Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Thực trạng và một số giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình cph dnhh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.09 KB, 31 trang )

Đề án Kinh tế chính trị

Ngân hàng nhà nớc việt nam
Học viện ngân hàng

đề án kinh tế chính trị

Tên đề tài:

Thực trạng và một số giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình
cổ phần hoá doanhnghiệp nhà nớc

Ngời hớng dẫn :

Th.s Nguyễn Thị Nguyệt
Ngời thực hiện :
Đinh Tiến Dũng
Lớp : 80321
Khoa: Quản trị kinh doanh

Hà nội, tháng 8 năm 2006

MụC LụC
Mục Lục ...................2
Lời nói đầu ...3
Nội dung.... ..5
Chơng I. Cơ sở lí luận và thực tiễn của cổ phần hoá DNNN.......5
1.1Khái niệm CPH DNHH..........................5
1.2. Tính phổ biến và những cơ sở kh¸ch quan cđa viƯc CPH DNNN…….6
1.3. TÝnh tÊt u cđa viÖc CPH DNNN ë ViÖt Nam …………….…….…..10
1




Đề án Kinh tế chính trị
1.3.1. Thực trạng của các doanh nghiệp Nhà nớc 11
1.3.2. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nớc là tất yếu............12

1.4 Quan điểm và tổ chức thực hiện của Đảng CS Việt Nam.....14
1.4.1 Quan điểm của Đảng CS Việt Nam.....14
1.4.2. Các quy đinh của Nhà nớc về quá trình cổ phần hóa....17
Chơng II. Thực trạng của vấn đề cổ phần hoá trong thời gian qua...20
2.1. Tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nớc...20
2.2. Những thành tựu đà đạt đợc trong quá trình cổ phần hoá...........21
2.3. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế......26
Chơng III. Quan điểm và giải pháp đẩy mạnh cổ phần hoá
đối với các doanh nghiệp Nhà nớc...30
3.1. Quan điểm chỉ đạo đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá..30
3.2. Các giải pháp đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc
trong thời gian tới...........31
Kết luận..........34
Tài liệu tham khảo.36

Lời nói đầu
Phát triển kinh tế là vấn đề sống còn của bất kì quốc gia nào trên thế giới. Đó
là mục tiêu của các quốc gia nhằm tạo một nền kinh tế vững mạnh, kéo theo sự ổn
định về chính trị, phát triển xà hội về mọi mặt và đảm bảo một chất lợng cuộc sống
cao cho toàn dân.
Đối với Việt Nam, trong quá trình phát triển nền kinh tế kể từ khi chuyển đổi tõ
nỊn kinh tÕ bao cÊp sang nỊn kinh tÕ thÞ trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng XÃ hội chủ nghĩa, việc xác định những chính sách phát triển cụ thể là vấn đề rất
quan trọng. Nhất là giai đoạn hiện nay khi Việt Nam đang đẩy nhanh, đẩy mạnh quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc thì việc lựa chọn một số chính sách phát

triển kinh tế thích hợp lại càng cần thiết.
Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nớc (DNNN) là một chủ trơng lớn của Đảng và
Nhà nớc ta, là một trong những giải pháp quan trọng nhằm sắp xếp, đổi mới và nâng
cao hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nớc, xây dựng kinh tế Nhà nớc vững mạnh, đủ
sức giữ vai trò chủ đạo nền kinh tế quốc dân, trong quá trình phát triển nền kinh tế thị
trờng định hớng xà hội chủ nghĩa. Thực tiễn sau 20 năm thực hiện cổ phần hoá doanh

2


Đề án Kinh tế chính trị

nghiệp Nhà nớc (i hi VI của Đảng (năm 1986), Đảng ta đã có chủ trương đổi mới
doanh nghiệp nhà nước một cách mạnh mẽ, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ hai (khóa VII) đã đề ra chủ trương cổ phần hóa doanh nghip nh
nc),nhất là kể từ năm 1992, và từ sau Nghị quyết TW 3 và Nghị quyết TW 9, khoá
IX; nghị quyết TW Đảng khóa X trở lại đây cho thấy chủ trơng đó là hoàn toàn đúng
đắn, ngày càng đi vào cuộc sống.
Thực hiện chiến lợc phát triển kinh tế xà hội 10 năm (2001 - 2010) và kế
hoạch phát triển 5 năm 2001 - 2005 trong bối cảnh quốc rế và trong nớc có nhiều thời
cơ thuận lợi, khó khăn và những thách thức đan xen để đáp ứng yêu cầu CNH - HĐH
đất nớc và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, quá trình đổi mới và phát triển doanh
nghiệp Nhà nớc càng tiếp tục đẩy mạnh hiệu quả quá trình đổi mới và phát triển
doanh nghiệp Nhà nớc cần tiếp tục đẩnh mạnh hơn nữa, thiết thục hơn nữa mục tiêu
cần đạt tới là có cơ cấu hợp lý, có hiệu quả có sức cạnh tranh cao chiếm đợc phần lớn
trong những ngành vµ lÜnh vùc then chèt cđa nỊn kinh tÕ qc dân để Nhà nớc chi
phối và điều khiển đợc nền kinh tế quốc dân đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và các
cân đối lớn của nền kinh tế làm nòng cốt đẩy nhanh tăng trởng kinh tế và xây dựng
công nghiệp sản xuất TLSX và công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp quốc phòng
xây dựng doanh nghiệp Nhà nớc đủ mạnh để cùng với các yếu tố khác của nền kinh

tế. Vấn đề cổ phần hoá các doanh nghiệp thực chất cũng chỉ là muốn huy độ đợc
nguồn vốn của toàn xà hội bao gồm các cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xà hội
trong và ngoài nớc để đầu t đổi mới công nghệ tạo ra sự cạnh tranh có hiệu quả, đồng
thời cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp cùng tạo điều kiện để ngời lao động
trong doanh nghiệp có cổ phần và những ngời đà đóng góp cổ phần đợc làm chủ thực
sự thay đổi phơng thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp, kinh doanh một
cách có hiệu quả, tăng tài sản của Nhà nớc, nâng cao thu nhập cho ngời lao động góp
phần tăng trởng kinh tế của đất nớc một vấn đề nữa trong quá trình cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nớc ở Việt Nam đó muốn giảm bớt các doanh nghiệp Nhà nớc để giảm
bớt gánh nặng vì đa số các doanh nghiệp này đều làm ăn kém hiệu quả.
Chơng trình cổ phần hóa (CPH) đợc triển khai cho đến nay đà gặt hái đợc nhiều
thành công song vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Với ý nghĩa thiết thực của việc cổ phần
hoá các doanh nghiệp đối với nền kinh tế Việt Nam trong tình hình hiện nay đặc biệt
là trong giai đoạn mà cả nớc chuẩn bị cơ sở vật chất kinh tế cho con đờng tiến lên chủ
nghĩa xà hội do đó mà em chọn đề tài: Thực trạng và một số giải pháp nhằm đẩy
mạnh quá trình CPH DNHH .
Tuy nhiên do mới làm quen với việc nghiên cứu nên bài viết này không tránh
khỏi những sai sót, em rất mong nhận đợc ý kiến đóng góp hớng dẫn của các thầy cô
giáo.
3


Đề án Kinh tế chính trị

Nội dung
Chơng I.
Cơ sở lí luận và thực tiễn của cổ phần hoá DNNN
1.1. Khái niệm CPH DNNN
Cổ phần hoá là quá trình chuyển đổi doanh nghiệp từ chỗ chỉ có một chủ sở
hữu thành công ty cổ phần là doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu. Cổ phần hoá nói

chung có thể diễn ra tại các doanh nghiệp t nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty liên doanh và tại các doanh nghiệp Nhà nớc. Cổ phần hoá là quá trình đa dạng hoá
sở hữu tại doanh nghiệp.
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc là quá trình chuyển đổi doanh nghiệp Nhà
nớc thành công ty cổ phần, trong đó Nhà nớc có thể vẫn giữ t cách là một cổ đông, tức
là Nhà nớc vẫn có thể là chủ sở hữu một bộ phận tài sản của doanh nghiệp. Cổ phần
hoá doanh nghiệp Nhà nớc không chỉ là quá trình chuyển đổi sở hữu Nhà nớc sang sở
hữu của các cổ đông, mà còn có cả hình thức doanh nghiệp Nhà nớc thu hút thêm vốn
thông qua hình thức bán cổ phiếu để trở thành công ty cổ phần.
Cần phân biệt cổ phần hoá với t nhân hoá. T nhân hoá doanh nghiệp Nhà nớc là
quá trình chuyển toàn bộ một phần quyền sở hữu tài sản trong doanh nghiệp Nhà nớc
từ Nhà nớc sang các cá nhân hay tổ chức khác không phải là Nhà nớc. Quá trình này
có thể là quá trình đa dạng hoá sở hữu, cũng có thể không phải nh vậy. Do đó, t nhân
hoá có thể hiểu theo 2 nghĩa rộng - hẹp khác nhau. T nhân hoá nghĩa hẹp để chỉ quá
trình bán toàn bộ sở hữu Nhà nớc tại một hoặc nhiều doanh nghiệp Nhà nớc cho khu
vực t nhân. T nhân hoá theo nghĩa rộng dùng để chỉ quá trình chuyển đổi nói chung
sở hữu Nhà nớc sang sở hữu t nhân.
Nh vậy, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc và t nhân hoá doanh nghiệp Nhà nớc là hai quá trình khác nhau, tuy vậy, trong những điều kiện nhất định chúng có thể
có điểm giống nhau, đó là quá trình đa dạng hoá sở hữu trong doanh nghiệp. Mặt
khác, tuỳ thuộc vào mức độ chuyển đổi quyền sở hữu đối với vốn và tài sản Nhà nớc
trong doanh nghiệp mà quá trình đa dạng hoá sở hữu có thể là quá trình t nhân hoá
hay cổ phần hoá.

4


Đề án Kinh tế chính trị

1.2. Tính phổ biến và những cơ sở khách quan của việc CPH DNNN
Từ những năm 70 của thế kỷ XX trên thế giới đà diễn ra quá trình giảm bớt sự

can thiệp của Nhà nớc vào nền kinh tế thông qua t nhân hoá và cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nớc. Nó bắt đầu từ nớc Anh rồi lan sang các nớc công nghiệp phát triển
khác và các nớc đang phát triển: đến đầu những năm 90 quy mô t nhân hoá và cổ
phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc diễn ra cha từng thấy, trở thành hiện tợng phổ biến,
đến năm 1995 đà có hơn 100.000 doanh nghiệp Nhà nớc đợc t nhân hoá và cổ phần
hoá doanh nghiệp Nhà nớc.
Trong thi k quỏ độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, vấn đề có ý nghĩa quyết
định là phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Bài học của các nền kinh tế phát triển
nhanh nhưng không bền vững là hết sức rõ ràng và cần xem xét một cách nghiêm túc.
Nếu phát triển nhanh trong một vài thập niên như các "con rồng", "con hổ" châu Á,
để rồi phải gánh chịu khủng hoảng tài chính như năm 1997, chấp nhận các điều kiện
của IMF làm một lối thoát duy nhất là rất nguy hiểm. Tư nhân hóa ồ ạt để được công
nhận là một nền kinh tế thị trường như các nước Đơng Âu và SNG, cũng có nghĩa là
chấp nhận một giai đoạn đổ vỡ về kinh tế và xã hội, chấp nhận một đa số nghèo đi để
có một thiểu số giàu lên rất nhanh đến mức có đại diện trong số vài chục người giàu
nhất thế giới. Nước Nga vào cuối năm 2005, với 2% số người giàu nhất chiếm 30%
của cải xã hội, còn 10% dân số nghèo nhất chỉ có 2,4% của cải và qua thăm dị dư
luận có 74% người dân tiếc nuối về Liên bang Xơ-viết(2). Trung Quốc trong tiến
trình cải cách và mở cửa, nhất là trong cải cách kinh tế, xây dựng thể chế kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa, đã chú ý thử nghiệm chế độ cổ phần và có những tìm tịi lý
luận về vấn đề này đáng để chúng ta tham khảo. Trong giai đoạn đầu của q trình
cơng nghiệp hóa ở hầu hết các nước, tăng trưởng GDP thường được coi là nhu cầu
cấp bách, là ưu tiên số một trong chiến lược phát triển, nhưng về lâu dài người ta
càng thấy rõ nó khơng phải là duy nhất của sự phát triển. Càng ngày nhân loại càng ý
thức được một cách rõ ràng hơn tầm quan trọng sống còn của sự phát triển bền vững
cả về kinh tế và xã hội. Thực tiễn thế giới cho thấy, chất lượng sống cao nhất không
phải là ở những quốc gia giàu có nhất theo mơ hình kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa triệt để nhất. Nhiều cơng trình nghiên cứu từ những góc độ khác nhau về thực
tiễn đều có chung một kết luận rằng, loại hình sở hữu hỗn hợp dưới hình thức phổ
5



Đề án Kinh tế chính trị

bin l cỏc doanh nghip cổ phần, có sức cạnh tranh cao nhất và tạo nên chất lượng
tăng trưởng tốt nhất. Không phải ngẫu nhiên các nhà cải cách Trung Quốc đề xuất
chế độ cổ phần là hình thức thực hiện chủ yếu của chế độ cơng hữu. Việc cổ phần
hóa phần lớn các doanh nghiệp nhà nước mà chúng ta đang nỗ lực thực hiện, cũng
chính là xác lập chế độ cổ phần trong kinh tế nhà nước, nhằm đa dạng hóa các hình
thức sở hữu, thực chất là phát triển hình thức sở hữu hỗn hợp để từng bước làm tăng
thực lực kinh tế của chế độ sở hữu cơng cộng tồn dân.
Xét về mặt lịch sử và lý luận, chế độ cổ phần (biểu hiện thành giải pháp kinh tế
là cổ phần hóa doanh nghiệp) đã ra đời trong q trình phát triển kinh tế tư bản chủ
nghĩa từ mấy thế kỷ trước đây. Do sản xuất - kinh doanh càng phát triển, nên yêu cầu
tập trung và tích tụ vốn càng cao. Cổ phần hóa đáp ứng yêu cầu đó. Nó chính là hình
thức hùn vốn trong sản xuất, kinh doanh, trong đó những ai tham gia vào q trình
này sẽ được hưởng lợi (hoặc chịu rủi ro), theo tỷ lệ đóng góp cổ phần. Cơng ty Đơng
Ấn Độ của Anh trong thời kỳ thực dân Anh thống trị Ấn Độ là một loại hình chế độ
cổ phần. Nước Mỹ hồi cuối thế kỷ XIX, khi cần tập trung một nguồn vốn lớn để xây
dựng đường sắt, cũng đã tổ chức xí nghiệp theo chế độ cổ phần.
Áp dụng chế độ cổ phần bằng cách cổ phần hóa doanh nghiệp, sẽ liên kết được
những nguồn vốn và tư liệu sản xuất phân tán của các sở hữu tư nhân lại với nhau,
làm cho nó trở thành nguồn vốn xã hội, thúc đẩy nhanh việc xã hội hóa nguồn vốn và
tư liệu sản xuất. Đây là điều được rút ra từ thực tiễn xã hội hóa sản xuất tư bản chủ
nghĩa ở thế kỷ XIX, mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đặc biệt quan tâm
nghiên cứu.
C. Mác cho rằng, chế độ cổ phần là đòn bẩy mạnh mẽ để phát triển sức sản
xuất của xã hội hiện đại. Ph. Ăng-ghen cũng chỉ rõ, sản xuất tư bản chủ nghĩa do
cơng ty cổ phần kinh doanh đã khơng cịn là sản xuất tư nhân, quá trình chuyển đổi
vốn tư nhân thành vốn xã hội đã thúc đẩy mạnh mẽ việc xã hội hóa sản xuất và phát

triển sức sản xuất.
Lơ-gíc nhận thức ở đây, nhìn từ góc độ kinh tế và phát triển kinh tế cho thấy:
đã thừa nhận kinh tế thị trường thì một cách tất yếu tự nhiên cần phải thừa nhận chế
độ cổ phần và cổ phần hóa. Với chế độ sở hữu tư nhân (tư hữu) tư bản chủ nghĩa, chế
6


Đề án Kinh tế chính trị

c phn phc v cho việc tăng nguồn vốn cho sản xuất - kinh doanh tư bản chủ
nghĩa, chủ yếu đem lại lợi ích cho nhà tư bản. Với chế độ sở hữu xã hội (cơng hữu),
cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước phục vụ cho việc tăng nguồn lực cho sản
xuất - kinh doanh, vì lợi ích của người lao động.
Trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, cơng nhân và người lao động tham
gia mua cổ phiếu, có cổ phần và có vị thế làm chủ của những người cổ đơng. Họ trở
thành đồng sở hữu cùng với doanh nghiệp và Nhà nước. Đó là sự hiện diện của sở
hữu cá nhân, hợp thành cơ sở để hình thành sở hữu xã hội. Đây thực sự là sở hữu vốn
và tư liệu sản xuất, tạo cho công nhân và lao động địa vị kinh tế để thực sự làm chủ
doanh nghiệp.
Kinh nghiệm của Trung Quốc qua hơn 28 năm cải cách cho thấy, cải cách chế
độ cổ phần được coi là một đột phá lý luận kinh tế để xây dựng lý lun kinh t th
trng xó hi ch ngha. Năm 1984 với sự ra đời của Công ty Cổ phần Hữu hạn Bách
hóa Thiên Kiều (Bắc Kinh). Sau đó, trong Văn kiện quan trọng được ban hành tháng
12 năm 1986, Quốc Vụ viện Trung Quốc đã cho phép “Các địa phương có thể chọn
ra một vài doanh nghiệp lớn và vừa có điều kiện, thuộc chế độ sở hữu tồn dân để
thực hiện thí điểm cổ phần hóa”. Đến cuối năm 1993, Trung Quốc đã có hơn 3.000
đơn vị thực hiện thí điểm cổ phần hóa. Tính đến cuối năm 1996, Trung Quốc có hơn
9.200 DNNN đã chuyển thành cơng ty cổ phần, với tổng số vốn là 600 tỷ NDT, hơn
4.300 công ty cổ phần hữu hạn đăng ký hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, với tổng
số vốn cổ phần đạt 358 tỷ NDT, trong đó 150 tỷ NDT là vốn huy động từ xã hội, 35

tỷ NDT là giá trị cổ phần phát hành trong nội bộ doanh nghiệp, 80 tỷ NDT là vốn đầu
tư trực tiếp của nước ngồi. Nhiều cơng ty cổ phần đã tham gia thị trường chứng
khốn Thượng Hải, Thâm Quyến, một số cơng ty cổ phần đã niêm yết trên thị trường
Trung Quốc đạt được những bước tiến đáng kể nhÊt lµ từ năm 1997 đến 2001,
xí nghiệp chế độ cổ phần (cổ phần hóa) tăng từ 7.200 lên tới gần 300.000, số lao
động từ 6,437 triệu người lên 27,466 triệu người, doanh thu từ 813,1 tỉ nhân dân tệ
(NDT) lên 5.673,3 tỉ NDT. Thực tế đó có sức thuyết phục, đem lại nhận thức đúng
đắn về vai trò của chế độ cổ phần, của cổ phần hóa trong xây dựng kinh tế quc hu.
Cơ sở của việc xuất hiện hiện tợng này lµ:
7


Đề án Kinh tế chính trị

Thứ nhất, các doanh nghiệp Nhà nớc phát triển tràn lan lại không đợc tổ chức
và quản lý tốt. Quản lý kinh tế theo kiểu hành chính, qua nhiều cấp trung gian, hệ
thống kế hoạch, tài chính cứng nhắc, thiếu khả năng thích ứng với nền kinh tế thị trờng. Tính chủ động trong sản xuất - kinh doanh bị gò bó bởi nhiều quy chế xuất phát
từ quyền sở hữu của Nhà nớc. Sự độc quyền của các doanh nghiệp Nhà nớc đợc pháp
luật bảo vệ. Tất cả những cái đó đà đánh mất động lực kinh tế trong hoạt động sản
xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nớc, làm kết quả hoạt động của chúng
yếu kém triền miên.
Thứ hai, do hoạt động kém hiệu quả nên các doanh nghiệp Nhà nớc đà trở
thành gánh nặng cho ngân sách Nhà nớc. Nhà nớc phải thờng xuyên sử dụng ngân
sách trợ cấp trực tiếp và gián tiếp cho chúng, điều đó dẫn đến ngân sách Nhà nớc bị
thiếu hụt.
Thứ ba, về nhận thức lý ln, cã sù thay dỉi quan ®iĨm vỊ vai trò của Nhà nớc
trong nền kinh tế thị trờng. Từ "Chủ nghĩa t bản điều tiết" của Keynes đến "Chủ nghĩa
tự do mới", rồi "Nền kinh tế hỗn hợp" của Samuelsơn; sự thay đổi nhận thức từ chỗ
nhấn mạnh vai trò của khu vực kinh tế Nhà nớc đến chỗ coi trọng khu vực kinh tế t
nhân và vai trò tự điều tiết của cơ chế thị trờng, và hiện nay là sự phổ biến của mô

hình "Nền kinh tế hỗn hợp giữa khu vực kinh tế Nhà nớc và mô hình kinh tế t nhân".
Quan điểm này đà làm thay đổi t duy kinh tế của các chính phủ, dẫn đến xu hớng
đánh giá lại vai trò và hiệu qu¶ kinh tÕ x· héi cđa hƯ thèng doanh nghiƯp Nhà nớc. Cổ
phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc là một giải pháp mà hầu hết các nớc đều coi trọng,
bắt nguồn từ thay đổi quan điểm nói trên.
Thứ t, sức hấp dẫn từ những u điểm của công ty cổ phần. So với các doanh
nghiệp bình thờng khác. Công ty cổ phần có sức sống mạnh hơn, hiệu quả kinh tế cao
hơn rõ rệt và vai trò hết sức to lín trong sù ph¸t triĨn kinh tÕ - x· héi, đáp ứng yêu cầu
mới của sự phát triển kinh tế thị trờng. Hình thức thực hiện chế độ sở hữu rất đa dạng,
phong phú. Thớc đo sự đúng đắn của các hình thức đó là tác dụng thu hút, tập hợp và
sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong xà hội, tạo động lực cho sự phát triển. Thực
tế phát triển của kinh tế thị trờng cho thấy, loại hình công ty cổ phần hội tụ đủ các
yếu tố trên, ngợc lại, loại hình doanh nghiệp đơn sở hữu (dù là sở hữu t nhân hay sở
hữu Nhà nớc) sẽ bị hạn chế trong đầu t và cạnh tranh.
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc liên quan chặt chẽ tới việc tôn trọng và
phát huy sở hữu cá nhân không chỉ trong chế độ t bản chủ nghĩa mà cả trong chế độ
xà hội chủ nghĩa. Với t cách vừa là cổ đông vừa là ngời làm thuê trong công ty cổ
phần, ngời lao động có quan hệ lợi ích chặt chẽ với doanh nghiệp, còn trong doanh
nghiệp Nhà nớc chủ sở hữu là Nhà nớc, là chung chung, mơ hồ, không gắn quyền sở
hữu với quyền sử dụng. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc thực sự là một cuộc cách
mạng triệt để thay đổi cách tổ chức hoạt động trong nội bộ doanh nghiệp, thay đổi cơ
8


Đề án Kinh tế chính trị

bản mối quan hệ doanh nghiệp - Nhà nớc và tạo điều kiện cho doanh nghiệp thích ứng
với hoạt động cạnh tranh trong cơ chế thị trờng.
Suy cho cùng, công ty cổ phần là sản phẩm tất yếu của nền sản xuất xà hội hoá
và nền kinh tế thị trờng phát triển. Việc chuyển các doanh nghiệp Nhà nớc sang công

ty cổ phần là do tính xà hội hoá của sản xuất, do quy luật cạnh tranh trong nền kinh tế
thị trờng quyết định và thúc đẩy, đó là quá trình khách quan, không phải do ý mn
chđ quan cđa bÊt kú thĨ chÕ chÝnh trị hay cá nhân nào.
1.2. Tính tất yếu của viêc CPH DNNN ở Việt Nam
Do nhiều năm thực thi một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tuyệt đối hoá
kinh tế Nhà nớc, coi kinh tế Nhà nớc đồng nhất với doanh nghiệp Nhà nớc, nên trong
một thời gian dài đà phát triển hệ thống doanh nghiệp Nhà nớc với số lợng lớn, tràn
lan.
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp Nhà nớc đà bộc lộ những yếu kém,
bất cập, ®a ®Êt níc ®Õn cc khđng ho¶ng kinh tÕ - xà hội. Chính vì vậy, việc đổi mới,
sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp Nhà nớc là một đòi hỏi tất yếu. Việc định hớng xÃ
hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trờng đòi hỏi phải tạo cho kinh tế Nhà nớc sức mạnh
thực sự, trong dó doanh nghiệp Nhà nớc là nòng cốt để đủ khả năng dẫn dắt, điều tiết
và định hớng các thành phần kinh tế khác.
Xung quanh vấn đề này, Đảng và Nhà nớc đà có rất nhiều nỗ lực, đạt đợc nhiều
thành tựu đáng hào. Tuy vậy, đến năm 1992, cuộc cải cách doanh nghiệp Nhà nớc có
phần chững lại, lúng túng. Cuộc sống đà đặt ra một loạt vấn đề bức xúc nh: Ai chịu
trách nhiệm chính về quyết định phơng hớng phát triển và giải pháp kinh doanh cụ thể
của doanh nghiệp Nhà nớc? Ai chịu trách nhiệm chính về việc bảo toàn, phát triển
vốn và tài sản của Nhà nớc? Ai đảm bảo quyền lợi chính đáng của ngời lao động nh
việc làm, đời sống, thu nhập, bảo hiểm xà hội?
Những câu hỏi đó là thiết thực và cấp bách, cần trả lời trong điều kiện mới. Nếu
không có "ông chủ" thực sự của doanh nghiệp Nhà nớc thì không thể giải quyết triệt
để những vấn đề đà nêu trên.
Cuộc sống đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới. Từ thực trạng của nền kinh tế cùng với
các đặc điểm u việt của hình thức công ty cổ phần và cổ phần hoá doanh nghiƯp Nhµ
níc, ViƯt Nam cã thĨ vËn dïng vµ cần thiết phải tiến hành chuyển một bộ phận doanh
nghiệp Nhà nớc thành công ty cổ phần. Đối với sở hữu Nhà nớc, việc tìm kiếm các
hình thức thực hiện đa dạng, phù hợp chính là để nâng cao hiệu quả, phát huy đợc vai
trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nớc.

1.3.1. Thực trạng của các doanh nghiệp Nhà nớc.
Các doanh nghiệp Nhà nớc hầu nh là sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, lỗ
hoặc không lÃi hoặc lÃi ít thấp hơn lÃi xuất tiết kiệm lại có rủi ro lớn hơn không hấp
dẫn mọi ngời, nguyên nhân doanh nghiệp Nhà nớc hoạt động kém hiệu quả thì có
9


Đề án Kinh tế chính trị

nhiều nhng nguyên nhân dễ thấy nhất là về quản lý doanh nghiệp đặc biệt là lĩnh vực
quản lý tài chính, từ đó mọi ngời mất công lên ở doanh nghiệp Nhà nớc. Ngời ta
không hy väng r»ng khi mua cỉ phiÕu doanh nghiƯp sÏ mang lại cổ tức cho họ về mặt
luật pháp thì còn có sự phân biệt giữa luật doanh nghiệp Nhà nớc với luật Công ty,
luật doanh nghiệp t nhân nên mặc nhiên sẽ có sự phân biệt đối xử đối với loại doanh
nghiệp và sức cạnh tranh vẫn còn thấp cha tơng xứng với điều kiện thuận lợi và lợi thế
có đợc. Tốc độ tăng trởng của doanh nghiệp Nhà nớc có biểu hiện giảm dần nợ khó
đòi ngày càng lớn. Tính năng động của một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp Nhà nớc còn hạn chế theo đánh giá 1998 sè doanh nghiƯp Nhµ níc thùc sù kinh doanh cã
hiƯu qu¶ chØ chiÕm 4% sè doanh nghiƯp kinh doanh không có hiệu quả lên đà bị thua
lỗ chiếm 20% còn 40% các doanh nghiệp kinh doanh cha có hiệu quả khi lỗ, khi lÃi tỷ
suất lợi nhuận trớc thuế trên vốn Nhà nớc của doanh nghiệp Nhà nớc cha cao và có xu
hớng giảm dần năm 1996 là 11,2%, năm 1997 là 9,3% năm 1998 là 9,1% và tới năm
1996 là 9,2% không ít các doanh nghiệp xây dựng dự án kế hoạch không phù hợp với
định hớng phát triển chung của ngành, thiếu tính khả thi, việc bảo toàn vốn của không
ít doanh nghiệp cha tốt còn có tình trạng ăn vào vốn, mất vốn.
Việc đầu t đổi mới công nghệ chậm với trình độ công nghệ lạc hậu là cản trở
lớn đối với khả năng cạnh tranh và quá trình hội nhập theo số liệu của Bộ khoa học
công nghệ hiện đại thì còn lại các máy móc dây chuyền sản xuất của các doanh
nghiệp Nhà nớc ta còn lạc hậu so với thế giới và khu vực 10 - 20% năm thậm chí 30
năm nh cơ khí, trình độ cơ khí hoá tự động hoá, dới 10% mức độ hao mòn hữu hình từ
30 - 15% hậu quả trực tiếp của tình trạng trên là một số mặt hàng sản xuất trong nớc

nh sắt thép phân bón, xi măng kính xây dựng có mức giá cao hơn nhập khẩu từ 20% 40% riêng đờng thì cao hơn 70 - 80%. Quy mô doanh nghiệp Nhà nớc còn nhỏ dàn
trải chồng chéo về ngành nghề và tổ chức quản lý, lao động thiếu việc làm và dôi d có
xu hớng ngày càng tăng là khó khăn ảnh hởng tới việc đổi mới doanh nghiệp Nhà nớc
xét về trình độ quản lý còn yếu kém cha đáp ứng đợc yêu cầu của cơ chế thị trờng.
Nhiều cán bộ quản lý cha đợc đào tạo, đào tạo lại cha đáp ứng đợc yêu cầu chuyên
môn còn lúng túng trớc cơ chế thị trờng.
Một vấn đề nữa là về cơ chế chính sách quản lý kinh tế quản lý doanh nghiệp
Nhà nớc còn nhiều tồn tại vớng mắc cần tháo gỡ chính sách tài chính vẫn còn nhiều
điểm cha phù hợp với loại hình doanh nghiệp Nhà nớc hoạt động công ích và hoạt
động kinh doanh trong cơ chế thị trờng cha rõ ràng và đầy đủ trong việc cấp và giao
quyền quyết định đầu t cho các doanh nghiệp, cha phân tích rõ các loại quyền quản
lý Nhà nớc, chính vì thế mà đối với các doanh nghiệp hoạt động với hiệu quả còn
thấp.
1.3.2. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhµ níc lµ tÊt u.

10


Đề án Kinh tế chính trị

Thực tế quá trình CPH (cổ phần hoá) trong thời gian qua đà làm tăng hiệu quả
lao động và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, đây là vấn đề mấu chốt quyết định
đến khả năng nâng cao mức thu nhập là vấn đề thu nhập của ngời lao động đồng thời
một vấn đề đợc coi là hóc búa nhất trong cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nớc - vấn đề
thất nghiệp cũng đợc giải quyết thoả đáng. Các doanh nghiệp Nhà nớc không những
không sa thải công nhân khi CPH, ngợc lại trên thực tế, còn tuyển thêm nhiều lao
động mới vì hiệu quả kinh tế tăng lên, thị trờng mở rộng.
Về phía Nhà nớc cái lợi vừa mang tính chiến lợc lai vừa cụ thể ngân sách Nhà
nớc bớt đợc khoản chi phí bao cấp số thu ngân sách Nhà nớc tăng do doanh nghiệp
làm ăn có hiệu quả hơn, mặt khác thông qua cơ chế hoạt động của doanh nghiệp CPH,

Nhà nớc tạo ra đợc một cách quản lý mới có tính tập thể và hiệu quả cao thông qua
hội đồng quản trị, từ nay ngời lao động cũng đợc tham gia vào quá trình quản lý và
phân phối kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả điều tra hiệu quả kinh doanh
của 11 doanh nghiệp Nhà nớc đà chuyển sang Công ty cổ phần hoạt động từ 1 năm
trở lên cho thấy các chỉ tiêu cụ thể nh: Vốn tăng bình quân 45%/ năm doanh thu tăng
56,9%/ năm lợi nhuận tăng 70% năm. Nộp ngân sách Nhà nớc tăng 98% năm, lao
động tăng 20% năm thu nhập ngời lao động tăng 20% năm. Nh vậy có thể nói lợi ích
của cô phần hoá là không cần tranh cÃi. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là tại sao tiến trình
cổ phần hoá diễn ra quá chậm trễ. Trong suốt 5 năm (1992 - 1997) ë níc ta chØ cho 18
doanh nghiƯp với số vốn hết sức nhỏ bé. Hàng loạt chủ trởng của Đảng và Nhà nớc
trong việc thúc đẩy tiến trình này hầu nh không đợc thực hiện triệt để.
CPH chính là biện pháp cải cách doanh nghiệp Nhà nớc, đem lại hiệu quả để sử
dụng đồng vốn tốt nhất. Doanh nghiệp CPH sẽ thu hút đợc ngày càng nhiều vón nếu
sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhất là khi đà hình thành thị trờng chứng khoán.
Thời gian qua ngân sách Nhà nớc đà phải đầu t một tỷ trọng vốn lớn cho các
doanh nghiệp Nhà nớc nhng hiệu quả thu lại thì rất chậm trong khi ngân sách Nhà nớc đà có hạn và lại phải trang trải cho nhiều loại chi tiêu khác.
Để xử lý tình trạng thiếu vốn và cơ chế quản lý tài chính có hiệu lực thực sự
ràng buộc trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
Nhà nớc thì giải pháp cần làm là thực hiện cổ phần hoá mét sè doanh nghiƯp Nhµ níc.
CPH doanh nghiƯp Nhµ níc là một công việc mới, khó, phức tạp và nhạy cảm.
Vì vậy đòi hỏi tối đa khả năng lÃnh đạo và kiến thức về kinh tế thể hiện tài năng của
mình trên thơng trờng và trong khu vực về giới tận dụng tối đa hoá nguồn tri thức
Việt Nam.
CPH doanh nghiệp Nhà nớc là một công việc mới vì vậy việc nghiên cứu các cơ
chế chính sách cổ phần hoá còn chậm chạp. Các văn bản ban hành thiếu đồng bộ, quy
trình triển khai phức tạp còn nhiều mặt cha thật phù hợp. Trong thời gian dài chậm

11



Đề án Kinh tế chính trị

quy định phạm vi để Doanh nghiệp Nhà nớc đợc phép cổ phần hoá, cha đề ra mục tiêu
hoàn thành CPH hàng năm để phấn đấu thực hiện.
Mặt khác đây là công việc nhạy cảm, song ra cha cã kinh nghiƯm ®Ĩ khi triĨn
khai CPH vừa mang lại tăng trởng kinh tế vừa giữ vững đợc định hớng xà hội chủ
nghĩa. Vì vậy công việc tiến hành rất thận trọng, phải dần dần qua thực tế mới có thể
bổ sung hoàn chỉnh đợc cách thức thực hiện.
Về nhận thức một bộ phận và địa phơng Tổng Công ty Nhà nớc cha nhận thức
đầy đủ ý nghÜa chđ tr¬ng CPH mét trong bé phËn doanh nghiƯp Nhà nớc, do đó thiếu
tính chủ động và cha kiên qut trong viƯc tỉ chøc thùc hiƯn. Mét sè Gi¸m đốc doanh
nghiệp cha thật nhiệt tình với công tác CPH doanh nghiệp mình. Vì họ cho rằng làm
Giám đốc doanh nghiệp Nhà nớc thì nhẹ nhành hơn, trách nhiệm không nặng, đồng
thời quyền lợi về mọi mặt đợc đảm bảo hơn. Công tác tuyên truyền từ trong Đảng,
trong bộ máy Nhà nớc từ Trung ơng đến địa phơng cha thật đẩy mạnh. Việc thực hiện
quy định công khai tài chính của doanh nghiệp Nhà nớc cha thành nền nếp thờng
xuyên. Các thông tin về kết quả của những doanh nghiệp Nhà nớc đều có các khoản
nợ, trong đó có nhiều doanh nghiệp Nhà nớc có những khoản nợ rất lớn hoặc là do
thua lỗ trong sản xuất kinh doanh hoặc là do công tác đầu t phát triển. Do vậy khi lập
phơng án chuyển sang CPH, việc đa ra cách giải quyết phù hợp nhất để xử lý các món
nợ cho các doanh nghiệp thờng vấp phải vấn đề rất nan giải là phải làm trong sạch
tình hình tài chính, nghĩa là phải định đợc hớng thanh toán công nợ.
1.4 Quan điểm của Đảng và các quy định của Nhà nớc về quá trình CPH
1.4.1 Quan điểm của Đảng CS Việt Nam
Ngay từ cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90, Đảng đà có chủ trơng chuyển một
bộ phận doanh nghiệp Nhà nớc thành công ty cổ phần, cụ thÓ nh sau:
- Đại hội VI (năm 1986) của Đảng ta đã chủ trương phát triển nhất quán kinh tế
nhiều thành phần, coi đó là đặc trưng của thời kỳ q độ, đa dạng hố hình thức tổ
chức sản xuất kinh doanh, nhưng vẫn đặt vấn đề làm cho kinh tế quốc doanh giữ vai
trò chủ đạo, chi phối được các thành phần kinh tế khác, chiếm tỷ trọng lớn cả trong

sản xuất và lưu thơng.
- NghÞ qut Héi nghÞ Trung ơng Đảng lần 2 khoá VII (11-1991) nêu rõ:
"Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và
thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt
chẽ, rút kinh nghiẹm chu đáo trớc khi mở rộng phạm vi thích hợp".
- Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (11-1994) đÃ
nêu mục đích, hình thức cổ phần hoá và mức độ sở hữu Nhà nớc tại doanh nghiệp Nhà
nớc cổ phần hoá: "Để thu hút thêm vốn, tạo thêm động lực, ngăn chặn tiêu cực, thúc
12


Đề án Kinh tế chính trị

đẩy doanh nghiệp Nhà nớc làm ăn có hiệu quả, cần thực hiện các hình thức cổ phần
có mức độ thích hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất kinh doanh: trong đó sở hữu
Nhà nớc chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối".
- Nghị quyết của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới để phát huy vai trò chủ đạo
của doanh nghiệp Nhà nớc (số 10/NQ-TW, ngày 17-3-1995) đà bổ sung thêm về phơng châm tiến hành cổ phần hoá, tỷ lệ bán cổ phần cho những ngời trong và ngoài
doanh nghiệp "Thực hiện từng bớc vững chắc cổ phần một bộ phận doanh nghiệp mà
Nhà nớc không cần giữ vốn 100% vốn. Tuỳ tính chất, loại hình doanh nghiệp mà tiến
hành bán một tỷ lệ cổ phần cho công nhân viên chức làm việc tại doanh nghiệp để tạo
động lực bên trong trực tiếp thúc đẩy phát triển và bán bổ phần cho các tổ chức hay cá
nhân ngoài doanh nghiệp để thu hút thêm vốn, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh".
- Trong kÕt ln cđa Bé ChÝnh trÞ vỊ kế hoạch phát triển kinh tế - xà hội 5 năm
1996-2000 (số 301/BBK/BTC ngày 12-9-1995) đà bổ sung thêm mục tiêu giữ vững
định hớng xà hội chủ nghĩa của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc và phân loại
doanh nghiệp Nhà nớc để cổ phần hoá.
- Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (6-1996) chỉ đạo: "Tổng kết
kinh nghiệm, hoàn chỉnh khuôn khổ pháp luật để triển khai tích cực, vững chắc cổ
phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc nhằm huy động thêm vốn, tạo động lực mới thúc đẩy

doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, làm tài sản Nhà nớc ngày một tăng lên, là sự kết
hợp giữa kinh tế Nhà nớc với kinh tế nhân dân để phát triển kinh tế đất nớc chứ không
phải để t nhân hoá. Bên cạnh những doanh nghiệp 100% vốn Nhà nớc, sẽ có nhiều
doanh nghiệp mà Nhà nớc nắm cổ phần chi phối.
- Hội nghị lần thứ t Ban Chấp hành Trung ơng khoá VIII ( tháng 12-1997) nêu
rõ giải pháp cổ phần hóa nh sau:" Phân loại doanh nghiệp công ích và doanh nghiệp
kinh doanh, xác định danh mục các loại doanh nghiệp cần giữ 100% vốn nhà nớc, loại
doanh nghiệp nhà nớc cần nắm giữ cổ phần chi phối, loại doanh nghiệp nhà nớc chỉ
cần nắm giữ cổ phần ở mức thấp" và " Đối với doanh nghiệp mà Nhà nớc không cần
nắm 100% vốn cần lập kế hoạch cổ phần hoá để tạo động lực phát triển, làm ăn có
hiệu quả".
- i hi IX (nm 2001) đã đề ra mục tiêu trong 5 năm (2001 - 2005) phải cơ
bản hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu
quả các doanh nghiệp nhà nước hiện có, đồng thời phát triển thêm doanh nghiệp mà
Nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc có cổ phần chi phối ở một số ngành, lĩnh vực then
chốt và địa bàn quan trọng. Đẩy mạnh thực hiện chủ trương cổ phần hóa và đa dạng
hóa sở hữu đối với những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn.
Việc bán cổ phần cho các tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp được mở rộng.
13


Đề án Kinh tế chính trị

Thc hin sỏp nhp, gii thể hoặc phá sản các doanh nghiệp nhà nước hoạt động
không hiệu quả và không thực hiện được việc giao, bán, khốn, cho th…
- Hội nghị Trung ương 9 khóa IX (tháng 1 năm 2004) quyết định "Tiếp tục sắp
xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả khu vực doanh nghiệp nhà nước, trọng
tâm là cổ phần hóa mạnh hơn nữa". Về chỉ đạo, Trung ương đã quyết định "Đẩy
nhanh tiến độ cổ phần hóa và mở rộng diện các doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần
hóa, kể cả một số công ty và doanh nghiệp lớn trong các ngành như điện lực, luyện

kim, cơ khí, hóa chất, phân bón, xi măng, xây dựng, vận tải đường bộ, đường sông,
hàng không, hàng hải, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm... Diện các doanh nghiệp nhà
nước được cổ phần hoá mở rộng hơn và thực hiện nguyên tắc thị trường trong việc cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước chỉ giữ cổ phần chi phối đối với các tổng
công ty, công ty cổ phần hoạt động trong những ngành, những lĩnh vực thiết yếu và
chỉ giữ 100% vốn nhà nước trong các doanh nghiệp hoạt động đảm bảo an ninh, quốc
phòng và những doanh nghiệp sản xuất, cung ứng dch v cụng ớch thiết yếu mà cha
cổ phần hóa đợc.
1.4.2. Các quy đinh của Nhà nớc về quá trình cỉ phÇn hãa
Quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1987 của Hội đồng bộ trưởng về một số
chính sách đổi mới cơ chế hạch tốn kinh doanh trong các xí nghiệp quốc doanh, ý
tưởng về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã được đưa ra
Ngày 10/5/1990 Chính phủ ra Quyết định số 143/HĐBT, chủ trương nghiên
cứu và làm thử mơ hình chuyển xí nghiệp quốc doanh sang cơng ty cổ phần, quy định
phạm vi thí điểm cổ phần hố giới hạn trong các doanh nghiệp nhà nước vừa và nhỏ
đáp ứng được điều kiện làm ăn có lãi, đã hạch tốn, người lao động nhất trí và có khả
năng mua cổ phiếu. Với Quyết định số 143/HĐBT, trình tự, cách thức tiến hành cổ
phần hoá đã bước đầu được quy định. Mặc dù vậy trong 2 năm tiếp theo 1991 - 1992
chưa có doanh nghiệp nhà nước nào đăng ký cổ phần hố. Thực tế khó khăn này buộc
Đảng và Nhà nước phải chỉ đạo sát sao hơn nữa.
Hội đồng Bộ trưởng đã có Quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 về tiếp tục thí
điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành cơng ty cổ phần nêu rõ quy trình
cổ phần hố và các chính sách liên quan

14


Đề án Kinh tế chính trị

Quyt tõm thc thi c phần hoá trong thực tế, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng đã

ra Quyết định số 203/CT ngày 8/6/1992 chọn 7 doanh nghiệp nhà nước do Chính phủ
chỉ đạo tiến hành thí điểm cổ phần hố và giao cho mỗi Bộ, ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương chọn từ 1 - 2 doanh nghiệp thí điểm chuyển thành
cơng ty cổ phần. Tiếp đó, để định hướng chỉ đạo cổ phần hoá gắn liền với sắp xếp lại
doanh nghiệp nhà nước, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 84/TTg ngày
4/3/1993 về việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hố doanh nghiệp nhà nước và
các giải pháp đa dạng hố hình thức sở hữu đối với các doanh nghiệp nhà nước.
Tháng 12 - 1993 Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 4 ra Nghị quyết nêu rõ: "Đổi
mới cơ bản về tổ chức và cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước, thực hiện các hình
thức cổ phần hố thích hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất để thu hút thêm các
nguồn vốn, tạo thêm động lực, ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có
hiệu quả".
Tổng kết kinh nghiệm trong giai đoạn thí điểm, tháng 5/1996 Chính phủ ban
hành Quyết định số 28/CP về chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ
phần. Với Quyết định này, lần đầu tiên Nhà nước đã đưa ra được một quy trình và hệ
chính sách cổ phần hố đồng bộ về các mặt: Mở rộng diện cổ phần hoá ra tất cả các
doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn có phương án sản
xuất kinh doanh có hiệu quả, quy mơ vừa và nhỏ; mở rộng thêm hình thức cổ phần
hố một bộ phận doanh nghiệp; mở rộng quyền quyết định cổ phần hoá cho bộ và địa
phương (doanh nghiệp dưới 3 tỷ đồng); thực thi chính sách ưu đãi cho khơng cổ
phiếu đối với người lao động trong doanh nghiệp đi cùng chế độ vay trả chậm để mua
cổ phiếu; giảm thuế cho doanh nghiệp sau cổ phần hố trong 2 năm và miễn phí
chuyển tài sản, được vay vốn như doanh nghiệp nhà nước.... Nghị định này được sửa
đổi, bổ sung bằng Nghị định số 25/CP ngày 26/3/1997. Để nhấn mạnh hơn nữa nhiệm
vụ tái cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước trong đó có cổ phần hố, Thủ tướng Chính
phủ ra Chỉ thị 20/TTg ngày 21/4/1998 yêu cầu các Bộ và địa phương phải tiến hành
quy hoạch tổng thể, phân định rõ các doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hố. Đồng
thời Chính phủ cũng ban hành Nghị định số 44/1995/NĐ-CP ngày 29/6/1998 về việc

15



Đề án Kinh tế chính trị

chuyn doanh nghip nh nc thành công ty cổ phần thay thế Quyết định số 28/CP
khơng cịn phù hợp với thực tiễn cổ phần hố giai đoạn mới.
Cụ thể hóa định hướng, chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 64/CP (ngày 19/6/2002) về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thay thế
Nghị định số 44/CP. Nét mới của Nghị định số 64/CP là khuyến khích mở rộng bán
cổ phiếu cho cổ đơng ngồi doanh nghiệp, loại bỏ mức khống chế cổ phiếu do cán bộ
quản lý doanh nghiệp mua, nới rộng chính sách ưu đãi cho người lao động và doanh
nghiệp cổ phần hố hơn nữa.
Song, tác động tích cực của Nghị định số 64/CP không được như mong đợi.
Tốc độ cổ phần hoá nửa cuối năm 2002 và năm 2003 có được đẩy nhanh lên chút ít
nhưng cịn thấp hơn kế hoạch khá nhiều.
Nhằm tăng sức ép đẩy nhanh cổ phần hố, ngày 13/5/2004 Thủ tướng Chính
phủ đã ra Quyết định số 84/2004/QĐ-TTg về thí điểm cổ phần hố 3 tổng công ty lớn
(Tổng Công ty Thương mại - Xây dựng, Tổng công ty Điện tử và Tin học và Tổng
công ty Xuất nhập khẩu xây dựng VINACONEX) và ngày 16/11/2004 Chính phủ đã
ban hành Nghị định 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty
cổ phần thay thế Nghị định số 64/CP với những thay đổi quan trọng về cơ chế nhằm
tháo gỡ được những vướng mắc của doanh nghiệp, qua đó sẽ thúc đẩy nhanh tiến
trình cổ phần hóa.
Vấn đề thay đổi đầu tiên, đó là mở rộng diện cổ phần hoá theo tinh thần của
Nghị quyết Trung ương 9 khố IX là các tổng cơng ty Nhà nước, kể cả ngân hàng
thương mại Nhà nước và các tổ chức tài chính Nhà nước.
Những điểm sửa đổi, bổ sung về cơ chế xác định giá trị doanh nghiệp trong
Nghị định số 187/2004/NĐ-CP phù hợp hơn với yêu cầu mới
Như vậy, 20 năm qua, quan điểm của Đảng vµ Nhµ níc ta về cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước ngày càng sáng tỏ, ngày càng phù hợp hơn với sự phát triển

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tình hình thực tiễn ở nc ta. Nh
vậy chủ trơng của Đảng và Nhà nớc về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc là nhất
quán và ngày càng đợc cụ thể hoá về mục tiêu, phơng thức, đối tợng và giải pháp cổ
phần hoá.

16


Đề án Kinh tế chính trị

Chơng II.
Thực trạng của vấn đề cổ phần hoá trong thời
gian qua.
2.1. Tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nớc.
Trớc hết là đổi mới chính sách, cơ chế: các doanh nghiệp tự chủ tự chịu trách
nhiệm thực sự hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trờng đổi mới cả về hạch toán, về
tài chính, về tổ chức bộ máy cán bộ và đổi mới quản lý Nhà nớc theo hớng xoá bỏ chế
độ chủ quản của các cơ quan hành chính Nhà nớc đối với doanh nghiệp Nhà nớc. Sau
nhập giải thể cho phá sản các doanh nghiệp Nhà nớc yếu kém thua lỗ kéo dài mà Nhà
nớc không cần nắm giữ thông qua 3 đợt sắp xếp doanh nghiệp Nhà nớc đà giảm từ
12.300 doanh nghiệp còn 5571 (giảm 55% về số lợng chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và
do địa phơng quản lý. Cơ cấu doanh nghiệp Nhà nớc bớc đầu đợc điều chỉnh hợp lý
có tác động tích cực đến quá trình tích tụ và tập trung vốn hình thành và phát triển
một số doanh nghiệp mới có trình độ công nghệ cao và có sức cạnh tranh số doanh
nghiệp có vốn dới 10 tỷ đồng giảm từ 5% năm 1994 xuống còn 26% năm 1999 số
doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng tăng tơng ứng từ 10% - 20% với bình quân của
một doanh nghiệp tăng từ 4.3 tỷ đồng lên 21 tỷ đồng, trong quá trình sắp xếp lại các
doanh nghiệp Nhà nớc đà giải quyết tự cấp thôi việc một lần cho 72 vạn lao động. Về
mặt củng cố và phát triển các tổng Công ty Nhµ níc ta nh»m tËp trung ngn lùc cđa
Nhµ nớc vào các ngành then chốt mà Nhà nớc càng chi phối. Trong thời gian đà sắp

xếp lại 250 liên hiệp xí nghiệp và tổng Công ty Nhà nớc ta nhằm tập trung nguồn lực
của Nhà nớc vào các ngành then chốt mà Nhà nớc cần chi phối, trong thời gian qua đÃ
sắp xếp lại 250 liên hiệp xí nghiệp và Tổng Công ty 91 và uỷ quyền cho các bộ uỷ
ban nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ơng quản lý 77 tổng Công ty,
nhìn chung các tổng Công ty Nhà nớc đà chi phối đợc các ngành các lĩnh vực then
chốt của nền kinh tế quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trờng định híng x· héi chđ nghÜa
17


Đề án Kinh tế chính trị

bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Các tổng Công ty Nhà nớc đà bảo toàn và
tích tụ đợc vốn ngày càng tăng huy động nhiều nguồn lực đầu t đổi mới công nghệ
tăng năng suất lao động, hiệu quả và sức cạnh tranh.
Nhà nớc ta cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nớc mà Nhà nớc không
cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn tạo thêm vốn, tạo thêm động lực thúc
đẩy sản xuất kinh doanh phát triển tính đến 15/8/2000 cả nớc cổ phần hoá đợc 369 bé
phËn doanh nghiƯp víi tỉng sè vèn lµ 1920 tỷ đồng tăng 12% so với trớc khi cổ phần
bằng 1,6% tổng số vốn Nhà nớc trong các doanh nghiệp Nhà nớc nhìn chung các chỉ
tiêu liên doanh thu lợi nhuận nộp ngân sách số lợng công nhân viên của các doanh
nghiệp cổ phần hoá đều nặng so với trớc cùng với quá trình cổ phần hoá. Đảng và
Chính phủ chủ trơng để một số doanh nghiệp Nhà nớc đầu t một phần vốn lập Công ty
cổ phần mới. Tính đến 15/8/2000 Doanh nghiệp Nhà nớc đà đầu t vốn thành lập 279
Công ty cổ phần mới với tổng số vốn Nhà nớc là 868,8 tỷ đồng chiếm 46% vốn ®iỊu
lƯ kÕt qu¶ s¶n xt kinh doanh cho ta thÊy267 Công ty (96,4%) có lÃi 12 Công ty còn
lại (3,6%) hoà vốn.
Bên cạnh đó Nhà nớc ta còn thực hiện giao bán và khoán kinh doanh cho thuê
những doanh nghiệp Nhà nớc có quy mô nhỏ thua lỗ kéo dài để sử dụng có hiệu quả
tài sản của Nhà nớc bảo đảm thu nhập cho ngời lao động.
Số các doanh nghiệp Nhà nớc giảm mạnh nhng tốc độ tăng trởng của khu vực

doanh nghiệp Nhà nớc vẫn duy trì từ ở mức cao bình quân tăng 11%/năm trong 10
năm (1991 - 1999) năm 1999 các doanh nghiệp Nhà nớc đóng góp 40,2% GDP trên
5% kim ngạch xuất khẩu cả nớc và gần 40% ngân sách Nhà nớc chiếm 98% các dự án
đầu t trực tiếp nớc ngoài.
2.2. Những thành tựu đà đạt đợc trong quá trình cổ phần hoá.
Bằng những thay ®ỉi quan träng trong nhËn thøc cịng nh ®êng lối chính sách
mà Đảng và Nhà nớc ta đà có những bớc đi rất kịp thời,đúng đắn. Đảng và Nhà nớc
theo sát và chỉ đạo một cách hợp lý quá trình cổ phần hóa và nhờ đó mà chúng ta đÃ
thu đợc những thành quả đáng ghi nhận:
Về hiệu quả sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp Nhà nớc sau khi chuyển
sang cổ phần đầu hoạt động hiệu quả hơn trớc xét tổng thể trên các mặt doanh thu lợi
nhuận nộp ngân sách tích luỹ vốn qua báo cáo hoạt động 1999 của 20 doanh nghiệp
đà cổ phần hoá có thời gian hoạt động trên 1 năm. Kể cả những doanh nghiệp trớc đó
bị thua lỗ cho thấy doanh thu bình quân tăng gần 2 lần. Cụng ty c phn Xây lắp
Đông Anh (Tổng công ty Điện lực Việt Nam) sau cổ phần hoá vốn tăng từ 1.131 triệu
đồng lên 9.516 triệu đồng…; 73,9% số doanh nghiệp có doanh thu tăng hơn so với
trước khi cổ phần hố. Cơng ty cổ phần xuất nhập khẩu Điện tử - Tin học Đà Nẵng

18


Đề án Kinh tế chính trị

doanh thu tng t 6 tỷ đồng lên 24 tỷ đồng…, Công ty Dụng cụ Cơ khí xuất khẩu
doanh thu tăng từ 27 tỷ đồng lên 51 tỷ đồng; số doanh nghiệp có lãi trên 91%, cao
hơn nhiều so với trước khi cổ phần hoá. Nhiều công ty cổ phần cổ tức đạt khá cao,
như Cơng ty cổ phần May Bình Minh đạt cổ tức trên 18%, đặc biệt Công ty cổ phần,
đặc biệt Dụng cụ Cơ khí xuất khẩu cổ tức đạt tới 40%, vốn điều lệ tăng từ 10 tỷ lên
20 tỷ đồng. Chỉ riêng có Cơng ty cổ phần Hạ Long - Thanh Lịch (Tổng công ty Than
Việt Nam) chỉ đạt 8%/năm, Công ty cổ phần Phát triển phụ gia và sản phẩm dầu mỏ

chỉ đạt cổ tức bằng lãi suất ngân hàng; 52% số doanh nghiệp nộp ngân sách cao hơn
trước khi cổ phần hố. Điển hình là Cơng ty Thương mại Hải Phòng, nộp ngân sách
tăng từ 47 triệu đồng lên 1,3 tỷ đồng; 78% số doanh nghiệp có số lao động tăng hơn
trước khi cổ phần hoá, nhất là các doanh nghiệp thuộc ngành dệt - may. Điển hình là
Công ty cổ phần may Hồ Gươm tăng 886 lao động, Công ty cổ phần may Việt Hưng
tăng 442 lao động, Công ty cổ phần may Lê Trực tăng 142 lao ng.
Về vấn đề việc làm thu nhập các doanh nghiệp Nhà nớc đợc cổ phần hoá bảo
đảm việc làm và thu nhập ổn định cho ngời lao động và có chiều hớng tăng lên, do đợc mở rộng sản xuất số doanh nghiệp này tăng lao động 12% thu nhập của

những ngời lao động làm việc tại các Công ty cổ phần tăng bình quân hàng năm 20% cha kể
thu nhập từ cổ tức điển hình trong năm 1999 Công ty cổ phần đại uỷ Liên hiệp vận
chuyển đạt 4.000.000 đồng/ngời/tháng bằng gần 3 lần so với trớc khi cổ phần hoá,
Công ty cổ phần Ong Mật thành phố Hồ Chí Minh đà đạt 3.300.000 đồng/ngời/tháng
tăng 2,6 lần so với trớc khi cổ phần hoá là chủ nhân thực sự trong các Công ty cổ
phần ngời lao động đà nâng cao tính chủ động ý thức kỷ luật tinh thần tự giác tiết
kiệm trong lao động sản xuất góp phần làm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
ngày một nâng cao mang lại lợi nhuận thiết thực cho bản thân Công ty cho Nhà nớc
và cho xà hội.
Về vấn đề huy động nếu trong quá trình cổ phần hoá tại những thời điểm cổ
phần hoá 370 doanh nghiệp Nhà nớc cổ phần hoá có giá trị phần vốn của Nhà nớc là
1.349 tỷ đồng thông qua cổ phần hoá đà thu hút thêm 1.432 tỷ đồng của các cá nhân,
pháp nhân thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau đầu t vào Công ty cổ phần đồng
thời Nhà nớc cũng đà thu hút đợc 714 tỷ đồng để đầu t vào các doanh nghiệp Nhà nớc
khác và giải quyết một số chính sách cho ngời lao động trong doanh nghiệp Nhà nớc
thực hiện cổ phần hoá. Phần vốn của Nhà nớc khi xác định lại tăng từ 10 - 15% so với
giá trị trên sổ sách. Nh vậy khi thực hiện cổ phần hoá vốn của Nhà nớc không nh÷ng
19


Đề án Kinh tế chính trị


không mất đi mà còn đợc bảo toàn và tăng thêm vốn nhàn rỗi ngoài xà hội đợc huy
động để đầu t các doanh nghiệp góp phần đổi mới công nghệ của từng doanh nghiệp
cổ phần hoá.
T nm 2001 n thỏng 6/2005, c nc ó sắp xếp lại 2.881 DNNN trong
tổng số 5.655 DNNN (có vào đầu năm 2001) với các hình thức thích hợp, trong đó đã
cổ phần hóa 1.826 DNNN; giao, bán 245 DNNN; sáp nhập, hợp nhất 408 DNNN;
giải thể, phá sản 164 DNNN. Số DNNN cịn lại (238) có quy mơ nhỏ, Nhà nước
không cần nắm giữ, không đủ điều kiện cổ phần hóa… thực hiện khốn kinh doanh,
cho th, chuyển thành đơn vị sự nghiệp, chuyển cơ quan quản lý hoặc chuyển thành
công ty TNHH. Đồng thời, đã thành lập mới 65 DNNN, chủ yếu là sản xuất các sản
phẩm quan trọng và cung ứng các dịch vụ cơng ích thiết yếu. So với phương án sắp
xếp tổng thể của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thực hiện Nghị quyết Trung ương 3
và điều chỉnh bổ xung thực hiện Nghị quyết Trung ương 9 (khố IX) thì sắp xếp
doanh nghiệp đạt khoảng 82,6% và cổ phần hoá đạt 74,5%, số doanh nghiệp 100%
vốn Nhà nước giảm trên 32,3%. Đã xử lý được 97.556 lao động dôi dư, 1.513 tỷ
đồng nợ tồn đọng phải thu và 1.291 tỷ đồng nợ tồn đọng phải trả. Có thể nói đây là
một nỗ lực rất lớn của Đảng và Nhà nước ta, nhất là sự cố gắng vượt lên khó khăn
của các ngành, các cấp và kể cả bản thân các doanh nghiệp nhà nước.
Kết quả sắp xếp trên đã làm giảm mạnh các doanh nghiệp nhỏ, thua lỗ và thuộc
các ngành, lĩnh vực mà Nhà nước khơng cần nắm giữ 100% vốn; góp phần quan
trọng vào việc cơ cấu lại DNNN, từ chỗ dàn trải phân tán đã tập trung hơn vào những
ngành, lĩnh vực then chốt; tiếp tục giữ vai trò nòng cốt trong nền kinh tế và cơ bản
đáp ứng được nhu cầu thiết yếu cho quốc phòng, an ninh và nhiều sản phẩm, dịch vụ
cơng ích. Vốn bình qn của DNNN cũng tăng lên 63,6 tỷ đồng so với 24 tỷ đồng
(năm 2001). Cùng thời gian, Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua nhiều văn bản
luật: Luật DNNN, Luật Cạnh tranh, Luật Đất đai, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ luật Lao động, Luật Kế toán, Kiểm toán…; ban hành hơn 30 văn bản quy
phạm pháp luật, quy định những cơ chế, chính sách đối với hoạt động của DNNN và
việc sắp xếp, cổ phần hóa DNNN. Những cơ chế, chính sách đối với DNNN được

sửa đổi, bổ sung là một bước cơ bản nhằm nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm

20



×