Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Bài Thu Hoạch Diễn Án Hành Chính HS số 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.47 KB, 13 trang )

z

BỘ TƯ PHÁP
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
CƠ SỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
Mơn: Kỹ Năng Cơ Bản Của Luật Sư Khi Tham
Gia Giải Quyết Các Vụ Án Hành Chính

Hồ sơ: LS.HC-12
Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị Tuyết
Ngày diễn án: 15/04/2023
Họ và tên

:

Ngày sinh :
Lớp

: 24.2N

SBD:

Gv Hướng dẫn

Luật sư TRƯƠNG CƠNG KHOA

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 04 năm 2023



Tổng hợp bởi Hoatieu.vn - bởi Hoatieu.Bài thu hoạch Diễn án LS.HC – 12
A. BÀI THU HOẠCH
I. TÓM TẮT VỤ ÁN
1. Nội dung vụ án
Bà Nguyễn Thị Tuyết là chủ hộ kinh doanh dịch vụ nhà trọ bình dân có tên
Hồng Lan tại Tổ 9, Phường Đồng Lân, thành phố P, tỉnh G. L, được Uỷ ban nhân
dân thành phố P, tỉnh G. L cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh ngày
19/11/2012.
Vào khoảng 21 giờ 10 phút ngày 23/12/2013, Đồn kiểm tra của Thanh tra
Sở Văn hố, Thể thao và Du lịch tỉnh G. L đến kiểm tra nhà trọ Hoàng Lan. Sau khi
kiểm tra tra, Đoàn kiểm tra đã lập Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC,
với nội dung:
“Tại thời điểm kiểm tra nhà trọ Hoàng Lan, phịng 11 có ơng Nguyễn Văn
Thường và bà Nguyễn Thị Lành khơng có giấy kết hơn đang quan hệ vợ chồng
(quan hệ tình dục). Phịng số 09 có ơng Phan Văn và và Nguyễn Thị Thuỳ
khơng có giấy kết hơn đang ở chung phịng xem ti vi. Tại thời điểm kiểm tra
phòng số 11, chủ cơ sở kinh doanh phịng trọ Hồng Lan khơng vào sổ bà
Nguyễn Thị Lành. Kết luận chủ cơ sở nhà trọ đăng ký Hoàng Lan thiếu tinh
thần trách nhiệm để xảy ra vi phạm như trên”.

Do cần xác minh thêm, nên ngày 16/01/2014, Chánh Thanh tra Sở Văn hoá,
Thể thao và Du lịch tỉnh G. L đã có Tờ trình số 02/TT-TTr, đề nghị Giám đốc Sở
Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai gia hạn thời hạn ra quyết định xử phạt
đến hết ngày 11/3/2014 và đã được Giám đốc Sở phê duyệt.
Căn cứ biên bản vi phạm trên, Ngày 10/3/2014, Chánh Thanh tra Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai đã ban hành Quyết định số 23/QĐ-XPHC
ngày 10/3/2014 xử phạt bà Nguyễn Thị Tuyết với lý do: “Đã có hành vi vi phạm
hành chính: Tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có điều kiện
về an ninh, trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm, ma túy, cờ bạc hoặc các hoạt động
khác trái pháp luật. (Áp dụng khoản 1 Điều 25 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12

tháng 11 năm 2013 của Chính phủ.)
Ngày 18/3/2014, Thanh tra Sở Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch tỉnh GL đã
ban hành công văn số 02/2014/CV-TTr gửi đến bà Nguyễn Thị Tuyết để đính chính
về mặt hình thức và nội dung của Quyết định số 23/QĐ-XPHC.
Ngày 24/3/2014 bà Nguyễn Thị Tuyết gửi Đơn khiếu nại đến Chánh thanh
tra sở, Giám đốc sở VHTT&DL và Trưởng phòng cảnh sát điều tra tội phạm về trật
tự quản lý kinh tế và chức vụ công an tỉnh G.L theo đó khơng đơng ý với mức phạt
trong quyết định.
Ngày 07/04/2014, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L có Cơng văn số
167/CV-VHTTDL trả lời lời đơn khiếu nại của bà Tuyết thanh tra sở ra quyết định
sử phạt là đúng qui định pháp luật.
Ngày 11/4/2014 , bà Tuyết tiếp tục có đơn khiếu nại gửi đến Chủ Tịch Ủy
Ban Nhân Dân Tỉnh G.L, Giám Đốc sở văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh G.L, Giám
Đốc sở công an tỉnh G.L.
Ngày 20/4/2014, Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L
đã ra Quyết định giải quyết khiếu nại số 01/QĐ-TTr đối với đơn khiếu nại của bà

2
YourName – SBD


Tổng hợp bởi Hoatieu.vn - bởi Hoatieu.Bài thu hoạch Diễn án LS.HC – 12
Tuyết với nội dung Giữ nguyên Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐXPHC ngày 10/3/2014 của Chánh tranh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh
G.L.
Bà Tuyết không đồng ý với nội dung của giải quyết khiếu nại của Chánh
thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L, ngày 02/5/2014 đã nộp đơn
khởi kiện yêu cầu hủy bỏ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XPHC
ngày 10/3/2014 của Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Ngày 13/5/2014, Tịa Hành chính – Tịa án nhân dân tỉnh G.L đã thụ lý vụ án
hành chính sơ thẩm số 01/2014/TL-HCST theo đơn khởi kiện của bà Tuyết.

2. Yêu cầu khởi kiện
Yêu cầu Tòa án tuyên chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện theo Đơn khởi
kiện của bà Nguyễn Thị Tuyết cụ thể: Tuyên hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành
chính số 23/QĐ-XPHC ngày 10/03/2014.
II. CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ
1. Đương sự trong vụ án
1.1. Người khởi kiện
• Bà Nguyễn Thị Tuyết
Sinh năm 1982
Địa chỉ: 266 Nguyễn Biểu, Thành phố P, tỉnh G.L
• Người được ủy quyền: Mai Anh Tuấn
Địa chỉ: 33 Minh Khai, Phường Bùi Thị Xuân, Tp.P, tỉnh G.L.
Theo Giấy ủy quyền ngày 19/05/2014
1.2. Người bị kiện
• Trần Ngọc Minh
Chức vụ: Phó giám đốc, kiêm Chánh Thanh tra.
Đơn vị: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L
• Người được ủy quyền: Dương Văn Thành
Chức vụ: Phó Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du Lịch tỉnh G.L
Địa chỉ: 06 Trần Hưng Đạo, thành phố P, tỉnh G.L.
1.3.

Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn Thường; Bà Nguyễn Thị Lành;
Ông Phan Văn; Bà Nguyễn Thị Thùy.

2. Đối tượng bị kiện
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và
du lịch số 23/QĐ/XPHC ngày 10/03/2014 của Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch tỉnh G.L.
3. Điều kiện khởi kiện

3.1. Quyền khởi kiện và chủ thể khởi kiện
− Quyền khởi kiện: Căn cứ Điều 5, Điều 8, Khoản 1 Điều 115 Bộ luật TTHC
2015.

3
YourName – SBD


Tổng hợp bởi Hoatieu.vn - bởi Hoatieu.Bài thu hoạch Diễn án LS.HC – 12
• Quyết định số 23/QĐ-XPHC/QĐ-XPHC ngày 10/3/2014 gây ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Nguyễn Thị Tuyết nên bà Tuyết có
quyền khởi kiện.
− Chủ thể khởi kiện: Căn cứ Điều 54 Bộ luật TTHC 2015
• Đủ năng lực pháp luật: Khoản 1 điều 54 Bộ luật TTHC 2015;
• Đủ năng lực hành vi: Khoản 2 điều 54 Bộ luật TTHC 2015
3.2. Thời hiệu khởi kiện
Căn cứ Theo điểm a khoản 2 điều 116 Bộ luật TTHC 2015
Thời hiệu: 01 năm kể từ ngày Bà Nguyễn Thị Tuyết nhận được hoặc biết
được Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XPHC/QĐ-XPHC
Ngày nhận quyết định của bà Tuyết là 17/3/2014, ngày 02/05/2014 gửi đơn
kiện tới Tòa án nhân dân. Như vậy vụ án của bà Tuyết vẫn trong thời hạn khởi kiện.
Do đó, việc Bà Nguyễn Thị Tuyết nộp Đơn khởi kiện ngày 02/5/2019 là còn
thời hiệu khởi kiện theo quy định của pháp luật.
Tịa Hành chính – Tịa án nhân dân tỉnh G.L đã thụ lý vụ án hành chính sơ
thẩm số 01/2014/TL-HCST là phù hợp với quy định của pháp luật
4. Thẩm quyền tòa án
Về thẩm quyền theo vụ việc: Căn cứ vào quy định tại Điều 30 Luật Tố tụng
hành chính năm 2015 thì khiếu kiện của bà Nguyễn Thị Tuyết thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án.
Về thẩm quyền theo các cấp Tòa án: Theo khoản 1 Điều 30 Luật Tố tụng

hành chính 2015, Tịa án có thẩm quyền giải quyết cấp sơ thẩm là Tịa Hành Chính
– Tịa án nhân dân tỉnh G.L vì người khởi kiện kiện quyết định hành chính của Cơ
quan hành chính cấp tỉnh (Chánh Thanh Tra Sở Văn Hóa Thể Thao và Du Lịch tỉnh
GL) nên Tịa án có thẩm quyền là Tịa án hành chính thuộc Tịa án nhân dân cấp
tỉnh nơi có trụ sở cơ quan của người có thẩm quyền ra quyết định nơi người bị kiện
có trụ sở
5. Các văn bản pháp luật áp dụng
5.1. Văn bản Pháp luật Tố tụng
− Luật Tố tụng hành chính 2010 có hiệu lực ngày 01/7/2011 (có hiệu lực áp dụng
tại thời điểm xảy ra vụ việc);
− Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành Luật tố tụng hành chính do
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành ngày 29/7/2011 (sau đây
gọi tắt là Nghị quyết 02);
− Luật Tố tụng hành chính 2015 có hiệu lực ngày 01/7/2016 (do vụ án được xét xử
tại thời điểm hiện nay nên áp dụng khoản 1 Điều 1 NQ 104/2015/QH13 thì áp
dụng Luật tố tụng hành chính 2015);
− Nghị quyết số 104/2015/QH13 về việc Thi hành Luật Tố tụng Hành chính (sau
đây gọi tắt là Nghị quyết 104);
− Luật Khiếu nại 2011 có hiệu lực ngày 01/7/2012 (Sau đây gọi tắt là Luật khiếu
nại).
5.2.

Văn bản Pháp luật nội dung

4
YourName – SBD


Tổng hợp bởi Hoatieu.vn - bởi Hoatieu.Bài thu hoạch Diễn án LS.HC – 12
− Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 có hiệu lực ngày 01/7/2013 (sau đây gọi tắt

là Luật xử lý vi phạm hành chính);
− Nghị định số 81/2013/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 19/7/2013 quy định
chỉ tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính (sau
đây gọi tắt là Nghị định 81);
− Pháp lệnh phòng, chống mại dâm số 10/2003/PL-UBTVQH11 ngày 17/3/2003
của Ủy ban thường vụ Quốc hội (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh phòng, chống mại
dâm);
− Nghị định số 178/2004/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 15/10/2004 quy
định chỉ tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh phòng, chống mại dâm (sau đây
gọi tắt là Nghị định 178);
− Nghị định 71/2009/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 28/8/2009 về tổ chức
và hoạt động của Thanh tra Văn hóa, Thể thao và Du lịch (sau đây gọi tắt là
Nghị định 71);
− Nghị định số 72/2009/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 03/9/2009 quy định
điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề kinh doanh có điều kiện
(sau đây gọi tắt là Nghị định 72) (tại thời điểm xảy ra vụ án) và hiện được thay
thế bằng NÐ 96/2016/NĐ-CP;
− Nghị định số 158/2013/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 12/11/2013 quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và
quảng cáo (sau đây gọi tắt là Nghị định 158);
− Nghị định số 73/2010/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 12/7/2010 quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an tồn xã hội;
phịng, chống tệ nạn xã hội (có hiệu lực tại thời điểm xảy ra vụ việc);
− Nghị định số 167/2013/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 12/11/2013 quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an tồn xã hội;
phịng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia
đình (sau đây gọi tắt là Nghị định 167);
− Thông tư số 33/2010/TT-BCA ngày 05/10/2010 của Bộ Công an quy định cụ thể
điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề kinh doanh có điều kiện
(sau đây gọi tắt là Thơng tư 33 - có hiệu lực tại thời điểm xảy ra vụ việc) và hiện

được thay thế bởi NÐ 42/2017/TT-BCA.
III.

KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TÒA

Tư cách tham gia xét hỏi: Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
khởi kiện là bà Nguyễn Thị Tuyết.
Định hướng bảo vệ: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên chấp nhận toàn bộ yêu cầu của
người khởi kiện, tuyên hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động
văn hóa, thể thao và du lịch số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 của Chánh Thanh tra Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh GL.
Định hướng, mục đích hỏi: Để chứng minh Quyết định xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014

5
YourName – SBD


Tổng hợp bởi Hoatieu.vn - bởi Hoatieu.Bài thu hoạch Diễn án LS.HC – 12
của Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh GL là trái quy định
pháp luật.
1. Hỏi người bị kiện
1.1. Những ai là người tiến hành thanh tra kiểm tra nhà trọ Hoàng Lan của Bà
Tuyết? Khi kiểm tra Bà Tuyết có hợp tác không?
1.2. Việc kiểm tra cơ sở nhà bà Tuyết là đột xuất hay theo định kỳ?
1.3. Bà Nguyễn Thị Thùy Trang tham gia ký biên bản vi phạm hành chính số
11/BB-VPHC ngày 23/12/2013 với tư cách gì?
1.4. Tại sao nội dung biên bản không ghi nhận tư cách của bà Trang?
1.5. Biên bản số 11/BB-VPHC vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa,
thể thao và du lịch được lập vào ngày 23/12/2013 đúng không?

1.6. Tại sao Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XP ghi nhận
căn cứ vào Biên bản vi phạm hành chính lập hồi 21 giờ 00 phút ngày
21/12/2013?
1.7. Biên bản số 11/BB-VPHC vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa,
thể thao và du lịch dẫn chiếu Nghị định 158/2013/NĐ-CP ngày
12/11/2013 đúng không?
1.8. Ngày có hiệu lực của Nghị định Nghị định 158/2013/NĐ-CP ban hành
ngày 12/11/2013 là ngày 1/1/2014 đúng khơng?
1.9. Ngồi Biên bản vi phạm được lập ngày 23/12/2013 thì cịn biên bản nào
khác ghi nhận hành vi vi phạm của nhà trọ Hồng Lan khơng?
1.10. Khi ban hành Quyết định số 23/QĐ-XP, ơng có căn cứ Nghị định
67/2013/NĐ-CP để giải quyết không?
1.11. Đề nghị ông cho biết thời gian Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch G.L ra quyết định xử phạt số 23/QĐ-XPHC
1.12. Quyết định xử phạt có ghi ngày ban hành khơng? Sau đó cơ quan đã sửa
bằng văn bản gì để quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐXPHC có ngày ban hành và ngày có hiệu lực
1.13. Căn cứ vào Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 thời hạn ra Quyết định
xử phạt vi phạm hành chính kể từ khi lập biên bản là bao nhiêu ngày?
1.14. Thời gian từ lúc lập Biên bản số 11/BB-VPHC đến lúc ra Quyết định số
23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 là vượt quá 77 ngày có đúng không?
1.15. Như vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành chính
2012 trong trường hợp q thời hạn xử phạt hình cơ quan có thẩm quyền
không được ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đúng khơng?
1.16. Tờ trình số 02/TT-TTr ngày 16/01/2014 xin gia hạn thời gian ra quyết
định xử phạt khơng có chữ ký của ông Nguyễn Thạc đúng không?
1.17. Theo quy định pháp luật thì ai là người có thẩm quyền làm văn bản xin
gia hạn thời gian ra quyết định xử phạt?

6
YourName – SBD



Tổng hợp bởi Hoatieu.vn - bởi Hoatieu.Bài thu hoạch Diễn án LS.HC – 12














1.18. Nam nữ thuê nhà trọ nghỉ có bắt buộc xuất trình giấy đăng ký kết hơn cho
chủ cơ sở hay khơng? Nếu có thì được quy định tại văn bản quy phạm
pháp luật nào?
1.19. Việc bố trí phịng nghỉ nam riêng, nữ riêng tại cơ sở lưu trú có phải là quy
định bắt buộc khơng? Nếu có thì được quy định tại văn bản quy phạm
pháp luật nào?
1.20. Khi cho thuê phòng trọ 1 nam và 1 nữ chủ cơ sở kinh doanh có quyền
kiểm tra giấy chứng nhận kết hơn hay phải có nghĩa vụ kiểm tra giấy
chứng nhận đăng ký kết hôn khi cho thuê trọ hay không?
2. Hỏi người làm chứng
2.1. Hỏi Ông Nguyễn Văn Thường
Vào 21h10 ngày 21/11/2013, Anh và chị Lành làm gì, ở đâu? Anh chị có giấy
đăng ký kết hơn khơng?

Tại buổi kiểm tra, đồn kiểm tra có u cầu ơng viết bản tường trình khơng?
Theo bản tường trình 23/12/2013 ơng gọi bà Lành là vợ, ơng và bà Lành có phải
quan hệ vợ chồng hay khơng?
Khi vào nhà trọ Hồng Lan giữa ơng và bà Lành có phát sinh quan hệ về tiền bạc
hay không?
Từ ngày xảy ra vụ việc tại nhà nghỉ Hoàng Lan đến nay có cơ quan chức năng
nào liên hệ làm việc với ông về sự việc ngày 23/12/2013 tại nhà nghỉ Hoàng Lan
không?
2.2. Hỏi ông Phan Văn
Anh với chị Thùy làm lễ đám hỏi khi nào?
Tại sao anh và chị Thùy không đăng ký kết hơn?
Anh có ý kiến thế nào về việc bị cho là đang mua bán dâm?
2.3. Hỏi bà Nguyễn Thị Thùy
Mối quan hệ giữa bà và ông Phan Văn?
Chị đã có thai nhưng do ơng ngoại chết nên phải đình lại đám cưới, đúng khơng?
Khi đến nhà trọ Hồng Lan anh chị xuất trình đầy đủ giấy tờ đúng hay khơng?
3. Hỏi người khởi kiện
3.1.
3.2.

3.3.

Hộ của bà có giấy phép kinh doanh nhà trọ được cơ quan có thẩm quyền
cấp khơng?
Khi đăng ký kinh doanh nhà trọ Hồng Lan bà có được phổ biến về việc
phải kiểm tra giấy đăng ký kết hôn khi cho 1 nam 1 nữ th phịng khơng
hoặc trong quy định th trọ có quy định nào tương tự không?
Khi khách vào thuê trọ, bà có u cầu khách hàng xuất trình chứng minh
nhân dân hoặc hộ chiếu không?


7
YourName – SBD


Tổng hợp bởi Hoatieu.vn - bởi Hoatieu.Bài thu hoạch Diễn án LS.HC – 12
Đoàn kiểm tra của Sở Văn Hóa thể thao du lịch đã kiểm tra cơ sở kinh
doanh nhà trọ Hoàng Lan của Bà vào thời gian nào? Lúc đó có lập biên
bản vi phạm hay chưa? Bà có nhận được biên bản khơng?
3.5. Khi xảy ra sự việc kiểm tra thì có những ai ở đó? Họ đã chứng kiện vụ
việc trong khoảng thời gian nào? Sau khi lập biên bản thì những ai đã ký
vào biên bản?
3.6. Bà nhận được Quyết định 23/QĐ-XPHC vào ngày nào?
3.7. Thanh tra Sở có thơng báo cho bà để lên nhận quyết định xử phạt không?
3.8. Tại sao bà khởi kiện hành chính Quyết định 23/QĐ-XPHC?
3.9. Trong q trình giải quyết, Thanh tra Sở có gửi giấy mời cho bà lên làm
việc không?
3.10. Sau khi Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa,
thể thao và du lịch số 23/QĐ-XPHC được ban hành ngày 10/03/2014,
hoạt động kinh doanh của cơ sở tình hình như thế nào?
3.4.

3.11. Bà có yêu cầu Bên bị kiện bồi thường thiệt hại gì khơng?
IV.BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO
NGƯỜI KHỞI KIỆN
CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BẢN LUẬN CỨ
(V/v Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Người khởi kiện là bà Nguyễn Thị Tuyết)
Kính thưa:


− Hội đồng xét xử
− Vị đại diện Viện Kiểm sát
− Thưa các Luật sư đồng nghiệp

Tôi là Luật sư … – thuộc Văn phịng Luật sư K24.2N - Đồn Luật Sư thành
phố Hồ Chí Minh, tham gia phiên tịa ngày hơm nay với vai trị là Người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Nguyễn Thị Tuyết, là người khởi kiện Quyết định
xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch số 23/QĐXP ngày 10/3/2014 của Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh GL.
Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và qua phần hỏi
đáp tranh tụng công khai tại phiên tịa sơ thẩm hơm nay, tơi xin trình bày quan điểm
bảo vệ quyền lợi người khởi kiện như sau:
1. Về thẩm quyền tòa án:
Quyết định 23/QĐ-XPHC thuộc đối tượng khởi kiện hành chính, tức thuộc
thẩm quyền của Tịa án theo điểm a Khoản 1 Điều 30 Luật tố tụng hành chính 2015
(Luật TTHC 2015).
Quyết định 23/QĐ-XPHC là quyết định xử phạt vi phạm hành chính của
Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L. Căn cứ Khoản 3 Điều
32 Luật tố tụng hành chính, việc giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đối với khiếu kiện

8
YourName – SBD


Tổng hợp bởi Hoatieu.vn - bởi Hoatieu.Bài thu hoạch Diễn án LS.HC – 12
quyết định này thuộc thẩm quyền của tòa án nhân dân cấp tỉnh trên cùng phạm vi
địa giới hành chính với cơ quan nhà nước có người có thẩm quyền ra quyết định
hành chính.
Như vậy, Tịa án nhân dân tỉnh G.L. là có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm vụ
án này do đó việc Tịa án nhân dân tỉnh G.L. đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ
thẩm là phù hợp với quy định của Luật TTHC 2015.

2. Về thời hiệu khởi kiện:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ của vụ án thì bà Tuyết là đối tượng bị tác
động trực tiếp bởi Quyết định 23/QĐ-XPHC do đó căn cứ vào điểm a Khoản 2 Điều
116 Luật TTHC 2015 thì thời hiệu khởi kiện đối với Quyết định số 23/QĐ-XPHC
ngày 10/3/2014 của Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L là 01
năm kể từ ngày bà Tuyết nhận được quyết định (17/3/2014).
Theo hồ sơ vụ án thì bà Tuyết làm đơn khởi kiện ngày 02/5/2014 và Tòa án
nhân dân tỉnh G.L đã thụ lý vụ án hành chính sơ thẩm số 01/2014/TL-HCST vào
ngày 13/5/2014 là phù hợp với quy định của pháp luật.
3. Về nội dung yêu cầu khởi kiện:
Bà Tuyết yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh G.L tuyên hủy bỏ Quyết định số
23/QĐ-XPHC ngày 10/3/2014 của Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch tỉnh G.L là hồn tồn có cơ sở bởi Quyết định này có những vi phạm như sau:
Thứ nhất, Quyết định số 23/QĐ-XP được ban hành quá thời hạn quy định.
Theo quy định Luật xử lý vi phạm hành chính, đối với vụ việc có nhiều tình
tiết phức tạp mà khơng thuộc trường hợp giải trình hoặc đối với vụ việc thuộc
trường hợp giải trình theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật này thì
thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên bản. Bên cạnh
đó, trường hợp vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp và thuộc
trường hợp giải trình theo quy định tại đoạn 2 khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật
Xử lý vi phạm hành chính mà cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ
thì người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp
của mình bằng văn bản để xin gia hạn; việc gia hạn phải bằng văn bản, thời hạn gia
hạn không được quá 30 ngày.
Căn cứ khoản 1 Điều 66 và điểm c khoản 1 Điều 65 Luật xử lý vi phạm hành
chính năm 2012 thì thời hạn ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính tối đa
là 60 ngày (kể cả thời gian gia hạn) tính từ thời điểm lập Biên bản vi phạm hành
chính; q thời hạn này thì khơng được ban hành quyết định xử phạt.
Theo đó, Đồn kiểm tra của Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tỉnh
G.L kiểm tra cơ sở kinh doanh của bà Nguyễn Thị Tuyết và lập Biên bản vi phạm

hành chính số 11/BBVPHC vào ngày 23/12/2013. Tuy nhiên, mãi đến ngày
10/03/2014, Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tỉnh G.L mới ban hành
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ- XPHC đối với bà Nguyễn Thị
Tuyết. Thời điểm ra Quyết định xử phạt cách thời điểm lập Biên bản vi phạm hành
chính là 77 ngày.
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XPHC được ban hành vào
ngày 10/03/2014 là vượt quá thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính và
thuộc trường hợp khơng ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì khơng thể có
hiệu lực bắt buộc thi hành.
Thứ hai, người bị kiện áp dụng sai văn bản quy phạm pháp luật khi ban hành
Quyết định số 23/QĐ-XP.

9
YourName – SBD


Tổng hợp bởi Hoatieu.vn - bởi Hoatieu.Bài thu hoạch Diễn án LS.HC – 12
Trong Quyết định số 23/QĐ-XP và tại phiên tịa ngày hơm nay, người bị
kiện thừa nhận rằng đã áp dụng Nghị định số 167/2013/NĐ-CP để xử lý hành vi của
bà Tuyết, việc áp dụng Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 là không
đúng đối tượng và phạm vị điều chỉnh của văn bản. Bởi lẽ Nghị định này quy định
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an tồn xã hội;
phịng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phịng, chống bạo lực gia
đình. Việc đồn kiểm tra nêu sai tên văn bản là một vi phạm nghiêm trong việc ban
hành quyết định.
Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 về Quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an tồn xã hội; phịng, chống tệ nạn xã
hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình của Chính phủ (sau
đây gọi tắt là Nghị định 167/2013/NĐ-CP) có hiệu lực thi hành kể từ ngày
28/12/2013 (theo khoản 1 Điều 72 Nghị định này) nhưng hành vi của bà Tuyết xảy

ra trước đó tức vào ngày 23/12/2013.
Căn cứ khoản 1 Điều 83 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
2008 thì “Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng từ thời điểm bắt đầu có hiệu
lực. Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm
mà văn bản đó đang có hiệu lực. Trong trường hợp văn bản có hiệu lực trở về trước
thì áp dụng theo quy định đó”.
Tại thời điểm xảy ra hành vi của bà Tuyết thì Nghị định số 73/2010/NĐ-CP
đang có hiệu lực áp dụng. Giả thiết là hành vi của bà Tuyết là có vi phạm thì căn cứ
điểm đ khoản 3 Điều 14 Nghị định số 73/2010/NĐ-CP, bà Tuyết chỉ bị xem xét
phạt tiền từ 5.000.0000 đồng đến 15.000.000 đồng nhưng căn cứ Điều 25 Nghị định
số 167/2013/NĐ-CP thì bà Tuyết bị xem xét phạt tiền mức khởi điểm là từ
15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Như vậy tại Nghị định 167/2013/NĐ-CP
trong trường hợp này sẽ làm tăng trách nhiệm hành chính và khơng có lợi cho người
vi phạm.
Căn cứ Điều 73 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP thì Nghị định này chỉ được
áp dụng hồi tố nếu có các quy định có lợi cho người vi phạm: “Đối với hành vi vi
phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an tồn xã hội; phịng, chống tệ
nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình xảy ra trước
ngày Nghị định này có hiệu lực mà sau đó mới bị phát hiện hoặc đang xem xét, giải
quyết, thì áp dụng các quy định có lợi cho cá nhân, tổ chức vi phạm.”
Do đó, Nghị định số 73/2010/NĐ-CP đương nhiên được áp dụng để xem xét
hành vi của bà Tuyết mà không phải là Nghị định số 167/2013/NĐ-CP.
Thứ ba, Quyết định số 23/QĐ-XP được ban hành để xử phạt hành vi không xảy
ra.
Quyết định số 23/QĐ-XP căn cứ Biên bản vi phạm hành chính số 11/BBVPHC ngày 23/12/2013 để xử phạt bà Tuyết hành vi thiếu tinh thần trách nhiệm tạo
điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự
để tổ chức hoạt động mại dâm.
Để xác định có hay khơng việc thực hiện hành vi“Thiếu tinh thần trách
nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có điều kiện về an
ninh, trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm”, cần phải xác định vào ngày lập Biên

bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC (23/12/2014), tại nhà nghỉ Hoàng Lan do
bà Nguyễn Thị Tuyết làm chủ có xảy ra hoạt động mại dâm hay khơng.
Tại Điều 3 Pháp lệnh phịng chống mại dâm quy định:

10
YourName – SBD


Tổng hợp bởi Hoatieu.vn - bởi Hoatieu.Bài thu hoạch Diễn án LS.HC – 12
“1. Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả
tiền hoặc lợi ích vật chất khác.
2. Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả
cho người bán dâm để được giao cấu.
3. Mại dâm là hành vi mua dâm, bán dâm.”
Căn cứ vào Khoản 5 Điều 3 Pháp lệnh phòng chống mại dâm quy định “Tổ
chức hoạt động mại dâm là hành vi bố trí, sắp xếp để thực hiện việc mua dâm, bán
dâm”. Tại khoản 2 Điều 5 Pháp lệnh này quy định: “Mua dâm là hành vi của người
dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người bán dâm để được giao cấu”.
Theo nội dung Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC, Đồn kiểm
tra khơng ghi nhận có hành vi mua dâm, bán dâm tại nhà trọ bà Tuyết tại thời điểm
kiểm tra. Theo Điểm đ Khoản 1 Điều 3 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012, Người
có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính.
Tuy nhiên, Thanh tra Sở đã khơng chứng minh được có hành vi giao nhận
tiền giữa người thuê trọ. Việc Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh
G.L dựa trên việc bà Tuyết không cung cấp được các tài liệu chứng minh không xảy
ra hành vi vi phạm để xử phạt bà Tuyết là khơng có căn cứ.
Tại Biên bản lời khai ngày 18/6/2014 thì đại diện của người bị kiện viện dẫn
Thông tư 33/2010/TT-BCA và cho rằng cơ sở cho thuê lưu trú phải bố trí phịng
nghỉ nam riêng, nữ riêng trừ trường hợp là vợ chồng. Tuy nhiên, căn cứ điểm e
khoản 2 Điều 6 Thông tư 33/2010/TT-BCA ngày 05/10/2010 thì khơng có quy định

việc phải bố trí phịng nghỉ nam riêng, nữ riêng như trên. Ngoài ra, điểm e khoản 2
Điều 6 Thông tư 33/2010/TT-BCA cũng chỉ yêu cầu “Người đến lưu trú có trách
nhiệm xuất trình một trong các loại giấy tờ sau: Chứng minh nhân dân; Hộ chiếu;
các loại giấy tờ có dán ảnh do các cơ quan quản lý Nhà nước Việt Nam cấp; giấy
xác nhận cử đi công tác của cơ quan, tổ chức; xác nhận của cơ quan đến liên hệ
công tác; xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú.”.
Pháp luật không buộc các cơ sở kinh doanh lưu trú như hộ bà Tuyết phải bố
trí phịng nghỉ nam riêng, nữ riêng. Ngồi ra, khi bố trí nam và nữ ở chung thì cũng
khơng quy định việc xuất trình giấy chứng nhận đăng ký kết hơn mới được ở chung
phịng.
Hiện tại pháp luật khơng quy định 1 người nam 1 người nữ ở chung phòng
với nhau lại phải có chứng minh nhân dân. Có chăng pháp luật chỉ dự trừ và phòng
tránh tệ nạn mại dâm. Tuy nhiên ở đây tại biên bản kiểm tra Đoàn thanh tra không
xác minh được bất kỳ vi phạm nào khách thuê phịng tại nhà bà Tuyết cũng khơng
hề có dấu hiệu mua bán dâm. Vậy việc bà Tuyết thiếu trách nhiệm để xảy ra vi
phạm ở đây là vi phạm gì. Khi cho thuê trọ bà Tuyết chỉ giữ chứng minh nhân dân
khách và theo dõi chứ bà Tuyết khơng có quyền kiểm tra tình trạng hơn nhân, mối
quan hệ của khách hàng.
Do đó, cho rằng cơ sở bà Tuyết đã tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ
sở kinh doanh để tổ chức hoạt động mại dâm là không có cơ sở. Quyết định số
23/QĐ-XP được ban hành để xử phạt một hành vi không được ghi nhận tại Biên bản
vi phạm hành chính hay nói cách khác là không xảy ra trên thực tế.
Thứ tư, Quyết định số 23/QĐ-XP được ban hành trái thẩm quyền
Hành vi bị xử phạt tại Quyết định số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 là áp dụng
khoản 1 Điều 25 Mục 2 Chương II Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013
(quy định về Vi phạm hành chính về phòng, chống tệ nạn xã hội). Tuy nhiên, theo

11
YourName – SBD



Tổng hợp bởi Hoatieu.vn - bởi Hoatieu.Bài thu hoạch Diễn án LS.HC – 12
quy định tại Điều 69 Nghị định 167/2013/NĐ-CP, Thanh tra Văn hóa, Thể thao và
Du lịch chỉ có thẩm quyền xử phạt đối với những hành vi quy định tại Mục 4
Chương II của Nghị định này (quy định về Vi phạm hành chính về phịng, chống
bạo lực gia đình).
Như vậy, hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 25 Nghị định
167/2013/NĐ-CP không thuộc thẩm quyền xử lý của Thanh tra Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch. Và do đó, việc Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
tỉnh G.L ra Quyết định số 23/QĐ-XPHC xử lý hành vi vi phạm quy định tại khoản 1
Điều 25 Nghị định 167/2013/NĐ-CP là không đúng thẩm quyền luật định.
Thứ năm, Căn cứ áp dụng trong Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC
không đồng nhất với căn cứ áp dụng trong Quyết định số 23/QĐ-XPHC.
Đoàn kiểm tra đã lập biên bản làm số 11/BB-VPHC ngày 23/12/2013 Biên
bản vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch căn cứ vào
Nghị định 158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hoạt động văn hóa – thơng tin. Trong khi đó Quyết định số
23/QĐ-XPHC bà Tuyết bị xử phạt theo khoản 1 Điều 25 Nghị định 167/2013/NĐCP ngày 12/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh,
trật tự, an tồn xã hội; phịng, chống tệ nạn xã hội; phịng và chữa cháy; phịng,
chống bạo lực gia đình.
Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC cũng khơng nêu rõ hành vi
của bà Tuyết vi phạm điều khoản nào của Nghị định số 158/2013/NĐ-CP ngày
12/11/2013 của Chính Phủ, nhưng vẫn viện dẫn áp dụng lập Biên bản vi phạm hành
chính để xác định bà Nguyễn Thị Tuyết có hành vi vi phạm hành chính. Hơn nữa,
đây là một văn bản chưa có hiệu lực, cụ thể Nghị định 158/2013/NĐ-CP ngày
12/11/2013 có hiệu lực từ ngày 01/01/2014. Do vậy việc Đoàn kiểm tra áp dụng căn
cứ pháp luật này là hoàn toàn sai.
Quyết định xử phạt phải dựa trên nội dung của biên bản xử phạt chứ không
thể căn cử biên bản xử lí vi phạm xác định hành vi theo 1 văn bản còn Quyết định
xử phạt lại theo một văn bản khác. Điều này là không phù hợp.

Việc căn cứ để ban hành Quyết định xử phạt 23/QD-XPHC không cứ cứ áp
dụng pháp luật của Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC là văn bản trực
tiếp ghi nhận tại thời điểm có hành vi xảy ra, thể hiện Quyết định hành chính số
23/QĐ-XPHC là quyết định khơng có tính xác thực
Thứ sáu, Quyết định xử phạt hành chính số 23/QĐ-XPHC có nội dung khơng
đầy đủ và khơng đúng theo quy định của pháp luật
Quyết định số 23/QĐ-XPHC không xác định ngày có hiệu lực thi hành. Hơn
nữa, ngày giao theo Điều 3 của Quyết định là “trong thời hạn 3 ngày” nhưng không
rõ là 03 ngày kể từ ngày nào. Nếu cho là 03 ngày kể từ ngày ra quyết định thì quy
định như vậy là trái với quy định tại Điều 70 Luật Xử lý vi phạm hành chính:
"Trong thời hạn 2 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định xử phạt vi phạm hành
chính có lập biên bản, người có thẩm quyền đã ra quyết định xử phạt phải gửi cho
cá nhân, tổ chức bị xử phạt, cơ quan thu tiền phạt và cơ quan liên quan khác (nếu
có) để thi hành".
Điều 2 của Quyết định 23/QĐ-XPHC khơng ghi ngày giao và tại phần đính
chính của Công văn số 02/2014/CV-TTr ngày 18/3/2014 của thanh tra sở gửi bà
Nguyễn Thị Tuyết và kho bạc nhà nước tỉnh về việc đính chính lại Quyết định số
23/QĐ-XPHC ngày 10/3/2014 có ghi “bà Nguyễn Thị Tuyết phải nghiêm chỉnh

12
YourName – SBD


Tổng hợp bởi Hoatieu.vn - bởi Hoatieu.Bài thu hoạch Diễn án LS.HC – 12
chấp hành quyết định xử phạt trongthời hạn mười ngày, kể từ ngày được giao quyết
định xử phạt là ngày 17/3/3014”. Trong khi đó, ngày 17/3/2014, bà Tuyết nhận
được quyết định không ghi ngày giao. Và tới ngày 31/3/2014, thanh tra Sở mới gửi
quyết định xử phạt đã đính chính (thể hiện trong cơng văn 167 gửi tịa).
Từ những lập luận trên, có thể khẳng định Quyết định số
23/QĐ-XPHC ngày10/03/2014 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực

văn hóa, thể thao, du lịch và quảngcáo của Chánh thanh tra Sở Văn hóa, thể
thao và du lịch tỉnh G.L là hoàn toàn trái với quy định pháp luật.
Tơi kính đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 193 Luật tố
tụng hành chính năm 2015 chấp thuận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Tuyết, tuyên huỷ
toàn bộ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao
và du lịch số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 của Chánh Thanh tra Sở văn hóa, thể thao
và du lịch tỉnh GL.
Thưa Hội đồng xét xử, trên đây là toàn bộ quan điểm của chúng tôi. Đề nghị
Hội đồng xét xử lưu tâm khi xét xử.
Trân trọng Hội đồng xét xử và các quý vị đã chú ý lắng nghe!
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 04 năm 2023
Luật sư
(đã ký)
YourName

B. NHẬN XÉT DIỄN ÁN
1. Nhận xét chung về phiên tòa
2. Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
3. Các hội thẩm nhân dân
4. Thư ký phiên tòa
5. Đại diện Viện kiểm sát
6. Người khởi kiện
7. Người bị kiện
8. Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện
9. Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện
10. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan

13
YourName – SBD




×