Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Pháp luật về đăng ký bảo hộ nhãn hiệu và một số vấn đề thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.03 KB, 11 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HỒ CHÍ MINH

TRỊNH HỒNG LN
MSHV: 2183801071035
LỚP: MLAW021A

PHÁP LUẬT VỀ
ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN HIỆU VÀ MỘT SỐ
VẤN ĐỀ THỰC TIỄN

TP.HỒ CHÍ MINH – 2023


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NHÃN
HIỆU ............................................................................................................................ 2
1.1. Khái quát nhãn hiệu và thương hiệu: ................................................................ 2
1.2. Phân loại nhãn hiệu: .......................................................................................... 3
1.3. Chủ thể có quyền đăng ký nhãn hiệu: ............................................................... 4
1.4. Điều kiện bảo hộ nhãn hiệu:.............................................................................. 5
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN VI PHẠM LIÊN QUAN ĐẾN NHÃN HIỆU Ở VIỆT
NAM............................................................................................................................. 7
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 9


MỞ ĐẦU
Nhãn hiệu là tài sản vô hình có giá trị lớn đối với mỗi doanh nghiệp, do đó việc cần
phải nhận diện và bảo hộ nhãn hiệu là vấn đề ưu tiên hàng đầu của doanh nghiệp. Từ thời
xa xưa, trong ngành làm gốm, những người thợ thủ công đã biết gắn những ký hiệu biểu


tượng đặc biệt trên sản phẩm mình để phân biệt với các sản phẩm khác, và cho đến nay
thì nhãn hiệu đóng vai trò quan trọng trong việc phân biệt với các tổ chức cá nhân khác
nhau. Để tạo được vị thế trên thị trường giữa cuộc đua cạnh tranh sản xuất thương mại
thì các doanh nghiệp luôn tạo ra những nhãn hiệu có ý nghĩa gắn với sản phẩm của họ
đảm bảo đẹp và thu hút người tiêu dùng, để tạo lập thương hiệu cũng như nhãn hiệu đó
là cả một quá trình tích lũy lâu dài, tốn nhiều cơng sức của chủ sở hữu. Tuy nhiên, thực
tế hiện nay cho thấy không ít đơn vị đầu tư chất xám thiết kế, sản xuất nhanh chóng bị
làm giả các nhãn hiệu, đặc biệt là các nhãn hiệu lớn với quy mô và mức độ ngày càng
tinh vi. Trong thời gian qua nhiều vụ việc gian lận thương mại, làm hàng giả được điều
tra, truy tố những vụ việc mà trong đó điển hình ở các ngành thực phẩm, dược phẩm,
phân bón, thuốc bảo vệ thực vật… đều liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến sức khỏe
con người. Hàng giả nhãn hiệu không chỉ có ở trong nước mà có khi còn được sản xuất ở
nước ngoài và mang về Việt Nam tiêu thụ, thực trạng này đã ảnh hưởng không nhỏ đến
uy tính thương hiệu, doanh thu, thậm chí là sự tồn tại của các doanh nghiệp làm ăn chân
chính, xa hơn nữa là ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh và sức khỏe người tiêu dùng.
Với mục tiêu thu lợi nhuận, hầu hết khi làm giả về nhãn hiệu thì đối tượng cũng làm giả
về chất lượng sản phẩm. Khi làm giả nhãn hiệu, chủ sở hữu sẽ bị thiệt hại, bị mất thị phần
trên thị trường kinh doanh, đồng thời mất lòng tin của người tiêu dùng. Vậy thực trạng vi
phạm nhãn hiệu đang diễn ra như thế nào? Các doanh nghiệp chân chính cần phải ứng xử
ra sao để bảo vệ thương hiệu cũng như quyền lợi người tiêu dùng? Những vấn đề pháp lý
và khó khăn khi đăng ký bảo hộ như thế nào? Đó cũng là những nội dung của bài tiểu
luận này.

1


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LÝ LUẬN VÀ QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NHÃN HIỆU
1.1.


Khái quát nhãn hiệu và thương hiệu:
Theo nghiên cứu của các nhà khảo cổ, khi những người thợ hoặc công trường thủ

công cổ đại sử dụng những dấu hiệu riêng trên đồ gốm, đồ trang sức, vũ khí… để phân
biệt sản phẩm của mình với sản phẩm của người khác khi thực hiện trao đổi buôn bán
thường sẽ dùng những dấu hiệu riêng của mình 1. Cùng với sự phát triển của kinh tế hàng
hoá, đặc biệt là sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các dấu hiệu đó trở thành công
cụ quan trọng của doanh nghiệp, dấu hiệu để nhận biết này được gọi là “nhãn hiệu”. Trên
thực tế, để tạo ra các hình dáng nhãn hiệu, các tổ chức cá nhân thường đầu tư nhiều kinh
phí, thời gian để sáng tạo ra nhãn hiệu gắn liền với hàng hoá, dịch vụ mà mình đã cung
cấp, tạo ấn tượng tốt với người tiêu dùng và vị thế mình trên thị trường vị dụ nhãn hiệu
Mercedes Benz với hình ảnh đặc trưng là vô lăng xe ô tô cách điệu, nhãn hiệu Amazon
với hình ảnh là phục vụ từ A đến Z, nhãn hiệu Puma có hình ảnh là con báo gắn với sự
nhanh nhẹn… tất cả đều là thông điệp gửi đến người tiêu dùng. Tại khoản 16, điều 4 của
Luật sở hữu trí tuệ “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các
tổ chức, cá nhân khác nhau”, như vậy chức năng quan trọng nhất của nhãn hiệu là để phân
biệt các dịch vụ hàng hoá với nhau. Tuy nhiên ngày nay nhãn hiệu còn có ý nghĩa trong
việc thể hiện chất lượng, giá trị sản phẩm.
Nhà nghiên cứu Jenkins đã nói “Nhãn hiệu đóng vai trò là một phương tiện xác định,
với bốn mục tiêu cơ bản: (i) Nhãn hiệu là công cụ đánh dấu những hàng hoá mang chung
một nhãn hiệu là xuất phát từ cùng một nguồn sản xuất, (ii) Nhãn hiệu đem lại cho người
tiêu dùng sự đảm bảo về chất lượng hàng hoá bởi vì khi đã trở nên phổ biến, được nhiều
người mua, chất lượng và giá trị của loại hàng hoá mang nhãn hiệu đó đã được khẳng
định trên thị trường; (iii) Nhãn hiệu cho phép nhà sản xuất phân biệt hàng hoá của họ đối
với các đối thủ cạnh tranh khác; (iiii) Nhãn hiệu giúp thúc đẩy sự phát triển hàng hoá” 2
Chúng ta thường nhầm lẫn khái niệm nhãn hiệu và thương hiệu, vậy hai khái niệm
Nguyễn Kiều Oanh (2014), Những dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu theo quy định của pháp luật sở hữu
trí tuệ Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, trang 5.
2
Trương Thị Minh Hiền (2016), Đánh giá tính tương tự của dấu hiệu được sử dụng làm nhãn hiệu – một số vấn đề

lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, trang 6.
1

2


này khác nhau như thế nào? Thương hiệu là tổng thể những hình ảnh về uy tính chất
lượng của sản phẩm trong tâm trí người tiêu dùng và đây khơng phải là khái niệm pháp
lý, do đó chúng ta sẽ không tìm được định nghĩa khái niệm Thương hiệu trong văn bản
pháp luật mà nó chỉ dùng trong kinh doanh thương mại, trong quản trị doanh nghiệp.
Chúng ta thường dùng cụm từ Thương hiệu trong quảng bá thương hiệu, định vị thương
hiệu hay xây dựng thương hiệu. Đối với nhãn hiệu chúng ta có thể nộp đơn đăng ký còn
thương hiệu thì không (nghĩa là không có bảo hộ), việc tạo lập thương hiệu, độ tuổi của
thương hiệu tuỳ thuộc vào việc xây dựng , quảng bá, chiến lược của doanh nghiệp đối với
sản phẩm trên thị trường. Còn đối với nhãn hiệu chúng ta chỉ cần nộp đơn đăng ký, nếu
đáp ứng được đầy đủ các điều kiện bảo hộ thì chúng ta sẽ được cấp văn bằng bảo hộ, thời
hạn bảo hộ nhãn hiệu là 10 năm kể từ ngày nộp đơn, sau đó được gia hạn nhiều lần liên
tiếp, mỗi lần 10 năm. Ví dụ khi nhắc đến nhãn hiệu Honda chúng ta thường liên tưởng
đến logo – hình ảnh – màu sắc của nó, đây là dấu hiệu phân biệt Honda với các dòng xe
máy khác, còn thương hiệu là những hình ảnh tổng thể trong tâm trí người tiêu dùng như
dòng xe bền bỉ, tiết kiệm xăng, bảo hành tốt, gắn bó lâu đời với người Việt Nam.
1.2.

Phân loại nhãn hiệu:
Nhãn hiệu từ ngữ: Từ ngữ gồm các chữ cái được bảo hộ như P/S (kem đánh răng),

H&M (thời trang nam nữ)…; các chữ số như 333 (Bia), 502 (Keo dán)…, tên người như
ThaiTuan (thời trang áo dài), Nguyenkim (siêu thị điện máy)…; hoặc có khi là địa danh
như Chợ lớn (siêu thị điện máy), Vĩnh Hảo (nước uống đóng chai)…
Nhãn hiệu hình ảnh: là những hình ảnh đánh vào thị giác người tiêu dùng khiến

người tiêu dùng nhớ đến nhãn hiệu đó như Chim xanh (mạng xã hội trực tuyến Twitter),
Trái táo (của hãng điện tử Apple)…
Nhãn hiệu có sự kết hợp hình ảnh và từ ngữ: đây là loại nhãn hiệu phổ biến hiện
nay, nó đánh vào thị giác và cách phát âm cuản gười tiêu dùng giúp người tiêu dùng dễ
nhận biết hơn ví dụ như của Vissan (chữ và ảnh ba cái hoa cách điệu), Vietnam Airlines
(chữ và bông sen cách điệu), KFC (chữ và hình ông già), Red Bull (chữ và hình ành hai
con bò cụng)…
Nhãn hiệu tập thể: tại khoản 17, điều 4. Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 định nghĩa
“Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các thành viên
3


của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hoá, dịch vụ của tổ chức, cá nhân khơng
phải là thành viên của tở chức đó”, ví dụ nhãn hiệu tập thể măng cụt Bình Dương, nhãn
hiệu tập thể chè Thái Nguyên, nhãn hiệu tập thể xoài Cao Lãnh Đồng Tháp... Tương ứng
mỗi nhãn hiệu đó đều có chủ sỡ hữu, họ là các tổ chức sở hữu nhãn hiệu một cách hợp
pháp, có quyền đăng ký và cho phép thành viên của mình được quyền gắn nhãn hiệu tập
thể lên sản phẩm để đưa ra thị trường tiêu thụ, giúp phân biệt sản phẩm của khu vực tổ
chức này với khu vực tổ chức khác, đồng thời sản phẩm cũng phải đảm bảo chất lượng
theo quy chế nhãn hiệu tập thể và được kiểm tra khắt khe theo quy trình, chỉ tiêu của bên
tổ chức sở hữu. Ví dụ Hợi Nơng dân thị xã Tḥn An, Bình Dương là chủ sở hữu nhãn
hiệu tập thể Măng cụt Lái Thiêu, Hội Nông dân tỉnh Thái Nguyên là chủ sở hữu nhãn
hiệu tập thể chè Thái Nguyên, Hợp tác xã sản xuất và tiêu thụ xoài Cao Lãnh – Đồng
Tháp là chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể xoài Cao Lãnh Đồng Tháp…
Nhãn hiệu chứng nhận: tại khoản 17, điều 4, Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 định
nghĩa “Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức,
cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các
đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hoá, cách thức cung
cấp dịch vụ, chất lượng, đợ chính xác, đợ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hoá,
dịch vụ mang nhãn hiệu”. Ví dụ nhãn hiệu hàng Việt Nam chất lượng cao thì chủ sở hữu

là Hội doanh nghiệp hàng Việt Nam chất lượng cao, hàng năm sau khi họ tiến hành điều
tra và khảo sát sản phẩm, nhãn hiệu nào đó đáp ứng được các chỉ tiêu chất lượng, thì được
gắn cái nhãn hiệu hàng Việt Nam chất lượng cao lên chính sản phẩm họ đang kinh doanh,
một số trường hợp khác như là Rau Đà Lạt của UBND thành phố Đà Lạt, Cao su Việt
Nam của hiệp hội cao su Việt Nam, sản phẩm chất lượng Hà Nam của Sở khoa học và
công nghệ Hà Nam…
1.3.

Chủ thể có quyền đăng ký nhãn hiệu:
Chủ thể có quyền đăng ký nhãn hiệu quy định tại điều 87 Ḷt Sở hữu trí ṭ 2005

và được sửa đởi tại khoản 13, điều 1, Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2009. Cụ thể:
- Tổ chức, cá nhân sản xuất sản phẩm có quyền đăng ký nhãn hiệu cho hàng hoá do
mình sản xuất hoặc dịch vụ do mình cung cấp.

4


- Tổ chức, cá nhân tuy không sản xuất sản phẩm nhưng lại đưa sản phẩm ra thị
trường để kinh doanh có quyền đăng ký nhãn hiệu với điều kiện người sản xuất không sử
dụng nhãn hiệu đó cho sản phẩm và khơng phản đối việc đăng ký đó.
Ví dụ như các nông trại ở Đà Lạt cung cấp các sản phẩm rau sạch cho các công ty
ở thành phố Hồ Chí Minh, và có cơng ty X nhập các rau sạch từ nông trại Đà Lạt về sau
đó họ đóng gói và gắn nhãn hiệu lên sản phẩm rau đó thì việc làm sẽ được xem là hợp
pháp với điều kiện là các nông trại ở Đà Lạt không phản đối điều đó và họ cũng không
sử dụng nhãn hiệu cho sản phẩm rau đó.
Trong trường hợp đối với nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận thì chủ thể có
quyền đăng ký đó là các tổ chức, hiệp hội, họ là chủ sở hữu thành lập hợp pháp và có
quyền đăng ký nhãn hiệu đó.
1.4.


Điều kiện bảo hợ nhãn hiệu:
Tḥt ngữ “bảo hợ”, theo chú thích số 3 của Hiệp định TRIPs. “bảo hộ phải bao

gồm các vấn đề ảnh hưởng đến khả năng đạt được, việc đạt được, phạm vi, việc duy trì
hiệu lực và việc thực thi quyền SHCN cũng như các vấn đề ảnh hưởng đến việc sử dụng
quyền SHCN được quy định rỏ trong hiệp định” 3
Theo tác giả Lê Xuân Thảo, bảo hộ quyền SHCN có thể được hiểu là “việc nhà nước
thông qua hệ thống pháp luật xác lập quyền của các chủ thể đối với các đối tượng của
SHCN tương ứng và bảo vệ các quyền đó chống lại bất kỳ sự vi phạm nào của bên thứ
ba” 4
Điều kiện bảo hộ nhãn hiệu được quy định tại điều 72 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, cụ
thể bao gồm hai điều kiện là nhãn hiệu phải được nhìn thấy và có khả năng phân biệt.
+ Nhãn hiệu phải được nhìn thấy được dưới dạng từ ngữ, chữ cái, hình ảnh, hình vẽ
biểu tượng, kể cả hình ba chiều, các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu
sắc. Ở các quốc gia trên thế giới, đối với nhãn hiệu âm thanh được bảo hộ phải được định
hình thể hiện bằng các khuôn nhạc với các nốt nhạc hoặc máy ảnh phổ âm thanh thì mới
có cơ sở để cơ quan quản lý nhà nước họ chấp nhận bảo hợ. Ví dụ như là nhãn hiệu âm

Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền Sở hữu trí tuệ (gọi tắt là Hiệp định TRIPs), ký ngày
15/04/1994 tại Marrakesh, Maroc
4
Lê Xuân Thảo (2007), Hội nhập quốc tế và đổi mới cơ chế thực thi, bảo hợ qùn sở hữu trí ṭ của Việt Nam,
Tạp chí Cộng sản (số 4), trang 124
3

5


thanh tiếng gầm con sư tử trong phim hoạt hình Tom và Jerry, tiếng nhạc chuông của

Nokia… Điều này ở khoản 20, điều 1, Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 đã được bổ sung,
trước đây Luật 2005 thì không có quy định việc bảo hộ âm thanh này.
+ Nhãn hiệu phải có khả năng phân biệt nếu được tạo thành từ một hoặc một số yếu
tố dễ nhận biết, dễ ghi nhớ hoặc từ nhiều yếu tố kết hợp thành một tổng thể dễ nhận biết,
dễ ghi nhớ và không thược các trường hợp bị coi là không có khả năng phân biệt theo
khoản 2, điều 74.
Các dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu được liệt kê tại điều 73,
Luật sở hữu trí tuệ. Ví dụ như các dấu hiệu chúng ta đăng ký trùng hoặc tương tự với hình
ành quốc kỳ, quốc huy các nước, quốc ca của nước Việt Nam, quốc ca các nước, quốc tế
ca…, hoặc là trùng với các biểu tượng của tổ chức quốc tế, tên (biệt hiệu) của các vị
doanh nhân… Những dấu hiệu mà lừa dối người tiêu dùng về công dụng, chất lượng,
nguồn gốc của sản phẩm. Ví dụ Sâm đến từ Việt Nam nhưng ta lại lấy nhãn hiệu là Sâm
Cao Ly sẽ khiến người tiêu dùng nhầm lẫn là sản phẩm sâm này đến từ Hàn Quốc như
vậy sẽ không được bảo hộ đối với nhãn hiệu, hoặc những sản phẩm nhãn thuốc ghi là
Thần dược thì cũng sẽ không được bảo hộ vì thể hiện quá mức công dụng sản phẩm.

6


CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN VI PHẠM LIÊN QUAN
ĐẾN NHÃN HIỆU Ở VIỆT NAM
Việc đăng ký bảo hộ độc quyền nhãn hiệu là một trong những công việc cần được
các doanh nghiệp thực hiện trước khi tiến hành sản xuất, kinh doanh hàng hóa. Có thể
thấy lợi ích của việc chú trọng bảo hộ thương hiệu sản phẩm là không hề nhỏ đối với cả
uy tín và lợi nhuận của doanh nghiệp. Đặc biệt, trong bối cảnh thị trường kinh tế hội nhập
và thời đại công nghệ 4.0, việc bán hàng trên các trang thương mại điện tử ngày càng phát
triển, các doanh nghiệp cần thiết phải đáp ứng được các yêu cầu của các sàn đưa ra, trong
đó có việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu độc quyền. Tuy nhiên, thực tế việc đăng ký nhãn tại
Việt Nam đang có nhiều vướng mắc, gây khó khăn cho các doanh nghiệp.
Thứ nhất, việc tra cứu nhãn hiệu trước khi đăng ký chưa hiệu quả. Việc cho ra đời

một nhãn hiệu để sản phẩm, dịch vụ của mình có thể tiếp cận thị trường, các doanh nghiệp
đã tốn rất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc để tạo ra một mẫu nhãn hiệu độc đáo và
ấn tượng. Trước khi nộp hồ sơ đăng ký bảo hộ, doanh nghiệp có thể thực hiện tra cứu
đánh giá khả năng được cấp văn bằng bảo hộ, loại trừ đối chứng với các nhãn hiệu đã
đăng ký. Tuy nhiên, số lượng bản ghi hiển thị khi tra cứu bị giới hạn, người tra cứu không
thể nắm bắt được hết các nhãn hiệu trùng, tương tự với nhãn hiệu mình dự định đăng ký.
Hơn nữa, người tra cứu cũng không thể tra cứu được những nhãn hiệu vừa mới nộp đơn
đăng ký chưa hiển thi trên cơng báo của Cục Sở hữu trí ṭ. Do vậy, mặc dù đã thực hiện
tra cứu đánh giá trước khi đăng ký bảo hộ nhưng tỉ lệ nhãn hiệu nộp đơn đăng ký bị từ
chối cấp văn bằng bảo hộ vì vướng phải các nhãn hiệu đối chứng đã đăng ký trước đó vẫn
rất cao.
Thứ hai, các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ còn khá cứng nhắc. Điều 90 Ḷt Sở
hữu trí ṭ 2005, sửa đởi bở sung 2019 có quy định: “Trong trường hợp có nhiều đơn đăng
ký cùng đáp ứng các điều kiện để được cấp văn bằng bảo hộ và cùng có ngày ưu tiên hoặc
ngày nộp đơn sớm nhất thì văn bằng bảo hộ chỉ có thể được cấp cho một đơn duy nhất
trong số các đơn đó theo sự thoả thuận của tất cả những người nộp đơn; nếu không thoả
thuận được thì tất cả các đơn đều bị từ chối cấp văn bằng bảo hộ”. Quy định này dẫn đến
việc gây ảnh hưởng đến lợi ích của các doanh nghiệp đã sử dụng hoạt động lâu năm. Vì
vậy, cần có thêm các cơ chế bảo vệ đối với các doanh nghiệp này.
7


Thứ ba, thời gian đăng ký nhãn hiệu quá lâu. Theo quy định pháp luật sở hữu trí tuệ
hiện hành, thời gian đăng ký nhãn hiệu từ lúc nộp hồ sơ đến khi được cấp văn bằng bảo
hộ là 12 tháng. Tuy nhiên, thực tế việc đăng ký nhãn hiệu có thể kéo dài lên đến từ 18 –
24 tháng. Thậm chí, đến thời điểm hiện tại có thể lên đến gần 36 tháng. Nguyên nhân là
do số lượng đơn đăng ký nhãn hiệu đang bị quá tải, việc xử lý và thẩm định đơn của các
chuyên viên bị kéo dài thời gian. Chưa kể đến việc đơn đăng ký bị yêu cầu sửa đổi, bổ
sung hay bị bên thứ ba phản đối cấp thì thời gian xử lý còn kéo dài hơn rất nhiều. Điều
này gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp để gia nhập thị trường. Các doanh

nghiệp sẽ xảy ra tình trạng do dự, không dám phát triển, đưa vào sản xuất hàng loạt sản
phẩm dập logo thương hiệu công ty vì không biết rằng nhãn hiệu của mình có được cấp
văn bằng bảo hộ hay không. Sợ rằng nếu cứ xây dựng thương hiệu, sản xuất hàng loạt,
đến khi việc bảo hộ nhãn hiệu bị từ chối trong khi sản phẩm của mình vừa được người
tiêu dùng biết đến đã bị các bên khác làm nhái sản phẩm hoặc đánh cắp thương hiệu. Khi
đó, doanh nghiệp sẽ bị thất thoát không nhỏ số tiền bỏ ra để sản xuất, quảng bá sản phẩm,
đồng thời, uy tín của doanh nghiệp cũng bị thất thoát nặng nề. Việc thời gian đăng ký
nhãn hiệu bảo hộ nhãn hiệu gây hạn chế rất nhiều cơ hội, thời gian và tiền bạc của các
doanh nghiệp.

8


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Kiều Oanh (2014), Những dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn hiệu theo
quy định của pháp ḷt sở hữu trí ṭ Việt Nam, mợt số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận
văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội.
2. Trương Thị Minh Hiền (2016), Đánh giá tính tương tự của dấu hiệu được sử dụng
làm nhãn hiệu – một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học
Luật Hà Nội.
3. Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền Sở hữu trí tuệ
(gọi tắt là Hiệp định TRIPs), ký ngày 15/04/1994 tại Marrakesh, Maroc.
4. Lê Xuân Thảo (2007), Hội nhập quốc tế và đổi mới cơ chế thực thi, bảo hợ qùn
sở hữu trí ṭ của Việt Nam, Tạp chí Cộng sản (số 4).
5. Đinh Đồng Vàng (2013), Quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu theo quy định của
pháp luật SHTT Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội.

9




×