BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
NGUYỄN VĂN ĐẠI (1990)
RÈN KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 12
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LAI CHÂU QUA MÔN ĐỊA LÍ
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
SƠN LA, NĂM 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
NGUYỄN VĂN ĐẠI (1990)
RÈN KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 12
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LAI CHÂU QUA MÔN ĐỊA LÍ
CHUYÊN NGÀNH: ĐỊA LÝ KINH TẾ
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Người hướng dẫn: TS. Đỗ Thúy Mùi
SƠN LA, NĂM 2013
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn chân thành, sâu sắc đến cô
giáo - Tiến sĩ Đỗ Thúy Mùi đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ để em nghiên cứu
và hoàn thành khoá luận này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu trường Đại
học Tây Bắc, Phòng Quản lí khoa học và Quan hệ quốc tế, các thầy cô giáo
trong khoa Sử - Địa và bạn bè đã tạo điều kiện thuận lợi để em hoàn thành
khoá luận này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và các em học sinh ở các
trường THPT Bình Lư - Tam Đường - Lai Châu, THPT Tân Uyên - Lai
Châu, THPT Than Uyên - Lai Châu đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình
thực nghiệm đề tài.
Trong quá trình thực hiện đề tài chắc chắn không thể tránh khỏi những
khiếm khuyết, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy
cô giáo và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 5 năm 2013
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Văn Đại (1990)
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ĐBSCL
Đồng bằng sông Cửu Long
GV
Giáo viên
HS
Học sinh
KNS
Kỹ năng sống
MT
Môi trường
NXB
Nhà xuất bản
THCS
Trung học cơ sở
THPT
Trung học phổ thông
TNTN
Tài nguyên thiên nhiên
UNESCO
Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn
hóa của Liên Hợp Quốc
UNICEF
Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc
WHO
Tổ chức Y tế thế giới
DANH MỤC BẢNG
BẢNG
NỘI DUNG
TRANG
Bảng 3.1
Kết qủa điều tra sự cần thiết rèn KNS ở trường
THPT Bình Lư - Tam Đường - Lai Châu.
38
Bảng 3.2
Kết qủa điều tra sự cần thiết rèn KNS ở trường
THPT Tân Uyên - Lai Châu.
39
Bảng 3.3
Kết qủa điều tra sự cần thiết rèn KNS ở trường THPT
Than Uyên - Lai Châu.
39
Bảng 3.4
Tổng hợp kết quả điều tra ở 3 trường.
40
Bảng 3.5
Kết quả điều tra về tính hiệu quả của bài học có lồng
ghép KNS ở trường THPT Bìmh Lư - Tam Đường -
Lai Châu.
41
Bảng 3.6
Kết quả điều tra về tính hiệu quả của bài học có lồng
ghép KNS ở trường THPT Tân Uyên - Lai Châu.
42
Bảng 3.7
Kết quả điều tra về tính hiệu quả của bài học có lồng
ghép KNS ở trường THPT Than Uyên - Lai Châu.
42
Bảng 3.8
Tổng hợp kết quả điều tra ở 3 trường.
43
DANH MỤC CÁC HÌNH
HÌNH
NỘI DUNG
TRANG
Hình 3.1
Biểu đồ so sánh kết quả điều tra ở lớp thực nghiệm và
lớp đối chứng.
40
Hình 3.2
Biểu đồ so sánh kết quả điều tra ở lớp thực nghiệm và
lớp đối chứng.
43
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Mục tiêu, nhiệm vụ và giới hạn của đề tài 2
2.1. Mục tiêu 2
2.2. Nhiệm vụ 3
2.3. Giới hạn nghiên cứu 3
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3
3.1. Trên thế giới 3
3.2. Ở Việt Nam 5
4. Phương pháp nghiên cứu 7
4.1. Phương pháp thu thập, phân tích và tổng hợp tài liệu 7
4.2. Phương pháp phỏng vấn 7
4.3. Phương pháp thực nghiệm 8
4.4. Phương pháp phân tích xử lí số liệu thống kê 8
4.5. Phương pháp biểu đồ 8
5. Đóng góp của đề tài 9
5.1. Về lí luận 9
5.2. Về thực tiễn 9
6. Bố cục của đề tài 10
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 11
1.1. Một số khái niệm về kĩ năng sống 11
1.2. Giáo dục kĩ năng sống 16
1.3. Nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 12 16
1.3.1. Kỹ năng ra quyết định 17
1.3.2. Kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin 19
1.3.3. Kỹ năng giao tiếp 20
1.3.4. Kỹ năng bảo vệ thiên nhiên và môi trường, phòng tránh thiên tai 20
1.4. Phương thức và phương pháp tiếp cận trong giáo dục KNS cho HS
trung học phổ thông 20
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CÓ THỂ LỒNG GHÉP KỸ NĂNG SỐNG
TRONG MÔN ĐỊA LÍ LỚP 12 23
2.1. Tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong nhà
trường THPT 23
2.2. Sự cần thiết phải rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh lớp 12 trên địa
bàn tỉnh Lai Châu qua môn Địa lí 24
2.3. Các bài dạy và phương pháp lồng ghép kỹ năng sống 26
2.3.1. Các bài dạy có liên quan đến điều kiên tự nhiên 26
2.3.2. Các bài liên quan đến kỹ năng bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường . 29
2.4. Một số kỹ năng sống cơ bản được giáo dục trong các bài học 31
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 35
3.1. Mục đích thực nghiệm 35
3.2. Nguyên tắc tiến hành thực nghiệm 35
3.3. Nhiệm vụ thực nghiệm 36
3.4. Tổ chức thực nghiệm 36
3.5. Nội dung thực nghiệm 37
3.6. Nhận xét chung về kết quả thực nghiệm 45
3.7. Một số bài học rút ra từ thực tiễn 46
KẾT LUẬN 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thế kỷ XXI là thế kỷ hội nhập và phát triển không chỉ trên lĩnh vực kinh
tế, chính trị mà còn ảnh hưởng sâu sắc tới nền giáo dục các quốc gia trên thế
giới. Cả thế giới đều hướng loài người tới một tương lai tươi sáng vì ngày
mai, việc đẩy mạnh hoạt động giáo dục cho thế hệ trẻ là một yếu tố vô cùng
quan trọng không thể thiếu được ở mỗi quốc gia, vì thế hệ trẻ là chủ nhân
tương lai thực sự của đất nước. Bởi thế, việc giáo dục rèn các kỹ năng sống
(KNS), kỹ năng nghề nghiệp là vô cùng quan trọng.
Tuy nhiên, muốn thực hiện được điều này thì cần phải có thời gian, cần
phải có một chương trình dài hạn cho từng kế hoạch cụ thể. Việc giáo dục
trước hết phải đi từ những nguyên tắc, nguyên lí hay định nghĩa trước (lí
thuyết), từ đó hình thành các kỹ năng, kỹ sảo thực hành bộ môn để người học
ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống.
Hiện nay, trên thế giới có tới trên 155 nước đã đưa việc rèn kỹ năng sống
cho học sinh vào các chương trình giáo dục ở mọi lứa tuổi, ở các chương
trình giáo dục khác nhau đặc biệt là các chương trình môn học thuộc khoa học
xã hội, trong đó có môn Địa Lí.
Trong chương trình giáo dục cũng đã thực hiện việc đổi mới về mục tiêu,
nội dung và phương pháp dạy học gắn với bốn trụ cột giáo của thế kỷ XXI:
Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định, học để cùng chung sống - mà
thực chất là cách tiếp cận kỹ năng sống. Đặc biệt, rèn kỹ năng sống cho học
sinh đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo xác định là một trong năm nội dung của
phong trào thi đua "xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" trong
các trường phổ thông giai đoạn 2008 - 20013.
Việc rèn kỹ năng sống cho học sinh THPT có vai trò hết sức quan trọng
đối với HS nó không chỉ góp phần củng cố vốn kiến thức từ sách vở mà còn
củng cố vốn kiến thức ngoài thực tế, củng cố cho học sinh kỹ năng, kỹ xảo,
hành vi, cách ứng xử và đối phó với những biến đổi ngoài môi trường sống,
giúp cho các em tự tin hơn trong các tình huống hay các sự cố sảy ra ngoài ý
muốn của bản thân, từ đó học sinh có thể vận dụng tốt hơn kiến thức và áp
dụng KNS một cách hiệu quả hơn.
Trên thực tế cho thấy sau khi các em được rèn KNS, các em tự tin hơn
rất nhiều, không biểu hiện những thái độ tiêu cực và dần trở nên vững vàng
hơn trong cuộc sống và các mối quan hệ trong xã hội, mối quan hệ con người
2
với tự nhiên ngày càng hoàn thiện hơn. Mặt khác giúp HS củng cố nhân cách,
phẩm chất đạo đức vốn có của người Việt.
Như vậy, việc rèn KNS cho học sinh THPT là một yêu cầu bức thiết,
nhằm khắc phục những hạn chế ở lứa tuổi học sinh và phát huy những thế
mạnh vốn có ở lứa tuổi này. Việc rèn KNS không chỉ là mối quan tâm của
nhiều nước trên thế giới, vì vai trò tích cực đó nên ở Việt Nam trong những
năm qua đã đẩy mạnh những hoạt động này và đã mang lại hiệu quả cao. Ở
Lai Châu việc rèn kỹ năng sống có vai trò hết sức quan trọng, có tính ứng
dụng thực tế rất cao, các kỹ năng được lồng ghép như kỹ năng bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, khai thác tài nguyên thiên nhiên. Sở
dĩ những kĩ năng này rất quan trọng đối với học sinh ở tỉnh Lai Châu vì Lai
Châu là một trong những tỉnh miền núi, giàu có tài nguyên thiên nhiên, nhưng
trong những năm qua các nguồn tài nguyên đó đang bị suy giảm nghiêm
trọng. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên chưa hợp lí. Hiện tượng
chặt phá rừng, đốt nương làm rẫy bừa bãi dẫn đến hệ quả mực nước ngầm bị
hạ thấp, hiện tượng rửa trôi, sói mòn, sạt lở đất, lũ quét gây thiệt hại nặng
nề cho người và tài sản.
Mặt khác, việc rèn KNS trên địa bàn tỉnh Lai Châu có vai trò quan trọng
như: Tỉnh Lai Châu là tỉnh có nhiều dân tộc thiểu số cư trú bao gồm 23 dân
tộc, trong đó nhiều nhất là dân tộc Thái chiếm 35,05%, sau đó là dân tộc
Mông chiếm 29,1%, dân tộc Dao chiếm 6,73%, dân tộc Khơ Mú chiếm
2,53%, dân tộc Hà Nhì chiếm 2,43% trình độ tri thức còn nhiều hạn chế nên
việc rèn kỹ năng sống góp phần nâng cao vốn hiểu biết, những tri thức, giá trị
cuộc sống cho các em HS, các kỹ năng sống mà học sinh tiếp thu được sau
này ra trường có thể ứng dụng vào cuộc sống sản xuất.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tế trên tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Rèn
kỹ năng sống cho học sinh lớp 12 trên địa bàn tỉnh Lai Châu qua môn Địa lí”
làm khoá luận tốt nghiệp.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ và giới hạn của đề tài
2.1. Mục tiêu
Đề tài hoàn thành với mục tiêu cơ bản là: Giúp cho học sinh hiểu được
KNS, các kỹ năng ứng xử với môi trường tự nhiên trong thời kỳ biến đổi khí hậu
cho học sinh lớp 12 tại các trường THPT trên địa bàn tỉnh Lai Châu, kỹ năng sử
dụng hiệu quả tài nguyên môi trường, kỹ năng chăm sóc bảo vệ môi trường, kỹ
năng phòng tránh thiên tai và hành vi gây hại đến môi trường sống. Trên cơ sở
3
đó, giúp các em biết ứng dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn sản xuất sau
này để có thể sử dụng và khai thác một cách hợp lí các nguồn tài nguyên đảm
bảo sự phát triển bền vững.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu trên đề tài có nhiệm vụ cơ bản là:
- Tổng hợp những vấn đề lý luận có liên quan đến KNS, giáo dục KNS, nội
dung giáo dục KNS.
- Thống kê, phân tích những bài, nội dung có liên quan đến KNS trong
chương trình Địa lí lớp 12 để lồng ghép giáo dục KNS trong chương trình địa lí
lớp 12.
- Thiết kế một số giáo án và tiến hành thực nghiệm ở một số trường THPT
trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
2.3. Giới hạn nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu dạy kỹ năng sống cho đối tượng là học sinh lớp 12 ở
trường THPT trên địa bàn tỉnh Lai Châu. Đề tài được tiến hành thực nghiệm ở 3
trường THPT tiêu biểu là trường THPT Bình Lư - Tam Đường - Lai Châu,
trường THPT Tân Uyên - Lai Châu, trường THPT Than Uyên - Lai Châu.
- Kỹ năng sống bao gồm rất nhiều kỹ năng khác nhau như: Kỹ năng giao
tiếp; kỹ năng ứng xử; kỹ năng tìm kiếm, xử lý thông tin; kỹ năng giải quyết
vấn đề… Đề tài chỉ nghiên cứu để dạy một số kỹ năng cơ bản là kỹ năng ứng
xử với môi trường tự nhiên, kỹ năng sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên,
kỹ năng bảo vệ môi trường, phòng tránh thiên tai và những hành vi gây hại đến
môi trường sống.
- Đề tài chỉ nghiên cứu việc rèn KNS ở một số bài học Địa lí trong chương
trình Địa lí lớp 12 ban cơ bản.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3.1. Trên thế giới
Trong những năm gần đây, thuật ngữ “Kỹ năng sống’’ đã xuất hiện khá phổ
biến. Theo một số tài liệu như (UNICEF), kỹ năng sống là những trải nghiệm có
hiệu quả nhất, giúp giải quyết hoặc đáp ứng các nhu cầu cụ thể, trong suốt quá
trình tồn tại và phát triển của con người. Kỹ năng sống bao gồm cả hành vi vận
động của cơ thể và tư duy trong não bộ của con người. Kỹ năng có thể hình thành
một cách tự nhiên, thông qua học tập hoặc rèn luyện của con người.
4
Trong một số chương trình giáo dục của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc
trước tiên là chương trình “Giáo dục những giá trị sống” với 12 giá trị cơ bản
cần giáo dục cho thế hệ trẻ. Những nghiên cứu về KNS trong giai đoạn này
mong muốn thống nhất được một quan niệm chung về KNS cũng như đưa ra
được một bản danh mục các kỹ năng cơ bản mà thế hệ trẻ cần có. Phần lớn các
công trình nghiên cứu về KNS ở giai đoạn này quan niệm về KNS theo nghĩa
hẹp, đồng nhất nó với kỹ năng xã hội. Dự án được Tổ chức Giáo dục Khoa học
và Văn hóa của Liên Hợp Quốc (UNESCO) tiến hành tại một số nước trong đó
có các quốc gia Đông Nam Á là một trong những nghiên cứu có tính hệ thống
và tiêu biểu cho hướng nghiên cứu về KNS nêu trên [4].
Mặc dù, giáo dục KNS cho học sinh đã được nhiều nước quan tâm và cùng
xuất phát từ quan niệm chung về KNS của tổ chức Y tế thế giới hoặc của
UNESCO nhưng quan niệm và nội dung giáo dục KNS ở các nước không giống
nhau. Ở một số nước, nội hàm của khái niệm KNS được mở rộng, trong khi một
số nước khác xác định nội hàm của khái niệm này chỉ gồm những khả năng tâm
lí, xã hội.
Quan niệm, nội dung giáo dục KNS được triển khai ở các nước vừa thể
hiện cái chung vừa mang tính đặc thù của từng quốc gia. Mặt khác, ngay trong
một quốc gia, nội dung giáo dục KNS trong lĩnh vực giáo dục chính quy và
không chính quy cũng có sự khác nhau. Trong giáo dục không chính quy ở một
số nước, những kĩ năng cơ bản như: Nghe, nói, đọc, viết, được coi là những
KNS cơ sở trong khi giáo dục chính quy, các KNS cơ bản lại được xác định
phong phú theo các lĩnh vực quan hệ cá nhân.
Do phần lớn các quốc gia đều mới bước đầu triển khai giáo dục KNS nên
những nghiên cứu lí luận về vấn đề này mặc dù khá phong phú song chưa thật
toàn diện, sâu sắc. Cho đến nay, chưa có quốc gia nào đưa ra được kinh nghiệm
hoặc hệ thống tiêu chí đánh giá chất lượng KNS.
Kỹ năng sống và giáo dục kỹ năng sống hiện nay đã được xem như là một
môn học trong nhà trường ở hầu hết các quốc gia (tiêu biểu là Mỹ và Cộng đồng
châu Âu), thậm chí tại Mỹ đã xuất hiện trường đại học, huấn luyện KNS; một tổ
chức phi chính phủ cũng đã thường xuyên vận động phổ biến về vấn đề này tại
Việt Nam - đặc biệt là UNESCO và UNICEF. Các môn học giáo dục KNS được
đưa vào giảng dạy trong các trường THPT trong đó có môn Địa lí.
Như vậy, có thể nói rằng việc rèn KNS cho học sinh các trường phổ thông
không chỉ riêng quốc gia nào, mà đây là một vấn đề mang tính toàn cầu, đã được
5
nhiều nước rất quan tâm nghiên cứu.
3.2. Ở Việt Nam
Kỹ năng sống đang được quan tâm, tuy nhiên trong nhà trường chủ yếu
học sinh chỉ được dạy kỹ năng học tập và chính trị, còn việc giáo dục kỹ
năng sống chưa được quan tâm nhiều. Theo chuyên viên tâm lí Huỳnh Văn
Sơn, cố vấn trung tâm chăm sóc tinh thần ý tưởng Việt: "hiện nay, thuật ngữ
kỹ năng sống được sử dụng khá phổ biến nhưng có phần bị "lạm dụng" khi
chính những người huấn luyện hay tổ chức và các bậc cha mẹ cũng chưa thật
hiểu gì về nó". Theo vụ trưởng Vụ Công tác Học sinh Sinh viên ( Bộ Giáo
Dục và Đào tạo) Phùng Khắc Bình, trong tương lai và về lâu dài cần xây
dựng chương trình môn học giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 1 đến
lớp 12. Đặc biệt là trong trương trình địa lý nói riêng là một yêu cầu hết sức
quan trọng. Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ngày càng trở nên bức
thiết khi mà xã hội hiện đại đang tác động tới các em từ quá nhiều phía.
Xuất phát từ nhu cầu của xã hội nên được nhiều tác giả quan tâm
nghiên cứu về vấn đề rèn kỹ năng sống cho học sinh mà tiêu biểu là: “Cẩm
nang tổng hợp kỹ năng hoạt động thanh thiếu niên” của tác giả Phạm Văn Nhân
[2002], [10]; “Kỹ năng thanh niên tình nguyện”, tác giả Trần Thời (1998) [14].
Một trong những người đầu tiên có những nghiên cứu mang tính hệ thống
về kỹ năng sống và giáo dục KNS ở Việt Nam là tác giả Nguyễn Thanh Bình,
tác giả có nhiều bài báo, đề tài khoa học cấp Bộ, giáo trình bàn về kỹ năng sống.
Những công trình tiêu biểu của tác giả là “Giáo dục kỹ năng sống”, Chuyên đề
cao học, ĐHSP Hà Nội. “Giáo dục kỹ năng sống”, Giáo trình dành cho sinh
viên Cao đẳng sư phạm, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội. “Những nghiên cứu và
thực hiện chương trình giáo dục kỹ năng sống ở Việt Nam”, Viện Chiến lược và
Chương trình giáo dục, Hà Nội. Những công trình này đặt cơ sở và tạo ra những
hướng nghiên cứu về kỹ năng sống và giáo dục kỹ năng sống ở Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Thanh Bình đã đề cập đến trong các nghiên cứu là xác
định những vấn đề lý luận cốt lõi về kỹ năng sống và giáo dục kỹ năng sống.
Tác giả đã trình bày được khái niệm về kỹ năng sống, các loại kỹ năng sống.
Điều đặc biệt là tác giả đã trình bày được các phương pháp, cách thức giáo dục
KNS. Những công trình này góp phần đáng kể, mở ra hướng nghiên cứu về
KNS và giáo dục KNS ở Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Đức Thạc trong tạp chí giáo dục số 81/2004 cũng đã đề
cập đến việc “Rèn luyện kỹ năng sống một hướng tiếp cận mới về chất lượng
6
giáo dục đào tạo”. Tác giả đã khẳng định việc rèn kỹ năng sống là một hướng
tiếp cận mới, đó cũng là hướng để nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo.
Ngoài ra, có một số tác giả khác nghiên cứu về KNS cho tuổi vị thành niên.
Tác giả Đào Thị Oanh có: “Một số cơ sở tâm lý học của việc giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh” tác giả đã phân tích rõ những cơ sở tâm lý học để rèn KNS.
Dựa vào những cơ sở tâm lý đó giáo viên có thể rèn luyện KNS cho học sinh đó
là các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng đương đầu với cảm
xúc căng thẳng, kỹ năng giải quyết mâu thuẫn một cách tích cực.
Tác giả Nguyễn Thị Oanh trong “Kỹ năng sống cho tuổi vị thành niên” lại
đề cập đến những khía cạch khác. Tác giả đã quan niệm rằng: “ Kỹ năng sống
với tư cách là đối tượng của giáo dục KNS là năng lực tâm lý xã hội để đáp ứng
và đối phó với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày”[12]
Gần đây tác giả Phan Thanh Vân đã nghiên cứu đề tài “Giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh THPT thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp”. Tác
giả đã nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về giáo dục KNS cho học sinh
THPT thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp, biện pháp giáo dục KNS cho học
sinh THPT thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Tác giả cũng đã
khẳng định: Giáo dục kỹ năng sống là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của hệ
thống giáo dục, là kết quả của giáo dục đồng thời là nhiệm vụ quan trọng của
mọi hoạt động nhà trường.
Gần với hướng nghiên cứu của đề tài; các tác giả Lê Minh Châu, Trần Thị
Tố Oanh, Phạm Thị Thu Phương, Lưu Thu Thủy, Đào Vân Vi có nghiên cứu
“Giáo dục kỹ năng sống trong môn địa lý ở trường trung học cơ sở”. Tác giả đề
cập đến 2 phần. Phần 1 tác giả đề cập đến 4 nội dung cơ bản là: Quan niệm về
kỹ năng sống, phân loại kỹ năng sống, tầm quan trọng của việc giáo dục KNS
cho học sinh, định hướng giáo dục KNS cho học sinh. Các nội dung mà nhóm
tác giả đề cập đến nhằm giúp cho giáo viên nhận thức đầy đủ về bản chất, mục
tiêu, nguyên tắc giáo dục KNS, nội dung của các KNS và việc lựa chọn các
KNS cần giáo dục cho học sinh. Phần 2 nhóm tác giả đề cập đến việc giáo dục
KNS trong môn Địa lí ở trường trung học cơ sở (THCS). Trong phần này, nhóm
tác giả đề cập đến 3 nội dung cơ bản là: Thứ nhất, phân tích khả năng, mục tiêu
giáo dục KNS cho học sinh trong môn Địa lí ở trường THCS. Nội dung này giúp
giáo viên có nhận thức về việc vận dụng kiến thức của môn Địa lí vào giáo dục
KNS cho học sinh THCS. Thứ hai, giới thiệu một số nội dung và địa chỉ các tiết
học/bài học tiêu biểu của môn Địa lí vào giáo dục KNS cho học sinh ở từng lớp.
Thứ ba, tiến hành soạn một số bài tham khảo về giáo dục KNS trong môn Địa lí
7
ở trường THCS. Cuốn sách này là nguồn tài liệu giúp cho các thầy cô có thể vận
dụng để rèn KNS cho học sinh THCS.
Trong trường Đại học Tây Bắc cũng có những công trình nghiên cứu rèn kỹ
năng sống như công trình nghiên cứu của Tiến Sĩ Đỗ Thuý Mùi: Rèn kỹ năng sống
cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc trong môn Địa lí kinh tế. Hay công trình
nghiên cứu của chính nhóm tác giả người thực hiện là Nguyễn Văn Đại (1991),
Nguyễn văn Đại (1990), Hà Văn Thắng. Đề tài: Rèn kỹ năng sống cho học sinh
trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh Sơn La qua môn Địa lý. Đề tài này mang lại
giá trị thực tiễn rất cao và đã thực nghiệm thành công trên địa bàn tỉnh Sơn La. Vì
thế chúng tôi lại tiếp tục hướng nghiên cứu đó trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
Như vậy, vấn đề giáo dục KNS trong nhà trường nói chung đã có nhiều tác
giả đề cập đến. Các công trình này là những cơ sở giúp cho tác giả kế thừa phát
huy để nghiên cứu đề tài “Rèn kỹ năng sống cho học sinh lớp 12 trên địa bàn
tỉnh Lai Châu qua môn Địa lí”.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp thu thập, phân tích và tổng hợp tài liệu
Đây là một phương pháp nghiên cứu rất quan trọng trong việc tiếp cận
vấn đề. Tài liệu thu thập được về mặt lí luận sẽ giúp chúng ta hiểu biết được các
thành tựu trong quá khứ và những vấn đề cập nhật hiện tại.
Sau khi phân tích và nhóm tài liệu, xử lý theo yêu cầu của đề tài sẽ giúp
chúng ta phát hiện những vấn đề trọng tâm cũng như những vấn đề đang bỏ ngỏ.
Từ đó tổng hợp được tài liệu toàn diện và khái quát những vấn đề nghiên cứu.
Các tài liệu mà tác giả thu thập được rất phong phú từ các sách báo, các đề
tài nghiên cứu khoa học và các luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ, các tài liệu bàn
về KNS trên mạng internet… tất cả các tài liệu đó tác giả nghiên cứu, phân tích,
đánh giá để có cái nhìn toàn diện, sâu sắc về vấn đề nghiên cứu.
4.2. Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp được thực hiện nhằm tìm hiểu các nguyên nhân về thực trạng
giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT và tìm hiểu quan điểm của các đối
tượng được phỏng vấn về việc giáo dục KNS trong môn Địa lí lớp 12 trên địa
bàn tỉnh Lai Châu.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã gặp gỡ, trao đổi với nhiều giáo
viên ở các trường phổ thông và các em học sinh ở các trường phổ thông đó. Qua
các cuộc tiếp xúc, nói chuyện tác giả đã nhận thấy rằng việc lồng ghép kiến thức
8
KNS cho học sinh rất cần thiết, tác giả đã phỏng vấn thông qua phiếu điều tra tới
441 học sinh. Trong quá trình phỏng vấn tác giả không chỉ phỏng vấn ở những
lớp được lồng ghép kiến thức KNS mà còn phỏng vấn cả những lớp không dạy.
Trên cơ sở những ý kiến đó tác giả xác định sự cần thiết phải rèn KNS cho học
sinh lớp 12 tại trường trung học phổ thông. Những thông tin mà tác giả thu được
thông qua phiếu điều tra đó là cơ sở cần thiết để khẳng định được kết quả nghiên
cứu của đề tài.
4.3. Phương pháp thực nghiệm
Đề tài đã thiết kế được 6 giáo án liên quan đến giáo dục KNS qua một số
bài học Địa lí ở lớp 12. Tác giả đã vận dụng thử nghiệm trong các bài giảng để
tăng khả năng ứng dụng của đề tài. Đề tài được thực nghiệm ở các trường THPT
Bình Lư - Tam Đường - Lai Châu, THPT Tân Uyên - Lai Châu, THPT Than
Uyên - Lai Châu.
Khi đã thực nghiệm ở các trường phổ thông có bài tác giả đã xin ý kiến
của giáo viên đóng góp cho giáo án và trực tiếp giảng dạy, có bài tác giả nhờ
giáo viên phổ thông trực tiếp giảng dạy hộ. Khi dạy học xong các bài đó tác giả
đã phát phiếu xin ý kiến của học sinh. Tại các trường đến thực nghiệm tác giả
cũng xin ý kiến ở cả các lớp không lồng ghép kiến thức KNS. Tuy nhiên, với
thời gian nghiên cứu cũng như những điều kiện khác, tác giả chỉ tiến hành thực
nghiệm được ở một số trường và một số bài cụ thể mà chưa tiến hành trên diện
rộng. Trong khi thực hiện đề tài, tác giả vẫn tiếp tục thử nghiệm để sau này khi
ra trường sẽ vận dụng tốt hơn kết quả nghiên cứu của đề tài.
4.4. Phương pháp phân tích xử lí số liệu thống kê
Đề tài được thực nghiệm tại một số trường THPT, do đó kết quả thực
nghiệm sẽ được thống kê, xử lý và tính toán. Trên cơ sở những số liệu đã được
xử lí để rút ra một số kết luận cần thiết.
Các giáo án thiết kế được thực nghiệm ở 3 trường. Tác giả đã tiến hành
điều tra ở lớp thực nghiệm với 253 em học sinh, lớp đối chứng 188 em học sinh,
với những nội dung khác nhau. Sau khi phát phiếu điều tra xin ý kiến, tác giả đã
phân tích, xử lý số liệu thống kê. Những số liệu được phân tích, tính toán một
cách tỉ mỉ trong mối tương quan tổng thể, từ đó có những đánh giá và rút ra
những kết luận cần thiết.
4.5. Phương pháp biểu đồ
Đây là một phương pháp phổ biến và thông dụng trong môn Địa lí. Các
biểu đồ đều mang một thông tin nhất định. Vì vậy, trong đề tài để thể hiện kết
9
quả nghiên cứu tác giả đã xây dựng biểu đồ cột. Đề tài đã xây dựng được 2 biểu
đồ thể hiện kết quả nghiên cứu về sự cần thiết phải lồng ghép nội dung giáo dục
KNS cho học sinh trung học phổ thông qua môn Địa lí lớp 12.
5. Đóng góp của đề tài
5.1. Về lí luận
Đề tài hoàn thành sẽ góp phần phát triển lí luận về giáo dục KNS cho học
sinh lớp 12 và bước đầu thiết lập cơ sở lí luận về giáo dục KNS trong môn Địa lí
thông qua việc lồng ghép những nội dung cụ thể trong từng môn học. Những
vấn đề trên thể hiện qua một số quan điểm sau :
Giáo dục KNS nói chung và thông qua môn Địa lí lớp 12 trên địa bàn tỉnh
Lai Châu nói riêng nhằm giúp phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh để các
em rèn KNS, kỹ năng ứng xử với môi trường tự nhiên trong thời kì biến đổi khí
hậu. Trên cơ sở đó giúp các em biết ứng xử với cuộc sống, con người và vận
dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn sản xuất sau này để có thể sử dụng, khai
thác hợp lí nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Việc tích hợp và lồng ghép thông qua một số bài học cụ thể không chỉ đem
lại sự sinh động, phong phú trong nội dung bài giảng mà còn góp phần hình thành
những suy nghĩ, tư duy nhận thức mới cho học sinh lớp 12 tại các trường THPT ở
tỉnh Lai Châu.
5.2. Về thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài khẳng định:
Học sinh lớp 12 tại các trường THPT trên địa bàn tỉnh Lai Châu rất hạn chế
về KNS. Một trong những nguyên nhân của thực trạng này là do giáo dục
THPT, đặc biệt là nội dung môn học chưa được quan tâm thỏa đáng đến vấn đề
giáo dục KNS cho học sinh. Chưa xác định phương pháp hiệu quả để lồng ghép
các nội dung liên quan tới KNS vào từng môn học, trong đó có môn Địa lí.
Tính tích hợp và lồng ghép nội dung, vấn đề cụ thể vào một số bài học
trong môn Địa lí lớp 12, là nội dung cần được triển khai nhằm cho học sinh lớp
12 ở tỉnh Lai Châu được trang bị những kỹ năng cơ bản và hiệu quả nhất, phù
hợp với sự phát triển của nền giáo dục gắn với thực tiễn. Đề tài hoàn thành là
nguồn tư liệu quý giúp cho các sinh viên và giáo viên ở trường THPT tham khảo
để có thể lồng ghép các KNS trong các bài học Địa lí ở trường phổ thông.
10
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài bao gồm 3 chương
- Chương 1 : Cơ sở lí luận của đề tài
- Chương 2: Nội dung có thể lồng ghép kỹ năng sống trong môn Địa lí
lớp 12
- Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
11
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Một số khái niệm về kĩ năng sống
Kĩ năng sống là khái niệm được sử dụng rộng rãi nhằm vào mọi lứa tuổi
trong lĩnh vực hoạt động khác nhau của đời sống xã hội. Có nhiều quan niệm
khác nhau về KNS. Tuy nhiên cho đến nay, KNS vẫn chưa có một định nghĩa
nào rõ ràng và đầy đủ.
Có nhiều quan niệm cho rằng kỹ năng sống được coi trọng vì có tác dụng
lớn trong việc hình thành tư duy, nhân cách mỗi người. Đó là thái độ sống, giá
trị căn bản, như sống trung thực, cam đảm đối mặt sự thật, biết yêu thương và
biết cách vượt lên nghịch cảnh. Ai học được kỹ năng sống thì có cơ hội rèn kỹ
năng sống, ứng biến tích cực với mọi tình huống xảy ra, biết cách đối diện và
đương đầu, vượt qua những khó khăn, hạn chế những mâu thuẫn, xung đột, bạo
lực , người đó được rèn luyện, phát triển tính cách tự chủ, tự tin vào bản thân,
tinh thần trách nhiệm cùng khả năng diễn đạt, thuyết phục, thói quen chia sẻ,
giúp đỡ người khác. Đó chính là những yếu tố quan trọng giúp mỗi người đạt
được thành công trong đời.
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) định nghĩa KNS là "khả năng thích nghi và
hành vi tích cực cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và
thách thức của cuộc sống hàng ngày". Đó là một tập hợp những khả năng được
rèn luyện và đáp ứng các nhu cầu cụ thể của cuộc sống hiện đại hoá. Có thể hiểu
kỹ năng sống là năng lực tâm lí xã hội, là khả năng ứng phó một cách có hiệu quả
với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng của một cá
nhân để duy trì một trạng thái khỏe mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện qua các hành
vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với nền văn hóa và môi
trường xung quanh. Năng lực tâm lí có vai trò quan trọng trong việc phát huy sức
khỏe theo nghĩa rộng nhất về thể chất, tinh thần và xã hội. KNS là khả năng thể
hiện, thực thi năng lực tâm lí xã hội này [12].
Theo tổ chức Giáo dục Khoa học và văn hoá của Liên Hợp Quốc (UNESCO,
2003) quan niệm: Kĩ năng sống là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các
chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày. Đó là khả năng làm cho hành
vi và sự thay đổi của mình phù hợp với cách ứng xử tích cực giúp con người có
thể kiểm soát, quản lí có hiệu quả các nhu cầu và những thách thức trong cuộc
sống hàng ngày.
Theo Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc, (UNICEF Thái Lan, 1995): Kỹ năng
sống là khả năng phân tích tình huống và ứng xử, khả năng phân tích cách ứng
12
xử và khả năng tránh được các tình huống. Các KNS nhằm giúp chúng ta
chuyển dịch kiến thức “cái chúng ta biết” và thái độ, giá trị “cái chúng ta nghĩ,
cảm thấy, tin tưởng thành hành động thực tế làm gì và làm cách nào” là tích cực
nhất và mang tính chất xây dựng.
Tại Việt Nam, hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về KNS. ThS.
Nguyễn Thị Oanh trình bày quan điểm KNS với tư cách là đối tượng của giáo
dục KNS là năng lực tâm lí xã hội để đáp ứng và đối phó với những yêu cầu và
thách thức của cuộc sống hàng ngày [12].
Bằng kinh nghiệm nhiều năm giảng dạy về kỹ năng sống, ông Trần Văn
Hoàn, Phó Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Vườn ươm Doanh nghiệp Tâm Việt -
Hà Nội thống kê thấy trẻ ở những gia đình, người thân, biết tự giác tổ chức cuộc
sống cho mình, bảo vệ thân thể trước nguy hiểm và biết cách vượt qua khó khăn.
Theo tiến sĩ tâm lí Huỳnh Minh Sơn: “KNS là những kĩ năng tinh thần hay
những kĩ năng tâm lí, kĩ năng tâm lí - xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và
thích ứng trong cuộc sống. Những kĩ năng này giúp cho cá nhân thể hiện được
chính mình cũng như tạo ra những nội lực cần thiết để thích nghi và phát triển.
Kĩ năng sống còn được xem như một biểu hiện quan trọng của năng lực tâm lí
xã hội giúp cho cá nhân vững vàng trước cuộc sống có nhiều thách thức nhưng
cũng nhiều cơ hội trong thực tại…”.
Cách đây ít lâu, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức hội thảo Giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh phổ thông. Tại hội thảo, chuyên gia Phan Thị Lạc nói "hãy
nhìn vào tội phạm trẻ vị thành niên đang gia tăng; hành vi ứng xử tiêu cực khi
các em gặp phải sự cố bất thường nho nhỏ trong cuộc sống; học sinh 18 tuổi tốt
nghiệp THPT không biết lựa chọn cho mình hướng đi nào Để tồn tại và phát
triển, con người cần đứng vững và bước vững chắc trên đôi chân của mình và
cần có kỹ năng sống".
Ngoài ra, trong bài viết “Khái niệm KNS nhìn từ góc độ tâm lí học”,
PGS Nguyễn Quang Uẩn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã xem xét khái
niệm KNS dưới góc độ tâm lí học, tác giả đã phân tích: Cuộc sống của con
người diễn ra bằng hoạt động sống, với sự đan xen của dòng “hoạt động có
đối tượng” và “mối quan hệ giao tiếp ứng xử” giữa con người với con người,
đó là hai mặt có quan hệ tác động lẫn nhau, tạo nên cuộc sống đích thực của
mỗi con người. Trong hệ thống các kĩ năng cơ bản có tính tổng hợp và phức
tạp trong hoạt động sống của con người có các KNS. Tác giả đã đưa ra khái
niệm về kĩ năng sống như sau: “KNS là một tổng hợp phức tạp của một hệ
13
thống các kĩ năng, nói lên năng lực sống của con người, giúp con người thực
hiện công việc và tham gia vào cuộc sống hàng ngày có kết quả, trong những
điều kiện xác định của cuộc sống”.
Từ các quan niệm về kĩ năng sống nêu trên, có thể rút ra nhận xét:
- Có nhiều cách biểu đạt khái niệm KNS với quan niệm rộng hẹp khác nhau
tùy theo cách tiếp cận vấn đề. Khái niệm KNS hiểu theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm
những năng lực tâm lí xã hội. Theo nghĩa rộng, KNS không chỉ bao gồm năng
lực tâm lí xã hội mà bao gồm cả những kĩ năng vận động.
- Mặc dù cách biểu đạt khái niệm KNS có khác nhau (việc xác định nội
hàm của khái niệm rộng, sâu khác nhau dẫn đến phạm vi phản ánh của khái
niệm rộng, hẹp khác nhau) nhưng điểm thống nhất trong các quan niệm về KNS
là: Khẳng định KNS thuộc về phạm trù năng lực (hiểu kĩ năng theo nghĩa rộng)
chứ không thuộc phạm trù kĩ thuật của hành động, hành vi (hiểu kĩ năng sống
theo nghĩa hẹp).
- Do tính chất phức tạp của KNS nên trong thực tế, các tài liệu về KNS đề
cập đến mọi lĩnh vực hoạt động từ học tập để chuẩn bị vào nghề, cách học ngoại
ngữ, kĩ năng làm cha mẹ đến tổ chức trại hè. Tuy nhiên, cần phân biệt giữa kĩ
năng để sống còn như học chữ, học nghề, làm toán tới kỹ năng bơi lội… với
khái niệm KNS đã được đề cập ở các định nghĩa nêu trên.
Tóm lại, khái niệm KNS được hiểu theo nhiều cách khác nhau ở từng khu
vực và từng quốc gia. Ở một số nước, KNS được hướng vào giáo dục vệ sinh,
dinh dưỡng và phòng bệnh. Một số nước khác, KNS lại hướng vào giáo dục
hành vi và cách ứng xử, giáo dục an toàn giao thông, bảo vệ môi trường hay
giáo dục lòng yêu hòa bình. Theo đó, vấn đề phát triển KNS cho thanh thiếu
niên ở các nước cũng khác nhau. Có nước chỉ hạn chế những KNS cần cho lĩnh
vực bảo vệ sức khỏe, phòng tránh tệ nạn xã hội, nghĩa là kĩ năng sống chỉ dành
cho một số nhóm đối tượng có nguy cơ cao để đương đầu với những thách thức
của xã hội, KNS không phải là cần cho mọi người. Nhưng ở một số nước khác
sự nhận thức về KNS sâu sắc hơn, do đó KNS được phát triển cho mọi đối
tượng, với những KNS đó con người có thể vận dụng vào giải quyết các vấn đề
xã hội khác nhau, trong các hoàn cảnh và tình huống khác nhau của từng loại đối
tượng. Tuy nhiên, xu hướng chung là sử dụng khái niệm KNS của UNESCO (sử
dụng khái niệm KNS theo nghĩa rộng) để triển khai các hoạt động phát triển kĩ
năng sống cho các đối tượng trong xã hội, đặc biệt là thanh thiếu niên. Điều này
được lí giải bởi hai lí do: Thứ nhất, nếu hiểu KNS theo nghĩa hẹp là đồng nhất
14
KNS với năng lực tâm lí xã hội do đó làm giảm đi phạm vi ảnh hưởng cũng như
tác dụng của KNS. Năng lực tâm lí xã hội đề cập tới khả năng của con người
biểu hiện những cách ứng xử đúng hoặc chính xác khi tương tác với người khác
trong các tình huống khác nhau của môi trường xung quanh dựa trên nền văn
hóa nào đó. Nhưng, điều cần lưu ý là con người không chỉ cần có năng lực thích
ứng với những thách thức của cuộc sống mà con người còn cần và phải biết thay
đổi một cách phù hợp mang tính tích cực; Thứ hai, khái niệm KNS theo nghĩa
rộng bao hàm trong nó năng lực tâm lí xã hội với ý nghĩa là thành phần có vai
trò chung cho việc hỗ trợ cho sức khỏe tinh thần và sức khỏe thể chất, giúp cá
nhân sống hạnh phúc với người khác trong xã hội. Bên cạnh đó, theo nghĩa
rộng, khái niệm KNS còn đề cập đến khả năng con người quản lí được các tình
huống rủi ro, không chỉ đối với bản thân mà có thể gây ảnh hưởng đến mọi
người trong việc chấp nhận các biện pháp ngăn ngừa rủi ro. Đây chính là khả
năng con người quản lí một cách thích hợp bản thân, người khác và xã hội trong
cuộc sống hàng ngày.
Do tiếp cận kĩ năng sống tương đối đa dạng nên cũng có nhiều cách phân
loại KNS. Theo tổng hợp của tác giả Nguyễn Thanh Bình [3], tồn tại các cách
phân loại kĩ năng như sau:
- Phân loại xuất phát từ lĩnh vực sức khỏe. Theo cách phân loại này có 3
nhóm kĩ năng: Nhóm thứ nhất, là nhóm kĩ năng nhận thức bao gồm các kĩ năng cụ
thể: Tư duy phê phán, giải quyết vấn đề, nhận thức hậu quả, tư duy phân tích, khả
năng sáng tạo, tự nhận thức, đặt mục tiêu, xác định giá trị…; Nhóm thứ hai, là các
kĩ năng đương đầu với cảm xúc, gồm các kĩ năng cụ thể : Ý thức trách nhiệm,
cam kết, kiềm chế sự căng thẳng, kiềm chế được cảm xúc, tự quản lí, tự giám sát
và tự điều chỉnh; Nhóm cuối cùng, là nhóm kĩ năng xã hội (hay kĩ năng tương tác)
với các kĩ năng thành phần: Giao tiếp, quyết đoán, thương thuyết, từ chối, hợp
tác, sự cảm thông chia sẻ, khả năng nhận thấy thiện cảm của người khác.
- UNESCO cho rằng cách phân loại KNS theo 3 nhóm nêu trên mới chỉ
dừng ở các KNS chung, trong khi đó còn có những kỹ năng thể hiện trong
những vấn đề cụ thể khác nhau trong đời sống xã hội. Vì thế, UNESCO đề xuất
thêm các kĩ năng như: Vệ sinh, vệ sinh thực phẩm, sức khỏe, dinh dưỡng, các
vấn đề về giới, giới tính, sức khỏe sinh sản; ngăn ngừa và chăm sóc người bị
bệnh HIV/AIDS; phòng tránh rượu, thuốc lá và ma túy, phòng ngừa thiên tai,
bạo lực, rủi ro, hòa bình và giải quyết xung đột; gia đình và cộng đồng; giáo dục
công dân; bảo vệ thiên tai và môi trường.
15
- Với mục đích giúp người học ứng phó với các vấn đề của cuộc sống và tự
hoàn thiện mình, UNICEF phân loại KNS theo các mối quan hệ của cá nhân với
nhóm KNS:
+ Nhóm kĩ năng nhận biết và sống với chính mình, bao gồm các kĩ năng:
Kĩ năng tự nhận thức, lòng tự trọng, sự kiên định, đương đầu với cảm xúc,
đương đầu với căng thẳng.
+ Nhóm kĩ năng nhận biết và sống với người khác, với các kĩ năng thành phần:
Kĩ năng quan hệ tương tác nhân cách, sự cảm thông, đứng vững trước áp lực tiêu cực
của bạn bè hoặc của người khác, thương lượng, giao tiếp có hiệu quả.
+ Nhóm kĩ năng ra quyết định một cách hiệu quả, gồm các kĩ năng: Tư duy
phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề.
Những cách phân loại nêu trên đã đưa ra bảng danh mục các KNS có giá
trị, trong nghiên cứu phát triển lí luận về KNS và chỉ có tính chất tương đối.
Trên thực tế, các KNS có mối quan hệ mật thiết với nhau bởi khi tham gia vào
một tình huống cụ thể, con người cần phải sử dụng rất nhiều kĩ năng khác nhau.
Ví dụ, khi cần quyết định một vấn đề nào đó, cá nhân phải sử dụng những kĩ
năng như: Kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng tư duy phê phán, kĩ năng tư duy sáng
tạo…
Kết quả nghiên cứu về KNS của nhiều tác giả [3,4] đã khẳng định: Dù phân
loại theo hình thức nào thì một số kĩ năng vẫn được coi là kĩ năng cốt lõi như: Kĩ
năng xác định giá trị, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng đương đầu với cảm xúc, căng
thẳng; kĩ năng giải quyết mâu thuẫn một cách tích cực; kĩ năng nhận thức, kĩ
năng ra quyết định, kĩ năng đặt mục tiêu [3]. Thống nhất với quan niệm này, đề
tài đã giới hạn các KNS được nghiên cứu để giáo dục cho học sinh lớp 12 trên
địa bàn tỉnh Lai Châu thông qua môn Địa lí gồm các kĩ năng: Kĩ năng ứng xử
với môi trường thiên nhiên, kỹ năng bảo vệ môi trường, kỹ năng sử dụng hiệu
quả tài nguyên thiên nhiên, phòng tránh thiên tai và những hành vi gây hại đến
môi trường sống. Trên cơ sở đó giúp các em biết ứng dụng các kiến thức đã học
vào thực tiễn sản xuất sau này để sử dụng và khai thác hợp lí tài nguyên thiên
nhiên, đảm bảo sự phát triển biền vững.
Đề tài nghiên cứu các kỹ năng này nhằm giáo dục cho học sinh một số kỹ
năng cần thiết để giúp cho các em học sinh lớp 12 có thể vận dụng vào thực tiễn
ở địa phương, khai thác có hiệu quả hơn tài nguyên thiên nhiên của quê hương.
16
1.2. Giáo dục kĩ năng sống
Khái niệm giáo dục cũng được hiểu theo nghĩa rộng, hẹp khác nhau ở cấp
độ xã hội và cấp độ nhà trường [9]. Ở cấp độ nhà trường, khái niệm giáo dục chỉ
quá trình giáo dục tổng thể (dạy học và giáo dục theo nghĩa hẹp) được thực hiện
thông qua các hoạt động giáo dục. Hoạt động giáo dục là các hoạt động do các
cơ sở giáo dục (trường học và các cơ sở khác) tổ chức thực hiện theo kế hoạch,
chương trình giáo dục, trực tiếp điều hành và chịu trách nhiệm về chúng. Trong
các hoạt động giáo dục, hoạt động dạy học là nền tảng và chủ đạo không chỉ
trong các môn học, mà ở tất cả các hoạt động giáo dục khác trong nhà trường.
Nó là hoạt động giáo dục cơ bản nhất, có vị trí nền tảng và chức năng chủ đạo
trong hệ thống các hoạt động giáo dục. Hoạt động giáo dục được tổ chức có định
hướng về mặt giá trị nhằm tạo ra những môi trường hoạt động và giao tiếp có
định hướng của người học. Khi tham gia các hoạt động giáo dục, người học tiến
hành các hoạt động của mình theo những nguyên tắc chung, mục tiêu chung,
những chuẩn mực giá trị chung và các biện pháp chung, nhờ vậy học sinh được
giáo dục theo những tiêu chí chung.
Kĩ năng sống được hình thành thông qua quá trình xây dựng những hành vi
lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực trên cơ sở giúp người
học có cả kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng thích hợp. Do vậy, KNS phải
được hình thành cho học sinh thông qua con đường đặc trưng - hoạt động giáo
dục. Theo UNICEF, giáo dục dựa trên kĩ năng sống cơ bản là sự thay đổi trong
hành vi hay một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến thức, thái
độ, hành vi.
Giáo dục KNS là một quá trình với những hoạt động giáo dục cụ thể nhằm
tổ chức, điều khiển để học sinh biết cách chuyển dịch kiến thức (cái học sinh
biết) và thái độ, giá trị (cái học sinh nghĩ, cảm thấy, tin tưởng) thành hành động
thực tế (làm gì và làm cách nào) một cách thích hợp và mang tính chất xây
dựng. Giáo dục KNS cho học sinh là giáo dục cho các em có cách sống tích cực
trong xã hội hiện đại, là xây dựng hoặc thay đổi ở các em một số hành vi theo
hướng tích cực phù hợp với mục tiêu phát triển toàn diện nhân cách người học
dựa trên cơ sở giúp học sinh có tri thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp.
1.3. Nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 12
Có rất nhiều những kiến thức liên quan đến kỹ năng sống. Bởi thế khi giáo
dục kỹ năng sống có nhiều nội dung khác nhau. Một số nội dung cơ bản như: Kỹ
năng giải quyết vấn đề, kỹ năng tìm hiểu sự hỗ trợ, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ
17
năng ra quyết định, kỹ năng thể hiện sự cảm thông, kỹ năng sử dụng hiệu quả tài
nguyên thiên nhiên, kỹ năng phòng tránh thiên tai, kỹ năng bảo vệ tài nguyên
thiên nhiên và môi trường…
1.3.1. Kỹ năng ra quyết định
Trong cuộc sống hàng ngày con người luôn phải đối mặt với những tình
huống, những vấn đề cần giải quyết buộc chúng ta phải lựa chọn, đưa ra quyết
định hành động.
Kĩ năng ra quyết định là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa chọn
phương án tối ưu để giải quyết vấn đề hoặc tình huống gặp phải trong cuộc sống
một cách kịp thời.
Mỗi cá nhân phải tự mình ra quyết định cho bản thân; không nên trông chờ,
phụ thuộc vào người khác mặc dù có thể tham khảo ý kiến của những người tin
cậy trước khi ra quyết định.
Để đưa ra quyết định phù hợp, chúng ta cần:
- Xác định vấn đề hoặc tình huống mà chúng ta đang gặp phải.
- Thu thập thông tin về vấn đề hoặc tình huống đó.
- Liệt kê các cách giải quyết các vấn đề, tình huống đã có.
- Hình dung đầy đủ về kết quả sẽ xảy ra nếu chúng ta lựa chọn mỗi phương
án giải quyết.
- Xem xét về suy nghĩ và cảm xúc của bản thân nếu giải quyết theo từng
phương án đó.
- So sánh giữa các phương án để giải quyết lựa chọn phương án tối ưu.
Kĩ năng ra quyết định rất cần thiết trong cuộc sống, giúp con người có được
sự lựa chọn phù hợp và kịp thời, đem lại thành công trong cuộc sống. Ngược lại,
nếu không có kĩ năng ra quyết định, con người ta có thể có những quyết định sai
lầm hoặc chậm trễ, gây ảnh hưởng tiêu cực đến các mối quan hệ, đến công việc
và tương lai trong cuộc sống của bản thân.
Để đưa ra quyết định một cách phù hợp, cần phối hợp với các KNS khác
như: Kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng tư duy phê phán…
Trước yêu cầu cấp bách về việc đưa khái niệm KNS và chương trình giáo
dục học đường, trong đó có giáo dục phổ thông nói chung, THPT nói riêng, thời
gian qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức nhiều hội thảo khoa học về việc xây
dựng chương trình giáo dục KNS cho học sinh các cấp học. Một trong những