng. Kỷ cương phép nước và
nhân phẩm của con người đang bị coi thường. Chưa bao giờ cái xấu, cái giả và
cái ác, biểu hiện ở nhiều dạng nhiều mặt, lại xuất hiện nhiều như bây giờ. Các
giá trị văn hóa tốt đẹp của nhân loại chưa kịp ni dưỡng và bén rễ thì đã bị
những cái xấu, cái giả lấn át. Thói háo danh, hình thức phơ trương, mê tín dị
đoan lại càng được dịp lên ngơi. Vì thế, cần khuyến khích những giá trị văn hóa
tiến bộ của nhân loại như tự do, bình đẳng… và khơi phục những tinh hoa văn
hóa truyền thống để làm nền tảng cho mọi sinh hoạt của xã hội. Cần nghiêm
khắc xử lý cán bộ ở các cấp cao khi có hiện tượng sai phạm đạo đức để làm
gương. Đặc biệt quan trọng là việc sử dụng hiệu quả vai trị tích cực của cơng
luận để phê phán và ngăn chặn sự suy thối của đạo đức và văn hóa.
13


3.3. Liên hệ thực tế phát huy dân chủ, xây dựng nhà nước của dân, do
dân, vì dân ở nước ta hiện nay
Xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân là mục tiêu tối thượng và cao
đẹp mà chúng ta đã và đang từng bước hiện thực hóa trong cuộc sống xã hội;
đó là xây dựng Nhà nước do nhân dân bầu ra, do nhân dân xây dựng, tất cả
quyền lực đều thuộc về nhân dân.
Trong 35 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới (1986 – 2021), bộ máy nhà
nước ở Việt Nam đã có bước phát triển cả về tổ chức và hoạt động, theo hướng
bảo đảm nhà nước của dân, do dân, vì dân, đủ năng lực để thực hiện quyền lực
nhà nước trong điều kiện mới. Hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các
cấp, của Chính phủ, Tịa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân được xây dựng
bảo đảm giữ vững bản chất giai cấp cơng nhân, tính nhân dân và tính dân tộc,
từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Quốc hội đã ban hành nhiều
bộ luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nhiều pháp lệnh và nghị quyết.
Ðiều này chứng tỏ sự phát triển về năng lực lập pháp của Quốc hội, kịp thời cụ

thể hóa đường lối của Ðảng trong hoạt động thực tiễn, bảo đảm dân quyền,
nhân quyền và có tính nhân văn sâu sắc. Ðồng thời, tiến hành bổ sung, sửa đổi
Hiến pháp và hệ thống pháp luật phù hợp yêu cầu thực tiễn của đất nước; bước
đầu đã cải tiến được quy trình xây dựng luật, ban hành nhiều văn bản pháp luật
đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước và hội nhập quốc tế. Chúng ta đã và đang đi
đúng hướng khi thực hiện xây dựng nhà nước gọn, nhẹ, có hiệu lực, phù hợp
sự phát triển mới của cuộc sống, trong đó nổi lên vấn đề quan trọng là xây dựng
các cơ quan nhà nước và chính quyền các cấp khơng có đặc quyền, đặc lợi, bộ
máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, bảo đảm vận hành và hoạt động có hiệu
quả, bảo đảm mọi quyền lợi thật sự đều hướng về và thuộc về nhân dân. Theo
đó, nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước được quy định đầy đủ hơn trong

14


Hiến pháp năm 2013 và chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy nhà nước được
xác định rõ hơn.
Sự nghiệp đổi mới đòi hỏi nước ta cần củng cố, xây dựng đội ngũ cán bộ
công chức của Nhà nước thật sự là cơng bộc của dân, có đức, có tài, vì đây là
cái gốc, là nền tảng để hồn thiện bộ máy nhà nước. Và thực tiễn 35 năm đổi
mới cho thấy Chính phủ và các bộ, ngành đã tập trung hơn vào quản lý, điều
hành vĩ mô, năng động giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng; cải cách hành
chính được chú trọng, nhất là thủ tục hành chính; tổ chức Chính phủ được sắp
xếp hợp lý hơn, tổ chức chính quyền địa phương đang được thí điểm các mơ
hình theo hướng hiệu quả hơn. Vì thế chúng ta đã một bước nâng cao chất lượng
tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, phân định cụ thể hơn chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Chính phủ, các bộ, ngành và chính quyền
các địa phương, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được tăng cường.
Ðặc biệt vừa qua khi đất nước phải đối phó với đại dịch Covid-19 đã tác
động trực diện, sâu rộng đến nhiều mặt của đời sống kinh tế, xã hội; sản xuất

kinh doanh đình trệ, nhiều hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội bị ảnh hưởng
nghiêm trọng, hàng triệu lao động thiếu, mất việc làm, thu nhập người lao động
suy giảm nghiêm trọng. Ngay từ khi dịch Covid-19 mới ảnh hưởng tới Việt
Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có nhiều hoạt động nắm bắt khó khăn, đề xuất,
kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp, trên cơ sở đó phối hợp với các Bộ,
ngành tham mưu, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 11/CT-TTg
ngày 04/3/2020 về các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản
xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch Covid-19. Thực hiện
Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, nhiều chính sách quan trọng đã được các Bộ,
ngành nghiên cứu ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền kịp thời ban hành
nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, đảm bảo an sinh xã hội. Cụ
thể như sau:
15


- Hỗ trợ giảm chi phí sản xuất kinh doanh: Các chính sách về giảm chi phí
đầu vào đã được đề xuất như kiến nghị giảm giá điện của Bộ Công thương, Bộ
Giao thông vận tải đã chỉ đạo Tổng công ty Cảng Hàng không Việt Nam (ACV)
miễn, giảm giá nhiều dịch vụ hàng không cho tất cả các hãng hàng không, Tập
trung tái cấu trúc nghiệp vụ các thủ tục hành chính cấp độ 3, 4 tích hợp với
cổng dịch vụ công quốc gia theo hướng cắt giảm mạnh chi phí để tạo thuận lợi
cho người dân và doanh nghiệp.
- Về hỗ trợ tín dụng và điều hành tỷ giá: Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
đã ban hành Thông tư số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 quy định về tổ
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn,
giảm lãi, giữ nguyên nhóm nợ.
- Về hỗ trợ DN thơng qua nhóm chính sách tài khóa bao gồm: Nghị định
số 41/2020/NĐ-CP ngày 08/4/2020 của Chính phủ về gia hạn thời hạn nộp thuế
và tiền thuê đất có hiệu lực kể từ ngày ban hành và được áp dụng rộng rãi cho
hầu hết doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân kinh doanh chịu tác động

trực tiếp của dịch Covid-19.
- Về hỗ trợ người dân, người lao động, hộ kinh doanh: Bộ Kế hoạch và
Đầu tư đã phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan xây dựng, trình Chính phủ
ban hành Nghị quyết số 42/NQ-CP hỗ trợ trực tiếp cho người dân, người lao
động, hộ kinh doanh gặp khó khăn do Covid-19 với tổng kinh phí khoảng
62.000 tỷ đồng. Chính sách hỗ trợ được áp dụng cho nhiều đối tượng người lao
động, hộ kinh doanh cá thể, người sử dụng lao động có khó khăn về tài chính,
người có cơng với cách mạng, đối tượng bảo trợ xã hội, hộ nghèo, hộ cận nghèo.
Khi dịch bệnh vẫn tiếp tục diễn biến, cùng với đó là các chính sách hỗ trợ
khắc phục thiên tai, lũ lụt ở miền Trung và Tây Nguyên, với quan điểm tất cả
mọi chủ trương, chính sách, phúc lợi đều hướng về người dân. Mục tiêu khơng
để ai bị bỏ lại phía sau đã được thực hiện nhằm bảo đảm an sinh, góp phần giữ
16


vững ổn định xã hội. Cụ thể, Chính phủ đã đưa ra các Nghị quyết nhằm hỗ trợ
người dân, như: Nghị quyết 165/NQ-CP ngày 5-11-2020 về việc hỗ trợ kinh
phí khắc phục thiệt hại nặng về nhà ở do thiên tai gây ra trong tháng 10 năm
2020 trên địa bàn một số địa phương miền trung và Tây Nguyên. Với nội dung:
Đối với nhà bị sập, đổ, trơi hồn tồn, Ngân sách trung ương hỗ trợ tối đa 40
triệu đồng/hộ; đối với nhà bị hư hỏng nặng, Ngân sách trung ương hỗ trợ tối đa
10 triệu đồng/hộ.
Đảng, Quốc hội, Chính phủ cũng đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách
phản ứng nhanh nhạy, kịp thời, có hiệu quả cao, xử lý được các vấn đề cấp bách
của nền kinh tế, thông qua việc ban hành Kết luận số 77-KL/TW ngày
05/6/2020 của Bộ Chính trị về “Chủ trương khắc phục tác động của đại dịch
Covid-19 để phục hồi và phát triển kinh tế đất nước”, vừa mang tính cấp bách
vừa căn cơ, chỉ đạo tập trung thực hiện các giải pháp bảo vệ sức khỏe của nhân
dân, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, đồng thời biến “nguy” thành
“cơ” để thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Với sự vào cuộc quyết

liệt, tinh thần đoàn kết, đồng lịng của hệ thống chính trị và sự nhiệt tình ủng
hộ của các tầng lớp nhân dân, nước ta đã khắc phục khó khăn để vươn lên mạnh
mẽ, thực hiện thành cơng “mục tiêu kép”: Vừa phịng, chống đại dịch Covid19, vừa phục hồi, phát triển kinh tế, bảo đảm đời sống nhân dân. Nhờ đó, năm
2020, nền tảng vĩ mơ được duy trì ổn định, lạm phát bình quân được kiểm soát
ở mức 3,23%, dưới mục tiêu 4% Quốc hội đề ra. Tăng trưởng kinh tế đạt 2,91%,
nước ta thuộc nhóm các nước có mức tăng cao nhất trong khu vực và thế giới
trong bối cảnh suy thoái nghiêm trọng diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Xu hướng
này tiếp diễn trong những tháng đầu năm 2021, theo đó sản xuất tiếp tục hồi
phục tích cực với chỉ số sản xuất công nghiệp 2 tháng đầu năm 2021 tăng 7,4%
so với cùng kỳ năm 2020.

17


Với những kết quả như trên, cho thấy Đảng, Quốc hội, Chính phủ cùng
các Bộ ngành đã đưa ra những chủ trương, đường lối, nhiệm vụ, giải pháp và
triển khai thực hiện nghiêm túc, quyết liệt chống đại dịch COVID-19 hiệu
quả và đã đạt những kết quả đáng khích lệ, được cộng đồng quốc tế và nhân
dân đánh giá cao. Và mục tiêu khơng để ai bị bỏ lại phía sau đã có ý nghĩa quan
trọng trong việc bảo đảm an sinh, góp phần giữ vững ổn định xã hội, đồng thời
thể hiện cam kết một "Chính phủ hành động" thật sự đã tạo được niềm tin mãnh
liệt trong nhân dân và nâng tầm vị thế của đất nước trên trường quốc tế.
3.4. Giải pháp nhằm phát huy tối đa hiệu quả của bộ máy nhà nước bảo
đảm quyền làm chủ và đem lại lợi ích cho tồn thể nhân dân
Thực tế cho thấy rằng bên cạnh những thành tựu đạt được cũng có những
hạn chế nhất định trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Vì vậy cần
có một số giải pháp như sau:
- Tiếp tục tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân, tính nhân dân, tính dân
tộc của Nhà nước, bảo đảm nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân.
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế vận hành của Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc

tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan để thực hiện có hiệu quả
quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
- Tiếp tục nâng cao hơn nữa hoạt động của Quốc hội và các đại biểu Quốc
hội; đẩy mạnh hoạt động cải cách hành chính. Chú trọng xây dựng Chính phủ
"liêm chính và kiến tạo".
- Tập trung hoàn thiện bộ máy nhà nước và quy chế hoạt động, xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất, năng lực đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ.

18


KẾT LUẬN
Có thể thấy, từ khi ra đời cho đến nay, trong đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn luôn quán triệt tư tưởng xây dựng nhà nước của dân, do dân
và vì dân, coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật - phương
tiện quan trọng trong quản lý nhà nước và kết hợp với sự nghiệp đổi mới đất
nước đạt nhiều thành tựu mới - một trong những vấn đề tiên quyết cần tiếp tục
là phát huy dân chủ, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Và mục tiêu
khơng để ai bị bỏ lại phía sau đã có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm an
sinh, góp phần giữ vững ổn định xã hội, đồng thời thể hiện cam kết một "Chính
phủ hành động" thật sự đã tạo được niềm tin mãnh liệt trong nhân dân và nâng
tầm vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Thực tế đã cho thấy, Đảng, Chính
phủ đã và đang đi đúng hướng khi thực hiện xây dựng nhà nước của dân, do
dân, vì dân; phù hợp sự phát triển mới của cuộc sống, trong đó nổi lên vấn đề
quan trọng là xây dựng các cơ quan nhà nước và chính quyền các cấp khơng có
đặc quyền, đặc lợi, bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, bảo đảm vận hành
và hoạt động có hiệu quả, bảo đảm mọi quyền lợi thật sự đều hướng về và thuộc
về nhân dân.


19


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2019.
2. Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh (2000), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (hệ cao cấp lý
luận chính trị), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.
4. Hồ Chí Minh: Tồn tập, các tập 4,5,8,10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2011.
5. PGS, TS Trần Hậu Tân, Phát huy dân chủ, xây dựng nhà nước của dân,
do dân, vì dân, Báo Nhân dân điện tử, />WuebKw3imLaYnolsd35Vw, truy cập lần cuối ngày 12 tháng 1 năm
2021.

20



×