Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của tòa án nhân dân theo lại việc bị kiếu kiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 80 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------***------------

VŨ THỊ NGA
MSSV: 0955040226

THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH CỦA TỊA
ÁN NHÂN DÂN THEO LOẠI VIỆC BỊ KHIẾU KIỆN

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN
Niên khóa: 2009 - 2013

GVHD: ThS. Lê Việt Sơn

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2013


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
-

Luật TTHC

: Luật Tố tụng hành chính (số 64/2010/QH12 ngày
24/11/2010 có hiệu lực thi hành ngày 01/7/2011)

-

Pháp lệnh
TTGQCVAHC


: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (số
49/1996/PL-UBTVQH9 ngày 21/05/1996 có hiệu lực ngày
01/7/1996 được sửa đổi và bổ sung một số điều theo Pháp
lệnh số 10/1998/PL-UBTVQH10 ngày 25/12/1998 và Pháp
lệnh số 29/2006/PL-UBTVQH11 ngày 05/4/2006)

-

Nghị quyết 02

: Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP (ngày 29/7/2011 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao)

-

QĐHC

: Quyết định hành chính

-

HVHC

: Hành vi hành chính

-

Thủ tục TTHC

: Thủ tục tố tụng hành chính


-

Pháp luật TTHC : Pháp luật tố tụng hành chính


MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT
KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH CỦA TỊA ÁN NHÂN DÂN THEO LOẠI VIỆC BỊ
KHIẾU KIỆN ............................................................................................................ 6
1.1.

Khái niệm và đặc điểm thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của
Tịa án nhân dân theo loại việc bị khiếu kiện .............................................. 6

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tòa án
nhân dân .......................................................................................................... 6
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tòa án
nhân dân theo loại việc bị khiếu kiện .............................................................. 9
Cơ sở xác định thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tịa án
nhân dân theo loại việc bị khiếu kiện ......................................................... 14
1.2.1. Cơ sở lý luận .................................................................................................. 14
1.2.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................... 18
1.2.

1.3.

Ý nghĩa thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tịa án nhân dân

theo loại việc bị khiếu kiện .......................................................................... 21

1.3.1. Đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức ................................................................. 21
1.3.2. Đối với Tòa án ............................................................................................... 22
1.3.3. Đối với hoạt động giải quyết khiếu kiện và hoạt động quản lý hành chính .. 23
Những quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành
chính của Tịa án nhân dân theo loại việc bị khiếu kiện .......................... 24
1.4.1. Loại việc thứ nhất, quyết định hành chính .................................................... 25
1.4.

1.4.2. Loại việc thứ hai, hành vi hành chính ........................................................... 31
1.4.3. Loại việc thứ ba, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân .............................................................. 35
1.4.4. Loại việc thứ tư, quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ
Tổng cục trưởng và tương đương trở xuống ................................................. 36
1.4.5. Loại việc khiếu kiện thứ năm, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý
vụ việc cạnh tranh ......................................................................................... 38
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN THẨM
QUYỀN GIẢI QUYẾT KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH CỦA TỊA ÁN NHÂN
DÂN THEO LOẠI VIỆC BỊ KHIẾU KIỆN ........................................................ 41


2.1.

Thực trạng thực hiện thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tịa
án nhân dân theo loại việc bị khiếu kiện ................................................... 41

2.2.

Những bất cập về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tịa án

nhân dân theo loại việc bị khiếu kiện ........................................................ 46
2.2.1. Về mặt pháp lý ............................................................................................... 47
2.2.2. Về mặt thực tiễn ............................................................................................. 64
2.3.

Những giải pháp hoàn thiện thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính
của Tịa án nhân dân theo loại việc bị khiếu kiện .................................... 66

2.3.1. Giải pháp về mặt pháp lý............................................................................... 67
2.3.2. Giải pháp về mặt thực tiễn ............................................................................ 73
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng cuộc đổi mới đất nước hiện nay đặt chúng ta trước nhiều nhiệm vụ
quan trọng, cấp bách, trong đó có mục tiêu hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ chế
hữu hiệu đảm bảo quyền con người, quyền công dân, đáp ứng mục tiêu xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập và phát triển bền vững. Vậy nên
trong những năm gần đây, cùng với sự biến chuyển của các quan hệ xã hội nói
chung, nhà nước ta đã dần sửa đổi và hoàn thiện hệ thống pháp luật cho phù hợp với
cuộc sống, trong đó phải kể đến pháp luật tố tụng hành chính, một ngành luật mới
nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân.
Ngày 24/11/2010 Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XII, tại kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật Tố tụng hành chính số 64/2010/QH12, thay
thế Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính số 49/1996/PL-UBTVQH9
ngày 21/05/1996 (đã được sửa đổi và bổ sung một số điều theo Pháp lệnh số
10/1998/PL-UBTVQH10 ngày 25/12/1998 và Pháp lệnh số 29/2006/PLUBTVQH11 ngày 05/4/2006) với nhiều quy định mới tiến bộ, phù hợp với thực tiễn
đời sống và đáp ứng yêu cầu trong Chiến lược cải cách tư pháp của Bộ Chính trị số

49-NQ-TW ngày 02/6/2005. Trong đó, một trong những nội dung có ý nghĩa quan
trọng đối với nền tài phán hành chính là việc mở rộng thẩm quyền giải quyết khiếu
kiện hành chính của Tịa án nhân dân theo loại việc bị khiếu kiện đã trở thành tâm
điểm nghiên cứu, bình luận của giới nghiên cứu luật. Tính đến nay, Luật Tố tụng
hành chính đã đi vào thực hiện được hai năm, người dân đã quan tâm hơn đến cơ
chế giải quyết khiếu kiện hành chính, bảo vệ quyền lợi của mình một cách cơng
khai, minh bạch trước những quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ
quan, tổ chức, những người đại diện cho quyền lực nhà nước xâm hại đến mình.
Tuy nhiên, cùng với đó, quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính
theo loại việc bị khiếu kiện bộc lộ nhiều điểm còn hạn chế, bất cập: phương pháp
xây dựng điều luật kết hợp loại trừ và liệt kê dù có tiến bộ so với Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính nhưng cịn chưa thật hợp lý; nhiều khiếu kiện còn
thiếu rõ ràng và chưa đồng bộ với nhiều quy khác trong cùng nội dung Luật Tố tụng
hành chính; có khiếu kiện cịn mâu thuẫn với quy định tại các Luật khác liên quan
như Luật Khiếu nại số 02/2011/QH13 ngày 11/11/2011… Chính điều này đã dẫn tới
hiệu quả giải quyết khiếu kiện hành chính chưa thành cơng như mong muốn: Tòa án
còn nhiều lúng túng khi xác định đối tượng khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết
hay không, cũng như quan điểm khác nhau khi nhận định về một loại việc; người

1


dân còn bỡ ngỡ với quy định mới, hoang mang khi lựa chọn cơ chế bảo vệ quyền lợi
cho mình tại Tòa án…
Với mong muốn giải quyết tốt cả về mặt lý luận và thực tiễn những tồn tại kể
trên, đồng thời cho rằng thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tịa án
nhân dân theo loại việc bị khiếu kiện là một chế định pháp lý quan trọng, có ý nghĩa
cấp thiết và u cầu hồn thiện trong công cuộc đổi mới đất nước, chúng tôi quyết
định chọn đề tài: “Thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tòa án
nhân dân theo loại việc bị khiếu kiện” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân

luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tịa án
nhân dân theo loại việc bị khiếu kiện đã được chú trọng từ những năm đầu khi nền
tài phán hành chính bắt đầu được thiết lập, khi đây là một nội dung quan trọng thể
hiện bản chất của một nhà nước đề cao quyền con người, quyền cơng dân, vì nhân
dân mà phát triển. Đặc biệt hơn, khi Luật Tố tụng hành chính có hiệu lực, quan
niệm về việc xem xét tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành
chính của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền được mở rộng hơn nên việc
nghiên cứu so với trước kia đã có những điều mới mẻ hơn, chuyên sâu hơn. Cho
đến nay, đã có khơng ít hội thảo, sách chun khảo, đặc san, cơng trình nghiên cứu
đã được tun bố có nội dung về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính theo
loại việc bị khiếu kiện như: “Chức năng, thẩm quyền của Tịa hành chính” của tác
giả Lại Quốc Chơn, Vương Kim Loan tham gia Hội nghị nghiên cứu khoa học của
sinh viên lần thứ nhất tại thành phố Hồ Chí Minh năm 1997; “Thẩm quyền của Tịa
hành chính trong việc giải quyết các vụ án hành chính” của tác giả Nguyễn Anh
Tuấn, Luận văn cử nhân trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh năm 2002;
“Thẩm quyền của Tịa hành chính trong việc giải quyết các vụ án hành chính” của
tác giả Mai Huỳnh khơi, Luận văn cử nhân trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh năm 2003; “Thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính của Tịa án” của tác
giả Nguyễn Thanh Bình do nhà xuất bản Tư pháp phát hành năm 2004; “Chuyên đề
xét xử hành chính” trong Hội thảo Chuyên đề khoa học xét xử của Viện khoa học
xét xử năm 2009; “Chủ đề Luật Tố tụng hành chính” trong Đặc san tuyên truyền
pháp luật của Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính
Phủ năm 2011; “Thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân” của tác giả
Nguyễn Mai Linh, Luận văn cử nhân trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh
năm 2012. Ngồi ra cịn có những bài báo đăng trên các tạp chí Tịa án nhân dân,
Khoa học pháp lý, Dân chủ và Pháp luật, Nghề luật, Nghiên cứu lập pháp, Luật học,



Nhà nước và Pháp luật… cũng đã có những nghiên cứu những khía cạnh lớn, nhỏ
khác nhau về vấn đề này.
Các nghiên cứu trên đây, ở những mức độ khác nhau đã hướng sự quan tâm
vào thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tịa án nhân dân theo loại
việc bị khiếu kiện ở các điểm: Chỉ ra và so sánh các loại việc được khiếu kiện tại
Tòa án nhân dân ở các giai đoạn trước và sau khi có Luật Tố tụng hành chính; Nêu
ra thực trạng, những bất cập trong quy định của pháp luật và thực tiễn một cách khái
quát; Cùng với đó là kiến giải một số quy định về các loại khiếu kiện.
Tuy nhiên, chưa có một cơng trình nghiên cứu nào xem thẩm quyền giải
quyết khiếu kiện hành chính của Tịa án nhân dân theo loại việc bị khiếu kiện là một
đối tượng nghiên cứu độc lập, với những nghiên cứu chuyên sâu về các quy định
pháp luật và trên cơ sở thực tiễn hai năm sau khi Luật Tố tụng hành chính có hiệu
lực thực thi. Bởi vậy, đề tài nghiên cứu này sẽ bổ sung, hồn thiện những vấn đề
trước đó cịn bỏ ngỏ, đặc biệt là: Tập trung phân tích kỹ những khiếu kiện hành
chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân; Chỉ ra những điểm mới
tiến bộ so với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính và những điểm bất
cập cịn tồn tại trong quy định tại Luật Tố tụng hành chính về thẩm quyền theo loại
việc; Cuối cùng là đề xuất các giải pháp cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn vấn đề này.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan đến thẩm quyền
giải quyết khiếu kiện hành chính của Tịa án nhân dân theo loại việc bị khiếu kiện,
phân tích, đánh giá thực trạng và thực tiễn thực hiện thẩm quyền theo loại việc này
ở Việt Nam, Trên cơ sở đó, tìm ra những bất cập, hạn chế cịn tồn tại và đề xuất
những kiến nghị nhằm hoàn thiện thẩm quyền giải quyết khiếu kiện của Tòa án
nhân dân theo loại việc bị khiếu kiện, góp phần hồn thiện các quy định pháp luật
và nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu kiện của Tòa án trên thực tế.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu: Tập trung và đi sâu nghiên cứu thẩm quyền giải
quyết khiếu kiện của Tòa án nhân dân theo loại việc bị khiếu kiện nhằm nhìn nhận
một cách khách quan những điểm đạt được cũng như còn bất cập về quy định pháp

luật và thực tiễn. Đồng thời kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện vấn đề này.
Về phạm vi nghiên cứu: Để giải quyết tốt mục tiêu đề tài, chúng tôi tập trung
vào quy định tại Điều 28 Luật Tố tụng hành chính, hướng dẫn tại Nghị quyết số
02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011, và trên cơ sở các quy định liên quan của Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, quy định tại Luật Khiếu nại nhằm có
cái nhìn so sánh, đối chiếu khách quan. Đồng thời, số liệu nghiên cứu minh họa cho


phần thực trạng lấy từ Báo cáo tổng kết công tác của Tòa án nhân dân tối cao từ
năm 2004 đến nay, và các khiếu kiện thực tế đã diễn ra tại Tòa án nhân dân trong
những năm gần đây.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết các mục tiêu nghiên cứu đề ra, đề tài đã sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu như phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử Mác – Lê Nin kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như
quan điểm, chủ trương của Đảng, nhà nước về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa; phương pháp logic – hệ thống; phương pháp phân tích, so sánh để thấy điểm
khác nhau, điểm tiến bộ của các quy định pháp luật; phương pháp diễn dịch, quy
nạp; phương pháp thống kê, phân loại và nhiều phương pháp khác nhằm đạt hiệu
quả tối ưu cho đề tài.
6. Ý nghĩa khoa học và tính ứng dụng
Việc hồn thành đề tài có ý nghĩa là tài liệu tham khảo cho việc hoàn thiện
quy định của pháp luật tố tụng hành chính về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện
hành chính của Tịa án nhân dân theo loại việc bị khiếu kiện trong giai đoạn hiện
nay. Đồng thời, những kiến thức khoa học trong đề tài sẽ cơ sở trong công tác
nghiên cứu khoa học luật cũng như những ai quan tâm đến nội dung này.
7. Bố cục của đề tài
Đề tài Thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tịa án nhân dân
theo loại việc bị khiếu kiện có bố cục gồm phần mở đầu, phần nội dung và kết luận.
Trong phần nội dung gồm hai chương:

Chương 1: Những vấn đề chung về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành
chính của Tịa án nhân dân theo loại việc bị khiếu kiện
Chương 2: Thực trạng và những kiến nghị hoàn thiện thẩm quyền giải quyết
khiếu kiện hành chính của Tịa án nhân dân theo loại việc bị khiếu kiện
Cuối cùng là danh mục tài liệu tham khảo
Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới ThS. Lê Việt Sơn – Giảng
viên Khoa Luật Hành Chính – Nhà nước đã hướng dẫn tận tâm, nhiệt tình từ những
kiến thức cơ bản nhất đến những lưu ý nhỏ nhất, cùng tồn thể thầy cơ trong khoa,
gia đình và bạn bè đã ủng hộ và giúp đỡ tác giả trong quá trình nghiên cứu và hồn
thiện Khóa luận này.


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT KHIẾU KIỆN
HÀNH CHÍNH CỦA TỊA ÁN NHÂN DÂN THEO LOẠI VIỆC
BỊ KHIẾU KIỆN
Khái niệm và đặc điểm thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của
Tịa án nhân dân theo loại việc bị khiếu kiện
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tịa
án nhân dân
1.1.

Thẩm quyền là một khái niệm phổ biến trong khoa học pháp lý và cả trong cuộc
sống đời thường. Người ta quen dùng “thẩm quyền” để ám chỉ quyền lực của ai đó đối
với một cơng việc, lĩnh vực nào đó mà khi nhắc tới ai cũng có thể hiểu. Theo Từ điển
tiếng Việt thì thẩm quyền “là quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo
pháp luật1”. Định nghĩa này đã khái quát một cách chung nhất về thẩm quyền.
Chúng tơi tìm hiểu khái niệm “thẩm quyền” nói trên làm cơ sở nghiên cứu thẩm quyền
giải quyết khiếu kiện hành chính của Tịa án nhân dân (TAND) nói chung. Phải nói
rằng đây là một vấn đề pháp lý khá phức tạp, khi khơng có một văn bản pháp luật nào

chính thức định nghĩa hay đưa ra khái niệm cụ thể, có chăng là sự nghiên cứu của một
số cơng trình khoa học. Cũng chính bởi lý do này mà quá trình nghiên cứu chúng tôi
nhận thấy nhiều quan điểm khác nhau. Thứ nhất, quan điểm của Giáo trình Luật Tố
tụng hành chính Việt Nam của Đại học Luật Hà Nội thì “thẩm quyền xét xử hành
chính của TAND là quyền và nghĩa vụ của TAND trong việc thụ lý và giải quyết các vụ
án hành chính2”. Khi giải quyết các vụ án này, Tịa hành chính thuộc TAND nhân
danh nhà nước, ra những phán quyết có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các đối tượng
liên quan. Khi xem xét thẩm quyền của Tịa hành chính phải hiểu cả quyền hạn, nhiệm
vụ và trách nhiệm của Tịa hành chính, quyền và nghĩa vụ pháp lý của các Thẩm phán,
thư ký Tịa hành chính trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính, nhấn mạnh
mục đích của việc xét xử hành chính là xem xét và phán quyết tính hợp pháp của các
quyết định hành chính (QĐHC), hành vi hành chính (HVHC) và phải bảo đảm và bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân. Thứ hai, quan điểm của Giáo trình Luật Tố
tụng hành chính Việt Nam của Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh thì: “thẩm quyền
xét xử của TAND là phạm vi quyền hạn của Tòa án trong việc thụ lý và giải quyết các
vụ án hành chính3”. Hình thức tồn tại của thẩm quyền là phạm vi các quyền cụ thể
1

Viện ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng, tr.
922.
2
Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb. Tư pháp, tr. 66.
3
Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb. Hồng Đức –
Hội Luật gia Việt Nam, tr. 86.

1


được pháp luật tố tụng quy định đối với Tòa án trong quá trình thụ lý và giải quyết vụ

án hành chính. Cũng như quan điểm của Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam
của Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình của Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh cũng
cho rằng thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án được pháp luật quy định trên cơ sở
vai trò và chức năng của Tòa án. Bên cạnh đó, thẩm quyền này được xác định ở hai
phương diện, hay hai nội dung sau đây: Một là thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố
tụng hành chính (thủ tục TTHC); hai là thẩm quyền quyết định khi giải quyết vụ án cụ
thể ở các cấp xét xử. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu chỉ cho phép giải quyết nội
dung thứ nhất là thẩm quyền giải quyết theo thủ tục TTHC. Thẩm quyền này bao gồm
thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính theo loại việc bị khiếu kiện, thẩm quyền
theo lãnh thổ và thẩm quyền theo cấp Tòa án.
Tựu chung lại, chúng tôi nhận thấy rằng cả hai quan điểm của hai giáo trình trên
đều đã chỉ ra rằng thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của TAND nói chung
chính là quyền và nghĩa vụ của TAND trong việc thụ lý và giải quyết các vụ án hành
chính. Chúng tơi đồng ý với quan điểm này, và đưa ra khái niệm như sau: “thẩm quyền
giải quyết khiếu kiện hành chính của TAND là phạm vi quyền hạn của Tòa án trong
việc thụ lý và giải quyết các vụ án hành chính”. Đây là thẩm quyền giải quyết theo thủ
tục TTHC, gồm:
Thứ nhất, thẩm quyền theo loại việc bị khiếu kiện cho phép xác định những loại
khiếu kiện nào và trong các lĩnh vực hoạt động quản lý hành chính nào thì TAND
được quyền thụ lý để giải quyết theo thủ tục TTHC.
Thứ hai, thẩm quyền theo cấp Tòa án trong hệ thống TAND cho phép xác định
những khiếu kiện hành chính nào thì thuộc thẩm quyền thụ lý và giải quyết của TAND
cấp huyện, những khiếu kiện hành chính nào thì thuộc thẩm quyền giải quyết của
TAND cấp tỉnh.
Thứ ba, thẩm quyền theo theo lãnh thổ cho phép phân định thẩm quyền giữa
các TAND địa phương cụ thể trong cùng một cấp đối với những khiếu kiện thuộc thẩm
quyền giải quyết của TAND cấp đó. Do Tịa án nước ta được tổ chức theo đơn vị hành
chính – lãnh thổ nên việc phân định thẩm quyền giữa các cấp Tòa án và thẩm quyền
theo lãnh thổ gắn liền với nhau, chẳng hạn nói thẩm quyền của Tịa án cấp huyện thì
phải đồng thời chỉ rõ phạm vi lãnh thổ mà Tòa án này được thụ lý các khiếu kiện hành

chính.
Những trình bày trên đây đã nhấn mạnh nội dung khái niệm thẩm quyền giải
quyết khiếu kiện hành chính của TAND. Chúng tơi tiếp tục tiếp cận nội hàm của khái
niệm này từ những đặc điểm của thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của
TAND sau đây:


Thứ nhất, thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của TAND được xác
định trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân cơng, phối hợp giữa các
cơ quan trong bộ máy nhà nước
Việt Nam được xác định là Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thống nhất, không phân chia, nhưng có
sự phân cơng thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (Điều 1 Hiến pháp
1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001). Việc pháp luật hiện hành quy định thẩm quyền giải
quyết khiếu kiện hành chính thuộc về TAND là một biện pháp kiểm soát của cơ quan
tư pháp đối với hoạt động thực thi quyền hành pháp, là giải pháp khắc phục khả năng
độc quyền trước đây của cơ quan công quyền và công chức trong tài phán hành chính,
đem lại nhiều cơ hội thực hiện các quyền chính đáng của người dân.
Thứ hai, thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính được thực hiện theo thủ
tục TTHC
Thủ tục TTHC là trình tự các bước giải quyết vụ án hành chính bằng con đường
TAND, là dạng cụ thể của thủ tục tư pháp nên nó có đủ những đặc điểm chung của thủ
tục tư pháp (công khai, dân chủ, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, có Hội thẩm nhân
dân tham gia, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán khi xét xử). Ngoài ra, thủ tục
TTHC cịn có những đặc điểm đặc thù như: Một là, thủ tục TTHC có thể được coi là
thủ tục tiếp theo của thủ tục hành chính. Thủ tục này phát sinh từ khi có đơn khởi kiện
của đương sự và đơn khởi kiện này được TAND thụ lý giải quyết. Hai là, các đương
sự bình đẳng khi tham gia thủ tục TTHC theo Điều 10 Luật Tố tụng hành chính (Luật
TTHC), xuất phát từ nguyên tắc hiến định “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp
luật” (Điều 52 Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001). Ba là, thủ tục TTHC là

thủ tục viết và đối kháng, các bên tranh luận và cung cấp các hồ sơ, tài liệu của mình
đều thơng qua hình thức văn bản. Cuối cùng, thủ tục TTHC cũng đã xác định Tịa án
có quyền tạm đình chỉ việc thi hành QĐHC bị kiện, có thể được tiến hành ở bất cứ giai
đoạn nào trong q trình giải quyết vụ án hành chính.
Thứ ba, thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính do pháp luật tố tụng hành
chính (pháp luật TTHC) quy định
Pháp luật TTHC gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong q trình Tịa án giải quyết vụ án hành chính, tức là giải quyết
các tranh chấp giữa các chủ thể của pháp luật TTHC với nhau để bảo vệ và duy trì lợi
ích nhà nước, lợi ích xã hội, bảo đảm quyền và lợi ích của các đương sự. Hiện nay việc
giải quyết vụ án hành chính được điểu chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật: Một là, Hiến
pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001. Hiến pháp là cơ sở, nền tảng cho
ngành luật TTHC. Hai là, Luật TTHC có hiệu lực ngày 01/07/2011. Đây là nguồn chủ


yếu và quan trọng nhất, quy định trực tiếp và có hệ thống về tất cả các vấn đề của
TTHC và đặc biệt quy định thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của TAND
theo loại việc bị khiếu kiện. Ba là, các văn bản pháp luật khác. Do QĐHC, HVHC
thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nên khi xem xét tính hợp pháp của thẩm
quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của TAND cần phải áp dụng các văn bản
chuyên ngành khác như các văn bản Luật tổ chức TAND 2002, Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân 2002, Luật Khiếu nại 2011, Luật Tố cáo 2011, Luật Đất đai năm
2003, Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật Bảo vệ môi trường 2005, Luật Nhà ở 2005…
và các Nghị định của Chính phủ liên quan. Bốn là, các văn bản dưới luật khác: Nghị
quyết số 56/2010/QH12 ngày 24 tháng 11 năm 2010 về việc thi hành Luật TTHC,
Nghị quyết số 01/2011/NQ-HĐTP ngày 29 tháng 7 năm 2011 của Hội đồng Thẩm
phán TAND tối cao hướng dẫn một số quy định của Nghị quyết số 56/2010/QH12
ngày 24 tháng 11 năm 2010 của Quốc hội về việc thi hành Luật TTHC, Nghị quyết số
02/2011/NQ-HĐTP ngày 29 tháng 7 năm 2011 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối
cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật TTHC (Nghị quyết 02).

1.1.2. Khái niệm và đặc điểm thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của TAND
theo loại việc bị khiếu kiện
Như phần trên đã chỉ rõ thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính theo loại
việc bị khiếu kiện là một trong ba loại thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính
của TAND theo thủ tục TTHC. Có thể nói rằng, đây là thành tố quan trọng và không
thể thiếu khi xác định vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý của TAND hay không.
Cũng như thuật ngữ “thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính”, thuật ngữ
“thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính theo loại việc bị khiếu kiện” cũng
không được định nghĩa hoặc đưa ra khái niệm cụ thể trong bất kỳ văn bản pháp luật
nào. Rõ ràng các nhà làm luật mặc định nghĩa tự thân của nó qua cách hiểu của thuật
ngữ này và các quy định cụ thể trong Điều 28 Luật TTHC. Quá trình xây dựng và áp
dụng pháp luật TTHC đã khơng có nhiều sự tranh cãi về khái niệm này, mà chỉ có sự
thay đổi về kỹ thuật lập pháp, về nội hàm của khái niệm mà thôi.
Chúng tôi đồng tình với khái niệm thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính
theo loại việc bị khiếu kiện là thẩm quyền “xác định các loại việc thuộc thẩm quyền
giải quyết của TAND theo thủ tục TTHC4”. Trước kia, theo quy định của Pháp lệnh
TTGQCVAHC ban hành ngày 21 tháng 5 năm 1996, được sửa đổi bổ sung hai lần
năm 1998 và năm 2006 (Pháp lệnh TTGQCVAHC) quy định về thẩm quyền theo loại
việc bị khiếu kiện đã giới hạn 22 lĩnh vực được quyền khiếu kiện theo thủ tục TTHC,
4

Lê Việt Sơn (2011), Những điểm mới về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tịa án nhân dân
theo Luật Tố tụng hành chính, Tạp chí Tịa án nhân dân tháng 7 tháng 2011 (số 13), tr. 12.


có nghĩa những loại việc nào khơng được liệt kê thì sẽ khơng được khiếu kiện theo thủ
tục TTHC. Q trình áp dụng pháp luật cùng với sự diễn tiến phức tạp của xã hội đã
cho thấy đây là một trong những điểm hạn chế lớn nhất của Pháp lệnh TTGQCVAHC.
Chính điều này đã là một cản trở lớn trong việc vận hành nhịp nhàng các quan hệ xã
hội và đây cũng là một trong những lý do Luật TTHC được thơng qua vào ngày 24

tháng 10 năm 2010, có hiệu lực vào ngày 01 tháng 7 năm 2011. Theo Điều 28 Luật
TTHC thì những khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao
gồm:
1. Khiếu kiện QĐHC, HVHC trừ các QĐHC, HVHC thuộc phạm vi bí mật nhà
nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do
Chính phủ quy định và các QĐHC, HVHC mang tính nội bộ của cơ quan, tổ
chức.
2. Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
3. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng
Cục trưởng và tương đương trở xuống.
4. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh.
Để hiểu hơn về nội hàm khái niệm thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành
chính của TAND theo loại việc bị khiếu kiện, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu những đặc
điểm của thẩm quyền này.
Thứ nhất, thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của TAND theo loại
việc bị khiếu kiện đối với QĐHC, HVHC bị giới hạn về lĩnh vực do pháp luật TTHC
quy định
Phạm vi quản lý hành chính rất rộng, bao gồm hầu hết các lĩnh vực của đời
sống xã hội, vì vậy tranh chấp hành chính có thể phát sinh rất đa dạng với các yêu cầu
rất khác nhau. Tuy nhiên, không phải tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành
chính nào cũng thuộc thẩm quyền xem xét, giải quyết của Tòa án mà chỉ những khiếu
kiện hành chính trong một số lĩnh vực nhất định được Luật TTHC quy định thì mới
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, còn khiếu kiện trong một số ít lĩnh vực khác
thì Tịa án không được quyền thụ lý giải quyết. Lý do là do khiếu kiện trong một số
lĩnh vực quản lý đó chưa hoàn thiện hoặc nhà nước cần đảm bảo hiệu lực quản lý tuyệt
đối vì lợi ích của nhà nước và xã hội5. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật TTHC
thì thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của TAND theo loại việc bị khiếu
5


Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb. Hồng Đức –
Hội Luật gia Việt Nam, tr. 91.


kiện bị hạn chế đối với các khiếu kiện liên quan đến bí mật nhà nước trong các lĩnh
vực quốc phịng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định. Đây là
những lĩnh vực hoạt động quản lý mà nhà nước xét thấy chưa cần thiết giao cho Tòa
án quyền phán xét.
Thứ hai, thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của TAND theo loại việc
bị khiếu kiện đối với QĐHC, HVHC bị giới hạn về phạm vi do pháp luật TTHC quy
định
Phạm vi loại trừ này được hiểu là phạm vi những quyết định, hành vi quản lý,
chỉ đạo, điều hành hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong phạm vi cơ quan, tổ
chức đó như quyết định điều động, thuyên chuyển, khen thưởng hay kỷ luật… Trường
hợp loại trừ này xuất phát từ chính các quyết định và hành vi này mang tính nội bộ,
không ảnh hưởng lớn đến hoạt động chung của hệ thống quản lý hành chính nhà nước,
và nếu khơng đồng ý thì có thể áp dụng cơ chế khiếu nại hành chính.
Thứ ba, thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của TAND theo loại việc
bị khiếu kiện bị giới hạn trong những hoạt động quản lý hành chính khơng thể hiện
dưới những hình thức theo quy định của pháp luật TTHC
Theo đó, hoạt động quản lý hành chính mà Tịa án có thẩm quyền tài phán phải
được thể hiện dưới hình thức là một QĐHC hoặc một HVHC.
Cụ thể, QĐHC phải được thể hiện bằng hình thức là văn bản do cơ quan hành
chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan,
tổ chức đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành
chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. HVHC là hành
vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm
quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ
theo quy định của pháp luật (khoản 1, khoản 2 Điều 3 Luật TTHC). Hai hình thức này

nhìn chung đã bao hàm hầu hết các dạng thể hiện của hoạt động quản lý hành chính
trừ trường hợp hoạt động quản lý hành chính thể hiện dưới dạng quyết định quy phạm
(hoạt động lập quy). Lý do loại trừ QĐHC quy phạm khỏi thẩm quyền tài phán hành
chính của Tịa án có thể lý giải là xuất phát từ mục tiêu đảm bảo thi hành chính sách
quản lý chung được thống nhất và thuận lợi.
Thứ tư, thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của TAND theo loại việc
bị khiếu kiện được quy định kết hợp giữa phương pháp liệt kê và phương pháp loại trừ
Tùy thuộc vào phạm vi quản lý hành chính được loại trừ khỏi quyền tài phán là
rộng hay hẹp mà thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính theo loại việc được thể
hiện theo những cách thức khác nhau. Nếu loại việc Tịa án có quyền xem xét hẹp hơn
các loại việc được miễn trừ thì thẩm quyền theo loại việc sẽ được quy định theo


phương pháp liệt kê. Ngược lại, nếu các loại việc được miễn trừ khỏi quyền tài phán
hành chính của Tịa án là hẹp hơn so với các loại việc thuộc thẩm quyền xét xử của
Tịa án thì thẩm quyền theo loại việc sẽ được thể hiện theo lối quy định loại trừ.
Nhưng Luật TTHC lại vừa loại trừ, vừa liệt kê, vấn đề này đã gây ra nhiều bất cập.
Thứ năm, thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính theo loại việc bị khiếu
kiện là kết quả của quá trình mở rộng thẩm quyền của TAND
Trước đây theo quy định tại Điều 11 của Pháp lệnh TTGQCVAHC sửa đổi, bổ
sung năm 1998 thì Tịa án có thẩm quyền giải quyết việc khởi kiện đối với QĐHC,
HVHC trong 9 nhóm việc. Pháp lệnh TTGQCVAHC sửa đổi, bổ sung năm 2006 mở
rộng lên đến 22 nhóm việc. Như vậy, phạm vi lĩnh vực được khiếu kiện đã được mở
rộng hơn. Và tới khi Luật TTHC ra đời thì thẩm quyền giải quyết khiếu kiện theo loại
việc tiếp tục được mở rộng ở hầu hết các lĩnh vực của quản lý hành chính nhà nước.
Hơn nữa trước đây khi Luật TTHC chưa ra đời, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền
khởi kiện muốn khởi kiện phải làm đơn gửi Tịa án có thẩm quyền khi chưa hết thời
hiệu khởi kiện, trong trường hợp đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà
không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại, hoặc chưa có quyết định giải quyết
khiếu nại lần đầu nhưng đã hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của Luật

khiếu nại và cam đoan không khiếu nại tới người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
tiếp theo. Với quy định này đã làm hẹp đi con đường khởi kiện tới TAND, nó chỉ có
thể thực hiện được khi người khởi kiện nắm rõ các quy định của pháp luật hoặc có sự
tư vấn giúp đỡ về pháp luật. Mặc dù Pháp lệnh TTGQCVAHC sửa đổi, bổ sung năm
2006 đã mở rộng thẩm quyền cho TAND trong việc giải quyết các vụ án hành chính,
nhưng Pháp lệnh này có những quy định nhằm chuyển giao thẩm quyền thụ lý, giải
quyết của Tòa án đối với các vụ án hành chính sang cơ quan hành chính nhà nước:
“Nếu có nhiều người, trong đó có người khởi kiện vụ án hành chính tại Tịa án có
thẩm quyền, có người khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp
theo thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại tiếp theo” (mục b khoản 1 Điều 13 Pháp lệnh TTGQCVAHC). Những quy định
trên không những làm cho việc thụ lý, giải quyết khiếu kiện của Tòa án bị hạn chế mà
còn xâm phạm đến quyền được yêu cầu Tòa án bảo vệ của công dân, tổ chức. Hiện
nay, chúng ta đang xây dựng một Nhà nước pháp quyền mà trong đó “khơng một
tranh chấp nào mà Tịa án khơng được quyền xét xử”. Điều này được nhấn mạnh ở
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020: “… mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các khiếu kiện
hành chính”. Do vậy, Luật TTHC có những sự sửa đổi, bổ sung như trên là hoàn toàn


hợp lý6. Trên hết, Luật TTHC đã chính thức bỏ quy định về việc buộc phải thực hiện
việc khiếu nại hành chính trước khi thực hiện quyền khởi kiện. Đây được coi là bước
đổi mới căn bản về điều kiện, cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở nước ta phù
hợp với tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị. Điều 103 Luật TTHC về
“điều kiện khởi kiện vụ án hành chính” đã được thiết kế theo quan điểm rất tiến bộ là
có thể khởi kiện thẳng ra Tịa án mà khơng bắt buộc phải thơng qua thủ tục giải quyết
khiếu nại đối với hầu hết tất cả các loại việc, trừ khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử
đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Việc quy định
như vậy có thể nói đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc khởi kiện vụ án
hành chính, tránh thủ tục rườm rà dẫn đến việc người dân có thể mất quyền khởi kiện

để yêu cầu Tịa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Phần trình bày trên đã chỉ ra những đặc trưng cơ bản của thẩm quyền giải quyết
khiếu kiện của TAND theo loại việc bị khiếu kiện, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu
những cơ sở để xác định thẩm quyền này cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn sau đây:
Cơ sở xác định thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tịa án
nhân dân theo loại việc bị khiếu kiện
Việc nghiên cứu cơ sở xác định thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính
của TAND theo loại việc bị khiếu kiện chính là trả lời cho câu hỏi tại sao lại có thể
1.2.

xây dựng thẩm quyền theo loại việc với những quy định cụ thể như vậy, cũng chính là
nghiên cứu bản chất của thẩm quyền theo loại việc. Việc xác định thẩm quyền giải
quyết khiếu kiện hành chính của TAND theo loại việc bị khiếu kiện buộc chúng ta
không chỉ căn cứ vào cơ sở lý luận, đặc biệt là những quy định của pháp luật hiện
hành, mà còn căn cứ vào những cơ sở thực tiễn ở nước ta và trong hoạt động giải
quyết khiếu kiện để làm rõ thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính theo loại việc
bị khiếu kiện của TAND.
Việc xác định thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của TAND có thể
căn cứ vào những tiêu chí sau đây:
1.2.1. Cơ sở lý luận
Thứ nhất, căn cứ vào yêu cầu Tòa án bảo vệ và bảo đảm các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước
Một trong các nguyên tắc cơ bản cần quán triệt và thực hiện trong thực tiễn xây
dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là vấn đề bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp chính đáng của cơng dân, tạo ra mối quan hệ bình đẳng, đúng đắn giữa nhà nước
và công dân. Các quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của cơng dân có thể bị vi
6

Lê Việt Sơn (2011), Những điểm mới về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tịa án nhân dân
theo Luật Tố tụng hành chính, Tạp chí Tịa án nhân dân tháng 7 năm 2011 (số 13), tr. 14.



phạm từ nhiều phía: đó có thể là sự vi phạm bởi hành vi trái pháp luật của các cơ quan
nhà nước nói chung (cơ quan lập pháp, cơ quan tư pháp, cơ quan hành chính nhà nước
và các cán bộ, công chức của những cơ quan này) cũng như bởi hành vi trái pháp luật
của các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, hoặc của công dân khác. Sự vi phạm Hiến
pháp và pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước và các cán bộ, cơng chức hành
chính làm thiệt hại quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của cơng dân và vấn đề
khiếu kiện hành chính để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng đó khỏi sự vi
phạm này, theo chúng tơi là một trong những vấn đề có tính cấp thiết, có ý nghĩa quan
trọng cả về mặt lý luận, cũng như về mặt thực tiễn trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam hiện nay7. Yêu cầu này được coi như là nguyên tắc thể hiện
quyền tự do dân chủ của công dân đồng thời xác định trách nhiệm của Tịa án đối với
cơng dân. Bảo đảm yêu cầu này là một trong những điều kiện cơ bản để cho nhà nước
ta tồn tại và phát triển, vì cơng dân được bảo vệ quyền và lợi ích thì họ mới có khả
năng và điều kiện xây dựng nhà nước, bảo vệ nhà nước và duy trì nhà nước.
Như vậy, với việc quy định rõ ràng thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành
chính của TAND nói chung và với các loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết khiếu
kiện của Tòa án quy định tại Điều 28 Luật TTHC trước hết nhằm mục đích bảo vệ một
cách hữu hiệu các quyền, lợi ích hợp pháp của đối tượng quản lý hành chính trước sự
xâm hại trái pháp luật của chủ thể quản lý hành chính nhà nước, qua đó kiểm sốt một
cách hợp lý đối với quản lý hành chính nhà nước. Do đó, cần xác định thẩm quyền này
đối với các vụ việc phù hợp với nhu cầu khiếu kiện hành chính trong xã hội hiện nay.
Thứ hai, căn cứ vào cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước ta hiện
nay
Trong một trật tự Nhà nước pháp quyền như nhà nước ta hiện nay, vấn đề giới
hạn và kiểm soát quyền lực của nhà nước luôn là mục tiêu, là nguyên tắc tổ chức và
vận hành hệ thống nhà nước8. Điều 2 Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 quy
định về bộ máy nhà nước ta hoạt động không theo nguyên tắc phân quyền mà theo
nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân cơng và phối hợp

chặt chẽ giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” và điểm quan trọng nhất là
kiềm chế quyền hành của Chính phủ và các cơ quan cơng quyền nhằm bảo vệ quyền tự
do của cá nhân. Theo nguyên tắc này, nội dung của quyền lập pháp là quyền ban hành
các quy phạm pháp luật dưới các hình thức văn bản như Hiến pháp, Luật và các văn
7

Trương Đắc Linh (2010), Các cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt Nam hiện nay: khả năng và sự
lựa chọn, Hội thảo khoa học Tài phán hành chính trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập
quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
8
Nguyễn Như Phát (2010), Nhà nước pháp quyền bảo vệ quyền con người và tài phán hành chính, Hội thảo
khoa học Tài phán hành chính trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế ở Việt Nam
hiện nay.


bản dưới luật như Pháp lệnh, Nghị quyết. Quyền hành pháp là quyền chấp hành, điều
hành pháp luật nhằm tổ chức và triển khai các hoạt động nhà nước và xã hội đáp ứng
nhu cầu và nguyện vọng của nhân dân. Trong khi thực hiện hoạt động chấp hành –
điều hành cơ quan hành chính nhà nước có quyền xử lý vi phạm hành chính, xem xét
và giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơng dân. Cịn quyền tư pháp chủ yếu được biểu
hiện bằng hoạt động xét xử, công tố, điều tra. Các hoạt động này được các cơ quan
như TAND, Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan điều tra, theo thủ tục tố tụng thực
hiện9. Có thể nói rằng, việc xác lập thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của
TAND theo loại việc bị khiếu kiện đã tạo ra khả năng cho Tịa án có thể kiểm sốt,
phán quyết về quản lý hành chính nhà nước trong những loại việc được pháp luật quy
định. Vì vậy, thẩm quyền này nằm trong thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính
nói chung, được xác định phù hợp với quan điểm tổ chức quyền lực nhà nước.
Thứ ba, căn cứ vào quyền tài phán hành chính của TAND hiện nay
Việc xác định thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của TAND theo
loại việc bị khiếu kiện có liên quan chặt chẽ tới việc bảo đảm tính độc lập, tự chủ trong

quản lý hành chính nhà nước và mục đích của giải quyết khiếu kiện hành chính là bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu kiện, bảo đảm kiểm soát hiệu quả đối
với quản lý hành chính nhà nước. Cho nên, đây là vấn đề địi hỏi phải nghiên cứu
nghiêm túc trên cơ sở đảm bảo thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính được xác
định tương xứng với chức năng, nhiệm vụ của Tòa án, không được “lấn sân” sang
phạm vi quyền hành pháp.
Hiện nay, thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của TAND theo loại
việc bị giới hạn trong những lĩnh vực và phạm vi cụ thể, lý do là các lĩnh vực đó chưa
được hồn thiện hoặc nhà nước cần đảm bảo hiệu lực quản lý tuyệt đối vì lợi ích nhà
nước và xã hội10. Chính điều này đã dẫn đến các quy định giới hạn về thẩm quyền theo
loại việc bị khiếu kiện bằng những cách khác nhau. Ví dụ, pháp luật TTHC không trực
tiếp quy định quyết định của lãnh đạo cao cấp của nhà nước như Thủ tướng Chính phủ
khơng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tịa án nhưng khi quy định thẩm quyền thụ lý
để xét xử sơ thẩm thì khơng có Tịa án nào có quyền thụ lý những khiếu kiện đối với
các quyết định trên. Ngoài ra, do Tịa án chỉ có quyền thụ lý giải quyết vụ án hành
chính khi có khởi kiện hợp pháp nên các quy định về quyền khởi kiện và thủ tục khởi
kiện cũng được sử dụng trong việc hạn chế thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành
chính của TAND.

9

Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb. Tư pháp, tr. 72.
Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb. Hồng Đức
– Hội Luật gia Việt Nam, tr. 91.
10


Thứ tư, bảo đảm quyền lựa chọn phương thức giải quyết khi quyền lợi của cá
nhân, cơ quan, tổ chức bị xâm phạm do kết quả quản lý hành chính nhà nước
Hiện nay ở nước ta đang tồn tại hai phương thức giải quyết khi quyền lợi của cá

nhân, cơ quan, tổ chức bị xâm phạm do kết quả của quản lý hành chính nhà nước. Đó
là phương thức giải quyết khiếu nại, tố cáo theo Luật Khiếu nại 2011, Luật Tố cáo
2011 và phương thức giải quyết khiếu kiện tại Tòa án theo thủ tục tố tụng. Đối với
những loại việc thuộc Điều 28 Luật TTHC thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể lựa
chọn phương thức khiếu nại, tố cáo hay khiếu kiện tại Tòa án phù hợp nhất trên cơ sở
ưu điểm, yêu cầu của mỗi phương thức và khả năng của mình. Nếu phương thức giải
quyết khiếu nại do các cơ quan hành chính thực hiện mang tính khép kín, thiếu chặt
chẽ, vẫn chịu sự chi phối của yếu tố quyền uy – phục tùng thì giải quyết tranh chấp
hành chính theo thủ tục TTHC được tiến hành bởi cơ quan tư pháp độc lập với hệ
thống cơ quan hành chính nhà nước theo một trình tự chặt chẽ, cơng khai, dân chủ.
Trật tự Tịa án giải quyết tranh chấp hành chính được nhận định là trật tự có khả năng
đảm bảo pháp chế cao hơn so với trật tự hành chính11.
Quyền tự do lựa chọn cơ quan hay người bảo vệ quyền lợi cho mình, là một
trong những quyền nằm trong nhóm “quyền tự do” của công dân đã được Hiến pháp
ghi nhận12. Theo u cầu của quyền này thì khơng ai có quyền đặt ra những biện pháp
cản trở việc thực hiện quyền nêu trên. Đồng thời, quyền này đòi hỏi nhà nước phải có
nhiều phương thức, biện pháp để cơng dân lựa chọn. Trong trường hợp các cơ quan
nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước trong quản lý hành chính nhà
nước xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức thì đã có hai
phương pháp, cách thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ như trên. Quyền lựa
chọn này đã đáp ứng đòi hỏi của xã hội chúng ta nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa – cơ sở để xây dựng và củng cố quyền công dân và quyền con người.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Việc xác định thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của TAND ngồi
các căn cứ lý luận cịn có căn cứ thực tiễn:
Thứ nhất, đã có sự phản kháng đối với QĐHC, HVHC
Trong quá trình thực hiện chức năng quản lý và điều hành xã hội, các cơ quan
hành chính nhà nước ban hành ra các QĐHC, HVHC để tác động đến các cơ quan, tổ
chức và cá nhân trong xã hội. Không phải lúc nào các đối tượng bị tác động cũng đồng
ý với các QĐHC và HVHC trên vì khơng phải lúc nào các QĐHC và HVHC này cũng

được ban hành đúng quy định của pháp luật, do vậy đã làm phát sinh tranh chấp hành
11

Vũ Thư (1998), Hai con đường giải quyết khiếu nại hành chính – giải pháp lựa chọn và triển vọng, Tạp chí
Tịa án nhân dân năm 1998 (số 06), tr. 13.
12
Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb. Tư pháp, tr. 72.


chính. Nếu chỉ bằng con đường “thủ tục hành chính” và thơng qua việc thực hiện bởi
bộ máy hành chính thì việc khơng đồng ý với quyết định và hành vi nêu trên khơng
được giải quyết dứt điểm mà cịn thiếu cơ sở bảo đảm thực thi có hiệu quả thực tế. Vì
thế, chúng ta phải thiết lập cơ chế kiểm tra, kiểm soát những hoạt động của bộ máy
hành chính làm phương hại cho đối tượng quản lý và phải phán quyết những yêu cầu
của công dân, tức là trao quyền cho TAND, phải xác định và xây dựng thẩm quyền
giải quyết khiếu kiện hành chính cho TAND một cách đầy đủ thì những QĐHC,
HVHC hợp pháp, hợp lý và có tính khả thi mới tồn tại và phát huy hiệu quả. QĐHC,
HVHC thuộc loại việc được khiếu kiện và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
được quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật TTHC.
Thứ hai, thực tiễn tồn tại nhiều bất cập trong thủ tục “tiền tố tụng” theo quy
định của pháp luật TTHC trước khi Luật TTHC ra đời
Trong quá trình thực thi pháp luật TTHC, các quy phạm pháp luật TTHC luôn
được sửa đổi, bổ sung, cũng là hệ quả của quá trình thiết lập cơ quan tài phán hành
chính Việt Nam. Giai đoạn từ 01/7/1996 đến 25/12/1998 nổi bật vấn đề về thủ tục
“tiền tố tụng”. Theo đó, trước khi khởi kiện ra Tịa án, cơng dân phải thực hiện việc
khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và phải nhận được văn bản trả
lời của người có thẩm quyền mà không đồng ý. Việc khiếu nại này tuân theo quy định
của Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo 1991. Nhiều nhà khoa học pháp lý đã đưa ra quan
điểm cho rằng thủ tục tiền tố tụng là phù hợp nhưng không nên quy định trước khi
khởi kiện bắt buộc phải nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu. Nếu quy

định như vậy là đã tạo điều kiện hết sức ngặt nghèo đối với cá nhân, tổ chức. Mặt
khác, việc ban hành quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoàn toàn căn cứ vào Pháp
lệnh khiếu nại, tố cáo 1991. Trong Pháp lệnh này không quy định thời hạn giải quyết
khiếu nại lần đầu, hình thức trả lời khiếu nại phải bằng văn bản. Sự mâu thuẫn giữa
Pháp lệnh TTGQCVAHC và Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo trong trường hợp trên đã dẫn
đến người dân phải chờ để nhận được quyết định giải quyết khiếu nại rồi mới đi khởi
kiện. Thực tế, nhiều cơ quan nhà nước đã im lặng không trả lời đơn khiếu nại và thế là
công dân mất quyền khởi kiện13. Sang giai đoạn từ sau 25/12/1998 đến trước ngày
Luật TTHC 2010 có hiệu lực, thời điểm này đã có Luật khiếu nại, tố cáo 1998, Luật
này đã tháo gỡ một phần vướng mắc trước đây, đó là nếu hết thời hạn giải quyết khiếu
nại lần đầu mà cơ quan có thẩm quyền khơng trả lời thì tổ chức, cá nhân có quyền khởi
kiện vụ án hành chính ra Tịa án. Các quy định “tiền tố tụng” này tồn tại, dù có nhiều
cải cách tiến bộ qua các giai đoạn nhưng nhìn chung đều gây cản trở trong quá trình cá
13

Nguyễn Văn Quang (1999), Tài phán hành chính từ góc nhìn so sánh, Luận văn thạc sĩ luật học trường Đại
học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tr. 117.


nhân, cơ quan, tổ chức được tiếp cận với Tòa án, xâm phạm quyền lựa chọn cơ quan
hoặc người bảo vệ quyền lợi cho đương sự như phần cơ sở lý luận trên đã đề cập. Loại
bỏ thủ tục tiền tố tụng như trước đây, trừ khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại
biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân là quy định mới
nổi bật trong Luật TTHC, đã tạo điều kiện cho người dân trong việc khởi kiện vụ án
hành chính với những loại việc được quy định, tránh thủ tục rườm rà dẫn đến người
dân có thể mất quyền khởi kiện để Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình14.
Thứ ba, khẳng định mục đích của giải quyết khiếu kiện hành chính là xem xét
tính hợp pháp của các QĐHC, HVHC
Nhiệm vụ của TAND giải quyết khiếu kiện hành chính theo thủ tục TTHC là
phán xét những tranh chấp giữa cơ quan công quyền và cơng dân mà tập trung nhất là

xem xét tính hợp pháp của những QĐHC, HVHC của các cơ quan nói trên nếu chúng
trực tiếp xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi bị khởi kiện. Ngược lại,
giả sử TAND xem xét cả những loại văn bản pháp luật đề cập đối tượng chung chung
(văn bản pháp quy) thì cũng có nghĩa Tịa án đã can thiệp vào hoạt động hành chính
điều hành của bộ máy hành chính, những hành vi này là vi phạm pháp luật.
Như vậy, những QĐHC, HVHC bị khiếu kiện là một trong những yếu tố để xác
định thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của TAND, đây chính là loại việc
căn bản của đối tượng giải quyết khiếu kiện hành chính.
Thứ tư, truyền thống pháp lý, tâm lý xã hội và các yếu tố khác tác động đến giải
quyết khiếu kiện hành chính
Việc xác định thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính theo loại việc nhằm
bảo vệ một cách hữu hiệu các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức
trên cơ sở đáp ứng quyền khiếu kiện hành chính đối với phạm vi và lĩnh vực được
phép của Tịa án. Vì vậy, hồn thiện chế định pháp luật về thẩm quyền giải quyết
khiếu kiện hành chính theo loại việc chịu sự chi phối rất lớn từ nhu cầu xã hội. Trong
đó, trình độ dân trí và tâm lý xã hội là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới việc quy
định thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của TAND. Trên thực tế, cơng dân
ln coi mình là “cấp dưới” của nhà nước, chưa dám đặt ngang với nhà nước để có sự
cơng bằng trong việc thực hiện quyền kiểm tra giám sát theo pháp luật. Có hiện tượng
này vì cơng dân e ngại trước quyền lực nhà nước hoặc vì khơng hiểu biết pháp luật.
Ngoài ra, trong một thời gian dài, hậu quả của cơ chế tập trung bao cấp, nhất là cơ chế
“xin – cho” đã tác động lớn đến tâm lý của người của người dân làm cho họ “trăm sự

14

Lê Việt Sơn (2011), Những điểm mới về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tịa án nhân dân
theo Luật Tố tụng hành chính , Tạp chí Tịa án nhân dân tháng 7 năm 2011 (số 13), tr. 14.


trơng chờ vào nhà nước”15. Cùng với đó, do cơng tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật

chưa được chú trọng đúng mức nên trong xã hội và một bộ phận khơng ít cán bộ, cơng
chức chưa hiểu hết được ý nghĩa của cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính của
TAND và cho rằng Tòa án hay cơ quan hành chính đều là các cơ quan nhà nước do đó
khó tránh khỏi được sự bao che, nương nhẹ, vị nể, khó có thể khách quan, vơ tư trong
giải quyết khiếu kiện hành chính. Đặc biệt là trong điều kiện thiếu cơ chế hữu hiệu bảo
đảm sự độc lập của Tòa án với cơ quan khác của nhà nước. Việc xác định thẩm quyền
giải quyết khiếu kiện hành chính theo loại việc của Tòa án cần phải xuất phát từ nhu
cầu khách quan của xã hội có tính đến u cầu của nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà
nước (cụ thể là mối quan hệ giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp) và từng bước đổi
mới nâng cao hiệu quả quản lý hành chính nhà nước cùng với hồn thiện hệ thống tư
pháp. Những nhu cầu khách quan đó trước hết bị chi phối quyết định bởi điều kiện
phát triển kinh tế - xã hội, truyền thống pháp lý, tâm lý xã hội, trình độ dân trí, trong
điều kiện dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Thứ năm, hiệu quả của thực tiễn giải quyết khiếu kiện hành chính của TAND
theo loại việc bị khiếu kiện
Hoạt động giải quyết khiếu kiện hành chính được coi là phương tiện hữu hiệu
để cơng dân thực hiện quyền dân chủ, xây dựng nhà nước, củng cố nhà nước và duy trì
nhà nước. Giải quyết khiếu kiện hành chính là một trong những hoạt động mà thơng
qua đó nhà nước, xã hội và cơng dân đánh giá hiệu quả quản lý của nhà nước, năng lực
điều hành của cán bộ nhà nước, làm tăng thêm cơ chế thực hiện quyền cơng dân,
quyền con người. Tịa án thực hiện việc giải quyết khiếu kiện với tư cách là sự kiểm
tra tư pháp đối với hành pháp. Đó là sự kiểm tra từ bên ngoài đối với QĐHC hay hành
HVHC của cơ quan hành chính bởi Tịa án, theo một thủ tục tố tụng chặt chẽ, bảo đảm
khách quan, dân chủ và pháp chế16. Bên cạnh đó, giải quyết khiếu kiện hành chính
theo loại việc bị khiếu kiện của TAND trong thời gian qua đã đáp ứng nhu cầu bảo vệ
quyền lợi chính đáng của người dân khi bị xâm phạm bởi hoạt động quản lý hành
chính nhà nước.


15

Nguyễn Mai Linh (2012), Thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân, Luận văn cử nhân Đại học
Luật thành phố Hồ Chí Minh, tr. 14.
16
Vũ Thư (1998), Hai con đường giải quyết khiếu kiện hành chính, giải pháp lựa chọn và triển vọng, Tạp chí
Tịa án nhân dân năm 1998 (số 6), tr. 13.


1.3.

Ý nghĩa thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của TAND theo loại
việc bị khiếu kiện
Thẩm quyền là một trong các nội dung quan trọng nhất được quy định trong

pháp luật về tổ chức, hoạt động của Tòa án cũng như trong các quy định của pháp luật
TTHC. Việc xác định rõ và quy định chính xác thẩm quyền của Tịa án trong việc giải
quyết khiếu kiện hành chính theo loại việc bị khiếu kiện có ý nghĩa vơ cùng to lớn ở cả
phương diện công quyền lẫn công dân và cá nhân tổ chức khác.
1.3.1. Đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức
Thứ nhất, việc nắm vững những quy định của pháp luật về thẩm quyền của Tòa
án nói chung và các loại việc được khiếu kiện hành chính nói riêng giúp cho các cá
nhân, cơ quan tổ chức bảo vệ quyền lợi của mình một cách triệt để và đúng đắn. Đây
là cơ sở để cá nhân, cơ quan, tổ chức sẽ khởi kiện đúng loại việc, tránh vi phạm các
điều kiện khởi kiện, tránh được những hậu quả bất lợi cho mình, giúp họ bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình kịp thời, hiệu quả. Đồng thời cũng loại bỏ được trường
hợp mất quyền khởi kiện vì hết thời hiệu khởi kiện do khơng xác định được Tịa án
nào có thẩm quyền thụ lý giải quyết. Nói cách khác là giúp họ khởi kiện đúng Tòa án,
đúng thủ tục TTHC, đúng loại việc. Người khởi kiện bao giờ cũng phải xem xét vụ
việc mà mình sẽ khởi kiện có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tịa án hay khơng, tiếp

theo mới xác định nếu có thì thuộc thẩm quyền thụ lý của Tịa án nào.
Thứ hai, xác định thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của TAND theo
loại việc bị khiếu kiện giúp cho người dân trong có thể lựa chọn phương thức giải
quyết tranh chấp hành chính phù hợp cho mình. Khơng chỉ có cơ quan hành chính nhà
nước mới có quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính, mà cịn có Tịa án cũng có
thẩm quyền giải quyết, khắc phục được những sai sót, khuyết điểm trong hoạt động
quản lý hành chính nhà nước.
1.3.2. Đối với Tịa án
Thứ nhất, việc nắm vững thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính theo loại
việc bị khiếu kiện giúp Tòa án xác định được phạm vi thẩm quyền của mình. Thẩm
quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của TAND theo loại việc là cơ sở để xác định
vụ án sẽ được giải quyết theo thủ tục TTHC hay không. Trường hợp không thuộc thẩm
quyền thì Tịa án sẽ khơng thụ lý, nếu thụ lý sai thì phát sinh các hậu quả như đình chỉ
việc giải quyết vụ án hành chính, chuyển vụ án cho Tịa án khác.
Thứ hai, đảm bảo quy trình về mặt tố tụng. Việc xác định đúng thẩm quyền giải
quyết khiếu kiện hành chính của TAND theo loại việc bị khiếu kiện là một trong
những căn cứ quan trọng khi xem xét, kiểm tra việc bảo đảm về mặt tố tụng trong hoạt
động giải quyết các vụ án hành chính. Việc xác định “điểm xuất phát” thế nào cho


chính xác, hợp lý là điểm mấu chốt để đảm bảo đạt được hiệu quả cao khi tiến hành
quá trình tố tụng, có ý nghĩa như một điều kiện tiên quyết để thực hiện các hành vi tố
tụng tiếp theo.
Trong pháp luật TTHC, việc xác định thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành
chính của TAND theo loại việc bị khiếu kiện là một khoa học thật sự và rất cần thiết.
Bởi lẽ việc xác định thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính theo loại việc bị
khiếu kiện càng rõ ràng, khoa học và sát thực tế bao nhiêu thì nó sẽ là địn bẩy thúc
đẩy cho việc giải quyết khiếu kiện của Tòa án đối với các vụ án càng nhanh gọn và
chính xác bấy nhiêu, góp phần tạo điều kiện cần thiết cho Tịa án giải quyết nhanh
chóng và đúng đắn các vụ án hành chính, nâng cao được hiệu quả của việc giải quyết

vụ án hành chính, tạo thuận lợi cho các đương sự tham gia tố tụng bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp trước Tịa án, giảm bớt những phiền phức cho đương sự.
Xác định đúng thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của TAND theo
loại việc bị khiếu kiện còn tạo điều kiện nâng cao hiệu quả cơng tác xét xử mà ngành
Tịa án đảm nhiệm và cũng là một trong những nhân tố đảm bảo mục đích và ý nghĩa
của TTHC. Ngồi ra, việc xác định thẩm quyền của Tòa án một cách hợp lý và khoa
học cịn có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định những điều kiện về chuyên môn,
nghiệp vụ cần thiết của đội ngũ cán bộ ở mỗi Tịa án và các điều kiện khác, trên cơ sở
đó có kế hoạch đáp ứng bảo đảm cho Tịa án thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của
mình.
1.3.3. Đối với hoạt động giải quyết khiếu kiện và hoạt động quản lý hành chính
Thứ nhất, việc xác định đúng thẩm quyền theo loại việc bị khiếu kiện giúp tiết
kiệm được thời gian, công sức, tiền bạc trong hoạt động giải quyết khiếu kiện. Trong
thực tiễn, việc xác định sai thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tịa án
nhân dân theo loại việc bị khiếu kiện có thể dẫn đến việc người khởi kiện mất quyền
khởi kiện, Tòa án vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, bản án bị hủy để xét xử lại,
kéo dài thời gian giải quyết vụ án. Vì thế việc xác định đúng thẩm quyền theo loại việc
bị khiếu kiện góp phần tiết kiệm chi phí cho hoạt động xét xử, đảm bảo hiệu quả kinh
tế trong hoạt động giải quyết khiếu kiện hành chính.
Thứ hai, có ý nghĩa điều chỉnh bộ máy quản lý hành chính nhà nước. Thơng
qua hai cơ chế giải quyết khiếu nại và khiếu kiện hành chính theo loại việc bị khiếu
kiện, chúng ta cũng có thể phát hiện ra những yếu tố bất hợp lý của bộ máy hành
chính, các hạn chế, yếu kém, tiêu cực của một bộ phận cán bộ, cơng chức nhà nước để
từ đó có những chấn chỉnh, xử lý kịp thời nhằm bảo đảm cho pháp luật của nhà nước
được chấp hành nghiêm chỉnh. Góp phần đề cao trách nhiệm cơng vụ các các chủ thể
quản lý hành chính nhà nước trong việc ban hành các QĐHC, thực hiện HVHC, giải


quyết các khiếu kiện hành chính. Bởi đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa là thừa nhận vị trí tối thượng của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội,

tổ chức và hoạt động của nhà nước thực hiện trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật. Do đó,
khơng chỉ các cá nhân, cơ quan, tổ chức phải tuân theo, mà tất cả các cơ quan nhà
nước, cán bộ, công chức nhà nước cũng phải tôn trọng pháp luật, đặt mình dưới pháp
luật.
Thứ ba, tạo điều kiện cho chủ thể bị kiện xem xét lại tính hợp pháp đối với
QĐHC, HVHC. Giải quyết một tranh chấp hành chính có thể thơng qua nhiều hình
thức khác nhau như: giải quyết tranh chấp hành chính bằng việc giải quyết khiếu nại
hành chính và giải quyết tranh chấp hành chính thơng qua việc xét xử của Tịa án. Dù
theo hình thức nào đi chăng nữa thì mục đích cuối cùng của việc giải quyết các tranh
chấp không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp lý, hợp tình của người bị xâm
phạm mà thơng qua đó góp phần phát hiện những hạn chế, khiếm khuyết trong hoạt
động của các cơ quan hành chính nhà nước, những hành vi sai phạm của cán bộ, công
chức khi thực hành cơng vụ. Trên cơ sở đó có những biện pháp khắc phục nhằm hoàn
thiện tổ chức và hoạt động bộ máy quản lý nhà nước, xử lý kịp thời và loại ra khỏi bộ
máy nhà nước những cán bộ, công chức mất phẩm chất đạo đức, quan liêu, tham
nhũng, thiếu trách nhiệm. Còn đối với các QĐHC, HVHC, quyết định kỷ luật buộc
thơi việc… đúng pháp luật thì việc giải quyết tranh chấp giữa các chủ thể quản lý và
chủ thể bị quản lý vẫn thuộc cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thơng qua đó giải
thích cho cơng dân hiểu rõ và thực hiện đúng các nghĩa vụ pháp lý của mình. Có như
vậy mới xây dựng được một xã hội đồng trách nhiệm giữa nhà nước và công dân –
một trong những nguyên tắc quan trọng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa17.
Với những ý nghĩa to lớn trong việc xác định thẩm quyền giải quyết khiếu kiện
hành chính của TAND theo loại việc bị khiếu kiện đối với hoạt động tố tụng cũng như
đối với việc bảo vệ chế độ, pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của cá nhân, cơ quan, tổ chức, nên khi xác định thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành
chính của TAND theo loại việc bị khiếu kiện đối với một vụ án hành chính cụ thể trên
thực tế phải được thực hiện một cách chính xác, khách quan. Việc ra đời của Luật
TTHC cùng với những quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện của TAND theo
loại việc bị khiếu kiện là một bước tiến vượt bậc trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.


17

Nguyễn Mai Linh (2012), Thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân, Luận văn cử nhân Đại học
Luật thành phố Hồ Chí Minh, tr. 19.


×