Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

(Skkn 2023) một vài biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.55 KB, 21 trang )

1
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Mơn Tiếng Việt ở trường phổ thơng có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt
động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ cho 4 dạng hoạt
động tương ứng với chúng là 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Đọc là một phân
mơn của chương trình Tiếng Việt bậc Tiểu học. Đây là một phân mơn có vị trí
đặc biệt trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho
học sinh kĩ năng chuyển chữ viết thành ngôn ngữ, một kĩ năng quan trọng hàng
đầu của học sinh ở bậc Tiểu học.
Đối với học sinh, kĩ năng đọc là yêu cầu cơ bản đầu tiên. Nếu không biết
đọc các em sẽ không tham gia vào các hoạt động học các môn khác đạt kết quả
được. Vì vậy, dạy đọc có ý nghĩa rất quan trọng trong chương trình dạy học Tiểu
học.
Yêu cầu kĩ năng đọc đặt ra cho học sinh lớp 4 cần đạt tới đó là: Đọc đúng
tốc độ; đọc lưu lốt; đọc thầm nhanh hiểu nội dung bài; bước đầu biết đọc diễn
cảm ở bài văn hay bài thơ nói chung, có cảm xúc, biết nhấn giọng ở những từ
gợi cảm, gợi tả, biết đọc các lời tác giả, lời nhân vật.
Có ba yêu cầu của việc luyện đọc thành tiếng trong giờ dạy Tập đọc (đọc
đúng, đọc nhanh, đọc diễn cảm) đọc diễn cảm thể hiện rõ nhất kĩ năng đọc của
học sinh. Khi đọc diễn cảm, các kĩ năng đọc đúng, đọc nhanh đã đồng thời được
thể hiện. Do đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 4 mang tính cụ thể, do vốn
ngôn ngữ và vốn sống của các em cịn hạn chế nên chúng ta khơng tổ chức dạy
học văn với tư cách là một môn học độc lập. Chính vì vậy đọc diễn cảm là
phương tiện dạy học đồng thời là biện pháp dạy học nhằm đạt được mục tiêu
dạy tích hợp văn qua mơn Tiếng Việt.
Trong khi đó ở trường Tiểu học, việc dạy đọc bên cạnh những thành cơng,
cịn nhiều hạn chế như học sinh chưa đọc được như mong muốn. Kết quả đọc
của các em chưa đáp ứng yêu cầu của việc hình thành kĩ năng đọc đặc biệt là kĩ
năng đọc diễn cảm. Vì chưa thể hiện diễn cảm trong bài đọc nên trong quá trình
giao tiếp của các em cũng như chưa thể hiện được sự giao tiếp lịch sự như nói




2
lời chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, lời mời, lời nhờ, yêu cầu, đề nghị… Mỗi học sinh
đã có được kĩ năng đọc diễn cảm thì chắc chắn việc cảm thụ văn học sẽ dễ dàng
hơn và sâu sắc hơn. Nhiều giáo viên cũng còn lúng túng khi dạy tập đọc. Cần
đọc bài với giọng như thế nào, làm thế nào để sửa chữa cách đọc cho học sinh
diễn cảm hơn… đó là những trăn trở của mỗi giáo viên trong những giờ tập đọc.
Xuất phát từ những thực trạng nói trên, tơi mạnh dạn chọn sáng kiến kinh
nghiệm: “Một vài biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm theo định hướng
phát triển năng lực cho học sinh lớp 4”, với hi vọng được đóng góp một chút
kinh nghiệm của bản thân.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích thực trạng việc đọc diễn cảm của học sinh lớp 4, đề
xuất một vài biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4 theo hướng
phát triển năng lực trong thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Học sinh lớp 4A9 trường Tiểu học Vĩnh Quỳnh.
Một vài biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm theo định hướng phát triển
năng lực cho học sinh lớp 4.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4 theo định hướng phát triển
năng lực.
5. Các phương pháp nghiên cứu
a. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
- Phân tích và tổng hợp lý thuyết
- Mơ hình hố; phương pháp giả thuyết – suy diễn
b. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Điều tra giáo dục
- Quan sát – đàm thoại

- Phương pháp nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm giáo dục
6. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 9 năm 2021 đến tháng 3 năm 2022.


3
PHẦN II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Dạy đọc có ý nghĩa rất to lớn ở Tiểu học, đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản
đầu tiên đối với những người đi học. Đọc giúp các em chiếm lĩnh được một
ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập, đọc là công cụ để học tập tất cả các
môn học, đọc tạo ra hứng thú và động cơ học tập, đọc tạo điều kiện để học sinh
có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời. Chính vì vậy, việc rèn cho học
sinh biết đọc diễn cảm các văn bản là điều rất quan trọng ở mỗi giờ dạy tập đọc
cho học sinh lớp 4. Học sinh biết cách đọc diễn cảm các văn bản sẽ giúp các em
sẽ hiểu sâu sắc hơn về nội dung bài đọc tức là đã góp phần giúp các em biết cảm
thụ văn học được tốt hơn. Hơn thế nữa việc dạy học sinh biết đọc diễn cảm giúp
các em biết cách giao tiếp lịch sự hơn khi nói lời cảm ơn, lời xin lỗi, lời chào
hỏi, lời nhờ, lời yêu cầu…
Với nhiệm vụ là một phân môn dành khá nhiều thời gian để thực hành.
Nhiệm vụ quan trọng nhất của tiết tập đọc là hình thành năng lực đọc cho học
sinh. Năng lực đọc được tạo nên bốn kĩ năng cũng là bốn yêu cầu về chất lượng
của đọc: đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu và đọc diễn cảm.
Ở mỗi dạng văn bản khác nhau cách thể hiện giọng đọc diễn cảm khác
nhau. Tuy nhiên dù ở dạng văn bản nào thì yêu cầu về kĩ năng đọc diễn cảm
phải đảm bảo được các yêu cầu sau:
- Đọc ngắt, nghỉ đúng chỗ
- Đọc đúng kiểu câu
- Đọc đúng tốc độ
- Đọc đúng cường độ

- Đọc đúng cao độ
Sau khi học sinh đã được luyện đọc đúng, đảm bảo tốc độ, đọc lưu lốt và
được tìm hiểu nội dung bài học thì mới được luyện đọc diễn cảm. Đó là một
điều thuận lợi để giáo viên dạy học sinh luyện đọc diễn cảm. Bởi lẽ sau khi học
sinh đã hiểu được nội dung văn bản thì việc xác định giọng đọc sẽ dễ dàng hơn.
Đọc diễn cảm trước hết phải xác định nội dung, ý nghĩa của bài đọc, sắc thái


4
tình cảm, giọng điệu chung của bài. Đây là nhiệm vụ của quá trình dạy đọc hiểu.
Kết thúc quá trình đọc hiểu học sinh phải xác định được cảm xúc của bài: vui,
buồn, tự hào, tha thiết, trang nghiêm, sâu lắng, ngợi ca… ngay trong một bài
cũng có thể hịa trộn nhiều cảm xúc.
Đọc diễn cảm không phải là đọc sao cho “điệu”, thiếu tự nhiên, dựa vào ý
thích chủ quan của người đọc. Đọc diễn cảm là sử dụng ngữ điệu để phơ diễn
cảm xúc của bài học. Vì vậy phải hòa nhập với câu chuyện, bài văn, bài thơ có
cảm xúc mới tìm thấy ngữ điệu thích hợp. Chính tác phẩm quy định ngữ điệu
cho chúng ta chứ không phải chúng ta tự đặt ra ngữ điệu.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Thực trạng vấn đề
2.1.1. Ưu điểm
- Nhà trường luôn quan tâm tạo mọi điều kiện tốt nhất về cơ sở vật chất và
chuyên môn cho việc dạy và học.
- Đa số các em có ý thức học tập tốt, ngoan ngoãn, biết vâng lời.
- Phụ huynh đa phần rất quan tâm đến việc học của con em mình.
- Bản thân tơi là một giáo viên trẻ ln cố gắng học tập kinh nghiệm
giảng dạy từ đồng nghiệp, luôn hăng say trong công việc. Khả năng tiếp thu
cũng như tiếp cận các chương trình dạy học có ứng dụng công nghệ khá nhanh.
2.1.2. Tồn tại
a) Giáo viên

Hiện nay, đa số giáo viên nhận thức đúng về vai trò của việc đọc diễn
cảm, nắm được yêu cầu, quy trình hướng dẫn học sinh luyện đọc diễn cảm. Song
khơng ít giáo viên chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc đọc diễn cảm,
vì vậy khi dạy giờ tập đọc giáo viên chưa chú ý đến đọc diễn cảm mà chỉ coi
trọng bước luyện đọc, bước tìm hiểu bài, cịn phần hướng dẫn đọc diễn cảm còn
tiến hành một cách hình thức, qua loa.
Khơng ít giáo viên lại đưa ra yêu cầu cao hơn đối với học sinh, yêu cầu
học sinh đọc diễn cảm, tổ chức thi đọc diễn cảm toàn bài thơ, bài văn, trong khi
đối với lớp 4 mới chỉ yêu cầu ở mức độ ban đầu (đọc diễn cảm được một đoạn).


5
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy và
học theo hướng phát triển năng lực cho học sinh chưa đạt hiệu quả, vẫn còn một
số giáo viên chưa mạnh dạn áp dụng việc đổi mới phương pháp trong q trình
giảng dạy. Giáo viên cịn nặng về thuyết trình, giảng dạy theo lối dập khn,
máy móc – thầy đọc mẫu ra sao, trị đọc lại như vậy. Trong khí đó giọng đọc của
giáo viên lại chưa thật hấp dẫn, thậm chí giọng đọc cịn chưa thật chuẩn xác,
mẫu mực,…
Giáo viên chưa tạo lập được cơ sở vững chắc cho thành công của tiết dạy:
chưa đầu tư thích đáng cho việc thiết kế bài giảng, chưa có sự cơng phu rèn
giọng đọc của bản thân, chưa “kế thừa” hiệu quả của hai bước đệm cho diễn
cảm tốt: luyện đọc và tìm hiểu bài.
b) Học sinh
Năm học 2021 – 2022, tôi được phân công phụ trách lớp 4A9 với 53 học
sinh. Tôi đã tiến hành khảo sát 53 học sinh lớp tôi về khả năng đọc diễn cảm và
có được kết quả như bảng sau:
Bảng số liệu khảo sát đọc diễn cảm của học sinh lớp 4A9
Lớp


Số HS

Ngắt giọng

Đọc sai kiểu

sai

câu

Đọc chưa

diễn cảm
SL
TL
SL
TL
SL
TL
4A9
53
20
37,7%
31
58,5%
32
60,4%
Qua khảo sát, tôi thấy học sinh đã biết đọc thành tiếng bài văn, bài thơ, đã

để ý và đọc đúng các phụ âm khó. Nhưng đọc hiểu nắm nội dung bài cịn rất ít

do vậy chưa nêu được ý chính của bài mà phải nhờ sự gợi ý của giáo viên. Khi
đọc ở các dấu phẩy, dấu chấm cịn ngắt nghỉ chưa hợp lí còn tuỳ hứng, chưa đọc
đúng giọng câu hỏi, câu cảm, câu khiến. Thực trạng học sinh đọc diễn cảm một
văn bản là rất ít. Hầu như các em mới chỉ đạt đến yêu cầu: đọc đúng tốc độ, phát
âm tương đối chính xác, hiểu được nội dung bài cịn u cầu về kĩ năng đọc diễn
cảm là rất thấp. Một số học sinh cịn nặng về học vẹt, cơ đọc sao trò cố đọc như
vậy, chưa biết đọc thế nào cho hay, khả năng cảm thụ văn học của học sinh còn
hạn chế.


6
Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng đọc diễn cảm của học sinh
chưa đạt chất lượng cao? Qua q trình giảng dạy lớp 4, tơi nhận thấy học sinh
đọc diễn cảm chưa tốt là do nhiều nguyên nhân.
2.2. Nguyên nhân của thực trạng
2.2.1. Đọc không đúng chỗ ngắt giọng
Đọc sai chỗ ngắt giọng phản ánh một cách hiểu sai nghĩa hoặc ít ra là một
cách đọc khơng để ý đến nghĩa. Vì vậy đọc ngắt giọng đúng là mục đích của dạy
đọc thành tiếng, vừa là phương tiện giúp học sinh chiếm lĩnh nội dung bài.
Lỗi học sinh mắc phải khi đọc những bài văn xuôi, thường ngắt giọng sai
ở những câu văn dài có cấu trúc ngữ pháp phức tạp.
Ví dụ: Bài: Đơi giày ba ta màu xanh
Tơi tưởng tượng nếu mang nó/ vào chắc bước đi sẽ nhẹ và nhanh hơn, tôi
sẽ chạy trên những con đường đất mịn trong làng trước/ cái nhìn thèm muốn của
các bạn tơi.
Ví dụ: Bài: Truyện cổ nước mình
Với thơ lục bát các em thường ngắt nhịp 2/2/2 (6 tiếng), 4/4 (8 tiếng)
Ví dụ:

Vàng cơn/ nắng trắng/ cơn mưa

Con sơng chảy có/ rặng dừa nghiêng soi.

Những trường hợp trên đã bị xem là ngắt giọng sai vì đã tách một từ ra
làm hai, tách từ chỉ loại với danh từ, tách danh từ ra khỏi định ngữ đi kèm, ngắt
giọng sau một hư từ.
2.2.2. Lỗi về đọc không đúng kiểu câu
Học sinh chỉ biết đọc đều cho tất cả các loại câu: kể, khiến, cảm, hỏi. Học
sinh không biết cách thể hiện khi nào thì thể hiện ngữ điệu yếu, ngữ điệu mạnh,
ngữ điệu xuống, ngữ điệu lên.
* Ngữ điệu lên xuất hiện ở các câu hỏi.
Ví dụ: - Ai xui con thế? (Thưa chuyện với mẹ)
* Ngữ điệu yếu, nghỉ hơi dài sau chỗ có dấu chấm lửng.
Ví dụ: Đôi môi tái nhợt, áo quần tả tơi thảm hại… (Người ăn xin)
* Ngữ điệu mạnh xuất hiện ở câu cảm và câu khiến.


7
Ví dụ: Ơi chao! Chú chuồn chuồn nước mới đẹp làm sao?
(Con chuồn chuồn nước)
2.2.3. Lỗi về tốc độ đọc
Ở những văn bản đòi hỏi phải thể hiện tốc độ đọc nhanh, khi yêu cầu đặt
ra như thế học sinh thường hiểu là với văn bản này phải đọc liến thoắng đọc
nhanh đến nỗi người nghe không thể nào theo dõi được hoặc đối với những văn
bản yêu cầu đặt ra là đọc chậm rãi thì học sinh lại đọc quá chậm: đọc từng tiếng
một rời rạc như có cảm giác học sinh vừa đọc vừa dừng lại để đánh vần.
2.2.4. Lỗi về cường độ
Khi nói đến sử dụng cường độ trong đọc diễn cảm cần phải nói đến
chuyện dạy đọc to cho học sinh. Đọc phải đủ lớn để các bạn ngồi ở vị trí xa
nhất cũng có thể nghe được. Nhưng thực tế trong một lớp học vẫn còn tồn tại
một số học sinh đọc quá nhỏ thậm chí giọng đọc phát ra khơng đủ để cho bạn

ngồi cùng bàn có thể theo dõi được.
2.2.5. Lỗi về cao độ
Thể hiện cao độ khi đọc là muốn nói đến chỗ lên giọng, xuống giọng. Học
sinh ở lớp khi đọc bài còn tùy tiện lên giọng xuống giọng sau mỗi câu mà khơng
biết chỗ đó có dụng ý nghệ thuật gì.
3. Các biện pháp đã tiến hành
3.1. Biện pháp 1: Giáo viên cần chuẩn bị kĩ bài dạy và phân loại đối
tượng học sinh
3.1.1. Mục tiêu
Giúp giáo viên xác định được mục tiêu, thể loại của văn bản để tìm ra
giọng đọc phù hợp. Giáo viên có sự chuẩn bị kĩ bài dạy, có những phương pháp,
hình thức dạy đối với từng văn bản.
Giúp giáo viên phân loại được học sinh đọc tốt và đọc kém trong lớp, từ
đó có những biện pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh.
3.1.2. Cách tiến hành
Trước hết muốn rèn cho học sinh đọc thành tiếng đúng thì giáo viên phải
đọc hay. Để đạt được yêu cầu trên thì giáo viên phải rèn luyện bản thân mình


8
đọc đúng, đọc hay. Trước khi soạn bài, giáo viên cần xác định được mục tiêu
của nội dung bài dạy, xác định rõ thể loại văn bản để tìm ra giọng đọc phù hợp
với văn bản đó. Giáo viên luyện đọc mẫu ở nhà, có ý thức tự điều chỉnh mình
đọc đúng hơn, hay hơn, nếu có thể ta sử dụng máy ghi âm ghi lại giọng đọc của
mình điều này sẽ giúp mình phát hiện ra các nhược điểm để tự mình điều chỉnh,
sửa chữa. Giáo viên nên dành thời gian cho việc soạn bài và thiết kế các hoạt
động cụ thể của thầy và trò ở từng đoạn của bài. Giáo viên phải chú ý đến khâu
rèn đọc cho học sinh, chú ý đến đối tượng học sinh đọc chưa đúng. Nhất là ở
những phần luyện đọc, giáo viên nên sửa chữa, rèn dứt điểm cho học sinh phát
âm ở những lỗi mà em đó hay phát âm sai hoặc đọc chưa đúng.

Giáo viên cần tham khảo nội dung sách hướng dẫn giảng dạy để lựa chọn
nội dung, phương pháp, hình thức học tập phù hợp với đối tượng của lớp mình.
Sưu tầm đồ dùng dạy học, tranh ảnh minh hoạ phục vụ cho bài dạy để học sinh
hứng thú học tập, tiếp thu bài sâu hơn. Giáo viên cần chú ý đến yêu cầu phân
môn Tập đọc: đó là rèn đọc.
Qua tìm hiểu điều tra để nắm chắc đối tượng học sinh, đặc biệt là về kĩ
năng đọc, tôi đã phân loại học sinh theo ba đối tượng:
- Đối tượng 1: Học sinh biết đọc diễn cảm
- Đối tượng 2: Học sinh mới chỉ biết đọc to, rõ, lưu loát
- Đối tượng 3: Học sinh đọc nhỏ, ấp úng
Dựa vào đó, tơi đã sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh, những em yếu ngồi
cạnh những em đọc khá, đọc tốt để tạo thành đôi bạn cùng tiến. Các em sẽ giúp
nhau đọc tốt hơn trong quá trình luyện đọc theo nhóm, theo cặp.
Khi thiết kế bài dạy, tôi luôn chú ý đến việc phát triển năng lực học sinh.
Tôi luôn tự đặt ra những câu hỏi: Học sinh có thể đọc sai ở những từ nào? Câu
văn (câu thơ) nào học sinh khó ngắt hơi đúng? Nên chọn đoạn nào để hướng dẫn
học sinh đọc diễn cảm? Cách tổ chức các hoạt động đó như thế nào? … Tơi ln
cố gắng trình bày ngắn gọn song thể hiện rõ từng bước và có sự phân loại kiến
thức cho phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp.
Tơi tiến hành theo quy trình như sau:


9
1. Mở đầu:
- Đặt câu hỏi, câu đó vui, kể chuyện, nêu một tình huống, tổ chức trị chơi,
kiểm tra bài cũ hoặc kiến thức liên quan đến tiết học, ....
- GV nhận xét và kết nối để giới thiệu bài.
2. Hình thành kiến thức mới
a) Hướng dẫn HS luyện đọc
- GV (HS khá, giỏi) đọc mẫu.

- Cả lớp đọc thầm và chia đoạn.
- HS đọc nối tiếp đoạn lần 1:
+ HS phát hiện và nêu từ khó đọc. HS luyện đọc từ khó (cá nhân, nhóm).
- HS đọc nối tiếp đoạn lần 2:
+ Ở mỗi đoạn HS đọc chú giải, GV kết hợp giải thích thêm.
+ GV cho HS nêu câu dài, câu khó đọc.
+ HS luyện đọc câu (cá nhân, nhóm).
+ Nêu cách đọc mỗi đoạn, từ cần nhấn giọng.
- HS luyện đọc nhóm, gọi 1-2 nhóm đọc.
- 1 HS đọc tồn bài.
b) Hướng dẫn HS tìm hiểu bài
- Lựa chọn hình thức dạy học thích hợp để tổ chức cho HS trả lời các câu
hỏi trong SGK, câu hỏi mở rộng và tìm các ý của bài, nội dung bài.
- GV nhận xét, kết luận.
- HS nhắc lại nội dung bài.
- Yêu cầu HS tìm giọng đọc toàn bài.
- GV hướng dẫn, điều chỉnh cách đọc.
- 1 HS đọc toàn bài.
3. Luyện tập, thực hành
- Hướng dẫn đọc diễn cảm 1 đoạn.
+ 1-2 HS đọc mẫu.
+ Cả lớp đọc thầm để tìm cách đọc diễn cảm.
+ GV đọc mẫu (nếu cần).


10
+ HS luyện đọc diễn cảm theo cặp. GV giúp đỡ, sửa chữa.
+ HS thi đọc diễn cảm.
Lưu ý:
- Việc hướng dẫn đọc diễn cảm hay luyện đọc lại cần được vận dụng một

cách linh hoạt. Tùy trường hợp, GV có thể áp dụng các biện pháp khác nhau như
đọc truyện theo vai, thi đọc tốt một đoạn văn (khổ thơ) hoặc cả bài, tổ chức trị
chơi học tập có tác dụng luyện đọc,...
- Mỗi đoạn văn (khổ thơ) có thể được đọc với nhiều cách khác nhau. GV
chỉ sửa chữa những cách đọc không phù hợp với nội dung của đoạn, tránh áp
đặt, hạn chế sự cảm thụ và sáng tạo của HS.
* Học thuộc lòng (Đối với những bài có u cầu học thuộc lịng)
+ HS tự nhẩm học thuộc lòng các khổ thơ, bài thơ hay đoạn văn theo chỉ
định trong SGK. Đối với những lớp yếu, GV có thể áp dụng một số biện pháp
giúp HS học thuộc lòng.
+ GV tổ chức cho HS thi học thuộc lòng các khổ thơ, bài thơ hay đoạn
văn vừa học thuộc.
4. Vận dụng
* Hoạt động ứng dụng:
- Tổ chức trò chơi, củng cố bài học: Hướng dẫn HS chốt lại nội dung
chính hoặc ý nghĩa của bài tập đọc.
- Đọc những câu chuyện cùng chủ đề.
* Hoạt động sáng tạo:
- Đọc lại câu chuyện theo vai một nhân vật trong câu chuyện.
- Vẽ tranh minh hoạ câu chuyện.
- Giao nhiệm vụ cụ thể về nhà đối với từng đối tượng hoặc từng nhóm đối
tượng HS.
(Có giáo án minh hoạ bài Người ăn xin – Phụ lục)
3.1.3. Kết quả


11
Nhờ chuẩn bị kĩ bài học, giáo viên chủ động trong các hình thức dạy học
đối với từng bài dạy, có giọng đọc phù hợp với yêu cầu của bài. Từ đó học sinh
dễ dàng xác định được giọng đọc của bài, đọc theo mẫu tốt hơn.

3.2. Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài trước tiết học và
trong giờ học
3.2.1. Mục tiêu
Học sinh chủ động đọc bài, hiểu sơ qua về nội dung văn bản, nắm được
các từ khó đọc, giúp học sinh tiếp thu bài hiệu quả hơn.
3.2.2. Cách tiến hành
Ở nhà, tôi yêu cầu học sinh đọc kĩ bài nhiều lần cho trôi chảy và chuẩn bị
trước phần câu hỏi, tìm hiểu nội dung bài trong sách giáo khoa, đề ra các yêu
cầu phù hợp với từng đối tượng học sinh. Có đọc trước bài ở nhà, học sinh mới
biết được từ nào khó đọc, hay đọc sau để đến lớp nghe cô hướng dẫn, sửa chữa.
Ngồi ra tơi nhắc nhở các em nên tìm đọc các quyển sách hay, đọc truyện phù
hợp với thiếu nhi để rèn thói quen đọc sách nhằm kích thích sự hứng thú với
việc đọc.
Ở lớp, tôi luôn chú ý đến tư thế đọc của học sinh, khi đọc cần ngồi ngay
ngắn, phải bình tĩnh, tự tin, khơng hấp tấp. Khi đứng đọc, tư thế phải đàng
hoàng, thoải mái, sách phải được mở rộng và cầm đúng cách. Tôi luôn nhắc cho
học sinh hiểu được đọc thành tiếng là đọc cho cô và tất cả các bạn trong lớp
cùng nghe nên cần đọc với âm lượng vừa phải, đủ cho tất cả nghe rõ mà cũng
không cần đọc quá to. Đối với học sinh đọc quá nhỏ, tôi kiên nhẫn luyện đọc
cho các em và động viên các em đọc to dần lên. Tơi ln khuyến khích học sinh
mạnh dạn xung phong đọc, tích cực học tập. Khi đọc nhóm, các em cần tập
trung chú ý đọc bài và nghe bạn đọc để nhận xét, bổ sung.
3.2.3. Kết quả
Từ chỗ chưa hứng thú, chưa tự giác luyện đọc, đa số học sinh trong lớp đã
tự giác đọc bài và chuẩn bị trước bài tập đọc ở nhà. Các em giới thiệu cho nhau
về các quyển sách hay mà mình đã đọc nên tinh thần thi đua nhau trong việc rèn
kĩ năng đọc được nâng cao hơn.


12

3.3. Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh luyện đọc đúng, đọc lưu loát văn bản
3.3.1. Mục tiêu
Giúp học sinh có kĩ năng đọc đúng, đọc lưu lốt văn bản.
3.3.2. Cách tiến hành
a. Luyện phát âm
Muốn học sinh đọc đúng, đọc ngắt giọng, nhấn giọng dẫn đến đọc diễn
cảm, trước hết, tôi phải giúp các em phát âm chuẩn, đọc đúng loại câu, đúng ngữ
điệu câu, hiểu nội dung bài, các em phải biết đặt mình vào vị trí của nhân vật,
của tác giả.
Như chúng ta đã biết đa số giáo viên, học sinh địa phương chúng ta khi
nói và đọc thường mắc một số lỗi phát âm như: nói lẫn giữa các âm n/l. Ngoài
ra, các học sinh ở nhiều vùng miền khác nhau nên việc đọc, việc phát âm của
các em cũng khơng mang tính đồng nhất : s - x, r - d, tr - ch... Vì vậy khi phát
âm đã làm mất đi cái hay, cái tự nhiên và điều này đã làm cho các em thấy xấu
hổ và mất tự tin khi đọc; hạn chế việc đọc của các em làm mất đi sự hứng thú
đối với mơn học này. Chính vì vậy, khi dạy Tập đọc, chúng ta phải chú ý quan
tâm đến tất cả các đối tượng học sinh trong lớp mình và khi dạy học, chúng ta
phải phụ thuộc vào trình độ của học sinh, từng vùng miền để hướng dẫn cho các
em đọc đúng, phát âm chuẩn. Nếu học sinh đọc chưa tốt, phát âm chưa đúng thì
giáo viên phải dừng lại luyện đọc cho đúng. Nếu học sinh đọc đúng, đọc tốt rồi
thì chúng ta mới luyện đọc hay, đọc diễn cảm. Động viên các em và giao nhiệm
vụ cho cả lớp cùng giúp bạn bằng cách không trêu ghẹo mà tạo cơ hội cho bạn
sửa chữa.
b. Luyện ngắt giọng
Những lỗi sai trên là do người đọc khơng tính đến cấu trúc ngữ pháp chủ
ngữ và vị ngữ, chỗ ngắt giọng không được rơi vào sau hư từ hoặc trong cụm một
từ, một từ lại tách ra làm hai. Để chữa được những lỗi này giáo viên cần hướng
dẫn cho học sinh.
Thường ngắt giọng giữa ranh giới chủ ngữ và vị ngữ.
Ví dụ:


Lá trầu / khơ giữa cơi trầu


13
Truyện Kiều/ gấp lại trên đầu bấy nay. (Bài Mẹ ốm)
Tuy những trường hợp có thể nói thơ là sự “phân vân” giữa nhạc và ý nên
chỗ cần luyện ngắt nhịp là chỗ mà nhạc thơ theo áp lực tự nhiên và ý nghĩa ngữ pháp không khớp với nhau. Khơng phải bao giờ cũng ngắt nhịp theo ý. Có
trường hợp phải ưu tiên cho nhạc. Ví dụ: Trong câu lục bát chỗ ngắt nhịp nhất
thiết sẽ rơi vào sau tiếng thứ 6 của câu 8 tiếng nếu nó được gieo vần.
Ví dụ:

Sáng ra thơm đến ngẩn ngơ
Dịng sơng đã mặc bao giờ/ áo hoa. (Bài Dịng sơng mặc áo)

Tuy nhiên cũng không nên cứng nhắc khi dạy ngắt giọng, giáo viên phải
biết rằng trong cùng một câu lại có nhiều cách ngắt giọng. Vấn đề là giáo viên
nên chọn cách ngắt giọng nào cho hay hơn.
Ví dụ: Hơm nay đọc báo Thiếu niên Tiền phong, mình rất xúc động được
biết / ba của Hồng đã hy sinh trong trận lũ lụt vừa rồi.
Cách ngắt nhịp trên là đúng, nhưng cũng có thể ngắt nhịp thành: Hơm
nay, đọc báo Thiếu niên Tiền phong, mình rất xúc động / được biết ba của Hồng
đã hy sinh trong trận lũ lụt vừa rồi.
c. Luyện về ngữ điệu
* Cách chữa lỗi về ngữ điệu yếu: Hầu hết tất cả các bài văn xuôi hay thơ
khi được đặt dấu câu ba chấm (…) đọc đến đây chúng ta phải hạ giọng thấp hơn
so với giọng đọc ban đầu. Dấu ba chấm ở đây chỉ sự ngập ngừng chưa nói hết
thì phải đọc với ngữ điệu yếu.
Ví dụ: Bố khó thở lắm… (Nỗi dằn vặt của An drây – ca)
* Cách chữa lỗi về ngữ điệu mạnh: Hầu hết các kiểu câu khiến sẽ có

những điệu mạnh hoặc trong một ngữ đoạn, ngữ điệu mạnh nêu bật những từ
người ta muốn nhấn mạnh,đặc biệt là lúc này ngữ điệu mạnh trùng với trọng âm.
Ví dụ: Khi đọc một đoạn trong bài: “Đôi giày ba ta màu xanh” được đọc nhấn
các từ : mấp máy, ngọ nguậy, tưng tưng. Cịn những câu cảm: Ơi chao đơi giày
mới đẹp làm sao! được đọc với giọng trầm trồ thán phục.
* Cách chữa về lỗi thể hiện ngữ điệu xuống (hạ xuống): thường dùng để
kết thúc câu kể (câu tường thuật). Vì đường ranh giới câu khơng chỉ thể hiện ở


14
chỗ ngừng mà còn ở ngữ điệu kết thúc đi xuống. Nếu ta không hạ giọng ở cuối
mỗi câu sẽ không tạo ra sự luân chuyển nhịp nhàng cao độ của các câu. Vì vậy
khi đọc chóng bị mệt và người nghe khó theo dõi. Ngồi ra, ngữ điệu xuống
thường dùng để đọc lời tác giả trong những văn bản xen lẫn lời tác giả và lời
nhân vật, nhất là khi lời tác giả lọt vào những lời nhân vật.
* Cách chữa lỗi về lên giọng: Khi đọc câu hỏi cần phải lên giọng.
Ví dụ: Có câm mồm khơng? phải cao giọng ở cuối câu. Tuy nhiên những
câu hỏi kết thúc về ngữ khí thì khơng lên giọng.
Ví dụ: Chúa đã xơi “mầm đá” chưa ạ ?
d. Luyện tập về tốc độ đọc: Để chữa lỗi về thể hiện tốc độ giáo viên cần
hướng dẫn:
- Khi đọc những văn bản có nội dung miêu tả một cơng việc dồn dập khẩn
trương thì phải đọc nhịp nhanh. Nhưng khơng có nghĩa là các em phải đọc một
cách liến thoắng mà đọc với tốc độ nhanh hơn bình thường để người nghe có thể
theo dõi được.
Ví dụ: Chơi một lúc mới nhớ lời mẹ dặn, con vội chạy một mạch đến cửa
hàng/ mua thuốc/ rồi mang về nhà.
- Khi đọc những văn bản có cảm xúc phấn khởi tự hào cần thể hiện tốc độ
không quá chậm.
- Là một bài văn xuôi trữ tình, chan chứa cảm xúc cần phải được đọc

chậm. Đọc với tốc độ chậm là chậm so với mức bình thường chứ khơng phải các
em đọc chậm từng tiếng một, sẽ làm cho người nghe hiểu sai về nội dung văn
bản.
e. Luyện tập về cường độ
Giáo viên phải tập cho tất cả học sinh trong lớp mình có thói quen đọc
đúng cường độ nghĩa là phải đọc đủ lớn để cho cả lớp và cơ giáo có thể nghe
được. Giáo viên giáo dục cho học sinh hiểu được tác hại của việc đọc q nhỏ,
thì cơ và các bạn sẽ không theo dõi được, mà không theo dõi được thì khơng thể
sửa sai cách đọc cho chúng ta được.
g. Luyện tập về cao độ


15
Như đã nêu ở phần cách chữa lỗi về ngữ điệu ở mỗi loại kiểu câu lại có
một ngữ điệu lên, xuống khác nhau. Tuy nhiên vẫn tồn tại trường hợp ngoại lệ.
Ví dụ có câu hỏi nhưng khi đọc không cần lên giọng ở cuối câu. Chẳng hạn khi
đọc: “Bầm ơi, có rét khơng Bầm?”. Đây là kiểu câu hỏi nhưng khi đọc ta không
lên giọng ở cuối câu mà lại hạ giọng ở cuối câu. Vì đây là câu hỏi thể hiện sự
trăn trở của người con nơi chiến trận đang nghĩ về người mẹ yêu quý của mình,
một câu hỏi khơng cần có câu trả lời. Như vậy tùy thuộc vào từng văn bản cụ thể
mà hướng dẫn học sinh thể hiện đúng cao độ.
3.3.3. Kết quả
Học sinh đọc đúng tiếng, từ, ngắt nghỉ hơi đúng ở các dấu câu, ở chỗ tách
các cụm từ. Học sinh đọc lưu loát văn bản với tốc độ phù hợp.
3.4. Biện pháp 4: Hướng dẫn học sinh luyện đọc diễn cảm
3.4.1. Mục tiêu
Giúp học sinh đọc diễn cảm văn bản với giọng đọc, biểu cảm phù hợp.
3.4.2. Cách tiến hành
a. Cung cấp mẫu giúp HS tri giác các chỉ số âm thanh của bài đọc một
cách cụ thể, từ đó có ý thức luyện tập theo mẫu.

Để thực hiện tốt bước này, cần tuân thủ các yêu cầu: giọng đọc mẫu thể
hiện chính xác các chỉ số âm thanh, phù hợp với nội dung bài đọc, phô diễn
được cảm xúc mà tác giả đã gửi gắm trong bài đọc một cách sáng tạo. Trong
thực tế, chúng ta thường đọc mẫu. Tuy nhiên, để tăng hứng thú cho HS trong giờ
học, chúng ta cần thể hiện mẫu bằng nhiều đối tượng hoặc phương tiện khác
nhau (GV/ HS khá giỏi/ băng hình, băng tiếng, ....). Khi đọc mẫu hoặc cung cấp
mẫu, chúng ta lưu ý vị trí thích hợp để cả lớp theo dõi, quan sát mẫu tốt; cần tạo
khơng khí học tập, tâm thế cho HS trước khi đọc mẫu (thái độ của HS biết chờ
đợi nghe giọng đọc mẫu, im lặng, trật tự,...).
b. Phân tích các chỉ số âm thanh của giọng đọc mẫu giúp HS hiểu rõ các
yêu cầu trong giọng đọc mẫu một cách có ý thức, từ đó tránh bắt chước giọng
đọc mẫu một cách máy móc.


16
Xuất phát từ đặc điểm nhận thức của HS và nội dung dạy học (thuộc bình
diện ngữ âm - cái biểu hiện của ngôn ngữ ), chúng ta lưu ý phân tích các chỉ số
âm thanh kết hợp việc thể hiện giọng đọc để việc phân tích giúp HS hình dung
cách đọc một cách cụ thể; cách phân tích cần dễ hiểu, không dùng thuật ngữ
ngôn ngữ học nhằm phù hợp với nhận thức mang tính trực quan, cụ thể của HS.
Khi phân tích, cần tránh hiện tượng áp đặt, nên hé mở định hướng để HS có ý
thức tái tạo giọng đọc theo cảm xúc của bản thân một cách tốt nhất. Chúng ta
cần quy định hệ thống kí hiệu đánh dấu các chỉ số âm thanh cụ thể của bài đọc
(lên giọng, xuống giọng, nhấn giọng,...). Trong thực tế, chúng ta thường sử dụng
hệ thống kí hiệu sau: /: chỗ ngắt giọng, //: chỗ ngừng giọng, ↑: chỗ lên giọng, ↓:
chỗ xuống giọng, … nên chọn đoạn tiêu biểu - chứa các trường hợp khó đọc
hoặc thể hiện cảm xúc, tư tưởng cao của tác phẩm.
Ví dụ: Bài “Hoa học trị” nên chọn đoạn “Phượng khơng phải là một
đóa… đậu khít nhau” vì đoạn này chứa nhiều câu có ngữ điệu khác nhau, chứa
nhiều từ biểu cảm cần nhấn giọng…

Khi phân tích, chúng ta cần tổ chức lớp học bằng nhiều hình thức khác
nhau: cá nhân, nhóm, tập thể lớp,... và nên phân cơng các nhóm, các cá nhân
từng nội dung cụ thể để đảm bảo thời gian bài học, giờ học (trở lại ví dụ trên,
chúng ta nên chia lớp thành các nhóm, yêu cầu từng nhóm thực hiện các nhiệm
vụ khác nhau. Có thể phân chia như sau: nhóm 1: xác định cách ngắt nhịp / phát
hiện, đánh dấu các từ ngữ cần nhấn giọng, lên giọng, xuống giọng,....; nhóm 2:
xác định tốc độ đọc câu; để có cơ sở khoa học, việc phân tích cần gắn với việc
tìm hiểu bài đọc (gắn với các câu hỏi: Vì sao tốc độ giọng đọc phải nhanh
/chậm?) …
c. Luyện theo giọng đọc mẫu giúp HS rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm
theo định hướng của mẫu. Bước này chiếm nhiều thời gian và được xem là trọng
tâm của biện pháp luyện đọc theo mẫu. Cường độ luyện tập ở bước này cao giúp
HS ghi nhớ và vận dụng tốt mẫu đã được nghe và phân tích. Để tránh nhàm chán
đối với HS khi phải luyện tập nhiều, hình thức luyện tập cần phong phú (cá
nhân, nhóm, thi đọc, đọc phân vai, đọc nối tiếp,...). Khi luyện tập cần bảo đảm


17
thời gian của giờ học, mục tiêu của bài học. Thực hiện bước này bằng các thao
tác cơ bản: chọn hình thức tổ chức luyện tập (cá nhân/ nhóm/ tập thể); giao nội
dung luyện tập; tổ chức luyện tập.
d. Nhận xét, sửa chữa, điều chỉnh, khái quát hóa về cách đọc của bài đọc
giúp HS điều chỉnh, sửa chữa, ý thức sâu sắc về cách đọc diễn cảm bài đọc.
Trong thực tế, bước này thường kết hợp với bước 3; chúng ta nên tổ chức nhận
xét điều chỉnh theo nhóm hoặc tập thể lớp. Cách thức thực hiện bước này
thường là: tổ chức nhận xét, điều chỉnh; khái quát về yêu cầu bài đọc.
3.4.3. Kết quả
Học sinh có kĩ năng đọc diễn cảm văn bản, thể hiện đúng giọng đọc và
nhấn giọng chính xác.
3.5. Biện pháp 5: Tích cực đổi mới hình thức dạy học

3.5.1. Mục tiêu
Giúp học sinh hứng thú hơn trong việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm bài tập
đọc đã học.
3.5.2. Cách tiến hành
Sau khi các em nắm được các yêu cầu, cách đọc diễn cảm, tôi thường tổ
chức các trị chơi ở các tiết ơn tập giữa kì và cuối kì hay ở những giờ hướng dẫn
học bằng trò chơi: Hái hoa đọc diễn cảm.
Giáo viên chuẩn bị một cành cây có gắn các bơng hoa bằng giấy. Mỗi
bông hoa ghi tên bài tập đọc đã có kèm đoạn văn, đoạn thơ cần thi đọc diễn cảm
(học thuộc lịng). Sau đó giáo viên làm người điều khiển trị chơi. Chọn một
nhóm giám khảo gồm ba đến bốn em học sinh khá giỏi đại diện các tổ nhận xét,
đánh giá kết quả thi đọc diễn cảm của từng học sinh. Từng học sinh lần lượt
xung phong lên hái hoa để thi đọc diễn cảm theo phiếu và thực hành đọc theo
yêu cầu của phiếu đó. Học sinh đọc xong, bán giám khảo sẽ đánh giá xếp loại.
Nếu học sinh đọc chưa tốt, ban giám khảo cho học sinh hái hoa lần hai. Kết thúc
trò chơi giáo viên ghi tên từng học sinh tham gia chơi trên bảng, cả lớp nhận xét,
bình chọn học sinh đọc diễn cảm tốt nhất để biểu dương và trao phần thưởng.


18
Giáo viên có thể thay đổi trị chơi hái hoa bằng các trò chơi khác nhau
như: hái sao, nhổ cà rốt, dọn dẹp đại dương,…. Giáo viên nên xây dựng các trị
chơi trên powerpoint bằng các hình ảnh, hiệu ứng sinh động, giúp học sinh hứng
thú hơn với tiết luyện đọc diễn cảm.
3.5.3. Kết quả
Qua việc tích cực đổi mới hình thức luyện đọc diễn cảm cho học sinh, tơi
thấy học sinh cả lớp đều rất thích và hăng hái tham gia luyện đọc diễn cảm. Học
sinh đọc diễn cảm tiến bộ rõ rệt ở tất các các bài tập đọc và các môn học khác.
4. Kết quả SKKN
Nhờ vận dụng những biện pháp đã nêu trên, việc đọc đúng, đọc diễn cảm

của HS lớp tơi đã có chuyển biến rõ rệt so với đầu năm học, học sinh thì khơng
cịn đọc ngắc ngứ, đọc khơng để ý đến nghĩa hoặc sai nghĩa, giọng đọc đều đều,
rời rạc,... lên xuống giọng tùy tiện mà khơng biết chỗ đó tác giả có dụng ý nghệ
thuật gì. Dần dần từng bước các em đã biết đọc diễn cảm ở mỗi bài đọc. Học
sinh hiểu bài hơn, đồng thời góp phần làm cho học sinh diễn đạt tốt hơn trong
phân môn tập làm văn. Việc biết đọc diễn cảm giúp các em bồi dưỡng thêm các
kĩ năng trong giao tiếp, các em đã mạnh dạn và tự tin hơn khi tham gia vào các
hoạt động tập thể,... khi giao tiếp với người lớn, thầy cô, với bạn bè và mọi
người xung quanh như: nói lời chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, lời mời, lời đề nghị, lời
yêu cầu,...


19
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua một năm thực nghiệm về rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp
4A9, tôi đã vận dụng những biện pháp trên và kết quả đạt được rất khả quan:
Bảng số liệu khảo sát đọc diễn cảm của học sinh lớp 4A9
Đọc to, lưu loát
Lớp

Số HS

Đọc ngắt nghỉ

Đọc diễn cảm

đúng

đúng


SL
TL
SL
TL
SL
TL
4A9
53
33
62,3%
30
56,6%
22
41,5%
Với những biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh mà tôi đã áp
dụng và đạt được kết quả như đã nêu trên, tôi thấy rằng để đạt được hiệu quả giờ
lên lớp, học sinh đọc hay, đọc diễn cảm thì trước hết người giáo viên phải đọc
diễn cảm. Bản thân mỗi giáo viên phải tích cực khắc phục những hạn chế về kĩ
năng đọc của mình, thường xuyên luyện đọc diễn cảm để hướng dẫn học sinh
đọc tốt.
Khi dạy đọc cho học sinh, ta phải hết sức chú ý việc chữa lỗi phát âm cho
học sinh, về cách ngắt giọng, về ngữ điệu, tốc độ đọc, cường độ, cao độ,...
Sử dụng nhiều biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh theo các
bước:
- Cung cấp mẫu, giúp học sinh tri giác các chỉ số âm thanh của bài đọc
một cách cụ thể, từ đó có ý thức luyện tập theo mẫu.
- Phân tích các chỉ số âm thanh của giọng đọc mẫu giúp học sinh hiểu rõ
các yêu cầu trong giọng đọc mẫu một cách có ý thức, từ đó tránh bắt chước
giọng đọc mẫu một cách máy móc.

- Luyện theo giọng đọc mẫu giúp học sinh rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm
theo định hướng của mẫu. Bước này chiếm nhiều thời gian và được xem là trọng
tâm của biện pháp luyện đọc theo mẫu.
- Nhận xét, sửa chữa, điều chỉnh, khái quát hóa về cách đọc của bài đọc
giúp học sinh điều chỉnh, sửa chữa, ý thức sâu sắc về cách đọc diễn cảm bài đọc.
2. Khuyến nghị


20
2.1. Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo Thanh Trì
Mở thêm nhiều chuyên đề với nội dung sinh hoạt về kĩ năng giao tiếp, kĩ
năng thuyết trình, kĩ năng đọc diễn cảm,... để giáo viên có cơ hội giao lưu, trao
đổi kinh nghiệm lẫn nhau.
2.2. Đối với nhà trường
Tổ chức thêm nhiều hoạt động ngoại khóa như: Thi đọc diễn cảm, thuyết
trình văn học, thi kể chuyện, thi dẫn chương trình,... để các em có điều kiện trao
đổi, học hỏi lẫn nhau và phát huy năng lực sẵn có.
2.3. Đối với giáo viên
- Rèn nhiều hơn đối tượng học sinh yếu để các em vươn lên cùng các bạn.
- Mỗi giáo viên cần xác định vai trò chủ đạo của mình trong việc đổi mới
phương pháp dạy học. Trước mỗi bài dạy cần tìm hiểu kĩ nội dung bài học, sưu
tầm tư liệu phục vụ cho bài giảng; lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với
đối tượng học sinh. Người giáo viên luôn phải chủ động tự học, tự bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ, bồi dưỡng vốn sống, vốn từ ngữ.
- Đối với những bài khó mà mình còn vướng mắc, giáo viên cần mạnh
dạn, chủ động đưa ra bàn bạc trong buổi sinh hoạt chuyên môn. Đồng thời cần
phải tích cực dự giờ, thăm lớp để học hỏi kinh nghiệm bạn bè, đồng nghiệp.
Trên đây, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số ý kiến nhằm giúp cho học sinh
rèn kĩ năng đọc diễn cảm đạt kết quả tốt hơn. Tôi rất mong nhận được sự quan
tâm góp ý của các cấp lãnh đạo và bạn bè đồng nghiệp để tôi tiến bộ hơn và

thêm kinh nghiệm giảng dạy.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Thanh Trì, ngày 15 tháng 4 năm 2022
Người viết

Vũ Kim Ngân
TÀI LIỆU THAM KHẢO



×