ĐẶT VẤN ĐỀ
Voi châu á (Elephas maximus Linnaeus, 1758) là một thành phần trong
hệ sinh thái, là những mắt xích quan trọng trong chu trình dinh dưỡng và tuần
hồn vật chất trên trái đất. Bên cạnh đó, lồi voi mang lại nhiều giá trị cho
con người như: giá trị biểu tượng, văn hóa, giải trí, nghiên cứu khoa học và
bảo tồn.
Trước đây, Voi châu á có phân bố rộng khắp các vùng rừng núi từ Tây
Bắc xuống đến các tỉnh Đồng Nai, Bình Phước. Nhưng hiện nay, số lượng voi
đang bị suy giảm nhanh chóng ngồi tự nhiên, một số nơi đã bị tiệt chủng cục
bộ. Theo thống kê của các nhà khoa học hiện chỉ còn khoảng 100 – 150 cá
thể, sinh sống chủ yếu ở các tỉnh Nghệ An, Đắc Lắc và Đồng Nai (Nguyễn
Xuân Đặng và Lê Xuân Cảnh, 2009).
Với mức độ suy giảm nghiêm trọng về số lượng voi ở ngoài tự nhiên và
sinh cảnh sống của loài bị thu hẹp nên loài voi châu á hiện đang đứng bên bờ
tuyệt chủng với các mức đe dọa tuyệt chủng cao: cấp Rất nguy cấp (CR) trong
Sách đỏ Việt Nam (2007), cấp Nguy cấp (EN) trong Danh sách đỏ thế giới
(IUCN, 2016), nhóm IB trong Nghị định quản lý thực vật rừng, động vật rừng
nguy cấp, quý, hiếm (NĐ32, 2006) và phụ lục I của Công ước quốc tế về quản
lý buôn bán động thực vật hoang dã nguy cấp, quý hiếm (CITES, 2015). Vì
vậy, việc nghiên cứu về hiện trạng quần thể và đề xuất các giải pháp bảo tồn
loài Voi châu á là rất cần thiết.
Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Mát được thành lập vào ngày 21 tháng 5
năm 1997 theo Quyết định số 2150/QĐ-UB của UBND tỉnh Nghệ An và
thuộc sự quản lý của Chi cục Kiểm lâm tỉnh Nghệ An. Để bảo tồn và phát
triển khu rừng quý này, ngày 8/11/2001 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định
số 174/QĐ-TTg chuyển hạng Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Mát thành Vườn
Quốc gia (VQG) Pù Mát. Vườn Quốc gia Pù Mát nằm cách trung tâm thành
phố Vinh 130 km về phía Tây Nam, trên địa bàn 03 huyện Anh Sơn, Con
Cuông và Tương Dương. Vườn Quốc gia Pù Mát được đánh giá là một trong
1
những vườn quốc gia có diện tích lớn nhất Việt Nam với diện tích vùng lõi
94.275ha và vùng đệm khoảng 100.000ha nằm trên địa phận của 16 xã.
Là một trong rất ít khu vực ở Việt Nam hiện có lồi voi sinh sống
nhưng trong nhiều năm qua, xung đột giữa cộng đồng địa phương và quần thể
voi tại VQG Pù Mát không ngừng tăng lên. Các hoạt động của cộng đồng địa
phương như lấn chiếm đất rừng để mở rộng diện tích đất canh tác, khai thác
gỗ và lâm sản phụ trái phép.v.v..đang làm thu hẹp vùng sống của loài voi.
Ngồi ra, tại Vườn Quốc gia Pù Mát vẫn có hiện tượng săn bắn voi trái phép
và gần đây nhất là năm 2010 có 01 cá thể voi đực bị bắn chết để lấy ngà. Các
sinh cảnh sống của voi trong khu vực trước đây như các rừng tre nứa, rừng
chuối bị người dân chuyển đổi sang trồng cây Cao su, trồng Keo. Vì vậy, vào
mùa đơng đến mùa xn khi trên rừng tự nhiên khan hiếm thức ăn, voi thường
về bản tàn phá hoa màu của người dân gây thiệt hại kinh tế và đe dọa tính
mạng của con người. Tính đến nay, quần thể voi tại Pù Mát đã làm chết 3
người và gần đây nhất là vào năm 2012.
Mặc dù Ban quản lý VQG Pù Mát, chính quyền địa phương và các tổ
chức bảo tồn voi có nhiều biện pháp bảo vệ quần thể voi và giảm thiểu tình
trạng voi xuống bản như: đào hào chắn, tập trung đông người xua đuổi voi
vào rừng khi voi xuống khu dân cư ..v.v..nhưng đến nay vẫn chưa giải quyết
được những mâu thuẫn giữa quần thể voi và cộng đồng địa phương. Vì vậy,
nghiên cứu nghiên cứu hiện trạng quần thể loài voi, xác định được vùng sống,
vùng di chuyển, giảm thiểu các tác động tiêu cực qua lại giữa quần thể voi và
cộng đồng địa phương là công việc cần thiết và sớm được thực hiện.
Xuất phát từ thực tiễn trên, tôi đã thực hiện đề tài: "Ngiên cứu thực
trạng và phân bố của loài voi (Elephas maximus Linnaeus, 1758) tại
Vƣờn Quốc gia Pù Mát, tỉnh Nghệ An”. Đề tài được thực hiện nhằm bổ
sung dữ liệu vào chiến lược bảo tồn voi toàn quốc hiện nay.
2
PHẦN I
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Đặc điểm nhận biết, sinh thái và tập tính của lồi voi châu á
Theo tài liệu của Phạm Nhật và Đỗ Quang Huy (1998), Nguyễn Xuân
Đặng và Lê Xuân Cảnh (2009), các đặc điểm của lồi Voi châu á được mơ tả
như sau:
1.1.1. Đặc điểm nhận biết
Bộ Voi (Proboscidea) hiện nay chỉ có 1 họ Voi (Elephantidae) với 2
giống: giống Loxodonta ở châu Phi có 2 lồi (L. africana và L.cyclotis) và
giống Elephas ở châu Á có 1 lồi (Elephas maximus).
Lồi Voi châu á là loài thú rất to lớn, nặng từ 3 – 6 tấn, dài thân 4 - 6m,
dài đuôi 1 - 1,5m, cao vai 2,5 – 3m. Mũi và môi trên kéo dài thành vòi. Vòi
dài chấm đất. Chân trước năm ngón, chân sau bốn ngón. Da dày, lơng thưa,
màu xám hoặc nâu xám. Ngà của voi đực dài thò ra khỏi môi, ngà của voi cái
rất ngắn (khoảng 30cm) nằm lấp trong mơi. Ngà của voi đực già có thể dài tới
2m, một nửa thị ra khỏi mơi và một nửa lấp trong mơi (hình 1.1). Ngà voi
phát triển liên tục suốt đời nên trong trong điều kiện nuôi ngà voi thường rất
dài. Răng hàm mọc thành khối. Bộ răng có 12 răng hàm mọc sít nhau gần như
một khối (Nguyễn Xuân Đặng và Lê Xuân Cảnh, 2009).
Hình 1.1: Voi châu á (Elephas maximus Linnaeus, 1758)
3
Voi châu á có kích thước nhỏ hơn Voi châu phi. Ngoài ra, một số đặc
điểm của voi châu á phân biệt với voi châu phi đó là: tai của loài voi châu á
nhỏ hơn, đầu gồ cao ở hai bên, chỉ con đực mới có ngà dài thị ra khỏi mơi.
Trong khi đó, voi châu phi có tai rất lớn, đầu thn, cả con đực và con cái đều
có ngà thị ra khỏi mơi (hình 1.2).
Voi châu á (Elephas maximus)
Voi châu phi (Loxodonta africana)
Hình 1.2: Đặc điểm hình thái phân biệt voi châu á và voi châu phi
1.1.2. Đặc điểm sinh thái, tập tính, tình trạng của lồi Voi châu á
Voi châu á sống ở nhiều kiểu rừng khác nhau: rừng nhiệt đới thường
xanh, rừng nhiệt đới bán thường xanh và rừng khộp ở các trạng thái khác
nhau. Voi cũng có thể sống ở các sinh cảnh gần người và xâm nhập vào các
nương rẫy gần rừng để ăn cây trồng. Voi sống theo đàn từ 5 – 20 cá thể. Một
đàn thường là một gia đình mở rộng, trong đó chỉ có một voi đực được giao
phối với voi cái động dục. Tuy nhiên, voi đực không liên kết bền vững với
4
đàn và có thể rời đàn sau một thời gian chung sống để tìm voi cái khác. Các
voi đực sinh sản thường đánh nhau dữ dội để tranh giành voi cái động dục.
Voi đực thua phải rời đàn ra sống độc lập. Những voi đực độc thân này có thể
tụ tập thành đàn 02 – 03 cá thể và chúng rất hung dữ.
Voi có nhu cầu uống nước cao, mỗi ngày chúng uống khoảng 200 lít
nước. Vùng hoạt động của voi rộng 40 – 50km2. Voi ăn măng tre nứa, cỏ và
nhiều lồi cây bụi. Đặc biệt, voi thích ăn lá các lồi có hàm lượng tanine cao
như Trám, Cẩm liên, Dầu đồng, Chiêu liêu. Voi rất thích ăn lá và thân cây
chuối, do chuối có nhiều nước. Voi vừa đi vừa kiếm ăn và dùng vòi vơ lá cho
vào miệng. Các vùng suối khống hoặc đất khống có vai trị quan trọng đối
với đời sống của voi. Voi thích đầm mình trong nước, bơi lội tốt. Voi châu á
mang thai 19 – 22 tháng. Mỗi lứa chỉ đẻ 01 con, rất hiếm khi 02 con. Voi sơ
sinh dài gần 01m và nặng khoảng 90kg. Trưởng thành sinh dục sau 12 – 15
năm. Một đời voi mẹ chỉ đẻ 7 hoặc 8 con.
Về tình trạng của lồi Voi châu á: Sách đỏ Việt Nam (2007) xếp mức
Cực kỳ nguy cấp (CR), Sách đỏ thể giới xếp voi ở mức đe dọa Nguy cấp
(EN). Loài voi châu á được xếp ở nhóm IB trong Nghị định 32 (2006) và phụ
lục I của Cơng ước CITES (2015).
1.2. Tình trạng và phân bố của loài Voi châu á tại Việt Nam
Voi châu á phân bố ở Ấn Độ, Mianma, Trung Quốc (Vân Nam), Thái
Lan, Lào, Việt Nam, Campuchia, Malaysia và Indonesia.
Ở Việt Nam, trước những năm 1990, voi ở Việt Nam có vùng phân bố
khá rộng từ vùng biên giới Tây Bắc tới các tỉnh Tây Nguyên và miền Đông
Nam Bộ.
Từ năm 1990 đến nay, số lượng voi giảm nhanh chóng, trong vịng 20
năm số lượng bị giết hại do nhiều nguyên nhân khác nhau đã giảm khoảng
trên 90% số lượng voi trên cả nước. Nguyên nhân chủ yếu là do săn bắn lấy
ngà và các bộ phận khác của voi. Ví dụ quẩn thể voi ở Mường Tè (tỉnh Lai
Châu) năm 1990 có khoảng 130 cá thể, riêng năm 1991 số lượng voi bị bắn
5
lấy ngà lớn. Hạt Kiểm lâm Lai Châu đã tịch thu được 250 - 300kg ngà voi.
Tới năm 1995, số lượng còn lại tại Lai Châu còn khoảng 10 - 15 cá thể.
Hiện nay, vùng sống của voi bị thu hẹp nhiều, chúng chỉ còn phân bố tập
trung chủ yếu ở 3 tỉnh là: Nghệ An, Đắk Lắk và Đồng Nai với số lượng rất hạn
chế và thường xuyên bị tác động. Đàn voi ở Vũ Quang – Hà Tĩnh theo thống
kê tồn bộ là voi cái vì thế khơng thể sinh sản, do vậy sẽ tự mất trong thời gian
tới nếu không được bổ sung voi đực hoặc di dời đi nơi khác (Nguyễn Hải Hà,
2011).
Tỉnh Đắk Lắk là địa phương có số lượng cá thể voi phân bố lớn nhất
tại Việt Nam. Đến nay, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về quần thể voi tại
khu vực này:
Năm 1996, Lê Văn Thành và các cộng sự đã thực hiện chương trình
điều tra, giám sát nghiên cứu về một số đặc tính sinh học, sinh thái học của
voi tại Vườn Quốc gia Yokdon. Tuy nhiên, chương trình điều tra giám sát
mới chỉ dừng ở múc độ phỏng vấn một số người có kinh nghiệm trong săn bắt
thuần dưỡng và cán bộ lâm nghiệp và chủ yếu xác định thành phần loài làm
thức ăn cho voi.
Năm 2009, Bảo Huy và các cộng sự đã khảo sát, đánh giá và thống kê
ở khu vực Đắk Lắk hiện có khoảng 83 - 110 cá thể voi hoang dã đang sinh
sống. Trong đó, quần thể voi tập trung chủ yếu tại Vườn Quốc gia Yok Đôn
với 7 đàn khoảng 55 - 63 cá thể; khu rừng quản lý của Công ty Lâm nghiệp
Ea H’Mơ và Ya Lốp có 02 đàn với số lượng 24 - 42 cá thể và ở Công ty Lâm
nghiệp Chư Pă có 01 đàn với 4 - 5 cá thể. Tác giả đã xác định được số lượng
cá thể theo cấp tuổi của voi, khu vực phân bố, số cá thể theo tuổi và sinh cảnh
phân bố voi tự nhiên. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đã thiết lập được bản đồ
phân bố của voi tại Đăk Lăk. Theo số liệu của IUCN năm 2004, số cá thể voi
hoang dã của Việt Nam biến động từ 76 - 94 con. Như vậy với dự báo qua
khảo sát năm 2009, cho thấy ngay ở tỉnh Đăk Lăk số cá thể voi hoang dã đã
lớn hơn số voi trong cả nước năm 2004. Điều này có hai khả năng:
6
Một là: kết quả dự báo của IUCN có tính tổng thể trong cả nước, trong
khi đi đó kết quả điều tra voi tại Đăk Lắk được khảo sát cụ thể, chi tiết và trên
cơ sở ứng dụng thống kê sinh học để dự báo số voi cho tỉnh Đăk Lăk.
Hai là: số cá thể voi hoang dã ở Đăk Lăk có chiều hướng gia tăng được
giải thích do voi sinh sản tự nhiên và voi di chuyển từ Campuchia sang Việt
Nam gia tăng. Đây là tín hiệu khá tốt cho bảo tồn voi tự nhiên. Các khu vực
sinh cảnh của voi được bảo vệ tốt có thể sẽ giúp quần thể voi có xu hướng
quay về hoặc ổn định và gia tăng bầy đàn. Cơng trình cũng đã nghiên cứu và
xác định được danh lục 73 loài làm thức ăn cho voi nhà và voi rừng. Kết quả
nghiên cứu này là cơ sở rất tốt cho công tác bảo tồn cũng như làm cơ sở cho
các nghiên cứu về sau đi sâu thêm về tác dụng của từng loại thức ăn.
Tỉnh Nghệ An là một trong 03 khu vực phân bố tập trung của voi tại
Việt Nam. Tại Vườn Quốc gia Pù Mát có 03 đàn voi với khoảng 11 cá thể
phân bố tập trung ở 03 khu vực. Đàn thứ nhất gồm 03 cá thể, phân bố ở phía
Đơng Bắc VQG và vùng rừng thuộc Lâm trường Tương Dương; Đàn thứ hai
gồm 03 cá thể, phân bố ở vùng trung tâm của VQG; Đàn thứ ba gồm 5 cá thể,
phân bố ở Đông Nam VQG. Tại Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống hiện cịn
có 01 đến 03 cá thể Voi hoạt động chủ yếu tại khu vực xã Bắc Sơn, huyện
Quỳ Hợp (Báo cáo điều tra đa dạng sinh học để làm cơ sở xây dựng Khu Bảo
tồn thiên nhiên Pù Huống và các tài liệu về điều tra đa dạng sinh học hàng
năm của Khu bảo tồn). Còn tại Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt, theo thông
tin từ cán bộ Hạt Kiểm lâm Quế Phong và người dân thì hiện cịn 01 đàn voi
với số lượng từ 01 đến 03 cá thể voi. Như vậy, tại Nghệ An các thơng tin về
tình trạng và phân bố của quần thể voi mới chỉ dừng lại ở các Báo cáo khoa
học và thông tin từ Kiểm lâm hoặc người dân địa phương mà vẫn chưa có
những nghiên cứu chi tiết về quần thể voi ở khu vực.
Trong hơn 20 năm trở lại đây, sự suy giảm về số lượng voi đã gây ra
hiện tượng tuyệt chủng cục bộ ở một số địa phương trên cả nước, xuất phát từ
nhiều nguyên nhân khác nhau như: săn bắt để lấy ngà, thịt, da, lông,… hoặc
7
ngăn chặn sự phá hoại mùa màng của voi là những lý do chính. Tại Nghệ An
đã có ít nhất 8 cá thể (7 cá thể đực, 01 cá thể cái) bị bắn hoặc giết chết bằng
mìn trong và ngồi Vườn Quốc gia Pù Mát.
Tại tỉnh Đồng Nai: mối xung đột giữa người và voi tại Đồng Nai diễn
ra đầu tiên đối với quần thể voi tại Tân Phú. Trịnh Việt Cường và cộng sự
(2009) đã thực hiện chuyên đề: “Khảo sát xung đột giữa voi và người tại
huyện Tân Phú và huyện Vĩnh Cửu – tỉnh Đồng Nai”. Kết quả khảo sát đã
đưa ra được một mức độ thiệt hại về kinh tế của người dân do voi gây ra.
1.3. Nghiên cứu về xung đột giữa loài voi và con ngƣời
Ở Việt Nam xung đột giữa loài voi và con người xảy ra tại nhiều nơi và
đặc biệt là các khu vực trồng trọt hoa màu nằm trong rừng hoặc gần rừng, vùng
có voi sinh sống. Mặt khác, chính các lồi cây lương thực, cây ăn quả, cây có
tinh bột, cây cơng nghiệp là thức ăn voi ưa thích.
Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu xung đột giữa người và voi chỉ dừng
lại ở bước đầu khảo sát, thống kê thiệt hại mà chưa có nghiên cứu sâu, tìm
hiểu nguyên nhân và đề xuất các giải pháp giải quyết xung đột này và hậu quả
của các cuộc xung đột là con người thiệt hại về kinh tế và tính mạng, voi bị
con người giết hại để trả thù, tiêu biểu như:
Quần thể voi tại Tân Phú, tỉnh Đồng Nai trong thời gian từ năm 1989 1999 đã gây ra 35 cuộc xung đột và hậu quả 07 nhà bị voi phá, thiệt hại 62,44
ha hoa màu, 8 người bị chết do voi, ngược lại ít nhất 03 con voi đã bị chết.
Cuối năm 1999, quần thể voi 8 con di chuyển tới vùng Tánh Linh - tỉnh Bình
Thuận tiếp tục gây thiệt hại tính mạng cho người dân, nhiều nhà cửa, tài sản,
hàng trăm ha hoa màu bị phá, thiệt hại về kinh tế rất lớn cuối cùng đàn voi
phải di dời tới phía Tây - Nam của VQG Yok Đôn (Trịnh Việt Cường, 1999).
Bảo Huy và cộng sự (2009) trong Dự án bảo tồn Voi tại Đắk Lắk đã có
đánh giá về vấn đề xung đột giữ Voi - Người, tại khu vực rừng khộp huyện
Buôn Don và Ea Súp. Nhiều diện tích rừng khộp bị chuyển đổi sang trồng cây
công nghiệp như: Điều, Cao su hoặc người dân phá rừng để lấy đất canh tác.
8
Tất cả các hoạt động đó đã làm cho diện tích sinh sống của voi hoang dã trong
vùng bị thu hẹp, chia cắt làm mất hành lang di chuyển theo mùa để tìm kiếm
thức ăn, gặp gỡ giao phối. Nguyên nhân này đã làm cho đàn voi bị cô lập
trong vùng, thiếu nước, thức ăn trong mùa khô hạn, muối khống, … đã tìm
đến các khu vực canh tác của những người mới đến khai hoang để tìm thức ăn
cũng như phá hoại mùa màng. Tần xuất xuất hiện và không ngại va trạm
người của voi thể hiện sự mâu thuẫn ngày càng gia tăng giữa sự chuyển đổi
rừng lấy đất canh tác với việc mất dần nơi sinh sống của voi hoang dã.
Báo cáo của Chi cục Kiểm lâm tỉnh Đồng Nai (2009) xảy ra chết 9 cá
thể voi: 02 cá thể chết tại lâm phần Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp La
Ngà, 5 cá thể chết tại lâm phần Khu Bảo tồn, 01 cá thể chết lâm phần VQG
Cát Tiên và 01 cá thể voi đực chết tại BQL rừng phòng hộ Tân Phú. Trong
báo cáo này đã xác định vùng hoạt động của voi khoảng 33.600ha và phần mở
rộng vùng hoạt động chủ yếu ở các cụm dân cư ven rừng xã Phú Lý; cụm dân
cư ấp 7 xã Mã Đà. Vùng hoạt động thường xuyên của voi gồm 7 tiểu khu 59,
59a, 58, 43, 48, 99, 104 Khu Bảo tồn. Đến cuối năm 2012, đầu năm 2014 đàn
Voi xuất hiện nhiều hơn tại xã Thanh Sơn, huyện Định Quán thuộc lâm phần
Công ty TNHH MTV La Ngà.
Báo cáo của Chi cục Kiểm lâm tỉnh Đồng Nai (2011 - 2013) của Đội
phản ứng nhanh bảo vệ voi: số vụ xung đột giữa voi và người đã giảm bớt do
giảm số lượng nhưng voi mức độ hung dữ hơn. Kết quả theo dõi của KBTTN
– VH Đồng Nai đã ghi nhận 11 cá thể, trong đó có voi con và voi nhỡ xuất
hiện cùng đàn voi.
Như vậy, nghiên cứu về mối xung đột giữa voi và con người ở Việt
Nam trong thời gian vừa qua mới chỉ dừng lại ở việc khảo sát, tổng hợp, đánh
giá thiệt hại thơng qua phỏng vấn, xem xét thực địa. Chưa có những nghiên
cứu hoặc ghi nhận phân tích nguyên nhân xung đột, điều tra đánh giá chi tiết
ở từng địa phương, chưa nghiên cứu sâu cho cả 02 đối tượng “con người” và
“voi”.
9
Những vấn đề từ tổng quan nghiên cứu về xung đột giữa Voi châu á và
con người tại Việt Nam đã cho thấy cịn rất nhiều khía cạnh cần phải quan
tâm, giải quyết nếu chúng ta có kế hoạch cụ thể, chi tiết bảo tồn lồi thú lớn
đang có nguy cơ tuyệt chủng này. Vì vậy, nghiên cứu về mối tác động qua lại
giữa loài Voi châu á và người dân địa phương tại Vườn Quốc gia Pù Mát, tỉnh
Nghệ An là quan trọng, cấp thiết.
10
PHẦN II
MỤC TIÊU, ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI
NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1.Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1.Mục tiêu chung
Đề tài được thực hiện nhằm bổ sung cơ sở dữ liệu góp phần vào cơng
tác bảo tồn lồi Voi tại Vườn Quốc gia Pù Mát nói riêng và của Việt Nam nói
chung.
2.1.2.Mục tiêu cụ thể
- Xác định được hiện trạng quần thể Voi đang sinh sống tại Vườn Quốc
gia Pù Mát;
- Lập được bản đồ phân bố theo khu vực của loài Voi tại Vườn Quốc
gia Pù Mát;
- Xác định được các tác động qua lại giữa cộng đồng địa phương với
quần thể Voi đang sinh sống tại khu vực nghiên cứu;
- Đề xuất các giải pháp nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực của cộng
đồng địa phương đến quần thể Voi tại khu vực nghiên cứu và ngược lại.
2.2.Đối tƣợng nghiên cứu
Loài voi châu á (Elephas maximus Linnaeus,1758) tại VQG Pù Mát, tỉnh
Nghệ An.
2.3.Phạm vi nghiên cứu
2.3.1.Địa điểm
Đề tài được thực hiện tại VQG Pù Mát trên địa phận của xã Phúc Sơn
(huyện Anh Sơn) và xã Thanh Đức (huyện Thanh Chương), tỉnh Nghệ An.
2.3.2.Thời gian nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trong thời gian 4 tháng (từ tháng 2 năm 2017 đến
hết tháng 5 năm 2017), kế hoạch thực hiện cụ thể đề tài như bảng 2.1.
11
Bảng 2.1: Nội dung các công việc đã thực hiện của đề tài
STT
1
2
3
Nội dung cơng việc
Thời gian
Thu thập, phân tích tài liệu và hoàn thành
Từ 13/01/2017 đến
đề cương nghiên cứu
02/03/2017
Thu thập số liệu ngoài thực địa tại Vườn
Quốc gia Pù Mát
Từ 04/03/2017 đến
04/04/2017
Xử lý số liệu và hồn thiện khóa luận.
06/04/2017 đến
10/05/2017
2.4. Nội dung nghiên cứu
(1) Điều tra hiện trạng quần thể loài Voi tại VQG Pù Mát
(2) Xác định các khu vực sinh sống và đường di chuyển của quần thể
voi tại VQG Pù Mát
(3) Xác định các mối tác động qua lại giữa cộng đồng điạ phương và
quần thể Voi tại khu vực nghiên cứu
(4) Đề xuất các giải pháp quản lý và bảo tồn quần thể Voi tại khu vực
nghiên cứu.
2.5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện những nội dung trên, các phương pháp nghiên cứu được
thực hiện như sau:
2.5.1. Phương pháp kế thừa số liệu
Đề tài tiến hành thu thập các tài liệu liên quan đến khu vực nghiên cứu
như: Luận chứng kinh tế kỹ thuật VQG Pù Mát, các tài liệu về điều kiện tự
nhiên, dân sinh, kinh tế , xã hội, các báo cáo về tình hình quản lý, bản đồ hiện
trạng rừng, bản đồ địa hình của VQG Pù Mát, các đề tài nghiên cứu về tài
nguyên VQG. Từ các tài liệu được thu thập tiến hành đọc, chọn lọc, phân tích
và kế thừa các thông tin liên quan phục vụ các nội dung nghiên cứu của đề tài.
12
2.5.2. Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp phỏng vấn được thực hiện nhằm thu thập thơng tin sơ bộ
về sự có mặt của loài voi, số lượng và vùng phân bố của chúng tại khu vực
nghiên cứu. Ngoài ra, các hoạt động có liên quan tới việc sử dụng tài nguyên
của người dân ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến lồi voi cũng được thu
thập trong q trình phỏng vấn.
Phương pháp phỏng vấn được thực hiện trên 02 đối tượng là: các cán bộ
Ban quản lý VQG Pù Mát (phỏng vấn 5 người) và người dân địa phương
(phỏng vấn 20 người). Đối với người dân địa phương ưu tiên những người
dân am hiểu về loài voi, sống gần rừng tại các khu vực đã từng hoặc hiện có
voi sinh sống như: xã Phúc Sơn (Anh Sơn), xã Môn Sơn, Lục Dạ (Con
Cuông) và xã Thanh Đức (Thanh Chương). Các thông tin phỏng vấn được thu
thập liên quan đến hiện trạng, vùng phân bố của voi tại VQG Pù Mát, các tác
động qua lại của cộng đồng địa phương và loài voi. Các câu hỏi phỏng vấn
được phân chia theo từng nội dung nghiên cứu. Thông tin chi tiết về danh
sách những người được phỏng vấn và các câu hỏi được phỏng vấn được trình
bày chi tiết trong phụ lục 01 và 02 của đề tài. Kết quả phỏng vấn được tổng
hợp vào bảng 2.1
Bảng 2.1: Tổng hợp kết quả phỏng vấn ngƣời dân địa phƣơng
Người điều tra………………………..Ngày điều tra…………………………
Tên người được phỏng vấn…………….Dân tộc……………Tuổi…………..
Địa chỉ………………………………………………………………………...
STT
Địa điểm
Tên lồi
T.phổ thơng
T.địa phương
Bắt gặp
13
Số lượng
Ghi chú
2.5.3. Phương pháp điều tra theo tuyến
Điều tra theo tuyến được thực hiện nhằm quan sát trực tiếp các quần thể
voi hoặc các dấu vết voi để lại trong quá trình điều tra. Ngồi ra, điều tra theo
tuyến cịn xác định mức độ tàn phá hoa màu của voi cũng như các tác động
của con người đến quần thể voi trong khu vực điều tra.
Tuyến điều tra được thiết lập dựa vào bản đồ hiện trạng rừng, bản đồ
địa hình, kết quả khảo sát sơ bộ khu vực nghiên cứu và các thơng tin thu được
từ q trình phỏng vấn. Tuyến điều tra được lập đi qua nhiều dạng sinh cảnh
khác nhau và ưu tiên các khu vực có địa hình thuận lợi cho voi kiếm ăn, cư
trú như độ dốc khơng q cao, trạng thái rừng có nhiều tre nứa, chuối.vv..
Thông qua khảo sát sơ bộ và kết quả phỏng vấn đã xác định vùng sống chủ
yếu của quần thể voi tại VQG Pù Mát là tại khu vực trạm Quản lý bảo vệ rừng
Cao Vều (khu vực khe Rễ, Khe Xúc, Khe Mai và hướng xuống xã Thanh
Đức, huyện Thanh Chương) và trạm Quản lý bảo vệ rừng khe Kèm. Vì vậy,
trong nghiên cứu này, ba tuyến điều tra voi được thiết lập để thu thập thông
tin phục vụ nghiên cứu. Thông tin về các tuyến điều tra được trình bày chi tiết
trong bảng 2.2 và hình 2.1.
Bảng 2.2: Thơng tin về các tuyến điều tra lồi voi tại khu vực nghiên cứu
Tuyến
Tọa độ đầu
Tọa độ cuối
01
500508/
497824/
2083445
2082738
500508/
498561/
2083445
2081845
500508/
496935/
Rừng hỗn giao,đồi chuối và tre
2083445
2081649
nứa
02
03
Sinh cảnh
Rừng hỗn giao và tre nứa
Rừng hỗn giao,lau sạy và tre nứa
14
Hình 2.1: Sơ đồ bố trí các tuyến điều tra voi tại Vƣờn Quốc gia Pù Mát
Mỗi tuyến điều tra được điều tra lặp lại 3 lần. Tại mỗi tuyến, dùng máy
GPS xác định tọa độ điểm đầu xuất phát, di chuyển với tốc độ 1,5-2,5 km/h,
quan sát về 2 bên tuyến với khả năng quan sát về mỗi bên là 50m. Trong quá
trình di chuyển quan sát tỉ mỉ bằng mắt thường và dùng ống nhóm. Tại các
điểm giơng thoáng, sườn đồi, hoặc các điểm quan sát thuận lợi dùng ống
nhóm quan sát tỉ mỉ 5 – 10 phút. Tại các điểm vũng nước, khe suối quan sát tỉ
mỉ để phát hiện dấu chân, phân, vết cào bới. Khi phát hiện thấy con vật hoặc
các dấu vết của con vật tiến hành chụp ảnh, ghi lại tọa độ, ghi chép, đo đếm,
mô tả các dấu vết (thời gian xuất hiện dấu vết, thành phần thức ăn chứa trong
phân, số lượng, ..) và mở rộng phạm vi điều tra xung quanh khu vực. Các
15
thơng tin ghi nhận trong q trình điều tra được ghi vào các biểu điều tra thiết
kế sẵn (bảng 2.3) và sổ tay ngoại nghiệp.
Bảng 2.3: Biểu điều tra voi theo tuyến
Ngày điều tra...................Người điều tra................Khu vực điều tra.................
Tuyến số..............Tọa độ điểm đầu........................Tọa độ điểm cuối.................
Thời tiết..............Thời gian bắt đầu.......................Thời gian kết thúc................
Chiều dài tuyến................................
TT Thời
gian
Tọa độ
Lồi
Dấu
hiệu ghi
nhận
Cấu
trúc đàn
Sinh
cảnh
Mơ tả
Trong quá trình điều tra trên tuyến cần lưu ý di chuyển nhẹ nhàng và
giữ yên lặng trong quá trình điều tra, không hút thuốc lá và không để lại giác
thải trong q trình điều tra thực địa.
Ngồi những thơng tin về hiện trạng loài, tại các điểm ghi nhận các tác
động của voi đến con người và ngược lại như điểm khai thác gỗ, điểm gặp
bẫy, điểm gặp người dân khai thác lâm sản, khu vực chăn thả gia súc, các dấu
vết tàn phá của voi được đánh dấu tọa độ và ghi chép các thông tin vào sổ tay
ngoại nghiệp và bảng 2.4.
Bảng 2.4: Bảng điều tra các mối đe dọa đến loài voi tại VQG Pù Mát
1.Săn bắn trái phép
2.Chuyển đổi mục đích sử dụng đất
3.Cháy rừng và đốt nương làm rẫy
Thời gian
Hoạt động
4.Khai thác gỗ và lâm sản ngoại gỗ
5.Hoạt động xây dựng
6.Chăn thả gia súc
Vị trí
2.5.4. Phương pháp xử lí số liệu
2.5.4.1. Xác định tình trạng của lồi voi
16
Hoạt động/
khơng hoạt động
Ghi chú
Từ các số liệu thu thập lấy được trong quá trình điều tra thực địa, dấu
vết ghi nhận, mẫu vật, phỏng vấn và kế thừa tài liệu lập bảng mô tả loài voi
tại VQG Pù Mát như bảng 2.5.
Bảng 2.5: Phân tích số liệu thu thập
TT
Lồi
Nguồn thơng tin
Quan sát
Mẫu vật và
dấu vết
Phỏng vấn
Tài liệu
1
2
2.5.4.2. Xác định vùng phân bố của loài voi hoang dã
Vùng phân bố của loài voi hoang dã được ghi nhận từ nguồn thông tin
phỏng vấn, kế thừa tài liệu và điều tra thực địa được chuyển lên bản đồ. Sử
dụng phần mềm Mapinfo để thực hiện nội dung này.
2.5.4.3.Phương pháp đánh giá các mối đe dọa đến loài voi tại VQG Pù Mát
Sau khi xác định và liệt kê các mối đe dọa tới loài voi tại khu vực
nghiên cứu, tiến hành đánh giá cho điểm theo thứ tự từ 1 đến n điểm, tương
ứng với n mối đe dọa và tùy từng mức độ ảnh hưởng lớn hay nhỏ. Khi cho
điểm hạn chế của các mối đe dọa dựa trên 3 tiêu chí: diện tích ảnh hưởng của
mối đe dọa, cường đọ ảnh hưởng và tính cấp thiết của mối đe dọa theo
phương pháp của (Margoluis and Salafsky, 2001).
Diện tích của mối đe dọa: tỉ lệ diện tích bị ảnh hưởng bởi mối đe dọa
trong khu vực nghiên cứu. Xem xét mối đe dọa đó có ảnh hưởng đến tồn bộ
khu vực hay chỉ là một phần. Cho điểm cao nhất (n) đối với mối đe dọa mà
ảnh hưởng đến diện tích lớn nhất và cho điểm thấp nhất (1 điểm) đối với
những mối đe dọa ảnh hưởng diện tích nhỏ nhất.
Cường độ ảnh hưởng của mối đe dọa: mức độ phá hủy của mối đe dọa
đói với sinh cảnh. Xem xét liệu mối đe dọa đó phá hủy tồn bộ sinh cảnh
trong khu vực đó hay chỉ là một phần. Cho điểm cao nhất đối với mối đe dọa
có mức độ tác động mạnh nhất và cho điểm giảm dần theo cường độ ảnh
hưởng của các mối đe dọa.
17
Tính cấp thiết của mối đe dọa: mối đe dọa hiện tại hay xảy ra trong
tương lại. Việc cho điểm tiêu chí trên nghĩa là mối đe dọa nào có tính nguy
cấp nhất sẽ cho điểm cao nhất và giảm dần theo tính nguy cấp. Kết quả cho
điểm các mối đe dọa được tổng hợp vào bảng 2.6
Bảng 2.6: Kết quả đánh giá các mối đe dọa
STT
1
Các mối đe dọa
Tiêu chí xếp hạng
Xếp
Cường độ
Hạng
Phạm vi
2
3
4
….
18
Cấp thiết
PHẦN III
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1. Vị trí địa lý
Vườn quốc gia Pù Mát nằm phía tây nam Nghệ An, cách thành phố
Vinh 160km đường bộ, có tọa độ địa lý:
18046’ – 190 12’ vĩ độ Bắc; 104024’ – 1040 56’ kinh độ Đơng.
Phía Nam có chung 61 km với đường biên giới quốc gia, giáp với Cộng
Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào.
Phía Tây giáp với xã Tam Hợp, Tam Đình, Tam Quang (huyện Tương
Dương).
Phía Bắc giáp với xã Lạng Khê, Châu Khê, Lục Dạ, Mơn Sơn (huyện
Con Cng).
Phía đông giáp với xã Phúc Sơn, Hội Sơn (huyện Anh Sơn).
3.1.2. Địa giới hành chính
Vườn Quốc gia Pù Mát nằm trong địa giới hành chính của 3 huyện:
Anh Sơn, Con Cng, Tương Dương tỉnh Nghệ An. Diện tích vùng lõi là
94.804,4ha và vùng đệm khoảng 86.000ha nằm trên địa bàn 16 xã.
Huyện Anh Sơn gồm 5 xã: Phúc Sơn, Hội Sơn, Tường Sơn, Cẩm Sơn,
Đỉnh Sơn. Huyện Con Cuông gồm 7 xã: Môn Sơn, Lục Dạ, Yên Khê, Bồng
Kê, Châu Khê, Chi Khê và Lạng Khê. Huyện Tương Dương gồm 4 xã: Tam
Quang, Tam Định, Tam Hợp, Tam Thái.
3.1.3. Địa hình, địa mạo
Nhìn chung VQG Pù Mát có địa hình núi cao trung bình, phân cách
mạnh và hiểm trở, hệ thống sông suối dày đặc, tập trung trong khu vực khe
thơi, khe choăng và khe khặng. Các đỉnh dông phụ có độ dốc lớn, độ cao từ
800 -1500m, địa hình hiểm trở. Phía tây nam VQG địa hình tương đối bằng,
thấp là một số nơi sinh sống của một số cộng đồng người dân tộc, với nhiều
hoạt động sản xuất nông lâm nghiệp đã và đang diễn ra.
19
Vườn Quốc gia Pù Mát nằm trong khu vực có khoảng 7.057ha núi đá
vơi và phần lớn diện tích nằm ở vùng đệm VQG, chỉ có khoảng 150ha nằm
trong vùng lõi.
3.1.4. Thổ nhưỡng
Trong khu vực có 03 loại đất chính:
Đất feralit mùn trên núi trung bình (FH): có diện tích là 34.511ha
(17,7%). Đất có màu vàng xám hoặc đỏ, tầng mùn dày thành phần cơ giới nhẹ
đến trung bình. Phân bố từ độ cao 800m, 900m đến 1800m dọc theo biên giới
Việt – Lào. Có 2 loại phụ: feralit đỏ vàng phát triển trên đá trầm tích và biến
chất. Phân bố nhiều ở phía nam và đơng nam VQG. Frelit vàng nhạt hay vàng
xám phát triển trên đá trầm tích và biến chất. Phân bố nhiều ở phía tây nam
Vườn Quốc gia.
Đất feralit đỏ vàng vùng đồi và núi thấp: diện tích 15.107ha (chiếm
77,6%), phân bố phía bắc và đơng bắc VQG. Chia làm 3 loại phụ: đất feralit
đỏ vàng phân bố chủ yếu vùng trung tâm và phía đơng VQG. Đất feralit vàng
nhạt phân bố chủ yếu vùng trung tâm và tây bắc VQG. Đất feralit đỏ vàng hay
nâu đỏ, phân bố ven đường 7, phía bắc và đơng bắc VQG.
Đất dốc tụ và đất phù sa: có diện tích 9.140ha (4,7%) phân bố ven sơng
suối trong VQG.
3.1.5. Khí hậu thủy văn
VQG Pù Mát nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa. Do chịu ảnh hưởng
của địa hình dãy trường sơn đến hồn lưu khí quyển nên khí hậu ở đây có sự
phân hóa và khác biệt lớn trong khu vực
Nhiệt độ trung bình năm 23-240C , tổng nhiệt năng 8500 - 87000C.
Mùa đông từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau, do chịu ảnh hưởng của gió
mùa đơng bắc nên nhiệt độ trung bình tháng xuống dướng 200C và nhiệt độ
trung bnh tháng thấp nhất xuống 180C (tháng giêng).
Mùa hè có sự hoạt động của gió tây nên thời tiết rất khơ nóng kéo dài
tới tháng 3 (từ tháng 4 đến tháng 7), nóng nhất là tháng 6,7 nhiệt độ trung
20
bình là 290C. Nhiệt độ tối cao lên tới 420C ở con cuông và 420C ở tương
dương vào tháng 4,5 độ ẩm trong các tháng nhiều ngày xuống dưới 30%.
Vùng nghiên cứu có lượng mưa từ ít tới trung bình, 90% lượng nước
tập trung trong mùa mưa. Lượng mưa lớn nhất là tháng 9, 10 và thường kèm
theo lũ lụt. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Các tháng 2,3,4 có mưa
phùn do chịu ảnh hưởng của gió mùa đơng bắc. Tháng 5,6,7 là những tháng
nóng nhất và lượng nước bốc hơi cũng cao nhất.
Độ ẩm không khí trong vùng đạt 85-86%, mùa mưa lên tới 90%. Tuy
vậy, những giá trị cực thấp về độ ẩm vẫn thường đo được trong thời kì khơ
nóng kéo dài.
Trong khu vực hệ thống sông cả chảy theo hướng tây bắc – đơng nam.
Các chi lưu phía hữu ngạn như Khe Thơi, Khe Choăng, Khe Khẳng chảy theo
hướng tây nam lên đông bắc và đổ bộ vào sông cả. Các con sơng đề có thể
dùng bè mảng đi qua một số đoạn nhất định, riêng Khe Choăng và Khe Khặng
có thể dùng thuyền máy ngược dịng từ hạ lưu.
Nhìn chung, mạng lưới sơng suối khá dày đặc. Với lượng mưa trung
bình năm từ 1300mm – 1400mm, nguồn nước mặt trên diện tích của VQG lên
tới hơn 3 tỷ m2. Do lượng nước đó phân bố khơng đều giữa các mùa và các
khu vực nên tình trạng lũ lụt và hạn hắn thường xuyên xảy ra.
3.1.6. Hệ thực vật
Tổng hợp kết quả các đợt điều tra từ trước đến nay cho thấy hệ thực vật
Pù Mát có số lượng lồi tương đối phong phú. Bước đầu ghi nhận được VQG
Pù Mát có 1.297 loài thuộc 607 chi và 160 họ của 6 nghành thực vật bậc cao.
Phong phú nhất là ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) chiếm 92,58%, bình qn
mỗi chi có 2,67 lồi mỗi họ có 12,34 lồi. Trong số 160 họ thực vật tìm thấy
có tới 40 họ có trên 10 lồi. Họ Cà phê (Rubiaceae) với 58 loài, họ Dẻ
(Fagaceae), họ Dâu tằm (Moraceae) với 42 loài, họ Cam (Rutaceae), họ Lan
(Orchidaceae) với 31 loài, họ Đậu (Fabaceae) với 30 loài.... đặc biệt tới 22
họ chỉ có 1 chi với 1 loài duy nhất.
21
3.1.7. Hệ động vật
Qua kết quả khảo sát năm 1993, 1994, 1998, 1999 của các nhà khoa
học trong và ngoài nước đã thống kê được 938 loài động vật ở Pù Mát, bao
gồm các nhóm: thú, chim, bị sát, lưỡng cư, cá, bướm ngày, bướm đêm. Con
số đó chứng tỏ Pù Mát có tính đa dạng sinh vật cao so với các khu đặc dụng
khác ở Việt Nam, đặc biệt là thú, tới 131 lồi, các nhóm khác nhau như bướm
ngày, bướm đêm, cá, chim tương đương với Vũ Quang, Phong Nha, hai khu
gần kề và cùng nằm trên dải trường sơn bắc.
Điều đặc biệt quan trọng hơn nữa là quần thể một số lồi chim, thú thực
sự có nguy cơ bị tiêu diệt ở Việt Nam và trên thế giới, nhưng vẫn còn khả
năng bảo tồn và phát triển tại VQG Pù Mát. Đó là Voi châu Á (Elepphas
maximus), Hổ (Panthera tigis), Sao la (Pseudoryx nghetinhensis) Bị tót (Bos
gaurus), Khỉ đuôi lợn (Macaca nemestrina), Trĩ sao (Rheinardia ocellata).
3.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu
3.2.1. Dân tộc
Các dân tộc chính trong 3 huyện thuộc khu vực VQG là: Thái, Mường,
Khơ mú và Kinh. Ngoài ra; cịn có một số dân tộc khác như H’Mơng, Đan
Lai, Pọong, Ơ đu, Tày nhưng số lượng không lớn. Trong đó dân tộc Thái có
số dân đơng nhất (chiếm 66.89%) và ít nhất là dân tộc Ơ đu (chiếm 0,6%).
3.2.2. Dân số và lao động
Tổng dân số 16 xã là 16.954 hộ với 93.335 nhân khẩu. Phần lớn dân cư
phân bố trong 7 xã của huyện Con Cuông (39.149 nhân khẩu, 7.167 hộ) và 5
xã thuộc huyện Anh Sơn (38.163 nhân khẩu với 2.849 hộ), trung bình mỗi hộ
gia đình từ 5 – 6 người.
Dân số trong khu vực phân bố khơng đơng đều giữa các xã. Một số xã
có dân số rất thấp như xã Tam Hợp huyện Tương Dương (7 người/ km²), xã
Châu Khê huyện Con Cuông (13 người/ km²). Cũng có những xã của huyện
Anh Sơn mật độ dân số cao như xã Đỉnh Sơn (495 người/ km²), xã Cẩm Sơn
(421 người/km²).
22
Do dân phân bố không đều nên lực lượng lao động cũng phân bố không
đều và tập trung chủ yếu ở các xã vùng thấp của huyện Anh Sơn.
Lực lượng lao động ở địa phương rất lớn nhưng cơ cấu nghành nghề
trong khu vực lại rất đơn điệu. Phần lớn là sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi gia
súc, gia cầm. Một số ít người làm trong lĩnh vực khác như y tế, giáo dục, dịch
vụ. Dư thừa lao động, đời sống khó khăn khiến người dân đã vào VQG khai
thác lâm sản.
3.2.3. Hoạt động kinh tế
Trồng trọt là nghành kinh tế chủ đạo của 3 huyện, nhưng diện tích gieo
trồng ít, năng suất cây trồng thấp nên đời sống của người dân gặp nhiều khó
khăn, với 23% số hộ thiếu lương thực trong những tháng giáp hạt. Cây trông
nông nghiệp chủ yếu là lúa nước, lúa nương, khoai và sắn. Ngồi các cây trồng
chính nêu trên, trong khu vực cịn có một số lồi cây trồng khác như rau, đậu
và một số lồi cây cơng nghiệp như vừng, lạc, mía... nhưng diện tích khơng
đáng kể.
Do điều kiện thuận lợi về diện tích rừng núi rộng lớn, thích hợp với
chăn ni đại gia súc nên trâu, bò và lợn khá phát triển trong vùng. Phần lớn
vật nuôi thả rong gần như quang năm, khi cần dùng đến thì người ni mới
tìm về. Bình qn mỗi hộ gia đình ni 1 – 2 con lợn, 1 – 2 con trâu hoặc bò,
mỗi xã có từ 150 đến 200 đàn dê. Các gia đình cịn chăn ni gà vịt. Chăn
ni đóng vai trị quan trọng kể đối với cuộc sống của đông bào vùng đệm
VQG. Chăn nuôi không giải quyết thực phẩm tại chỗ mà cịn cung cấp sức
kéo cũng như phân bón phục vụ cho sản xuất đất nơng nghiệp, góp phần làm
tăng năng suất cây trồng cũng như việc cải tạo đồng ruộng.
Điểm bất cập trong chăn nuôi ở đây là tỷ lệ thả trâu bò vào VQG hiện
vẫn còn phổ biến ở một số xã cận kề ranh giới và đây là những tổn thất nhất
định đối với đa dạng sinh học VQG. Ngoài ra, một số dân cư đang sinh sống
bên bờ sông cả, sông giăng, khe chăng, khe thơi cịn phát triển nghề đánh
bắt, ni trồng thủy sản.
23
Trong các xã vùng đêm khơng có một cơ sở công nghiệp lớn nào, ngoại
trừ một số cơ sở sản xuất thủ công, quy mô nhỏ như khai thác đá, nung gạch,
sản xuất cơng cụ cầm tay.
Các chương trình lâm nghiệp được thực hiện như chương trình 327,
661. Hiện nay huyện Anh Sơn đã giao cho các hộ, các tập thể khoanh ni, tu
bổ, chăm sóc bảo vệ và trồng được 2.217ha rừng.
3.2.4. Giáo dục
Là khu vực miền núi nhưng tình hình giáo dục tương đối tốt. Huyện
Anh Sơn đã được cơng nhận là một huyện miền núi điển hình đạt tiêu chuẩn
phổ cập giáo dục tiểu học. Huyện Con Cng đã hồn thành chương trình phổ
cập tiểu học và xóa mù chữ, được nhà nước tặng huân chương lao động hạng
3. Tuy nhiên trong thực tế vẫn còn rất nhiều trở ngại, một số người trong độ
tuổi từ 15 – 35 còn mù chữ ( 30% số dân mù chữ trong 3 bản người đan lai
thuộc vùng bảo vệ nghiêm nghặt). Một số bản ở vùng sâu vùng xa vẫn tiếp tục
xuất hiện nạn tái mù chữ.
3.2.5. Y tế
Cơ sở vật chất y tế trong khu vực cịn khó khăn và thiếu thốn. Đa số
các xã đều chưa có trạm xã kiên cố hồn chỉnh, chưa có bác sĩ. Tồn vùng có
3 bệnh viện huyện, 2 trung tâm đa khoa và các trạm y tế xã. Tuy nhiên năng
lưc, phương tiện của y tế cấp xã còn thiếu thốn.
3.2.6. Giao thơng
Trong vùng đệm VQG Pù Mát có quốc lộ 7, tuyến đường huyết mạch
quan trọng nối miền xuôi với miền núi và đang đi sang nước bạn Lào. Quốc
lộ 7 góp phần tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế vùng.
Các con sông lớn như sông giăng, sông cả là những hệ thống giao
thông thủy quan trọng. Tuy nhiên, do địa hình phức tạp nên các con sơng
thường chảy quanh co uống khúc và độ dốc lớn nên dòng chảy mạnh, nhiều
thách ghềnh, việc vận chuyển đường thủy gặp rất nhiều khó khăn.
24
3.2.7. Các hoạt động ảnh hưởng đến tài nguyên thiên nhiên VQG Pù Mát
Từ lâu đời, cuộc sống của đồng bào các dân tộc ở đây chủ yếu dựa vào
tài nguyên thiên nhiên. Rừng là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm, nguyên
liệu, cây thuốc cho người dân trong vùng. Các hoạt động của người dân ảnh
hưởng tới tài nguyên rừng và cảnh quan gồm: khai thác gỗ, củi trái phép; săn
bắn động vật hoang dã; đánh bắt cá bằng mìn, điện, chất độc trên sơng suối
phá hủy mơi trường, hủy diệt hệ động vật thủy sinh; Chăn thả gia súc quá
mức dưới tán; Các hoạt động khai thác lâm sản khác như trầm hương, măng,
cây thuốc, mật ong, lấy nứa, cây cảnh.
Nhận xét:
Mặc dù Vườn Quốc gia Pù Mát có nhiều điều kiện thuận lợi cho lồi
voi cư trú và phát triển nhưng cũng khơng ít những trở ngại để có thể quản lý
và bảo tồn lồi động vật q hiếm này.
Thuận lợi: VQG Pù Mát có diện tích rộng lớn nằm trên 3 huyện (Anh
Sơn, Con Cuông, Tương Dương), với nhiều sinh cảnh khác nhau và đặc biệt
có nhiều diện tích rừng tre nứa, rừng chuối rộng lớn trên nền địa hình có độ
dốc thấp. Đây là các dạng sinh cảnh rất phù hợp đối với loài voi. Ngồi ra,
VQG Pù Mát cịn có hệ thống đường giao thơng thuận tiện như có các đường
giao thơng đến các trạm Kiểm lâm đã được tu sửa, đi lại dễ dàng thuận lợi cho
công tác kiểm tra, quản lý voi giữa các trạm trong Vườn.
Khó khăn: địa hình vùng lõi Vườn Quốc gia Pù Mát khá hiểm nên việc
tuần rừng trên diện tích rộng khó khăn. Vườn Quốc gia tiếp giáp với biên giới
nước Lào nên voi có thể di chuyển qua lại giữa Việt Nam và Lào gây khó
khăn cho công tác quản lý bảo vệ voi trong khu vực. Ngồi ra, tại Vườn Quốc
gia Pù Mát có nhiều dân tộc thiểu số, trình độ dân trí chưa cao, mức thu nhập
cịn thấp, có thói quen, tập tục sống phụ thuộc vào rừng tạo thành mối đe dọa
đến quần thể voi đang sinh sống trong khu vực.
25