Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò đó trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.5 KB, 26 trang )

Bộ t pháp
Trờng đại học luật hà nội
___________________

bàI tập lớn học kỳ
MÔn luật TàI CHíNH
Đề bài : (số 9)
Vai trò cđa ph¸p lt th ë níc ta hiƯn nay - các giải pháp chủ yếu để phát huy vai
trò đó trong điều kiện phát triển kinh tế thị trờng và hội nhập quốc tế

Họ và tên: Nguyễn Minh Đạo
Khoa: Quốc Tế Lớp: 30D
MÃ số SV: 30051326

Năm học 2008 - 2009

MC LỤC

MỤC LỤC............................................................................................................1
A. LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................2
B. NỘI DUNG CHÍNH.......................................................................................3
I. Lý luận chung................................................................................................3
1


1. Khái niệm pháp luật thuế.........................................................................3
2. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật thuế.............................................6
3. Mơ hình cấu trúc tổng quát của hệ thống pháp luật thuế.....................9
4. Các quy định về nội dung của hệ thống thuế........................................10
5. Các quy định về hình thức tổ chức và đảm bảo thực hiện hệ thống
thuế...............................................................................................................11


II. Vai trò pháp luật thuế - Các giải pháp phát huy vai trò pháp luật thuế
trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế............14
1. Vai trò pháp luật thuế.............................................................................14
2. Đánh giá chung pháp luật thuế..............................................................17
3. Giải pháp..................................................................................................19
C. KẾT LUẬN...................................................................................................24
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................25

A. LỜI MỞ ĐẦU
Thuế vừa là phạm trù kinh tế, vừa là phạm trù lịch sử. Lịch sử xã hội loài
người đã chứng minh rằng thuế ra đời là một tất yếu khách quan, gắn với sự
hình thành và phát triển của đất nước. Để duy trì sự tồn tại đồng thời với việc
thực hiện các chức năng của mình, nhà nước cần có nguồn vật chất để thực hiện
những chi tiêu có tính chất xã hội.
Bằng quyền lực chính trị, nhà nước thu một bộ phận của cải xã hội để có
nguồn vật chất này chính là thuế. Thu thuế được thực hiện từ hình thức thu bằng
hiện vật chuyển dần sang thu dưới hình thức giá trị. Điều đó cũng có nghĩa thuế
xuất hiện ban đầu có hình thức biểu hiện rất đơn giản. Quan hệ phu phen, cống
2


nạp là những loại thế thể hiện dưới hình thức hiện vật dần có sự phức tạp hơn hình thức sưu, thuế được cắt đặt một cách thống nhất trong phạm vi lãnh thổ.
Đến khi tiền tệ ra đời, hình thức thuế thu bằng tiền làm giảm nhẹ sự nghiệt ngã
của các hình thức cống nộp.
Ở phương Tây, hình thức thuế xuất hiện sớm nhất là ở La Mã cổ đại dưới
dạng “thuế ruộng đất”. Cùng với sự phát triển, những loại thuế và hình thức thuế
phức tạp hơn dần hình thành. Những hình thức “thuế thập phân” đã xuất hiện ở
Anh thế kỉ thứ X. Theo đó, “một phần mười giá trị sản phẩm phải được trích nộp
cho tổ chức quyền lực công cộng bằng các quan hệ pháp luật”. Hoặc vào thời kì
này tại Italy, 10% giá trị của tất cả hàng hóa, sản phẩm nơng nghiệp phải nộp

cho nhà nước. Ở Trung Quốc, hình thức thuế sớm nhất là “cống” thời nhà Hạ,
Thuật ngữ “thuế” xuất hiện ở quốc gia này vào năm 594 trước công nguyên.
Đối với Việt Nam, “thuế má” cũng đã bắt đầu xuất hiện từ thời kì đầu của
chế độ phong kiến, nhằm tập trung nguồn công quỹ cho nhà vua nhưng chủ yếu
dưới dạng cống vật. Đến thế kì thứ XVI ngồi các loại thuế đã được thu ổn định,
các triều đại cịn đặt thêm những loại thuế mới. Đến thời kì Pháp thuộc, chính
phủ thuộc địa Pháp đặt ra rất nhiều loại thuế, tiêu biểu là: thuế rượu, thuế muối,
thuế đoan (thuế quan), thuế môn bài, thuế thổ trạch.
Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, song song với việc xóa
bỏ hệ thống thuế phi nhân đạo (thuế thân, thuế muối…), Nhà nước dần hình
thành hệ thống thuế mới.
Thuế là hiện tượng tất yếu, xuất hiện và tồn tại cùng với các hiện tượng
kinh tế, xã hội khác. Sự xuất hiện, phát triển của thuế gắn với mỗi giai đoạn, lợi
ích mà nhà nước sử dụng nó làm công cụ điều tiết nguồn thu của nền kinh tế xã
hội ấy.
Thuế đóng 1 vai trị quan trọng trong nền kinh tế, chính trị xã hội của một
quốc gia, vì thế việc có một hệ thống pháp luật thuế để điều chỉnh là vô cùng
quan trọng. Bởi vậy pháp luật thuế cũng giữ một vai trị quan trọng khơng kém
trong hệ thống pháp luật mỗi quốc gia. Có một hệ thống pháp luật thuế ổn định,
hợp lý thì sẽ là động lực khiến nền kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia đó phát
triển, góp phần quản lý, điều chỉnh hợp lý hệ thống thuế mỗi quốc gia.
B. NỘI DUNG CHÍNH
I. Lý luận chung
1. Khái niệm pháp luật thuế
1.1. Định nghĩa
Quan hệ thu, nộp thuế giữa nhà nước và dân cư phải được thực hiện dựa
trên những căn cứ pháp lý nhất định, đó chính là pháp luật thuế.
Như vậy, pháp luật thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền và người nộp thuế nhằm hình thành nguồn thu ngân sách

nhà nước để thực hiện các mục tiêu xác định trước.
3


Việc đưa ra khái niệm pháp luật thuế nhằm phân định ranh giới giữa các
nhóm quan hệ, qua đó lựa chọn áp dụng các quy phạm pháp luật phù hợp, đặt
được hiệu quả điều chỉnh cao.
Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của luật thuế ở Việt Nam
cho thấy pháp luật thuế ra đời rất sớm. Nhà nước với tư cách là chủ thể quyền
lực, sử dụng công cụ riêng là pháp luật để tập trung bộ phận của cải xã hội mà
khơng phụ thuộc vào ý chí của đối tượng nắm giữ của cải đó. Điều này cũng
giúp cho việc phân biệt giữa luật thuế với luật ngân sách nhà nước mặc dù giữa
luật thuế và luật ngân sách nhà nước có mối liên hệ nội tại.
1.2. Đối tượng điều chỉnh của luật thuế
Trong giai đoạn hiện nay, khi còn nhiều quan điểm khác nhau về ngành
luật, việc đưa ra đối tượng điều chỉnh của luật thuế chỉ có ý nghĩa xác định rõ
những loại chủ thể với những đặc tính nhất định sẽ là đối tượng hướng tới hoặc
cần được bảo vệ bởi các văn bản pháp luật trong nước cũng như văn bản pháp
luật quốc tế về thuế. Xác định đối tượng điều chỉnh của luật thuế khơng có nghĩa
xác định đây là một ngành luật độc lập hay một lĩnh vực khoa học luật riêng biệt
mà chỉ nhằm xác định rõ nội dung nghiên cứu, đề cập trong một lĩnh vực pháp
luật cụ thể, một môn học luật.
Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động và nội dung hoạt động của các chủ thể, đối
tượng điều chỉnh của pháp luật thuế bao gồm các nhóm quan hệ sau:
- Nhóm các quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý thuế.
Quản lý thuế là một trong những nội dung quan trọng, không thể tách rời
hoạt động quản lý nhà nước. Hoạt động quản lý thuế gồm nhiều nội dung cụ thể
khác nhau, tuy vậy bao giờ cũng gắn liền với sự tham gia của nhà nước (nhân
danh chính mình hoặc thơng qua các cơ quan chức năng).
Hoạt động quản lý thuế của các cơ quan có thẩm quyền bao gồm những

nhóm hành vi cơ bản được tiến hành trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc quản lý
hành chính và thể hiện thơng qua một loạt loại hành vi:
+ Chấp hành những quy định về thuế của các cơ quan có thẩm quyền,
chống hiện tượng chiếm dụng và trốn lậu thuế.
+ Xác định phạm vì người nộp thuế và các nguyên tắc đánh thuế
+ Xác định đúng đối tượng tính thuế và các căn cứ tính thuế
+ Xác định cách thức tính thuế, quyết định việc miễn giảm thuế trên cơ sở
quy định của pháp luật
+ Tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm chống thất thu thuế
+ Thanh tra, kiểm tra quá trình thu, nộp thuế
- Nhóm các quan hệ phát sinh trong q trình thực hiện nghĩa vụ thuế.
Các tổ chức, cá nhân dù trực tiếp hay gián tiếp đều phải thực hiện nghĩa
vụ thuế đối với nhà nước. Để đảm bảo việc nộp thuế đầy đủ, đúng hạn, đảm bảo
sự công bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế, pháp luật thuế điều chỉnh
những loại hành vi cơ bản sau đây của những đối tượng này:
4


+ Thực hiện đăng kí, kê khai thuế
+ Thực hiện nộp thuế theo trình tự, tức là thực hiện một trật tự phải tuân
thủ trong suốt quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế
+ Thực hiện chế độ báo cáo thuế và các vấn đề có liên quan đến cơ sở xác
định số thuế phải nộp với cơ quan có thẩm quyền
+ Đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét đúng, chính xác số thuế phải
nộp trong những trường hợp cần thiết.
- Nhóm các quan hệ phát sinh trong quá trình xử lí vi phạm và khiếu nại
về thuế.
+ Hoạt động xử lý vi phạm về thuế liên quan đến các hành vi vi phạm
pháp luật thuế như nợ thuế, sót thuế, trốn thuế, chống thuế nhưng chưa đến mức
cấu thành tội phạm hình sự

+ Giải quyết khiếu nại những quyết định hành chính của cơ quan có thẩm
quyền khi ra các quyết định không đủ căn cứ, không công bằng, không đúng
pháp luật…
Xét đối tượng điều chỉnh của pháp luật thuế, có thể nhận thấy:
- Nhà nước với tư cách là chủ thể quyền lực, luôn là một bên tham gia
quan hệ thuế và trực tiếp chi phối các quan hệ đó.
- Các quan hệ đều nhằm hướng tới việc chuyển giao bắt buộc một nguồn
tài chính vào cho nhà nước. Nguồn tài chính đó nhằm phục vụ lợi ích công cộng,
điều chỉnh xã hội ở tầm vĩ mô.
Đặc điểm về chủ thể và nội dung của các nhóm quan hệ xã hội thuộc đối
tượng điều chỉnh của pháp luật thuế cho thấy các quan hệ do pháp luật thuế điều
chỉnh ln mang tính chấp hành và điều hành, là một nội dung quan trọng của
tài chính cơng. Điều này cũng chi phối trực tiếp việc sử dụng phương pháp điều
chỉnh quan hệ thuế.
1.3. Phương pháp điều chỉnh của luật thuế
Xuất phát từ tính chất của các quan hệ thuế do luật thuế điều chỉnh, để sự
tác động của pháp luật có hiệu quả, luật thuế sử dụng phương pháp mệnh lệnh
quyền uy.
Để có được nguồn thu, nhà nước yêu cầu người dân phải nộp thuế. Để có
thể tăng thêm khả năng chi tiêu, nhà nước có thể ban hành, thay đổi các loại thuế
mới hoặc bãi bỏ những ưu đãi về thuế đang áp dụng đối với người dân. Để kịp
thời trang trải cho hoạt động của mình, có được số thu ổn định và chủ động, nhà
nước yêu cầu người dân nộp đúng và đủ, theo thời hạn số thuế nhất định…
Khơng có sự bình đẳng giữa cơ quan có thẩm quyền về thuế với người nộp thuế.
Nhà nước có quyền đơn phương đưa ra những quyết định theo ý chí của mình
mà khơng cần có sự thỏa thuận của các đối tượng còn lại. Trường hợp cần thiết,
nhà nước có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế, buộc đối tượng nộp thuế phải
thực hiện nghĩa vụ.
Việc sử dụng phương pháp mệnh lệnh quyền uy trong quan hệ thuế hồn
tồn khơng phải với hình thức biểu hiện giống nhau. Chẳng hạn, cơ quan quản

5


lý thuế có quyền ra các thơng báo thuế, quyết định truy thu thuế và yêu cầu đối
tượng nộp thuế tự kê khai, tính thuế và tự nộp thuế thì có sự khác nhau về hình
thức biểu hiện nhưng điều này hồn tồn khơng có nghĩa tính chất quyền uy bị
mất đi. Trước hết, việc làm này phải được cơ quan quản lý thuế cho phép hay
phê chuẩn, nếu đối tượng nộp thuế khơng tính đúng, tính đủ, nộp theo thời hạn,
việc bị xử lý vi phạm sẽ trở thành hiện thực.
Khi số thuế không được nộp đầy đủ, đúng hạn sẽ dẫn tới hàng loạt các
khả năng khác nhau như phong tỏa tài khoản, yêu cầu phù hộ, phạt nộp chậm
được thực hiện cùng với các biện pháp hành chính khác.
Trong giai đoạn hiện nay, các nước đang có xu thế phân chia hệ thống
pháp luật thành luật công và luật tư. Luật công là các luật điều chỉnh các quan hệ
liên quan đến nhà nước, quan hệ nhà nước với công dân. Luật tư điều chỉnh
quan hệ liên quan đến lợi ích cá nhân, quan hệ giữa các cơng dân. Như vậy, luật
thuế có đầy đủ căn cứ để được xác định là một bộ phận quan trọng của luật
công.
1.4. Nguồn của pháp luật thuế
Nguồn của pháp luật thuế là các văn bản pháp luật do cơ quan có thẩm
quyền ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp
thuế và các văn bản pháp luật quốc tế điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá
trình thực hiện quyền thu thuế mà Việt Nam đã ký kết hoặc cam kết thực hiện.
Nguồn của văn bản pháp luật thuế do cơ quan có thẩm quyền của Nhà
nước Việt Nam ban hành bao gồm các văn bản luật và văn bản dưới luật.
Luật do Quốc hội ban hành, sửa đổi bổ sung như Luật thuế giá trị gia
tăng, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật thuế xuất nhập khẩu, Luật thuế thu nhập
doanh nghiệp… Một điểm khá đặc thù trong hệ thống luật điều chỉnh hoạt động
thu thuế do Nhà nước Việt Nam ban hành là quy định về thuế có thể được ghi
nhận ở một văn bản luật đơn hành mà không hồn tồn ghi nhận tại các luật thuế

nói chung. Chẳng hạn, Luật dầu khí điều chỉnh quan hệ thuế tài nguyên của các
tổ chức kinh tế có khai thác dầu, khí trên lãnh thổ Việt Nam.
Pháp lệnh thuế do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành, sửa đổi, bổ
sung.
Các văn bản dưới luật khác do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ
trưởng các bộ quản lý ngành ban hành quy định chi tiết thi hành các luật, pháp
lệnh.
Các văn bản pháp luật quốc tế là nguồn của pháp luật thuế bao gồm các
điều ước quốc tế song phương và đa phương.
Các điều ước quốc tế đa dạng mà Việt Nam tham gia ký kết hoặc cam kết
thực hiện như GATT 1994, Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
CEPT…
Các hiệp định song phương mà Việt Nam đã ký kết như Hiệp định thương
mại Việt Nam - Hoa Kỳ…
6


2. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật thuế
Tuy thốt thai từ Luật Hành chính nhưng từ lâu, pháp luật thuế đã trở
thành một lĩnh vực pháp luật tương đối độc lập và khá đặc thù so với Luật Hành
chính cũng như các ngành luật khác thuộc lĩnh vực luật công. Để tồn tại và phát
triển, pháp luật thuế cần có những ngun tắc riêng của mình và các nguyên tắc
này, đến lượt nó lại được coi là cơ sở, nền tảng cho những quy định cụ thể của
pháp luật thuế.
Theo nghiên cứu của một số học giả nổi tiếng về tài chính cơng và thuế
pháp, các ngun tắc cơ bản của pháp luật thuế có thể được phân chia thành hai
nhóm, bao gồm:
2.1. Các ngun tắc có tính hiến định
Đây là những nguyên tắc chung và được ghi nhận ít nhiều trong bản Hiến
pháp của một quốc gia, đồng thời được coi là nền tảng cho việc xây dựng hệ

thống chính sách thuế - pháp luật thuế của quốc gia đó.
Nguyên tắc chung đầu tiên được biết đến của pháp luật thuế, chính là
nguyên tắc luật định của thuế. Nguyên tắc này có nguồn gốc sâu sa từ lý thuyết
thuế - trao đổi, theo đó mọi khoản thuế Nhà nước định thu đối với người dân đều
phải được đại diện nhân dân chấp thuận bằng một đạo luật. Trong bản Tuyên
ngôn nhân quyền năm 1789, Điều 14 đã ghi nhận rằng: “Mỗi cơng dân đều có
quyền tự xem xét hoặc thơng qua đại diện của mình sự cần thiết phải đóng góp
cho chính quyền, có quyền tự do chấp thuận đóng góp, có quyền theo dõi việc
sử dụng khoản đóng góp này và quyết định suất thuế đóng góp, cơ sở tính thuế,
việc thu thuế và thời hạn”. Nguyên tắc luật định có nội dung cơ bản là mọi
khoản thuế do Nhà nước đặt ra để áp dụng đối với dân chúng đều phải được thể
hiện bằng một đạo luật. Chỉ có như vậy thì người dân mới chấp nhận giá trị pháp
lý của sắc thuế đó và mới có nghĩa vụ tuân thủ nó. Giá trị to lớn của ngun tắc
này chính là ở chỗ, nó loại bỏ khả năng chính quyền tự áp đặt các nghĩa vụ thuế
bất công đối với người dân và bỏ qua sự kiểm soát hiệu quả của đại diện nhân
dân là cơ quan lập pháp. Điều đó có nghĩa là, về mặt nguyên tắc, mọi sắc thuế
không được ban hành dưới hình thức một đạo luật thì khơng có giá trị và khơng
có khả năng ràng buộc đối với dân chúng là người đóng thuế. Tuy nhiên, thực tế
cho thấy rằng đôi khi nguyên tắc này cũng trở nên suy yếu bởi vai trò “lép vế”
của cơ quan lập pháp trong mối tương quan quyền lực với cơ quan hành pháp,
vào những thời điểm hay giai đoạn nhất định của lịch sử nhà nước. Trong những
trường hợp như vậy, các sắc thuế được ban hành tuy về hình thức vẫn là những
sản phẩm của quá trình lập pháp của Quốc Hội nhưng trên thực tế, nó có thể
khơng hề phản ánh và hướng tới việc bảo vệ lợi ích của nhân dân là những
người đóng thuế và chia sẻ gánh nặng chi tiêu với Nhà nước.
Nguyên tắc chung thứ hai được biết đến trong lịch sử thuế pháp, chính là
nguyên tắc bình đẳng và khơng phân biệt. Ngun tắc này lần đầu tiên được
nhắc đến trong Bản Tuyên ngôn nhân quyền năm 1789 (Điều 13) và đã gây ra
rất nhiều tranh cãi trong giới học giả thời bấy giờ. Điều đó khiến cho việc xác
7



định nội dung của nguyên tắc này trở nên rất khó khăn, bởi đây là nguyên tắc
vừa có thể tiếp cận từ khía cạnh chính trị, vừa có thể xem xét từ khía cạnh kinh
tế và cả khía cạnh pháp lý nữa.
Xét ở khía cạnh chính trị, nguyên tắc này gắn bó chặt chẽ với vấn đề nhân
quyền, trong đó có quyền được đối xử bình đẳng và khơng phân biệt. Cịn xét ở
khía cạnh kinh tế, ngun tắc này liên quan đến vấn đề bản chất của thuế, như là
một nghĩa vụ tài sản “bất khả tránh” của tổ chức và cá nhân đối với Nhà nước.
Tuy nhiên, xét từ khía cạnh pháp lý, ngun tắc bình đẳng và không phân biệt
đối xử thường được nhắc đến với nội dung chủ yếu là quyền bình đẳng của mọi
người nộp thuế trước pháp luật. Nói cách khác, xét ở khía cạnh này, mọi cơng
dân đều được bình đẳng như nhau trước các quy định của pháp luật thuế, mặt
khác, “luật pháp phải được áp dụng như nhau đối với tất cả người nộp thuế ở
trong những hoàn cảnh giống nhau”.
Nguyên tắc chung thứ ba được nhắc đến trong các học thuyết về thuế
cũng như pháp luật thuế, chính là nguyên tắc đánh thuế theo khả năng tài chính
của mỗi người nộp thuế. Xét về mặt lịch sử, nguyên tắc này có nguồn gốc pháp
lý từ Bản Tun ngơn nhân quyền và dân quyền năm 1789 với sự ghi nhận tại
Điều 13, theo đó “mức đóng góp phải được phân bổ bình đẳng giữa các cơng
dân tùy theo khả năng của họ”. Nhưng về mặt lịch sử tư tưởng, nguyên tắc này
đã từng được Adam Smith khẳng định với câu cách ngôn nổi tiếng là, “các công
dân của mỗi nước phải đóng góp cho Chính phủ theo tỷ lệ khả năng của mỗi
người, nghĩa là tỷ lệ với lợi tức mà họ được thụ hưởng do sự bảo vệ của Nhà
nước”. Quan điểm này tuy vẫn phản ánh nội dung của lý thuyết thuế - trao đổi
nhưng đã bắt đầu đề cập đến yếu tố khả năng tài chính của người đóng thuế. Nói
cách khác, nội dung chính của ngun tắc này địi hỏi sự nhận biết một cách
chính xác và khách quan về tình trạng và khả năng tài chính của mỗi chủ thể là
đối tượng nộp thuế để dựa trên cơ sở đó ấn định mức độ nghĩa vụ thuế của mỗi
người thụ thuế. Tuy nhiên, trong thực tế việc xác định chính xác khả năng nộp

thuế của mỗi người là không hề dễ dàng, bởi xu hướng tránh thuế hay trốn thuế
vốn là hiện tượng gắn liền với bản chất của thuế. Điều này khiến cho việc đảm
bảo tính cơng bằng của thuế cũng như đảm bảo tính khả thi của các sắc thuế trở
nên khó khăn hơn.
Nguyên tắc chung thứ tư của pháp luật về thuế được nhiều học giả nhắc
đến, đó là nguyên tắc tự do. Đây thực sự là ngun tắc khó hình dung và khó lý
giải nhất của pháp luật thuế và đã từng gây ra khá nhiều tranh cãi, bởi dường
như nó đi ngược lại với những điều được coi là bản chất của thuế, điển hình là
tính bắt buộc hay tính cưỡng bức của thuế. Thực ra, tính tự do được đề cập đến
trong nguyên tắc này không phải là sự tự do nộp thuế theo ý muốn của người
nộp thuế, mà chính là nhu cầu về đảm bảo quyền tự do cá nhân cũng như quyền
tự do kinh doanh của người nộp thuế. Trong lịch sử thuế pháp, nguyên tắc này
đã từng được coi là cơ sở của rất nhiều thủ tục của luật thuế, ví dụ như thủ tục tự
đăng ký, tự kê khai, tự tính thuế, thủ tục khiếu nại hay khởi kiện về thuế…Có
thể nói, nguyên tắc này đề cao ý thức tôn trọng quyền tự do cá nhân cũng như
8


quyền tự do kinh doanh của người nộp thuế, với tư tưởng chủ đạo là các quy
định của luật thuế không được xâm hại đến các quyền năng này của người nộp
thuế.
Cuối cùng, có thể hình dung đến một vài nguyên tắc chung khác nữa của
pháp luật thuế, chẳng hạn như nguyên tắc về sự cần thiết của thuế, nguyên tắc
niên độ của thuế, nguyên tắc tôn trọng quyền được tự vệ…Tất cả những nguyên
tắc này đều ít nhiều liên quan đến lợi ích của hai bên, đó là Nhà nước (người thu
thuế) và tổ chức, cá nhân (người nộp thuế), bởi lẽ suy cho cùng thì tất cả các sắc
thuế, dù là trực thu hay gián thu, đều được trích thủ từ lợi tức của cá nhân để
chuyển sang cho Chính phủ chi tiêu. Đây chính là dấu hiệu đặc trưng rất quan
trọng và mang tính bản chất của thuế.
2.2. Các ngun tắc khơng có tính hiến định

Những ngun tắc này tuy không được ghi nhận trong Hiến pháp nhưng
cũng có giá trị làm cơ sở cho việc thể chế hóa bằng pháp luật đối với hệ thống
thuế ở mỗi quốc gia.
Trước tiên là nguyên tắc lãnh thổ của Luật thuế.
Theo nguyên tắc này, các đạo luật về thuế của quốc gia chỉ có giới hạn trong
phạm vi lãnh thổ quốc gia. Trong phạm vi chủ quyền của mình, mỗi quốc gia sẽ
có quyền đánh thuế đối với các sự kiện pháp lý làm phát sinh nghĩa vụ thuế xảy
ra trên lãnh thổ đó, ví dụ như sự kiện phát sinh thu nhập, sự kiện tọa lạc tài sản
hay chuyển dịch tài sản, việc tiến hành các hoạt động kinh doanh thương mại…
Tuy nhiên, trong một vài trường hợp, quyền đánh thuế của quốc gia có thể vượt
ra ngồi khuôn khổ biên giới quốc gia hoặc ngược lại không bao hàm toàn bộ
phạm vi lãnh thổ quốc gia, hoặc có thể bị giới hạn bởi các Luật thuế siêu quốc
gia. Đặc biệt, trong trường hợp quốc gia đã ký kết hoặc tham gia các Hiệp định
về thuế thì về nguyên tắc, pháp luật thuế của quốc gia đó sẽ phải phù hợp với
nội dung Hiệp định và có giá trị pháp lý thấp hơn Hiệp định.
Thứ hai là nguyên tắc khơng có hiệu lực hồi tố của Luật thuế.
Tuy không được ghi nhận một cách rõ ràng trong Hiến pháp nhưng
nguyên tắc này vốn được xem là nguyên tắc chung của rất nhiều lĩnh vực pháp
luật, chẳng hạn như pháp luật hình sự, dân sự, hành chính, lao động, thương mại,
tài chính…
Hẳn nhiên là khơng cần thiết phải nhắc lại nội dung của ngun tắc khơng
có hiệu lực hồi tố nữa, nhưng đối với lĩnh vực pháp luật đặc thù như pháp luật
tài chính và thuế khóa thì đơi khi nguyên tắc này không được áp dụng một cách
triệt để. Lý do chính có lẽ là bởi vì xuất phát từ mối quan hệ đặc biệt giữa Luật
thuế và Luật ngân sách.
Ngoài hai nguyên tắc cơ bản nêu trên, người ta cịn nhắc đến một vài
ngun tắc khơng có tính hiến định khác nữa của pháp luật thuế, chẳng hạn như
nguyên tắc tranh tụng và nguyên tắc thẩm quyền liên đới của cơ quan thuế. Nếu
như nguyên tắc tranh tụng được lấy ý tưởng từ nguyên tắc tôn trọng quyền được
tự vệ của người nộp thuế thì nguyên tắc thẩm quyền liên đới của cơ quan thuế

9


lại bắt nguồn từ quan điểm, tư tưởng cốt lõi của nguyên tắc luật định của thuế.
Nghĩa là, theo nguyên tắc này, cơ quan thuế cần phải và chỉ được phép hành xử
trong khn khổ những gì mà pháp luật thuế cho phép, nhưng đồng thời có thể
tự quyết định về thuế trong một số trường hợp đặc biệt, ví dụ như trường hợp
thực thi quyền ấn định thuế đối với người nộp thuế theo quy định của pháp luật
thuế.
Kinh nghiệm xây dựng chính sách thuế ở nhiều nước cho thấy, việc thiết
kế hệ thống pháp luật thuế như thế nào để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả, bao
giờ cũng gắn liền với các nguyên tắc đánh thuế. Nói cách khác, các ngun tắc
đánh thuế ln được xem là một phần khơng thể thiếu trong cấu trúc hồn chỉnh
của một hệ thống pháp luật thuế. Các nguyên tắc này vừa là những tư tưởng chỉ
đạo xuyên suốt quá trình xây dựng và thực hiện chính sách thuế, vừa là nền tảng
cho việc thể chế hóa bằng pháp luật đối với hệ thống thuế quốc gia.
3. Mơ hình cấu trúc tổng quát của hệ thống pháp luật thuế
Thực tế cho thấy rằng luôn tồn tại sự khác nhau giữa các quốc gia trong
việc thiết kế mơ hình hệ thống pháp luật thuế.
Có những nước quy định tất cả các sắc thuế trong một Bộ luật chung về
thuế, gọi là Bộ luật thuế vụ. Trong bộ luật này, nhà làm luật vừa quy định về nội
dung cụ thể của các loại thuế trong hệ thống thuế, vừa quy định về trình tự, thủ
tục hành thu và cơ chế quản lý thuế cũng như xử lý vi phạm và giải quyết các
tranh chấp về thuế.
Ngược lại, có những nước lựa chọn giải pháp thiết kế mỗi loại thuế được
ban hành bằng một đạo luật riêng, độc lập với nhau nhưng vẫn đảm bảo tính
tương thích với nhau và đồng thời tách bạch các quy định về quản lý thuế bằng
một đạo luật riêng biệt so với các đạo luật thuế.
Theo kinh nghiệm điều chỉnh bằng pháp luật đối với lĩnh vực thuế của
nhiều nước trên thế giới, việc đa dạng hóa các sắc thuế dựa trên kết quả phân

loại thuế của các nhà khoa học, chính là một trong những giải pháp tốt nhất để
tạo ra một hệ thống pháp luật thuế hồn hảo. Đảm bảo tính đa dạng của các sắc
thuế có nghĩa là đảm bảo sự cân đối hài hòa giữa thuế trực thu và thuế gián thu,
giữa thuế nội địa và thuế xuất nhập khẩu, giữa thuế đánh vào thu nhập với thuế
đánh vào tài sản và thuế đánh vào hoạt động tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ. Ngồi
ra, xét về khía cạnh kỹ thuật đánh thuế, cũng cần tính đến sự hài hịa giữa thuế
tỷ lệ với thuế lũy tiến và thuế tuyệt đối. Việc đa dạng hóa các loại thuế sẽ cho
phép khỏa lấp những “lỗ hổng” hay khuyết tật vốn là điều khó tránh của hệ
thống thuế cũng như hệ thống pháp luật thuế, bởi vì trên thực tế những nhược
điểm của loại thuế này đôi khi lại được xem là ưu điểm của loại thuế kia và
ngược lại. Ví dụ, thuế trực thu có ưu điểm là đảm bảo tính cơng bằng nhưng lại
khó thu, cịn thuế gián thu tuy có ưu điểm là dễ thu hơn nhưng lại không thật sự
công bằng.
Trong bối cảnh thế giới đương đại, xu hướng chung của các nước là tìm
cách ban hành những đạo luật riêng về từng loại thuế và cố gắng tách bạch các
10


quy định về hành chính thuế ra khỏi các đạo luật về thuế, bằng cách ban hành
một đạo luật riêng, gọi là Luật về quản lý thuế. Giải pháp này được đánh giá là
thích hợp hơn với điều kiện hội nhập kinh tế tồn cầu, vì nó cho phép nhà làm
luật có thể sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh các quy định trong các đạo luật thuế
một cách dễ dàng hơn, so với việc đưa tất cả các quy định về thuế trong một Bộ
luật chung về thuế.
Như vậy, xét về cấu trúc tổng quát, hệ thống pháp luật thuế nói chung của
các nước đều được cấu thành bởi hai bộ phận chính, bao gồm các quy định về
nội dung của các sắc thuế trong hệ thống thuế; các quy định về hình thức tổ chức
và đảm bảo thực hiện (quy trình hành thu) hệ thống thuế.
4. Các quy định về nội dung của hệ thống thuế
Những quy định về nội dung của hệ thống thuế thực chất là những quy

định nhằm xác định ai là người nộp thuế và mức thuế mà họ phải nộp cho Nhà
nước là bao nhiêu. Những quy định này liên quan đến chủ thể nộp thuế, đối
tượng chịu thuế, căn cứ tính thuế và thường được quy định rất đầy đủ, chi tiết
trong từng sắc thuế như thuế giá trị gia tăng, thuế thiêu thụ đặc biệt, thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu, thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp hay
thuế môi trường…
Những quy định về chủ thể nộp thuế (tổ chức, cá nhân) và đối tượng chịu
thuế (hàng hóa, dịch vụ, tài sản, thu nhập) có nhiệm vụ phải xác định rõ ai là
người nộp thuế và ai thực sự là người chịu thuế. Các quy định này quan trọng
đến mức nếu không cụ thể, rõ ràng và hợp lý thì có thể khiến cho sắc thuế kém
tính khả thi và thậm chí là có thể trở thành phản tác dụng. Chẳng hạn, giả sử nhà
làm luật muốn đánh thuế vào các sản phẩm, hàng hóa có tác động trực tiếp đến
mức độ ô nhiễm môi trường, nhưng nếu các quy định của Luật thuế môi trường
lại nhằm vào việc điều tiết thu nhập của chính những người sản xuất kinh doanh
(có tính chất như là một loại thuế trực thu) thì khi đó mục đích của việc đánh
thuế mơi trường sẽ khơng đạt được, mặt khác cịn gây ra những tác động tiêu
cực đến kết quả hoạt động kinh doanh của người kinh doanh. Ý thức rõ điều đó,
luật thuế môi trường ở các nước thường quy định coi thuế môi trường như là
một loại thuế gián thu và người sản xuất kinh doanh được chuyển toàn bộ số tiền
thuế môi trường sang cho người tiêu dùng chịu, bằng cách cấu thành số tiền thuế
này trong giá bán các hàng hóa, dịch vụ do họ sản xuất và bán ra trên thị trường,
ví dụ như tài nguyên, xăng dầu, thuốc bảo vệ thực vật, các sản phẩm hàng hóa
có khả năng gây ô nhiễm môi trường khác.
Những quy định về căn cứ tính thuế có nhiệm vụ xác định rõ các chủ thể
nộp thuế (tổ chức, cá nhân) phải nộp số tiền thuế là bao nhiêu cho Nhà nước.
Những quy định này chỉ rõ các yếu tố cần và đủ để xác định mức thuế cụ thể cho
một chủ thể nộp thuế, khi xảy ra sự kiện làm phát sinh nghĩa vụ thuế. Chẳng
hạn, đối với thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt hay thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu, căn cứ tính thuế sẽ bao gồm giá tính thuế và thuế suất. Cịn đối
với thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân thì căn cứ tính thuế sẽ

11


bao gồm thu nhập tính thuế và thuế suất. Có thể nhận thấy rằng, trong các yếu tố
vừa nêu thì yếu tố thuế suất ln có mặt trong hầu hết các sắc thuế, vì yếu tố này
cho phép thể hiện rõ nhất thái độ của Nhà nước trong việc tạo nguồn thu ngân
sách và điều tiết bằng công cụ thuế đối với lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và lĩnh
vực tiêu dùng. Xuất phát từ lý do này mà người ta vẫn quan niệm thuế suất là
“linh hồn của một sắc thuế”.
5. Các quy định về hình thức tổ chức và đảm bảo thực hiện hệ thống thuế
Các quy định này thường được quan niệm như là những quy định về hình
thức của pháp luật thuế, bởi nó có nhiệm vụ xác định trình tự, thủ tục hành thu
thuế và quản lý thuế cũng như xử lý vi phạm và giải quyết các tranh chấp về
thuế. Hiểu theo nghĩa rộng nhất, tất cả các quy định liên quan đến hoạt động này
đều có thể được gói gọn trong một thuật ngữ là “pháp luật quản lý thuế” và tùy
thuộc vào quan điểm của từng nước mà chúng có thể được quy định chung trong
Bộ luật thuế hay các đạo luật thuế, hoặc được tách bạch riêng rẽ thành một đạo
luật về quản lý thuế.
Một cách tổng qt, có thể hình dung pháp luật quản lý thuế bao gồm các
nhóm quy định cơ bản sau đây:
- Các quy định về đăng ký, kê khai, tính thuế, nộp thuế, quyết tốn thuế,
truy thu và hồn thuế. Đăng ký, kê khai, tính thuế, nộp thuế, quyết tốn thuế,
truy thu và hồn thuế là những hoạt động quan trọng trong quá trình thực hiện
chức năng quản lý thuế của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trước đây,
các hoạt động này thường được thực hiện bằng các quyết định hoặc hành vi
hành chính đơn phương của Nhà nước và bất chấp thái độ của người nộp thuế.
Hiện nay, quy trình này về cơ bản đã được thay đổi, theo hướng dành quyền chủ
động tối đa cho người nộp thuế trong việc tự đăng ký thuế, tự kê khai, tính thuế
và tự nộp thuế cho nhà nước, trên cơ sở chịu sự kiểm tra, giám sát trực tiếp,
thường xuyên của các cơ quan quản lý thuế - với tư cách là người đại diện cho

Nhà nước trong hoạt động hành thu thuế. Như đã phân tích ở trên, việc chuyển
sang mơ hình hành thu thuế theo cơ chế tự đăng ký, tự khai, tự tính và tự nộp là
bước đột pháp quan trọng trong tiến trình cải cách hành chính thuế ở các nước
trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Xét từ phương diện pháp luật,
các quy định về cơ chế tự đăng ký, tự kê khai, tự tính và tự nộp thuế nhằm
hướng tới mục tiêu mở rộng quyền năng cho người nộp thuế, đồng thời thơng
qua đó cũng đề cao ý thức trách nhiệm của họ trong quá trình thực hiện nghĩa vụ
tài chính với Nhà nước.
- Các quy định về thanh tra, kiểm tra thuế và xử lý vi phạm pháp luật
thuế. Đây là những quy định thể hiện rõ nhất vai trò, chức năng quản lý hành
chính của Nhà nước đối với xã hội nói chung và đối với người nộp thuế nói
riêng. Trước đây, hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế thường được tiến hành
trước khi người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, gọi là cơ chế “tiền kiểm”.
Tuy nhiên, gần đây, những nỗ lực trong q trình cải cách hành chính thuế đã
dẫn đến việc chuyển đổi từ cơ chế “tiền kiểm” sang cơ chế “hậu kiểm”, theo đó
12


cơ quan quản lý thuế chỉ tiến hành thanh tra, kiểm tra sau khi người nộp thuế đã
tự thực hiện các thủ tục chính yếu của q trình quản lý thuế như đăng ký thuế,
kê khai thuế, tính thuế và nộp thuế, quyết tốn thuế, hồn thuế hay xin miễn
giảm thuế. Dựa trên cơ sở kết quả thanh tra và kiểm tra, cơ quan thuế có quyền
áp dụng các chế tài xử lý đối với những hành vi vi phạm pháp luật thuế. Việc
quy định theo hướng này không những làm giảm gánh nặng công việc cho cơ
quan quản lý thuế, đảm bảo tính hợp lý của q trình quản lý thuế mà còn tạo
điều kiện để cơ quan thuế nâng cao tính chun nghiệp trong q trình thanh tra,
kiểm tra thuế - với tư cách là những công cụ quản lý thuế hiệu quả nhất.
- Các quy định về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực thuế. Tranh chấp
nói chung và tranh chấp về thuế nói riêng là hậu quả khó tránh của q trình
thực hiện chức năng quản lý hành chính, đặc biệt là quản lý hành chính trong

lĩnh vực thuế. Sở dĩ như vậy là bởi vì, các quy định gần đây của Luật thuế có
chiều hướng gia tăng và ngày càng trở nên phức tạp hơn, cùng với nó là q
trình chuyển đổi sang mơ hình nhà nước – pháp quyền và xã hội dân sự. Điều
này dẫn tới hệ quả là Nhà nước phải tìm cách thiết lập những cơ chế giải quyết
thích hợp đối với các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực thuế, thơng qua đó
nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên tham gia quan hệ pháp
luật thuế.
Theo thông lệ, các quy định về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực thuế
thường có mục tiêu làm rõ những vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, nhận diện đầy đủ và chính xác các loại tranh chấp giữa cơ quan
thuế với người nộp thuế thường phát sinh trong lĩnh vực thuế. Có rất nhiều loại
tranh chấp khác nhau liên quan đến lĩnh vực thuế nhưng phổ biến nhất vẫn là
những tranh chấp về cơ sở tính thuế và số tiền thuế phải nộp. Về bản chất, các
tranh chấp này đều thuộc loại tranh chấp hành chính và có thể phát sinh trong
giai đoạn thu thuế, giai đoạn hoàn thuế hoặc giai đoạn xin miễn giảm thuế.
Thứ hai, xác định các phương thức giải quyết tranh chấp về thuế giữa cơ
quan thuế với người nộp thuế. Theo kinh nghiệm của Cộng hịa Pháp, các tranh
chấp về thuế có thể được giải quyết ở giai đoạn tiền tố tụng (giải quyết bằng thủ
tục hành chính) hoặc ở giai đoạn tố tụng tại Tòa án.
Giải quyết tranh chấp về thuế bằng thủ tục hành chính trước hết và chủ
yếu bao gồm việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại hành chính về thuế. Ngồi
ra, các tranh chấp về thuế cũng có thể được giải quyết bằng một số thủ tục hành
chính đặc biệt như xin ân giảm thuế và giải quyết tranh chấp thông qua tư vấn
trọng tài. Theo quy định của nhiều nước trên thế giới, việc giải quyết tranh chấp
về thuế bằng con đường hành chính được xem là thủ tục tiên quyết, nghĩa là chỉ
khi nào người nộp thuế đã tiến hành khiếu nại hành chính về thuế mà không
được giải quyết hoặc được giải quyết nhưng không thỏa đáng thì họ mới có thể
đứng đơn khởi kiện vụ tranh chấp ra tịa hành chính để u cầu giải quyết.
Giải quyết tranh chấp về thuế bằng thủ tục tố tụng tại tòa án được tiến hành sau
khi người nộp thuế đã thực hiện khiếu nại hành chính tại cơ quan hành chính có

thẩm quyền. Ở Pháp, trong những năm gần đây đã từng diễn ra cuộc tranh luận
13


về việc phân chia thẩm quyền giải quyết tranh chấp về thuế giữa tịa hành chính
và tịa tư pháp. Thậm chí, có ý tưởng cịn cho rằng cần phải thành lập riêng một
tòa án thuế để chuyên giải quyết những tranh chấp về thuế.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc lựa chọn tòa án nào để giải quyết các
tranh chấp về thuế, vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi, khơng chỉ ở Việt Nam mà
cịn ở nhiều nước khác trên thế giới.

II. Vai trò pháp luật thuế - Các giải pháp phát huy vai trò pháp luật thuế
trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Qua những phân tích ở trên, có thể nhận thấy rằng pháp luật không chỉ
quy định nội dung các thứ thuế mà còn xác lập các quyền, nghĩa vụ của các chủ
thể, các biện pháp bảo đảm thực hiện thu, nộp thuế. Chính vì vậy, pháp luật thuế
là nhân tố quyết định ý nghĩa kinh tế - xã hội của thuế và có vai trị quan trọng
đối với nền kinh tế và đời sống xã hội.
Trong xu thế hội nhập quốc tế để phát triển hiện nay, thuế cũng như pháp
luật thuế đang có một vị trí, vai trị vô cùng quan trọng.
Thuế và nhà nước là hai phạm trù lịch sử luôn đi cùng nhau, chi phối và
phụ thuộc nhau. Vì vậy, thuế vừa được hiểu là cơng cụ kinh tế hỗ trợ cho sự tồn
tại của nhà nước và bộ máy nhà nước, mặt kihasc, thuế lại được nhà nước sử
dụng như là loại công cụ để thực hiện những nhiệm vụ mục tiêu nhất định.
14


Mặc dù bất kì nhà nước có chủ quyền nào cũng được quyền đánh thuế
nhưng để nguồn thu từ thuế trở thành hiện thực, nhà nước phải sử dụng pháp
luật như là công cụ hữu hiệu và đặc thù nhất của mình để giải quyết các mục

tiêu định trước. Có thể chỉ ra hệ thống pháp luật thuế có vai trò cơ bản sau đây.
1. Vai trò pháp luật thuế
1.1. Pháp luật thuế tạo cơ sở pháp lý quan trọng và ổn định cho nguồn thu,
đáp ứng yêu cầu chi tiêu của nhà nước
Pháp luật thuế bao gồm các quy phạm pháp luật xác định quyền thu thuế
của nhà nước, nghĩa vụ nộp thuế của các chủ thể đủ điều kiện. Điều này có
nghĩa nguồn thu từ thuế chỉ có thể có được khi các bên thực hiện đúng quy định
pháp luật thuế. Vấn đề đặt ra, pháp luật thuế có vai trị đến đâu và cần phải tồn
tại ở mức độ thế nào để đáp ứng về nguồn thu ngân sách nhà nước.
Trước hết, cần khẳng định nguồn thu từ thuế có vị trí quyết định đến cơ
cấu nguồn thu ngân sách nhà nước. Theo kết quả nghiên cứu về lịch sử tổn tại và
phát triển của thuế qua các thời kì, ở các quốc gia đã cho thấy: thu từ thuế chiếm
phần lớn tổng thu ngân sách nhà nước.
Ở Việt Nam, từ những năm 1990 trở lại đây, nguồn thu từ thuế đáp ứng
phần lớn các khoản chi tiêu ngân sách nhà nước. Các luật thuế được ban hành
đều xác nhận “động viên một phần thu nhập vào ngân sách nhà nước” như một
lý do cơ bản. Khoản thu từ thuế chiếm khoảng 90% tổng thu ngân sách nhà
nước, phải đảm nhiệm cho hàng loạt các yêu cầu chi tiêu cho bộ máy nhà nước,
cho cộng đồng xã hội. Điều này lý giải cơ cấu cân đối ngân sách nhà nước được
pháp luật ghi nhận.
Điều 8 Luật ngân sách nhà nước quy định rõ “Ngân sách nhà nước được
cân đối theo nguyên tắc tổng thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi
thường xuyên và góp phần tích lũy càng cao vào đầu tư phát triển”. Với những
lý do đó, bất kì quốc gia nào cũng cần phải có và mong muốn có được hệ thống
pháp luật thuế đầy đủ với tư cách là căn cứ pháp lý vững chắc để tạo nguồn thu
ổn định cho ngân sách nhà nước.
Mọi thay đổi về cơ cấu hệ thống luật thuế, nội dung từng luật thuế đều
ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả thu ngân sách nhà nước từ thuế. Vì vậy, có thể
khẳng định vai trị của pháp luật thuế trong việc tạo căn cứ pháp lý hình thành
nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước.

1.2. Thông qua việc ban hành và áp dụng pháp luật thuế, Nhà nước tập
trung được một bộ phận của cải xã hội vào ngân sách nhà nước
Nhờ có pháp luật thuế mà Nhà nước ấn định các thứ thuế áp dụng đối với
các pháp nhân và thể nhân trong xã hội. Nộp thuế là nghĩa vụ pháp lý bắt buộc
của các đối tượng nộp thuế. Việc thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ này sẽ
tạo ra nguồn tài chính chủ yếu cho ngân sách nhà nước. Do đó, sự thay đổi các
quy định pháp luật thuế đều ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách nhà nước.
15


Trong xã hội hiện đại, ngân sách nhà nước có ý nghĩa sống cịn đối với
bất kì quốc gia nào. Đối với nước ta, xuất phát từ vai trò của Nhà nước trong sự
nghiệp phát triển kinh tế xã hội nên hoạt động thu ngân sách nhà nước càng trở
nên quan trọng và cần thiết. Chính nhờ hoạt động thu ngân sách mà Nhà nước
có thể lập được quỹ ngân sách nhà nước đảm bảo nhu cầu chi tiêu ngày càng lớn
cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Muốn hội nhập thành công, các quốc gia trước hết phải tạo được cho
mình một vị thế độc lập, tự chủ về chính trị, kinh tế nhất định. Sự dồi dào của
ngân sách nhà nước góp phần tạo nên vị thế đó.
1.3. Pháp luật thuế là cơng cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh
tế và đời sống xã hội
Pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ điều tiết nền kinh tế, thực
hiện đường lối trong một thời kì nhất định của nhà nước.
Nhà nước, bằng pháp luật có khả năng quản kí, điều tiết tốt mọi mặt của
đời sống kinh tế xã hội. Bằng hệ thống pháp luật thuế, nhà nước thể hiện ý chí
của mình đối với đường lối phát triển kinh tế một cách gián tiếp, thơng qua đó
thực hiện cơng bằng xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức, cá nhân có thể tồn tại và vận
động theo nhu cầu và lợi ích của chính họ, điều này có thể tổn thương đến trật tự
xã hội cũng như định hướng của nhà nước trong từng giai đoạn, ở mỗi quốc gia.

Giải quyết vấn đề này, pháp luật thuế có thể làm thay đổi hoặc can thiệp gián
tiếp vào hoạt động, vào quyết định của nhà nước. Thông qua hệ thống pháp luật
thuế, nhà nước có thể thay đổi cơ cấu đầu tư, cơ cấu ngành kinh tế mà khơng cần
can thiệp hành chính.
Để thực hiện cơ cấu đầu tư định trước, pháp luật thuế có những quy định
cụ thể khác nhau giữa nghĩa vụ thuế của đối tượng ưu tiên và đối tượng bị hạn
chế. Chính điều này sẽ làm ảnh hưởng tới cơ hội tìm kiếm thu nhập của đối
tượng đầu tư, qua đó có thể làm thay đổi luồng chu chuyển vốn từ khu vực đầu
tư này sang khu vực đầu tư khác.
Pháp luật thuế các quốc gia, trong đó có Việt Nam đều phản ảnh rõ vai trò
nêu trên. Chẳng hạn, việc quy định đánh thuế hay không đánh thuế, mức thuế
suất khác nhau đối với từng ngành nghề, các mặt hàng hay các loại thu nhập đều
có thể tác động đến các ngành, nghề, qua đó đảm bảo sự phát triển cân đối
ngành nghề trong nền kinh tế.
Hệ thống pháp luật thuế cũng có khả năng định hướng chi tiêu xã hội,
điều chỉnh thu nhập trong những trường hợp cần thiết. Việc tiêu dùng xã hội, ở
mỗi quốc gia có những định hướng khác nhau tùy theo điều kiện thực tế. Pháp
luật thuế Việt Nam ghi nhận rõ sự hạn chế chi tiêu của các đối tượng đối với
hàng hóa, dịch vụ chưa thực sự phù hợp với giai đoạn hiện tại, trong khi đó lại
khuyến khích, tạo cơ hội tối đa cho mọi đối tượng có thể tiếp cận đối với những
hàng hóa, dịch vụ thiết yếu của đời sống xã hội.
16


Điều 26, Hiến Pháp 1992 ghi nhận: “Nhà nước thống nhất quản lý nền
kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách”. Là một bộ phận của hệ
thống pháp luật, pháp luật thuế đóng vai trị là cơng cụ điều tiết vĩ mô của Nhà
nước. Trong bối cảnh hội nhập, pháp luật thuế đóng vai trị là cơng cụ điều tiết
vĩ mô của Nhà nước.
Trong bối cảnh hội nhập, pháp luật thuế góp phần phát huy cao độ các

nguồn nội lực, thúc đẩy phát triển nhanh sức sản xuất, khuyến khích xuất khẩu,
khuyến khích đầu tư, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỉ
trọng công nghiệp và dịch vụ, đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao, bền
vững, góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân…
1.4. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, thông qua pháp luật thuế
Nhà nước tiến hành bảo hộ đối với nền sản xuất trong nước còn yếu kém về
nhiều mặt nhằm tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế
Đồng thời, pháp luật thuế hiện nay còn được coi là một trong những vũ
khí cạnh tranh sắc bén của mỗi nước trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
Hầu hết ở các nước đặc biệt là các nước trong khu vực Đông Nam Á đều
đang ra sức sửa đổi, bổ sung, hoàn hiện pháp luật thuế của mình cho hấp dẫn
hơn đối với các nhà đầu tư.
1.5. Pháp luật thuế giúp Nhà nước thực hiện các chính sách xã hội của mình
Ở Việt Nam, bên cạnh những vai trò chung đối với nền kinh tế xã hội,
pháp luật thuế còn được Nhà nước sử dụng như một cơng cụ thể hiện chính sách
xã hội.
Nhà nước điều tiết thu nhập, hạn chế khoảng cách giàu nghèo, góp phần
thực hiện cơng bằng, bình đẳng xã hội. Bằng việc quy định của pháp luật thuế,
Nhà nước phát huy trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp của mỗi cá thể đối với cộng
đồng xã hội…
1.6. Từ phương diện quản lý nhà nước, pháp luật thuế được xem như một
công cụ hữu hiệu trong việc quản lý các hoạt động thu, nộp thuế nhằm khai
thác vai trị tích cực và hạn chế những tiêu cực của hoạt động này
Quan hệ thuế, về bản chất là một quan hệ phân phối của cải dưới hình
thức giá trị nên tự thân nó là mảnh đất màu mỡ làm nảy sinh các hiện tượng xã
hội tiêu cực làm phương hại đến lợi ích chung của cộng đồng.
Bởi vậy, bằng pháp luật, Nhà nước đã đưa ra các “giới hạn hành lang”,
thiết lập các “hàng rào quản lý” để các chủ thể có được sự tự do trong khn
khổ. Vượt ra ngồi khn khổ đó, đương nhiên họ sẽ phải chịu các chế tài

nghiêm khắc.
1.7. Nhà nước có thể sử dụng cơng cụ pháp luật thuế để kiểm tra gián tiếp
hoạt động sản xuất kinh doanh
17


Để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ nộp thuế, các cơ quan quản lý thuế
cùng với đối tượng nộp thuế được phải quan tâm và tuân thủ những quy định
gắn với chế độ chứng từ hóa đơn, nội dung kinh doanh, quy mơ kinh doanh,
hình thức kinh doanh, cơ cấu tổ chức…
Điều đó cũng có nghĩa bằng việc quy định những vấn đề liên quan đến
nghĩa vụ thuế, nhà nước gián tiếp quản lý nền kinh tế, trên cơ sở đó có hệ thống
pháp luật được ban hành, sửa đổi, bổ sung phù hợp với định hướng trong từng
giai đoạn ở tầm vĩ mơ cũng như tìm biện pháp hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng
nộp thuế ở tầm vĩ mô.
Mặt khác, cũng thông qua việc kiểm tra việc tuân thủ pháp luật thuế, các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng có khả năng phát hiện và xử lí kịp thời
những hành vi vi phạm pháp luật thuế nói riêng và vi phạm trong q trình hoạt
động gắn với tư cách của đối tượng nộp thuế nói chung.
2. Đánh giá chung pháp luật thuế
Thứ nhất, trong từng sắc thuế hiện hành vẫn cịn có các quy định khơng
cơng bằng và chưa bình đẳng giữa các đối tượng nộp thuế khác nhau, thuế nhìn
chung vẫn thiên về thực hiện chức năng bảo hộ (thiếu khoa học và chọn lọc) và
thu ngân sách nhà nước là chủ yếu mà chưa trú trọng thỏa đáng đối với chức
năng điều tiết kinh tế và hướng dẫn tiêu dùng của thuế.
Thứ hai, dưới giác độ hội nhập, có thể nhận thấy pháp luật thuế Việt Nam
hiện hành còn nhiều nội dung chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và chưa đảm
bảo tính tương thích với hệ thống thuế của các nước trong khu vực.
Thứ ba, pháp luật thuế của nước ta cịn q phức tạp, chồng chéo, thiếu
tính hệ thống, chưa thể hiện sự đơn giản, rõ ràng và minh bạch, đồng thời, thiếu

tính ổn định cần thiết do thường xuyên phải thay đổi để đáp ứng yêu cầu thực tế.
Thứ tư, hệ thống thuế đang phải phục vụ quá nhiều mục tiêu: kinh tế,
chính trị, văn hóa, giáo dục, xã hội, do đó mất đi tính trung lập cần thiết - một
trong những yếu tố dẫn tới sự hiệu quả trong phân bổ nguồn lực.
Thứ năm, công tác cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế có những
thành cơng bước đầu, song để đạt được mục tiêu đề ra thì còn rất nhiều việc phải
làm trong thời gian tới, cũng như cơng cuộc cải cách hành chính nói chung đang
từng bước được triển khai thực hiện ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Thứ sáu, tính thực thi, hiệu quả của pháp luật thuế nhìn chung chưa cao,
một số quy định gián tiếp làm phát sinh các hiện tượng tiêu cực xã hội (như các
khe hở pháp lý dẫn đến hiện tượng luồn lách luật)…
Khó khăn lớn đầu tiên đối với hệ thống thuế của Việt Nam là phải xây dựng lộ
trình cắt giảm thuế phù hợp với các nguyên tắc của WTO. Phải sử dụng thuế
như một công cụ kích thích và điều tiết sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tăng cường
sức cạnh tranh của các DN, góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài và thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế.

18


Hệ thống chính sách thuế của Việt Nam mới được hình thành vào cuối
những năm 80 cùng với việc chuyển đổi cơ chế của nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế.
Mặc dù đã từng bước được cải cách và hoàn thiện vào những năm 19902000, nhưng hiện nay chính sách thuế vẫn cịn nhiều vướng mắc cần tiếp tục cải
cách, sửa đổi cho phù hợp với các nguyên tắc của WTO.
Một là, hệ thống chính sách thuế hiện nay vẫn cịn phức tạp và thiếu tính
ổn định, làm cho chi phí quản lý thu thuế lớn, ảnh hưởng tới hiệu quả thu thuế,
tạo điều kiện cho việc trốn thuế và bóp méo hệ thống thuế. Đồng thời, nó làm
mất định hướng của nhà đầu tư, bóp méo sự lựa chọn của người sản xuất và vi
phạm một nguyên tắc chung của thơng lệ quốc tế là tính rõ ràng và có thể dự

đốn trước của hệ thống chính sách thuế.
Việc thường xuyên thay đổi trong chính sách thuế, quy định không rõ
ràng về phạm vi của các sắc thuế và trong một sắc thuế có quá nhiều thuế suất,
nhiều chế độ ưu đãi, miễn giảm khác nhau đã cản trở quá trình hội nhập quốc tế
trên các phương diện: khuyến khích xuất khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh
của DN và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Hai là, việc quy định các sắc thuế thiếu tính rõ ràng, còn lẫn lộn trong
chức năng của từng sắc thuế, thể hiện ở phạm vi của đối tượng chịu thuế, các
mức thuế suất quá cao vì gặp nhiều loại thuế trong một sắc thuế. Ví dụ, thuế tiêu
thụ đặc biệt, ngoài chức năng điều tiết tiêu dùng với một số mặt hàng đặc biệt
còn đảm đương cả chức năng của thuế VAT, vì đối tượng chịu thuế VAT khơng
áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Vì vậy,
thuế suất cao của thuế tiêu thụ đặc biệt đã gồm thuế VAT.
Thuế tiêu thụ đặc biệt còn được sử dụng cho chức năng bảo hộ sản xuất
trong nước, nên có sự phân biệt đối xử giữa một số mặt hàng nhập khẩu và sản
xuất trong nước (như ô tô, thuốc lá…) dẫn đến vi phạm nguyên tắc của WTO.
Mặt khác, có một số mặt hàng tiêu dùng có tính chất xa xỉ lại khơng thuộc diện
điều chỉnh của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, nên trong biểu thuế nhập khẩu đang
được áp dụng mức thuế suất cao, tạo sự hiểu lầm của dư luận quốc tế về thuế
nhập khẩu không phù hợp thông lệ quốc tế.
Ba là, hệ thống chính sách thuế được xây dựng để phục vụ nhiều mục tiêu
trong từng sắc thuế, làm mất đi tính trung lập – một yếu tố dẫn tới hiệu quả
trong phân bổ nguồn lực. Có nhiều mục tiêu trong chính sách thuế khơng thống
nhất với nhau, do đó nếu đạt được mục tiêu này thì lại gây thiệt hại tới mục tiêu
khác. Một số mặt hàng nhập khẩu như: phân bón, sắt xây dựng, kính xây dựng,
đường… có thuế suất thuế nhập khẩu thấp vì là đầu vào của một số ngành sản
xuất, nhưng biện pháp quản lý lại là bảo hộ phi thuế quan (hạn chế số lượng
nhập khẩu), rõ ràng là vi phạm quy định của WTO. Một số mặt hàng thuế nhập
khẩu quá cao sẽ kính thích sản xuất hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu; đồng
thời cũng sẽ chiếm mất nguồn vốn, lao động, công nghệ của những hoạt động

sản xuất hàng hóa khác có hiệu quả cao hơn.
19


Việc kết hợp các mục tiêu của chính sách xã hội trong các sắc thuế xét về
khía cạnh xã hội là tốt, tuy nhiên nó thực sự làm chính sách thuế trở nên phức
tạp, tạo ra sự bất bình đẳng trong kinh doanh, ảnh hưởng đến sự minh bạch của
hệ thống thuế.
Bốn là, còn thiếu sự kết hợp hài hòa giữa các sắc thuế trong hệ thống
chính sách thuế, giữa mục tiêu số thu cho ngân sách và mục tiêu kích thích sản
xuất phát triển và điều tiết vĩ mơ nền kinh tế thông qua từng sắc thuế. Trong
điều kiện mở cửa hội nhập và tích cực chuẩn bị để tham gia WTO, hệ thống
chính sách thuế phải được sửa đổi cho phù hợp với các nguyên tắc của tổ chức
này, đồng thời phải đảm bảo được nguồn thu cho ngân sách nhà nước, tăng
cường sức cạnh tranh cho các DN trong nước, đồng thời phải có sự bảo hộ hợp
lý cho một số ngành then chốt trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước.
Những tồn tại nên trên dù muốn hay không cũng cần được xem như là
một lời cảnh báo cần thiết và hữu ích cho việc hoàn thiện pháp luật thuế ở Việt
Nam trong thời gian tới nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập, đưa đất nước tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc trên con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
3. Giải pháp
Thứ nhất, hồn thiện pháp luật thuế trong tiến trình hội nhập cần đảm bảo
nguồn thu ngân sách Nhà nước không bị biến động lớn.
Như đã phân tích, trong những năm qua, nguồn thu ngân sách nhà nước
thuế xuất nhập khẩu chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách Nhà nước
(khoảng 25% tổng thu ngân sách Nhà nước). Vấn đề đặt ra là, khi chúng thực
hiện các cam kết giảm thuế nhập khẩu thì trước mắt nguồn thu của ngân sách
Nhà nước từ thuế nhập khẩu sẽ giảm đi đáng kể kéo theo ảnh hưởng dây chuyền
tới cân đối ngân sách và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy yêu cầu

đảm bảo nguồn thu ngân sách khơng bị biến động lớn khi tiến hành hồn thiện
pháp luật thuế hiện hành là xác đáng và cần thiết.
Để đảm bảo nguồn thu ổn định cho ngân sách Nhà nước, chúng ta cần
giảm từ từ tỉ trọng thuế nhập khẩu theo tỷ lệ tương ứng với việc tăng dần nguồn
thu từ thuế nội địa, từng bước cơ cấu lại các sắc thuế gián thu, tiến tới tăng dần
tỷ trọng thuế trực thu, giảm tỷ trọng thuế gián thu trong cơ cấu thu ngân sách
Nhà nước.
Điều này cũng có nghĩa là việc sửa đổi, hoàn thiện pháp luật thuế cần
được tiến hành đồng bộ và có sự cân nhắc thấu đáo với tầm nhìn rộng. Vấn đề
giảm thuế nhập khẩu từ từ là có cơ sở thực hiện và phù hợp với lộ trình cắt giảm
thuế quan theo các Hiệp định đã kí kết.
Thứ hai, hồn thiện pháp luật thuế trong tiến trình hội nhập cần đảm bảo
sự bảo hộ đúng đắn đúng mức nền sản xuất trong nước.
Pháp luật về thuế xuất, nhập khẩu của Việt Nam trong những năm qua
được xây dựng theo nguyên tắc bảo hộ nền sản xuất trong nước, một nguyên tắc
được thừa nhận rộng rãi trong luật pháp quốc tế. Song, điều đáng nói ở đây là
20



×