Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Hoạt động chứng minh của đương sự trong vụ án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.91 MB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT DÂN SỰ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH CỦA ĐƯƠNG SỰ
TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ

SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ THỊ THU HÀ
Khóa:

K36

MSSV: 1155020060

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: GV. NGUYỄN THỊ HOÀI TRÂM

TP.HCM – NĂM 2015


LỜI CẢM ƠN

Trong suốt thời gian thực hiện khóa luận tốt nghiệp, em đã nhận được sự
quan tâm, giúp đỡ, hỗ trợ từ gia đình, thầy cơ và bạn bè. Đó là động lực giúp em
hồn thành khóa luận này.
Con cám ơn ba mẹ rất nhiều vì đã sinh ra con, nuôi dưỡng con và tạo mọi
điều kiện để con học tập và trưởng thành.
Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin gửi đến quý thầy cô trường Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã truyền đạt vốn kiến thức quý báu cho em trong
suốt thời gian em học tập tại trường. Em xin chân thành cám ơn cơ Nguyễn Thị


Hồi Trâm đã tận tâm hướng dẫn, đóng góp cho em rất nhiều kiến thức quý báu và
bổ ích trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Nếu khơng có những lời hướng dẫn, dạy
bảo của cơ thì luận văn của em rất khó có thể hồn thiện được.
Hà cũng cám ơn sự quan tâm, chia sẻ, động viên của tất cả bạn bè trong suốt
quá trình thực hiện khóa luận này.
Với vốn kiến thức hạn hẹp nên em khơng thể tránh khỏi những thiếu sót, do
vậy em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của q thầy cơ và các
bạn để em hồn thiện kiến thức của mình.


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật dân sự 2005

BLLĐ

Bộ luật lao động 2012

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự 2004

Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP


Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày
03/12/2012 Hướng dẫn thi hành một số quy định
trong phần thứ nhất “Những quy định chung”
của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ
sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của
Bộ luật Tố tụng dân sự

Nghị quyết 04/2012/NQ-HĐTP

Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP ngày
03/12/2012 Hướng dẫn thi hành một số quy định
về “chứng minh và chứng cứ” của Bộ luật Tố
tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo luật
sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật Tố
tụng dân sự

Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP

Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày
03/12/2012 Hướng dẫn thi hành một số quy định
trong phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại
Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật Tố tụng dân sự
đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ
sung một số Điều của Bộ luật Tố tụng dân sự

PLTTGQVADS

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
1989


PLTTGQVAKT

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
1994

PLTTGQTCLĐ

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao
động 1996


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHỨNG
MINH CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ ........................................ 1
1.1.

Khái niệm đương sự trong vụ án dân sự ................................................... 1

1.1.1.

Khái niệm .......................................................................................... 1

1.1.2.

Năng lực chủ thể của đương sự .......................................................... 3

1.1.3.


Phân loại ............................................................................................ 5

1.2.

Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự ............................................. 6

1.2.1.

Khái niệm .......................................................................................... 6

1.2.2.

Đặc điểm của hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự ................. 7

1.3. So sánh hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự với các thủ tục tố tụng
hình sự và tố tụng hành chính ............................................................................. 9
1.4. Sơ lược về hoạt động chứng minh của đương sự theo quy định của pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước ngày 1/1/2005 ............... 13
1.4.1.

Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989 .............................................. 13

1.4.2.

Giai đoạn từ năm 1990 đến trước ngày 1/1/2005 .............................. 14

1.5.

Hoạt động chứng minh của đương sự theo quy định của pháp luật một số


nước trên thế giới ............................................................................................. 17
Chương 2. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
HIỆN HÀNH VỀ HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG
VỤ ÁN DÂN SỰ ................................................................................................ 21
2.1. Quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự ........................................... 21
2.1.1. Quyền và nghĩa vụ chứng minh của nguyên đơn ................................. 21
2.1.2. Quyền và nghĩa vụ chứng minh của bị đơn .......................................... 23
2.1.3. Quyền và nghĩa vụ chứng minh của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan .............................................................................................................. 24
2.2. Quá trình chứng minh của đương sự trong vụ án dân sự.............................. 25


2.2.1. Thu thập chứng cứ............................................................................... 25
2.2.2. Giao nộp chứng cứ .............................................................................. 28
2.2.3. Nghiên cứu chứng cứ và đánh giá chứng cứ ........................................ 32
2.2.4. Những tình tiết, sự kiện khơng phải chứng minh ................................. 36
Chương 3. MỘT SỐ HẠN CHẾ, VƯỚNG MẮC KHI ÁP DỤNG NHỮNG
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH VỀ HOẠT
ĐỘNG CHỨNG MINH CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ; KIẾN
NGHỊ VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN ................................................................. 39
3.1. Một số hạn chế, vướng mắc khi áp dụng pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về
hoạt động chứng minh của đương sự trong vụ án dân sự...................................... 39
3.2. Kiến nghị và hướng hoàn thiện pháp luật .................................................... 53
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC PHỤ LỤC
PHỤ LỤC


LỜI NÓI ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu
cầu của đương sự là một nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt và mang tính lịch sử xuất
phát từ bản chất của tố tụng dân sự là giải quyết các tranh chấp giữa các bên trên cơ
sở pháp luật. Đương sự là trung tâm của hoạt động tố tụng, là chủ thể của quan hệ
pháp luật nội dung mà họ đang tranh chấp. Quyền và lợi ích của họ sẽ do chính họ
quyết định thơng qua hoạt động chứng minh của mình. Nhận thức được giá trị của
việc giải quyết các tranh chấp không phải nằm ở nhiều thủ tục tố tụng mà ở chỗ
phát huy được vai trị chủ động, tích cực của đương sự trong việc tự bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS) đã ra
đời thống nhất các thủ tục tố tụng dân sự, lao động, kinh tế, ý thức một cách rõ ràng
vai trò của đương sự và xây dựng các quy định tố tụng phù hợp. Ngày 29 tháng 03
năm 2011 tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XII đã thơng qua Luật số 65/2011/QH12
sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011 có hiệu lực từ
ngày 01 tháng 01 năm 2012. Đồng thời Quốc hội cũng thông qua Nghị quyết số
60/2011/QH12 về việc thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật Tố
tụng dân sự. Có thể nói BLTTDS được ban hành đánh dấu sự thay đổi căn bản trong
nhận thức về vấn đề chứng minh, đặc biệt là hoạt động chứng minh của đương sự đã
được quan tâm và đề cao. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị
về một số nhiệm vụ trọng tâm cơng tác tư pháp trong thời gian tới đã nhấn mạnh
định hướng mới trong hoạt động của các cơ quan tư pháp: “Khi xét xử, các Tịa án
phải đảm bảo mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách
quan; thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết
của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tịa, trên cơ sở xem
xét đầy đủ, tồn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên… ngun đơn, bị đơn
và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng
pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định. Các cơ quan tư
pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: nghiên
cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa”. Để thực hiện nhiệm vụ này,
BLTTDS đã có nhiều quy định đề cao vai trị của đương sự trong việc xác định sự

thật khách quan của vụ án cũng như các quy định bảo đảm cho các bên đương sự
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, trong đó có ngun tắc cung cấp chứng
cứ và chứng minh của đương sự. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ
Chính Trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng đã chỉ rõ: “Tiếp tục


hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình
dịch vụ từ phía nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập
chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”. Chính sự chỉ
đạo của Đảng đã nâng cao nhận thức cũng như tính hiệu quả trong hoạt động tư
pháp ảnh hưởng đến hoạt động chứng minh của đương sự, đặt đương sự vào vị trí
trung tâm của tồn bộ q trình tố tụng.
Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy, một số quy định của BLTTDS 2004 đã
bộc lộ những hạn chế, bất cập; có những quy định chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng dẫn
đến chưa phát huy được hiệu quả hoạt động chứng minh của đương sự làm cho quá
trình giải quyết vụ án kéo dài không bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của
họ. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, một trong những nguyên
nhân đó là pháp luật - một bộ phận của kiến trúc thượng tầng được hình thành trên
cơ sở hạ tầng tương ứng - chưa phù hợp với những gì đang diễn ra trong đời sống
xã hội. Bên cạnh đó, nhận thức của đương sự về quyền và nghĩa vụ khi tham gia tố
tụng còn hạn chế, chưa phát huy được vai trị chủ động và tích cực của đương sự
trong việc tự bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Để góp phần khắc phục những bất
cập trên hướng tới hoàn thiện các vấn đề lý luận và thực tiễn đối với chế định quan
trọng này nói riêng và pháp luật tố tụng dân sự nói chung, người viết đã đi vào tìm
hiểu, nghiên cứu để hồn thiện đề tài “Hoạt động chứng minh của đương sự trong
vụ án dân sự”.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu để hoàn thiện đề tài, người viết nhận
thấy trong những năm gần đây có một số bài viết và cơng trình nghiên cứu liên quan
khác nhau, có thể liệt kê một số cơng trình nghiên cứu như:

-

Trần Thị Ngọc Kiều (2004), Hoạt động chứng minh trong Tố tụng dân

-

sự, Khóa luận cử nhân luật, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh;
Lê Thị Thủy (2006), Hoạt động chứng minh trong Tố tụng dân sự, Khóa

-

luận cử nhân luật, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh;
Vũ Văn Đồng (2006), Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong Bộ luật Tố
tụng dân sự, Luận văn thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội;
Hà Thái Thơ (2013), Hoạt động thu thập chứng cứ trong Tố tụng dân sự
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh;


-

Trương Việt Hồng (2014), Hoạt động thu thập chứng cứ của Tịa án sơ
thẩm trong q trình giải quyết vụ án dân sự, Luận văn thạc sĩ luật học,
trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh;

-

Nguyễn Minh Hằng (2007), Chế định chứng minh trong Tố tụng dân sự
Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội;

Nguyễn Minh Hằng (2009), Hoạt động chứng minh trong Pháp luật Tố

-

tụng dân sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội;
Ngồi ra cịn nhiều bài viết trên các tạp chí chuyên ngành liên quan đến một
số khía cạnh về hoạt động chứng minh của đương sự trong tố tụng dân sự như:
Dương Trung Thành (2004),“Chứng cứ và chứng minh trong Tố tụng dân sự”, tạp
chí Tịa án nhân dân, (01); Tưởng Duy Lượng (2004), “Một vài suy nghĩ về vấn đề
chứng cứ và chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự”, tạp chí Tịa án nhân dân,
(20); Nguyễn Văn Lin, Nguyễn Thị Hạnh (2012), “Vai trò của thẩm phán trong thu
thập chứng cứ, xây dựng hồ sơ giải quyết vụ án dân sự”, tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, (03); Nguyễn Minh Hằng (2012), “Phân định ranh giới giữa nghĩa vụ chứng
minh và trách nhiệm chứng minh trong Tố tụng dân sự”, tạp chí Kiểm sát, (20)…
Những vấn đề mà các cơng trình nghiên cứu, các bài viết đã liệt kê trên tuy
có đề cập đến hoạt động chứng minh của đương sự trong tố tụng dân sự nhưng chỉ
dừng lại ở việc đề cập một cách gián tiếp, chung chung trong chế định chứng cứ và
chứng minh hoặc nhìn nhận các vấn đề chứng minh ở nhiều góc độ, khía cạnh khác
nhau. Mặc dù vậy, đây là những cơ sở tham khảo quan trọng để người viết có thể
hồn thành tốt phần nghiên cứu của mình.
3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về hoạt động chứng minh của đương sự trong vụ án
dân sự, chủ yếu tập trung nghiên cứu những quy định của BLTTDS năm 2004 (sửa
đổi, bổ sung năm 2011) và các văn bản hướng dẫn liên quan đến vấn đề này. Ngoài
ra, người viết cũng phân tích số liệu, các quyết định, bản án của Tòa án để minh
chứng cho đề tài này.
4. Mục đích nghiên cứu
Về mặt lý luận, hoạt động chứng minh của đương sự trong vụ án dân sự đã
được quy định trong pháp luật tố tụng dân sự và áp dụng từ lâu nhưng BLTTDS
2004 mới thực sự là bước tiến lớn, khởi đầu cho việc chuyển nghĩa vụ chứng minh,

thu thập chứng cứ cho các bên đương sự trong vụ án dân sự. Về mặt thực tiễn áp


dụng cho thấy các quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong hoạt động chứng
minh của đương sự vẫn tồn tại những thiếu sót, hạn chế. Vì vậy, mục đích nghiên
cứu của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận về hoạt động chứng minh của đương sự
trong vụ án dân sự, đánh giá thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng
dân sự đồng thời mạnh dạn đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật để đương
sự có thể thực hiện tốt nhất hoạt động chứng minh của mình, giảm gánh nặng cho
Tòa án.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của khoa học luật tố tụng dân
sự, sử dụng các phương pháp phân tích, so sánh tổng hợp thông qua các phương
tiện như sách, báo, tạp chí… nhằm làm sáng tỏ các vấn đề về hoạt động chứng minh
của đương sự trong vụ án dân sự.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về hoạt
động chứng minh của đương sự cũng như thực tiễn áp dụng các quy định này, luận
văn đã tiến hành làm rõ một số vấn đề cơ bản nhất về hoạt động chứng minh của
đương sự, tìm ra những vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp luật đồng thời
đưa ra một số kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật, góp phần phát huy tính tích cực,
chủ động của đương sự trong tố tụng dân sự.
Luận văn sẽ là cơng trình nghiên cứu có giá trị tham khảo đối với các sinh
viên luật, những người làm công tác pháp luật và những người có nhu cầu tìm hiểu
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.
7. Cơ cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về hoạt động chứng minh của đương
sự trong vụ án dân sự

Chương 2. Những quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về hoạt
động chứng minh của đương sự


Chương 3. Một số hạn chế, vướng mắc khi áp dụng những quy định của pháp
luật Tố tụng dân sự hiện hành về hoạt động chứng minh của đương sự trong vụ án
dân sự; kiến nghị và hướng hoàn thiện.


1

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG
CHỨNG MINH CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1.

Khái niệm đương sự trong vụ án dân sự

Đương sự là một trong những khái niệm cơ bản trong tố tụng dân sự, là nhóm
chủ thể quan trọng trong tố tụng dân sự. Họ có quyền làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quá trình tố tụng. Việc xác định đúng tư cách đương sự trong vụ án dân sự góp phần
giúp cho Tòa án quyết vụ án một cách đúng đắn và xác định được giới hạn hoạt động
chứng minh trong tố tụng. Mặt khác, xác định đúng tư cách đương sự để đảm bảo cho
họ có những quyền trong tố tụng dân sự - điều kiện để họ có thể bảo vệ được quyền và
lợi ích hợp pháp của mình.
1.1.1. Khái niệm
Đương sự tham gia tố tụng là nhằm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình hoặc để thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật khi Tòa án giải quyết
các vụ án dân sự. Thực tiễn xét xử có rất nhiều vụ án dân sự bị cấp phúc thẩm hoặc
giám đốc thẩm hủy án do cấp sơ thẩm, phúc thẩm không đưa đầy đủ đương sự vào
tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Vì vậy, việc xác định đúng tư cách

đương sự là một vấn đề quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.
Theo Khoản 1 Điều 56 BLTTDS quy định: “Đương sự trong vụ án dân sự là cá
nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan”.
-

1

Đương sự là cá nhân bao gồm công dân Việt Nam, người có quốc tịch nước
ngồi, người khơng có quốc tịch1.
Đương sự là cơ quan theo pháp luật tố tụng dân sự chính là các “cơ quan nhà
nước” bao gồm cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ, các
cơ quan quản lý nhà nước trong từng lĩnh vực (các Ủy ban nhân dân, các Bộ,
Sở…)2.

Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Hồng Đức – Hội
Luật gia Việt Nam, Hồ Chí Minh, tr.77.
2
Điều 162 BTTDS.


2

-

Đương sự là tổ chức bao gồm: đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức kinh tế, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp,
tổ chức xã hội - nghề nghiệp3. Đương sự trong tố tụng là tổ chức thì tổ chức đó
phải có tư cách pháp nhân hoặc những tổ chức khơng có tư cách pháp nhân
nhưng các tổ chức này tham gia quan hệ một cách độc lập, không phụ thuộc vào

cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về tài sản, nhân danh mình tham gia các quan hệ
một cách độc lập.

Như vậy, đương sự trong BLTTDS đã có sự mở rộng hơn so với Pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án dân sự 1989 (PLTTGQVADS), Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án kinh tế 1994 (PLTTGQVAKT) và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh
chấp lao động 1996 (PLTTGQTCLĐ). Theo các quy định trong các PLTTGQVADS và
PLTTGQVAKT thì các tổ chức khơng có tư cách pháp nhân khơng phải là đương sự.
Ví dụ:
-

-

-

3

Các đương sự trong PLTTGQVADS là công dân, pháp nhân tham gia tố tụng
với tư cách là nguyên đơn, bị đơn hoặc là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan. Trong trường hợp Viện kiểm sát khởi tố hoặc tổ chức xã hội khởi kiện vì
lợi ích chung thì người có quyền lợi được bảo vệ có thể tham gia tố tụng với tư
cách nguyên đơn4.
Các đương sự trong PLTTGQVAKT là cá nhân, pháp nhân tham gia tố tụng là
nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đương sự là cá
nhân thì tự mình hoặc có thể uỷ quyền cho người khác thực hiện các quyền,
nghĩa vụ của mình trong quá trình giải quyết vụ án. Đương sự là pháp nhân thì
thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc
theo uỷ quyền5.
Đương sự trong PLTTGQTCLĐ là người lao động, tập thể lao động, người sử
dụng lao động tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đương sự là cá nhân có thể tự mình hoặc uỷ
quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của
mình trong quá trình giải quyết vụ án lao động. Đương sự là tập thể lao động
thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng thông qua đại diện Ban chấp hành cơng đồn

Điều 1 BLTTDS.
Điều 19 PLTTGQVADS.
5
Điều 20 PLTTGQVAKT.
4


3

cơ sở. Người sử dụng lao động là tổ chức thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng
thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc theo uỷ quyền. Trong trường hợp
cơng đồn cấp trên của cơng đồn cơ sở khởi kiện thì phải cung cấp tài liệu,
chứng cứ và có quyền, nghĩa vụ tố tụng như nguyên đơn; Ban chấp hành cơng
đồn cơ sở của tập thể lao động có lợi ích cần được bảo vệ phải tham gia tố tụng
với tư cách là nguyên đơn6.
Rõ ràng quy định như vậy là không bao quát được tất cả các chủ thể tham gia
pháp luật dân sự được quy định trong Bộ luật dân sự 2005 (BLDS) bởi không phải tổ
chức nào cũng có tư cách pháp nhân. Với quy định trong Điều 56 BLTTDS thì mọi cơ
quan, tổ chức bất kể có tư cách pháp nhân hay khơng có tư cách pháp nhân đều được
xem là đương sự trong vụ án dân sự. Quy định này đã bao quát được tất cả các chủ thể
tham gia quan hệ pháp luật dân sự và được xem là điểm tiến bộ của BLTTDS.
1.1.2. Năng lực chủ thể của đương sự
Theo quy định tại Điều 57 BLTTDS thì đương sự phải có năng lực pháp luật tố
tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự.
1.1.2.1.


Năng lực pháp luật tố tụng dân sự

Năng lực pháp luật tố tụng dân sự là khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong tố
tụng dân sự do pháp luật quy định. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức có năng lực pháp
luật tố tụng dân sự như nhau trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình7. Nội dung năng lực pháp luật tố tụng dân sự bao gồm các quyền và
nghĩa vụ của đương sự được ghi nhận tại Điều 58 BLTTDS.
Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của cá nhân phát sinh từ khi người đó sinh ra
và chấm dứt khi người đó chết nếu quyền và lợi ích của họ khơng có người kế thừa.
Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của cơ quan nhà nước bắt đầu từ khi cơ quan
đó có quyết định thành lập và chấm dứt khi cơ quan đó có quyết định giải thể hoặc
chấm dứt mà quyền và nghĩa vụ của cơ quan đó khơng được kế thừa. Đối với tổ chức,
năng lực pháp luật tố tụng dân sự bắt đầu từ lúc tổ chức đó được thành lập hoặc đăng
ký hoạt động và chấm dứt khi tổ chức đó bị giải thể.
6
7

Điều 19 PLTTGQTCLĐ.
Khoản 1 Điều 57 BLTTDS.


4

Việc pháp luật ghi nhận quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự là nhằm bảo
đảm cho đương sự có điều kiện tốt nhất, thuận lợi nhất để tham gia tố tụng nhằm bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp về nội dung của mình.
1.1.2.2.

Năng lực hành vi tố tụng dân sự


Năng lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ
tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân sự8. Khác với
năng lực pháp luật tố tụng dân sự của đương sự là như nhau thì năng lực hành vi tố
tụng dân sự là yếu tố ln có sự biến động và được xác định ở các mức độ khác nhau.
Đương sự từ đủ mười tám tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự
trừ người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc
pháp luật có quy định khác9. Theo hướng dẫn tại Điều 16 Nghị quyết số 03/2012/NQHĐTP ngày 03/12/2012 Nghị quyết Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần
thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung
theo Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật tố tụng dân sự (Nghị quyết
03/2012/NQ-HĐTP) thì có trường hợp người từ đủ mười tám tuổi trở lên nhưng lại
khơng có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Do đó, để xác định đúng năng lực
hành vi tố tụng dân sự của một người cụ thể, ngồi quy định của BLTTDS Tịa án phải
xem xét có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định khác về năng lực hành vi tố tụng
dân sự hay không.
Đương sự là người chưa đủ sáu tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự thì
khơng có năng lực hành vi tố tụng dân sự, họ khơng thể tự mình tham gia tố tụng dân
sự, việc bảo vệ quyền và lợi ích của những người này tại Tòa án do người đại diện hợp
pháp của họ thực hiện10.
Đối với đương sự là người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi thì việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do đại diện hợp pháp của
họ thực hiện11.

8

Khoản 2 Điều 57 BLTTDS.
Khoản 3 Điều 57 BLTTDS.
10
Khoản 4 Điều 57 BLTTDS.
11

Khoản 5 Điều 57 BLTTDS.
9


5

Đối với đương sự là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã
tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của
mình được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên quan đến quan hệ lao động
hoặc quan hệ dân sự đó. Trong trường hợp này Tịa án có quyền triệu tập người đại
diện hợp pháp của họ tham gia tố tụng. Đối với những việc khác, việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện12. Quy
định này xuất phát từ quy định trong Bộ luật lao động năm 2012 (BLLĐ 2012) và
BLDS 2005: BLLĐ quy định người đủ mười lăm tuổi có quyền ký kết hợp đồng lao
động13; BLDS quy định trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám
tuổi có tài sản riêng đủ để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự mà khơng địi hỏi phải có sự đồng ý của người đại diện theo
pháp luật14.
Đương sự là cơ quan, tổ chức do người đại diện hợp pháp tham gia tố tụng15.
Người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức là người đứng đầu cơ quan, tổ chức hoặc
người được người đứng đầu cơ quan, tổ chức ủy quyền nhân danh mình tham gia tố
tụng.
1.1.3. Phân loại
Đương sự trong vụ án dân sự bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan.
Nguyên đơn là người khởi kiện, người được cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khởi
kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích của người
đó bị xâm phạm. Cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi
ích cơng cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên
đơn16.


12

Khoản 6 Điều 57 BLTTDS.
Khoản 1 Điều 18 BLLĐ 2012.
14
Khoản 2 Điều 20 BLDS 2005.
15
Khoản 7 Điều 57 BLTTDS.
16
Khoản 2 Điều 56 BLTTDS.
13


6

Bị đơn là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác
khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp
pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm17.
Ngồi ngun đơn, bị đơn, trong vụ án dân sự cịn bao gồm người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan. Bởi vì khi giải quyết vụ án dân sự, để giải quyết tranh chấp giữa
nguyên đơn và bị đơn thì có thể ảnh hưởng tới quyền, lợi ích của người thứ ba. Để giải
quyết vụ án tồn diện, triệt để địi hỏi cần thiết có sự tham gia của người thứ ba này với
tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là người tuy không khởi kiện, không bị kiện nhưng việc giải quyết vụ án dân sự
có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
tham gia tố tụng trong một vụ án dân sự theo sự đề nghị của chính mình hoặc theo đề
nghị của các đương sự khác và được tòa án chấp nhận. Trong trường hợp khơng có ai
đề nghị thì Tịa án phải chủ động đưa họ vào tham gia tố tụng để họ được bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình18. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bao gồm:

-

-

1.2.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập thì có các quyền và
nghĩa vụ của ngun đơn19. Thơng thường, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập có đủ điều kiện khởi kiện vụ án dân sự nhưng do vụ án
dân sự đã xuất hiện vì yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn mà lợi ích của họ gắn
với vụ án đó, vì vậy, họ phải tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khơng có u cầu độc lập là người nếu
tham gia tố tụng với bên ngun đơn hoặc chỉ có quyền lợi thì có quyền và
nghĩa vụ của nguyên đơn, nếu tham gia tố tụng với bên bị đơn hoặc chỉ có nghĩa
vụ thì có các quyền và nghĩa vụ của bị đơn20.
Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự

1.2.1. Khái niệm
Theo Từ điển Luật học, chứng minh trong tố tụng dân sự là hoạt động của chủ
thể tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng trong việc làm rõ các sự kiện, tình tiết
của vụ việc dân sự. Chứng minh trong tố tụng dân sự bao gồm các hoạt động như cung
17

Khoản 3 Điều 56 BLTTDS.
Khoản 4 Điều 56 BLTTDS.
19
Khoản 2 Điều 61 BLTTDS.
20
Khoản 3, Khoản 4 Điều 61 BLTTDS.

18


7

cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ21, đó là hoạt động của các chủ thể chứng
minh trong việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án và yêu cầu, phản bác yêu cầu
của các bên tham gia tố tụng.
Chứng minh là một trong những quy định quan trọng và cơ bản của tố tụng dân
sự. Chứng minh là cơng cụ để tịa án có thể nhận thức được chính xác sự việc đã xảy ra
trên thực tế làm cơ sở cho việc giải quyết các tranh chấp phát sinh một cách nhanh
chóng, chính xác và khách quan. Đối với đương sự, chứng minh là phương tiện để
đương sự có thể bảo vệ được quyền và lợi ích của mình, là việc các bên đương sự đưa
ra bằng chứng để khẳng định một sự kiện, một hành vi hay một vấn đề nào đó đúng, có
thật và chắc chắn.
1.2.2. Đặc điểm của hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự
Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự có một số đặc điểm sau:
-

-

-

Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự một dạng của hoạt động nhận thức
thế giới khách quan, là một quá trình nhận thức đi từ thấp đến cao, là sự thống
nhất biện chứng của nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Hoạt động chứng
minh bắt đầu từ khi khởi kiện cho đến khi vụ án được giải quyết bằng bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật22.
Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự bao gồm hoạt động tư duy và hoạt
động tố tụng của những người tiến hành tố tụng, đương sự và người tham gia tố

tụng khác đại diện hợp pháp của họ.
Bản chất của chứng minh là hoạt động sử dụng chứng cứ, thông qua việc sử
dụng chứng cứ dẫn đến tái hiện lại sự thật khách quan của vụ án. Hoạt động
chứng minh là một quá trình bao gồm các giai đoạn: thu thập chứng cứ, kiểm tra
chứng cứ và đánh giá chứng cứ.

Chứng minh được các chủ thể tố tụng thực hiện trong suốt quá trình giải quyết
vụ việc dân sự. Chủ thể chứng minh là các chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân
sự tham gia vào hoạt động chứng minh nhằm xác định có hay khơng những sự kiện,
21

Bộ Tư pháp Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, NXB Tư pháp, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội,
tr.166.
22
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, “Đề cương môn hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự”,
[ (truy cập ngày 14/05/2015).


8

tình tiết làm cơ sở cho yêu cầu hay phản đối của các bên đương sự trong vụ việc dân
sự. Các chủ thể chứng minh bao gồm: các đương sự, cá nhân, cơ quan tổ chức khởi
kiện để bảo vệ lợi ích cơng cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc u cầu Tịa án bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, Tòa án23, người đại diện của đương sự24,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự25,… Tùy thuộc vào vai trò, địa vị
tố tụng và giai đoạn tố tụng cụ thể, các chủ thể chứng minh có quyền và nghĩa vụ
chứng minh ở những phạm vi khác nhau.
Về phạm vi chứng minh theo địa vị chủ thể tố tụng: Đối với đương sự, đương sự
phải làm sáng tỏ tất cả các tình tiết, sự kiện làm cơ sở cho yêu cầu và phản đối yêu cầu
của mình; đối với người đại diện của đương sự thì tùy theo họ thuộc loại đại diện nào

(đại diện theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền) và đại diện cho đương sự nào mà
phạm vi chứng minh của họ được xác định khác nhau; đối với Tòa án, Tòa án phải xem
xét tất cả các tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ án…
Về phạm vi chứng minh theo cấp xét xử: ở cấp sơ thẩm thì phạm vi chứng minh
giới hạn theo yêu cầu của đương sự; ở cấp phúc thẩm, các chủ thể chứng minh phải
làm sáng tỏ những tình tiết, sự kiện liên quan đến yêu cầu trong đơn kháng cáo và
quyết định kháng nghị; ở thủ tục xem xét lại bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu
lực pháp luật thì phạm vi chứng minh là các vấn đề liên quan đến nội dung kháng nghị.
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành thì đương sự là chủ thể
chứng minh chủ yếu bởi đương sự là người thực hiện hầu hết các biện pháp thu thập
chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Tòa án, là người tham gia tích cực trong hoạt động
nghiên cứu, đánh giá chứng cứ và có vai trị nổi bật hơn so với các chủ thể khác trong
hoạt động chứng minh. Các bên đương sự là chủ thể của quan hệ pháp luật tranh chấp,
là những người hiểu rõ vụ việc của mình nhất, biết rõ tài liệu, chứng cứ liên quan đến
vụ việc của mình có những gì, đang ở đâu và hậu quả của việc chứng minh ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ
để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc khơng đưa ra đủ chứng cứ thì
phải chịu hậu quả của việc không chứng minh hoặc chứng minh không đầy đủ đó26.

23

Điều 6 BLTTDS.
Điều 74 BLTTDS.
25
Điều 64 BLTTDS.
26
Khoản 4 Điều 79 BLTTDS.
24



9

So sánh với các quy định trước đây thì quyền và nghĩa vụ chứng minh của
đương sự đã được quy định tại Điều 3, Điều 20 PLTTGQVADS, Điều 3, Điều 4
PLTTGQVAKT và Điều 2, Điều 3 PLTTGQTCLĐ. Tuy nhiên, các Pháp lệnh chỉ dừng
ở việc quy định có tính ngun tắc mà khơng cụ thể hóa bằng các quy định cụ thể về
quyền, nghĩa vụ và hậu quả của việc không thực hiện nghĩa vụ chứng minh để buộc các
đương sự thực hiện. Do đó các quy định này chưa có cơ sở để đi vào thực tế cuộc sống.
Nhận thấy được điều đó, Điều 6 BLTTDS đã quy định cung cấp chứng cứ và chứng
minh là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự. Nhà làm luật đã quy định khá rõ
về quyền, trách nhiệm của đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác trong việc cung cấp chứng cứ và chứng
minh cho yêu cầu khởi kiện.
Để hoạt động chứng minh được tập trung và đúng hướng, các đương sự cũng
như những chủ thể khác cần phải hướng hoạt động chứng minh vào một số vấn đề cụ
thể được gọi là đối tượng chứng minh. Hoạt động chứng minh cần tập trung vào những
điểm mấu chốt, không nên mất thời gian vào những vấn đề có tính chất thứ yếu hoặc
khơng có quan hệ với vụ kiện. Mỗi vụ án đều có một đối tượng chứng minh khác nhau.
Việc xác định đối tượng chứng minh của vụ án là điều kiện quan trọng để có thể giải
quyết vụ án đó một cách chính xác và nhanh chóng. Thơng thường, việc xác định đối
tượng chứng minh của vụ án là nhiệm vụ của Tòa án. Tuy nhiên, đối tượng chứng minh
lại được xác định trên cơ sở yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu của đương sự. Do vậy, các
đương sự cũng cần phải tự mình xác định đối tượng chứng minh trong vụ án mà mình
tham gia để có thể thu thập và cung cấp những chứng cứ cần thiết cho Tòa án.
1.3.

So sánh hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự với các thủ tục tố tụng

hình sự và tố tụng hành chính
 Hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự

Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự là quá trình đi tìm chân lý khách
quan của vụ án. Đây là việc các cơ quan có thẩm quyền phải tái tạo lại toàn bộ những
sự kiện đã xảy ra trong quá khứ. Quá trình chứng minh bắt đầu từ khi xác định có dấu
hiệu tội phạm cho đến khi giải quyết xong vụ án. Hoạt động chứng minh trong tố tụng
hình sự bao gồm hoạt động thu thập chứng cứ27, kiểm tra chứng cứ, đánh giá chứng
27

Điều 65 Bộ luật tố tụng hình sự.


10

cứ28 để xác định tội phạm và người phạm tội. Đấu tranh phòng chống tội phạm là
nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng nên trách nhiệm chứng minh tội phạm
thuộc về các cơ quan này.
Đối với bị can, bị cáo, pháp luật có quy định quyền đưa ra chứng cứ để chứng
minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình. Khơng giống như tố tụng
dân sự, đương sự phải có nghĩa vụ chứng minh cho u cầu của mình là có căn cứ và
hợp pháp, trong tố tụng hình sự các bị can, bị cáo khơng có nghĩa vụ phải cung cấp
chứng cứ, khơng có nghĩa vụ chứng minh mình vơ tội bởi họ thường ở vị trí bất lợi
khơng có đủ điều kiện để chứng minh, mặt khác, tâm lý chung của những người phạm
tội là họ luôn muốn chối bỏ trách nhiệm của mình. Vì vậy, trong những trường hợp bị
can, bị cáo không đưa ra được chứng cứ hoặc đưa ra chứng cứ nhưng chưa đủ để chứng
minh vô tội thì cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không được buộc họ
phải chứng minh là họ vơ tội hoặc khơng vì thế mà kết tội họ. Muốn xác định bị can, bị
cáo có phạm tội hay không, các cơ quan tiến hành tố tụng phải dùng những chứng cứ
của vụ án để làm căn cứ chứng minh tội phạm. Còn trong pháp luật tố tụng dân sự, nếu
đương sự không đưa ra được chứng cứ để chứng minh hoặc chứng minh không đầy đủ
cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp thì họ phải chịu hậu quả về việc không
chứng minh được hoặc chứng minh khơng đầy đủ đó. Đối tượng chứng minh trong vụ

án dân sự phụ thuộc vào yêu cầu của các đương sự. Cịn trong tố tụng hình sự, khi điều
tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải chứng
minh:
-

Có hành vi phạm tội xảy ra hay khơng, thời gian, địa điểm và những tình tiết
khác của hành vi phạm tội;
Có lỗi hay khơng có lỗi, lỗi vơ ý hay cố ý, có năng lực trách nhiệm hình sự hay
khơng;
Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị
cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
Tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.

Việc xác định nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hình sự thuộc về các cơ quan
tiến hành tố tụng là để các cơ quan này đề cao trách nhiệm trong việc thu thập, kiểm tra
28

Điều 66 Bộ luật tố tụng hình sự.


11

và đánh giá chứng cứ chứng minh tội phạm, tránh bỏ sót tội phạm và làm oan người vơ
tội, vì chính các cơ quan đó là người khởi tố, buộc tội, xét xử bị can, bị cáo.
 Hoạt động chứng minh trong tố tụng hành chính
Quy định về chứng cứ, chứng minh chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống
các quy định về tố tụng hành chính. Cũng giống như tố tụng dân sự, cung cấp chứng cứ
để chứng minh vừa là quyền đồng thời là nghĩa vụ của đương sự. Điều 8 và Điều 9
Luật tố tụng hành chính đã xây dựng nguyên tắc về cung cấp chứng cứ và chứng minh
thể hiện ở mức độ khác nhau trong các giai đoạn tố tụng. Đương sự có yêu cầu Tịa án

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ và chứng minh cho
u cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Đương sự phản đối yêu cầu của người
khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra
chứng cứ để chứng minh, nếu không đưa ra được chứng cứ hoặc không đầy đủ chứng
cứ thì phải chịu hậu quả của việc khơng chứng minh được hoặc chứng minh không đầy
đủ.
Luật tố tụng hành chính đề cao nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự
trong việc đưa ra yêu cầu và chứng cứ chứng minh cho u cầu của mình là có căn cứ
và hợp pháp. Đương sự không chứng minh được yêu cầu của mình bằng các chứng cứ
thì phải chịu hậu quả là thua kiện. Như vậy, nghĩa vụ chứng minh quy định trong Luật
tố tụng hành chính về cơ bản giống như trong các vụ án dân sự. Tuy nhiên, Luật tố
tụng hành chính quy định Tịa án có trách nhiệm chủ động kiểm soát hồ sơ và áp dụng
mọi biện pháp thu thập chứng cứ để đảm bảo tính khách quan trong việc giải quyết vụ
án: “Trường hợp đương sự khơng thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu
hoặc xét thấy cần thiết, Thẩm phán có thể tự mình hoặc ủy thác tiến hành xác minh, thu
thập chứng cứ để làm rõ các tình tiết của vụ án”29. Đây là quy định rất khác với
BLTTDS bởi trong tố tụng dân sự, Tòa án chỉ được áp dụng một hoặc một số biện
pháp thu thập chứng tài liệu, chứng cứ theo luật định30. Quy định này nhằm khắc phục
sự bất bình đẳng trong tố tụng hành chính vì đối tượng khiếu kiện trong vụ án hành
chính chủ yếu là các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước,
người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước. Khi tham gia tố tụng, bên bị kiện sẽ có
điều kiện thu thập chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyết định hành chính, hành vi
29
30

Khoản 2 Điều 78 Luật Tố tụng hành chính 2010.
Khoản 2 Điều 85 BLTTDS.


12


hành chính của mình trước Tịa án trong khi đó bên khởi kiện lại hạn chế quyền tiếp
cận thông tin hơn. Và để đương sự thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình trong việc
cung cấp chứng cứ và chứng minh, Điều 9 Luật tố tụng hành chính cũng đã quy định
trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp chứng cứ cho đương sự,
Tòa án, Viện kiểm sát.
Chứng minh là hoạt động của các chủ thể tố tụng trong việc làm rõ các tình tiết,
sự kiện của vụ án. Trong tố tụng dân sự và tố tụng hành chính, nghĩa vụ chứng minh
trước tiên thuộc về đương sự. Điều 58 Luật tố tụng hành chính quy định quyền và
nghĩa vụ của các đương sự:
-

-

Cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình;
u cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung
cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Tịa án;
Đề nghị Tịa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ án mà tự mình
khơng thể thực hiện được hoặc đề nghị Tòa án triệu tập người làm chứng, trưng
cầu giám định, định giá, thẩm định giá;
Được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất
trình hoặc do Tịa án thu thập…

Quy định này giúp cho đương sự hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình trong việc
thực hiện nghĩa vụ chứng minh, tạo điều kiện cho đương sự chủ động thu thập các tài
liệu, chứng cứ cần thiết, không ỷ lại vào Tịa án.
Như vậy, xuất phát từ tính chất giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành chính
mà hoạt động chứng minh trong các thủ tục tố tụng đó có sự quy định khác nhau.
Trong vụ án hình sự, việc giải quyết vụ án hình sự nhằm xem xét trách nhiệm hình sự

của cá nhân trước nhà nước vì thế, hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự do cơ
quan tiến hành tố tụng thực hiện, bị can, bị cáo khơng có nghĩa vụ chứng minh. Trong
khi đó, đối với các vụ án dân sự, hành chính, nghĩa vụ chứng minh đầu tiên và chủ yếu
thuộc về các đương sự. Tuy nhiên, thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và hành chính
cũng có những điểm khác biệt đáng kể xuất phát từ sự khác nhau của tính chất, nội
dung và quan hệ pháp luật cần phải giải quyết.


13

1.4. Sơ lược về hoạt động chứng minh của đương sự theo quy định của pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước ngày 1/1/2005
1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989
Cách mạng Tháng 8 năm 1945 đã lật đổ ách thống trị của chế độ thực dân phong
kiến, thiết lập nên Nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra một kỷ nguyên
mới trong lịch sử của dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên Độc lập - Tự do. Ngày 10 tháng 10
năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 47 tạm thời giữ các luật lệ hiện
hành của chế độ cũ không trái với nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ
cộng hịa. Tiếp theo đó, nhà nước ta ban hành nhiều Sắc lệnh khác nhau như Sắc lệnh
số 13 ngày 24/01/1946 về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán, Sắc lệnh số 51
ngày 17/04/1946 ấn định thẩm quyền các Tịa án và sự phân cơng các nhân viên trong
Tịa án, Sắc lệnh số 144-SL ngày 22/12/1949 mở rộng quyền bào chữa cho các đương
sự trước Tòa án, Sắc lệnh số 85-SL ngày 22/05/1950 cải cách bộ máy tư pháp và luật tố
tụng,… Trong giai đoạn này, các Sắc lệnh chủ yếu quy định về thủ tục tố tụng dân sự
và vẫn chưa có quy định cụ thể về hoạt động chứng minh của đương sự.
Mãi cho đến Thông tư 2386-NCPL ngày 19/12/1961 của Tòa án nhân dân tối
cao hướng dẫn cách viết bản án xử sơ thẩm về hình sự, ly hơn và dân sự có quy định:
“…Ngun đơn yêu cầu được giải quyết những quyền lợi cụ thể gì và nêu ra những
bằng chứng gì làm căn cứ. Ý kiến của bị đơn đối với lời thỉnh cầu của bên ngun đơn:
có chấp nhận hay khơng chấp nhận lời thỉnh cầu ấy, hoặc chỉ chấp nhận đến mức độ

nào thơi, dẫn những bằng chứng gì làm căn cứ cho ý kiến đó…”. Khi nguyên đơn có
yêu cầu giải quyết quyền lợi nào đó thì phải có chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của
mình, bị đơn phải nêu rõ ý kiến của mình có chấp nhận hay khơng hoặc chấp nhận yêu
cầu của nguyên đơn đến mức nào thì cũng phải có chứng cứ làm căn cứ cho ý kiến đó.
Tại Đề án năm 1964 của Tịa án nhân dân tối cao về chuyển hướng tổ chức các
Tòa án địa phương chỉ rõ: “…Trong các vụ kiện về dân sự, các bên đương sự có trách
nhiệm chứng minh các yêu cầu của mình và đề xuất các chứng cứ. Nếu các chứng cứ
do các bên đương sự xuất trình chưa đầy đủ thì Tịa án sẽ u cầu họ xuất trình chứng
cứ bổ sung” và Thơng tư số 06-TATC ngày 25/02/1974 của Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn việc điều tra trong tố tụng dân sự quy định: “…Các đương sự (nguyên đơn,
bị đơn và người dự sự) có quyền đề xuất những yêu cầu và có nhiệm vụ trình bày
những chứng cứ, lý lẽ để chứng minh những yêu cầu và bảo vệ những quyền lợi hợp


14

pháp của mình”. Đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, Tòa án sẽ yêu cầu
họ xuất trình chứng cứ trong trường hợp chứng cứ chưa đầy đủ và đương sự nào có u
cầu thì có trách nhiệm chứng minh u cầu của mình.
Thêm vào đó, Thơng tư số 06-TATC ngày 25/02/1974 của Tòa án nhân dân tối
cao hướng dẫn việc điều tra trong tố tụng dân sự quy định: “trong tố tụng dân sự, việc
điều tra thu thập chứng cứ, lập hồ sơ khi có đơn kiện là nhiệm vụ của Tòa án nhân dân.
Các đương sự (nguyên đơn, bị đơn và người dự sự) có quyền đề xuất những u cầu và
có nhiệm vụ trình bày những chứng cứ, lý lẽ để chứng minh những yêu cầu và bảo vệ
những quyền lợi hợp pháp của mình. Nhiệm vụ của Tịa án nhân dân là phải kiểm tra
kỹ lưỡng những chứng cứ mà các đương sự đã đề xuất, đồng thời phải chủ động tiến
hành mọi biện pháp điều tra cần thiết để làm sáng tỏ sự thật”. Như vậy, Tòa án cũng
chỉ tiến hành xem xét trong phạm vi yêu cầu của đương sự, đồng thời Tịa án phải tích
cực chủ động điều tra để giải quyết vụ án, xác định những điểm mấu chốt, những vấn
đề cần phải chứng minh. Bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự ban hành

kèm theo Thơng tư số 96-NCLP ngày 08/02/1977 của Tịa án nhân dân tối cao cũng
quy định: “Để bảo vệ những quyền lợi của mình, các đương sự có nhiệm vụ phải đề
xuất chứng cứ, nhưng Tòa án nhân dân không được phép chỉ dựa vào những lời khai
của các đương sự và những giấy tờ mà họ đã xuất trình làm căn cứ cho việc xét xử, mà
phải dùng mọi biện pháp cần thiết để làm sáng tỏ sự thật”.
Trong điều kiện lúc bấy giờ, trình độ hiểu biết về pháp luật và trình độ văn hóa
của đại đa số các đương sự còn thấp, các đơn kiện và lời trình bày của họ khơng được
rõ ràng và đầy đủ, vì vậy Tịa án phải tích cực giúp đỡ các đương sự hiểu rõ những
quyền và lợi ích hợp pháp của mình để có thể xuất trình những chứng cứ cần thiết để
chứng minh31.
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1990 đến trước ngày 1/1/2005
Trong giai đoạn này, nước ta chưa có BLTTDS mà chỉ có ba pháp lệnh về thủ
tục giải quyết các vụ án, cụ thể là:
-

31

PLTTGQVADS được Hội đồng Nhà nước thơng qua ngày 29/11/1989 và có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/1990;

Tòa án nhân dân tối cao (1977), Tập hệ thống hóa luật lệ về Tố tụng dân sự, Hà Nội, tr.58.


15

-

PLTTGQVAKT được Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 16/03/1994

-


và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/1994;
PLTTGQTCLĐ được Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 11/04/1996
và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/1996.
Điều 3 PLTTGQVADS; Điều 3, Điều 4 PLTTGQVAKT; Điều 2, Điều 3

PLTTGQTCLĐ đều quy định: Đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo vệ
quyền lợi của mình, Tịa án có nhiệm vụ xem xét mọi tình tiết của vụ án và khi cần
thiết có thể thu thập thêm chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính
xác. Như vậy, các Pháp lệnh trước đây đã đồng nhất nghĩa vụ cung cấp chứng cứ với
nghĩa vụ chứng minh của đương sự. Việc đồng nhất hai nghĩa vụ này là khơng có cơ sở
bởi vì hoạt động chứng minh bao gồm các giai đoạn từ thu thập, giao nộp chứng cứ đến
nghiên cứu và đánh giá chứng cứ vì vậy chưa tạo ra cơ chế hữu hiệu để đương sự có
thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tịa án vẫn có nhiệm vụ điều tra, phân
tích, làm sáng tỏ các tình tiết, sự kiện, chủ động thu thập thêm chứng cứ để giải quyết
vụ án. Vì vậy, hoạt động chứng minh của đương sự trong giai đoạn này vẫn còn khá
mờ nhạt và khơng được đề cao hay nói cách khác, trong giai đoạn này, hoạt động
chứng minh của Tòa án có vai trị chủ yếu.
Các quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự đã được cụ thể hóa tại Điều
20 PLTTGQVADS, Điều 21 PLTTGQVAKT, Điều 20 PLTTGQTCLĐ: Các đương sự
có quyền bình đẳng trong việc cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình; được
biết chứng cứ do bên kia cung cấp; yêu cầu Tòa án tiến hành các biện pháp điều tra cần
thiết, tham gia tranh luận tại phiên tịa; các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ.
Khi tiến hành nộp đơn khởi kiện thì phải nộp kèm theo đó là các tài liệu chứng minh
cho yêu cầu của mình32. Các Pháp lệnh này tuy đã có quy định nghĩa vụ chứng minh
của đương sự nhưng đã không quy định hậu quả khi đương sự không thực hiện nghĩa
vụ này mà lại quy định nhiệm vụ của Tòa án trong việc thu thập chứng cứ. Mà khi việc
thu thập chứng cứ là nhiệm vụ của Tịa án thì dù đương sự có u cầu hay khơng có
u cầu thì Tịa án vẫn phải chủ động điều tra nếu như thấy chưa đủ chứng cứ. Quá
trình nghiên cứu và đánh giá chứng diễn ra chủ yếu tại phiên tịa, các bên đương sự có

quyền tham gia phiên tịa, được quyền tranh luận và trình bày ý kiến của mình về đánh
giá chứng cứ, đề xuất hướng giải quyết vụ án, có quyền kháng cáo bản án, quyết định
32

Khoản 2 Điều 32 PLTTGQTCLĐ, Khoản 3 Điều 31 PLTTGQVAKT, Khoản 3 Điều 34 PLTTGQVADS.


×