s
-
LỜI CẢM ƠN
Khóa luận này hoàn thành dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Đỗ Thúy Mùi.
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn chân thành, sâu sắc đến cô đã tận tình
chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện khóa luận.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu trường Đại học
Tây Bắc, Phòng Quản lí khoa học và Quan hệ quốc tế, các thầy cô giáo trong
khoa Sử - Địa và bạn bè đã tạo điều kiện thuận lợi nhất để tôi hoàn thành khóa
luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và các em học sinh ở trường
THPT số 1 Bảo Yên, THPT số 1 Bát Xát, THPT Dân tộc nội trú tỉnh Lào Cai đã
nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thực nghiệm của khóa luận.
Trong quá trình thực hiện khóa luận chắc chắn không thể tránh khỏi những
khiếm khuyết, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo
và các bạn để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, năm 2013
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Văn Đại (04/08/1991)
DTNT
Dân tộc nội trú
HĐ
Hoạt động
HS
Học sinh
GV
Giáo viên
KNS
Kỹ năng sống
MT
Môi trường
NXB
Nhà xuất bản
SGK
Sách giáo khoa
THPT
Trung học phổ thông
THCS
Trung học cơ sở
TNTN
Tài nguyên thiên nhiên
UNESCO
Tổ chức Giáo dục Khoa học và
Văn hóa của Liên Hợp Quốc
UNICEF
Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc
WHO
Tổ chức Y tế thế giới
TRANG
Kết quả điều tra sự cần thiết rèn KNS ở trường THPT
số 1 Bảo Yên.
36
Kết quả điều tra sự cần thiết rèn KNS ở trường THPT
số 1 Bát Xát.
37
Kết quả điều tra sự cần thiết rèn KNS ở trường THPT
Dân tộc nội trú tỉnh.
37
Tổng hợp kết quả điều tra ở 3 trường.
38
Kết quả điều tra về tính hiệu quả của bài học có lồng
ghép KNS ở trường THPT số 1 Bảo Yên .
40
Kết quả điều tra về tính hiệu quả của bài học có lồng
ghép KNS ở trường THPT số 1 Bát Xát .
40
Kết quả điều tra về tính hiệu quả của bài học có lồng
ghép KNS ở trường THPT Dân tộc nội trú tỉnh.
41
Tổng hợp kết quả điều tra ở 3 trường.
41
HÌNH
TRANG
Hình 3.1
Biểu đồ so sánh kết quả điều tra ở lớp thực nghiệm và
lớp đối chứng.
38
Hình 3.2
Biểu đồ so sánh kết quả điều tra ở lớp thực nghiệm và lớp
đối chứng.
42
1
1
2. 2
2.1. Mục tiêu 2
2.2. Nhiệm vụ 2
2.3. Giới hạn nghiên cứu 3
3
3.1. Trên thế giới 3
3.2. Ở Việt Nam 4
4. 6
4.1. Phương pháp phân tích xử lí số liệu thống kê 6
4.2. Phương pháp thu thập, phân tích và tổng hợp tài liệu 6
4.3. Phương pháp thực nghiệm 7
4.4. Phương pháp phỏng vấn 7
4.5. Phương pháp biểu đồ 8
8
5.1. Về lí luận 8
5.2. Về thực tiễn 8
9
10
1.1. 10
1.1.1. Một số khái niệm về kỹ năng sống 10
1.1.2. Giáo dục kỹ năng sống 14
1.1.3. Nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT 14
1.1.3.1. Kỹ năng kiểm soát cảm xúc 15
1.1.3.2. Kỹ năng tự nhận thức 15
1.1.3.3. Kỹ năng tư duy sáng tạo 15
1.1.3.4. Kỹ năng giao tiếp 16
1.1.3.5. Kỹ năng bảo vệ thiên nhiên và môi trường, phòng tránh thiên tai 16
1.1.3.6. Kỹ năng giải quyết vấn đề 17
1.1.4. Phương thức và phương pháp tiếp cận trong giáo dục KNS cho HS trung
học phổ thông. 17
19
1.2.1. Tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 11 trong
nhà trường THPT 19
1.2.2. Sự cần thiết phải rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh lớp 11 trên địa bàn
tỉnh Lào Cai qua môn Địa lí 20
THÔNG 22
22
2.1.1. Các bài có liên quan đến điều kiện tự nhiên 22
2.1.2. Các bài liên quan đến kỹ năng bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường 25
2.1.3. Các bài liên quan đến kỹ năng giải quyết vấn đề 28
30
33
33
33
34
34
35
43
44
46
1
Môi trường sống, hoạt động và học tập của thế hệ trẻ hiện nay đang có
những thay đổi đáng kể. Sự phát triển nhanh chóng của các lĩnh vực kinh tế -
xã hội và giao lưu quốc tế đã và đang tạo ra những tác động đa chiều, phức
tạp ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ
[1; 8]. Thực tiễn này khiến các nhà giáo dục và những người tâm huyết với sự
nghiệp giáo dục đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục kỹ năng sống (KNS)
cho thế hệ trẻ, trong đó có học sinh trung học phổ thông (THPT).
Hiện nay, trên thế giới nhiều quốc gia đang chú trọng tới việc rèn kỹ năng
sống. Đã có trên 155 nước trên thế giới quan tâm đến việc đưa kỹ năng sống vào
nhà trường, trong đó có 143 nước đã đưa vào chương trình chính khóa ở tiểu học
và trung học. Nhiều nước đã lồng ghép nội dung rèn KNS vào các môn học, đặc
biệt là các môn thuộc khoa học xã hội.
Do nhu cầu đổi mới giáo dục để đáp ứng sự phát triển đất nước và sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng như đáp ứng nhu cầu của
người học, Việt Nam đã thực hiện đổi mới giáo dục phổ thông; đổi mới mục tiêu
giáo dục từ chủ yếu là trang bị kiến thức cho người học sang trang bị những kiến
thức, kỹ năng cần thiết như: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng
bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, kỹ năng kiểm soát cảm xúc tuy
nhiên, nhận thức về KNS, cũng như việc thể chế hóa giáo dục KNS trong giáo
dục phổ thông ở Việt Nam chưa thật cụ thể, đặc biệt về hướng dẫn tổ chức hoạt
động giáo dục KNS cho học sinh (HS) ở các cấp, bậc học còn hạn chế [6].
Giáo dục KNS có vai trò quan trọng là những nhịp cầu giúp cho con người
biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực lành mạnh. Người có
KNS phù hợp sẽ luôn vững vàng trước những khó khăn thử thách, biết ứng xử,
giải quyết vấn đề một cách tích cực, phù hợp, họ thường thành công hơn trong
cuộc sống, luôn yêu đời và làm chủ cuộc sống. Ngược lại, nếu người thiếu KNS
dễ vấp ngã và thất bại trong cuộc sống.
Trong thực tiễn hiện nay, có nhiều học sinh thiếu KNS, dễ mắc vào tệ nạn
xã hội, chỉ biết sống cho bản thân, không biết sống vì người khác, thiếu ý thức
với cộng đồng. Vì vậy, giáo dục KNS cho thế hệ trẻ là rất cần thiết, giúp cho các
em học sinh rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng
đồng vì Tổ quốc.
2
Như vậy, giáo dục KNS đang là mối quan tâm của nhiều quốc gia trên thế
giới trong đó có Việt Nam. Ở Lào Cai, việc giáo dục KNS có vai trò quan trọng.
Có thể lồng ghép rất nhiều KNS trong các môn học trong đó có môn Địa lí. Một
trong những KNS có tính ứng dụng rất cao trên địa bàn tỉnh Lào Cai đó là: Kỹ
năng giao tiếp, kỹ năng kiềm chế cảm xúc, kỹ năng bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên, khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên. Sở dĩ những kỹ năng này rất quan
trọng đối với học sinh tỉnh Lào Cai vì Lào Cai là tỉnh miền núi, đại đa số học
sinh là con em các dân tộc thiểu số, trình độ nhận thức còn hạn chế. Ngoài ra,
đây còn là địa phương có tài nguyên thiên nhiên giàu có, nhưng các nguồn tài
nguyên đó đang bị suy giảm nghiêm trọng. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên
thiên nhiên chưa hợp lý vì thế có nhiều thiên tai bất thường như sạt lở đất đá, lũ
ống, lũ quét…
Để giúp cho học sinh có KNS cần thiết, đặc biệt khi ra trường có thể vận
dụng trong cuộc sống, tôi đã lựa chọn nghiên cứu khóa luận: “Rèn kỹ năng
sống cho học sinh lớp 11 trên địa bàn tỉnh Lào Cai qua môn Địa lí”.
Khóa luận chỉ dừng lại nghiên cứu một số kỹ năng cần thiết có thể lồng
ghép trong môn Địa lí lớp 11. Khóa luận như một nét chấm phá, gợi mở để
những nhà giáo dục cùng chung tay đưa việc rèn luyện KNS vào chương trình
trung học phổ thông.
2.1. Mục tiêu
Khóa luận hoàn thành với mục tiêu cơ bản là: Giúp cho học sinh lớp 11 trên
địa bàn tỉnh Lào Cai hiểu được kỹ năng sống, kỹ năng sử dụng hiệu quả tài nguyên
thiên nhiên, kỹ năng chăm sóc bảo vệ môi trường, kỹ năng phòng tránh thiên tai và
hành vi gây hại đến môi trường sống. Trên cơ sở đó, giúp các em biết ứng dụng các
kiến thức đã học vào thực tiễn sản xuất sau này để có thể sử dụng và khai thác một
cách hợp lí các nguồn tài nguyên đảm bảo sự phát triển bền vững.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu trên khóa luận có nhiệm vụ cơ bản là:
- Tổng hợp những vấn đề lý luận có liên quan đến KNS, giáo dục KNS, nội
dung giáo dục KNS.
- Lựa chọn, phân tích những bài, nội dung có liên quan đến KNS trong
chương trình Địa lí lớp 11 để đưa vào bài giảng các kỹ năng cho học sinh ở bậc
học này.
3
- Thiết kế một số giáo án và tiến hành thực nghiệm ở 3 trường THPT trên
địa bàn tỉnh Lào Cai.
2.3. Giới hạn nghiên cứu
- Khóa luận nghiên cứu dạy kỹ năng sống cho đối tượng là học sinh lớp 11
ở trường THPT trên địa bàn tỉnh Lào Cai. Khóa luận được tiến hành thực
nghiệm ở 3 trường THPT tiêu biểu là trường THPT số 1 Bảo Yên, trường THPT
số 1 Bát Xát, trường THPT Dân tộc nội trú (DTNT) tỉnh.
- Kỹ năng sống gồm rất nhiều kỹ năng khác nhau như: Kỹ năng giao tiếp;
kỹ năng ứng xử; kỹ năng tìm kiếm, xử lý thông tin; kỹ năng giải quyết vấn
đề… Khóa luận chỉ nghiên cứu để dạy một số kỹ năng cơ bản là kỹ năng ứng
xử với môi trường tự nhiên, kỹ năng sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên,
kỹ năng bảo vệ môi trường, phòng tránh thiên tai và những hành vi gây hại đến
môi trường sống.
- Khóa luận chỉ nghiên cứu việc rèn KNS ở một số bài học Địa lí trong
chương trình Địa lí lớp 11 ban cơ bản.
3.1. Trên thế giới
Thuật ngữ “Kỹ năng sống’’ đã xuất hiện từ những năm 90 của thế kỷ XX
trong một số chương trình giáo dục của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc
(UNICEF), trước tiên là chương trình “Giáo dục những giá trị sống” với 12 giá
trị cơ bản cần giáo dục cho thế hệ trẻ. Những nghiên cứu về KNS trong giai
đoạn này mong muốn thống nhất được một quan niệm chung về KNS cũng như
đưa ra được một bản danh mục các kỹ năng cơ bản mà thế hệ trẻ cần có. Phần
lớn các công trình nghiên cứu về KNS ở giai đoạn này quan niệm về KNS theo
nghĩa hẹp, đồng nhất nó với kỹ năng xã hội. Dự án được Tổ chức Giáo dục
Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc (UNESCO) tiến hành tại một số nước
trong đó có các quốc gia Đông Nam Á là một trong những nghiên cứu có tính
hệ thống và tiêu biểu cho hướng nghiên cứu về KNS nêu trên [8].
Do yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội và xu thế hội nhập, phát triển
của các quốc gia nên hệ thống giáo dục của các nước đã và đang thay đổi theo
định hướng khơi dậy và phát huy tối đa các tiềm năng của người học; đào tạo
một thế hệ năng động, sáng tạo, có những năng lực và kỹ năng cơ bản để thích
ứng với những thay đổi nhanh chóng của xã hội. Theo đó, vấn đề giáo dục KNS
cho thế hệ trẻ nói chung, cho học sinh phổ thông nói riêng được đông đảo các
nước quan tâm.
4
Quan niệm, nội dung giáo dục KNS được triển khai ở các nước vừa thể
hiện cái chung vừa mang tính đặc thù của từng quốc gia. Mặt khác, ngay trong
một quốc gia, nội dung giáo dục KNS trong lĩnh vực giáo dục chính quy và
không chính quy cũng có sự khác nhau. Trong giáo dục không chính quy ở một
số nước, những kỹ năng cơ bản như: Nghe, nói, đọc,viết, được coi là những
KNS cơ sở trong khi giáo dục chính quy, các KNS cơ bản lại được xác định
phong phú theo các lĩnh vực quan hệ cá nhân.
Do phần lớn các quốc gia đều mới bước đầu triển khai giáo dục KNS nên
những nghiên cứu lí luận về vấn đề này mặc dù khá phong phú song chưa thật
toàn diện, sâu sắc. Cho đến nay, chưa có quốc gia nào đưa ra được kinh nghiệm
hoặc hệ thống tiêu chí đánh giá chất lượng KNS.
Nhìn chung, các nước trên thế giới đã nghiên cứu xác định chương trình và
hình thức giáo dục KNS. Các chương trình được thiết kế khá đa dạng cả về hình
thức và nội dung. Nhiều nước xây dựng chương trình theo cách lồng ghép kỹ
năng sống vào chương trình dạy chữ (vào chương trình các môn học) ở mức độ
khác nhau. Các nội dung được lồng ghép như kỹ năng làm nông nghiệp, kỹ năng
bảo vệ môi trường, kỹ năng chăm sóc sức khỏe, kỹ năng phòng chống
HIV/AIDS. Nhiều nước dạy chuyên đề cần thiết như kỹ năng tạo thu nhập, bảo
vệ môi trường, kỹ năng nghề, kỹ năng kinh doanh.
Như vậy, có thể nói rằng việc rèn KNS cho học sinh các trường phổ thông
không chỉ riêng quốc gia nào, mà đây là một vấn đề mang tính toàn cầu, đã được
nhiều nước rất quan tâm nghiên cứu.
3.2. Ở Việt Nam
Thuật ngữ kỹ năng sống bắt đầu được biết đến ở Việt Nam từ chương trình
của UNICEF (1996) "Giáo dục kỹ năng sống để bảo vệ sức khỏe và phòng
chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường". Thông qua
quá trình thực hiện chương trình này, nội dung của khái niệm KNS và giáo dục
KNS ngày càng được mở rộng.
Trong giai đoạn đầu tiên, khái niệm kỹ năng sống được giới thiệu trong
chương trình này chỉ bao gồm những kỹ năng sống cốt lõi như: Kỹ năng tự nhận
thức, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng kiên định và kỹ năng đạt
mục tiêu. Ở giai đoạn này, chương trình chỉ tập trung vào các chủ đề giáo dục
sức khỏe của thanh thiếu niên. Giai đoạn 2 của chương trình mang tên "giáo dục
sống khỏe mạnh và kỹ năng sống". Trong giai đoạn này nội dung của khái niệm
KNS đã được phát triển sâu sắc hơn.
5
Một trong những người đầu tiên có những nghiên cứu mang tính hệ thống
về kỹ năng sống và giáo dục KNS ở Việt Nam là tác giả Nguyễn Thanh Bình,
tác giả có nhiều bài báo, đề tài khoa học cấp Bộ, giáo trình bàn về kỹ năng sống.
Những công trình tiêu biểu của tác giả là “Giáo dục kỹ năng sống”, Chuyên đề
cao học, ĐHSP Hà Nội. “Giáo dục kỹ năng sống”, Giáo trình dành cho sinh
viên Cao đẳng sư phạm, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội. “Những nghiên cứu và
thực hiện chương trình giáo dục kỹ năng sống ở Việt Nam”, Viện Chiến lược và
Chương trình giáo dục, Hà Nội. Những công trình này đặt cơ sở và tạo ra những
hướng nghiên cứu về kỹ năng sống và giáo dục kỹ năng sống ở Việt Nam.
Những nội dung chủ yếu mà tác giả Nguyễn Thanh Bình đã đề cập đến
trong các nghiên cứu là xác định những vấn đề lý luận cốt lõi về kỹ năng sống
và giáo dục kỹ năng sống. Tác giả đã trình bày được khái niệm về kỹ năng sống,
các loại kỹ năng sống. Điều đặc biệt là tác giả đã trình bày được các phương
pháp, cách thức giáo dục KNS. Những công trình này góp phần đáng kể, mở ra
hướng nghiên cứu về KNS và giáo dục KNS ở Việt Nam.
Ngoài ra, có một số tác giả khác nghiên cứu về KNS cho tuổi vị thành niên.
Tác giả Đào Thị Oanh có: “Một số cơ sở tâm lý học của việc giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh” tác giả đã phân tích rõ những cơ sở tâm lý học để rèn KNS.
Dựa vào những cơ sở tâm lý đó giáo viên có thể rèn luyện KNS cho học sinh đó
là các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng đương đầu với cảm
xúc căng thẳng, kỹ năng giải quyết mâu thuẫn một cách tích cực.
Tác giả Nguyễn Thị Oanh trong “Kỹ năng sống cho tuổi vị thành niên” lại
đề cập đến những khía cạnh khác. Tác giả đã quan niệm rằng: “Kỹ năng sống
với tư cách là đối tượng của giáo dục KNS là năng lực tâm lý xã hội để đáp ứng
và đối phó với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày”[13]
Gần đây tác giả Phan Thanh Vân đã nghiên cứu đề tài “Giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh THPT thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp”. Tác
giả đã nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về giáo dục KNS cho học sinh
THPT thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp, biện pháp giáo dục KNS cho học
sinh THPT thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Tác giả cũng đã
khẳng định: Giáo dục kỹ năng sống là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của hệ
thống giáo dục, là kết quả của giáo dục đồng thời là nhiệm vụ quan trọng của
mọi hoạt động nhà trường.
Gần với hướng nghiên cứu của khóa luận; các tác giả Lê minh Châu, Trần
Thị Tố Oanh, Phạm Thị Thu Phương, Lưu Thu Thủy, Đào Vân Vi có nghiên
6
cứu “ Giáo dục kỹ năng sống trong môn địa lý ở trường trung học cơ sở”. Tác
giả đề cập đến 2 phần. Phần 1 tác giả đề cập đến 4 nội dung cơ bản là: Quan
niệm về kỹ năng sống, phân loại kỹ năng sống, tầm quan trọng của việc giáo
dục KNS cho học sinh, định hướng giáo dục KNS cho học sinh. Các nội dung
mà nhóm tác giả đề cập đến nhằm giúp cho giáo viên nhận thức đầy đủ về bản
chất, mục tiêu, nguyên tắc giáo dục KNS, nội dung của các KNS và việc lựa
chọn các KNS cần giáo dục cho học sinh. Phần 2 nhóm tác giả đề cập đến việc
giáo dục KNS trong môn Địa lí ở trường trung học cơ sở (THCS). Trong phần
này, nhóm tác giả đề cập đến 3 nội dung cơ bản là: Thứ nhất, phân tích khả
năng, mục tiêu giáo dục KNS cho học sinh trong môn Địa lí ở trường THCS.
Nội dung này giúp giáo viên có nhận thức về việc vận dụng kiến thức của môn
Địa lí vào giáo dục KNS cho học sinh THCS. Thứ hai, giới thiệu một số nội
dung và địa chỉ các tiết học/ bài học tiêu biểu của môn Địa lí vào giáo dục KNS
cho học sinh ở từng lớp. Thứ ba, tiến hành soạn một số bài tham khảo về giáo
dục KNS trong môn Địa lí ở trường THCS. Cuốn sách này là nguồn tài liệu giúp
cho các thầy cô có thể vận dụng để rèn KNS cho học sinh THCS.
Như vậy, vấn đề giáo dục KNS trong nhà trường nói chung đã có nhiều tác
giả đề cập đến. Các công trình này là những cơ sở giúp cho tác giả kế thừa phát
huy để nghiên cứu khóa luận “Rèn kỹ năng sống cho học sinh lớp 11 trên địa
bàn tỉnh Lào Cai qua môn Địa lí”.
4.1. Phương pháp phân tích xử lí số liệu thống kê
Khóa luận được thực nghiệm tại một số trường THPT, do đó kết quả thực
nghiệm sẽ được thống kê, xử lí và tính toán. Trên cơ sở những số liệu đã được
xử lí để rút ra một số kết luận cần thiết.
Các giáo án thiết kế được thực nghiệm ở 3 trường. Tác giả đã tiến hành
điều tra ở lớp thực nghiệm với 316 em học sinh, lớp đối chứng 273 em học sinh,
với những nội dung khác nhau. Sau khi phát phiếu điều tra xin ý kiến, tác giả đã
phân tích, xử lí số liệu thống kê. Những số liệu được phân tích, tính toán một
cách tỉ mỉ trong mối tương quan tổng thể, từ đó có những đánh giá và rút ra
những kết luận cần thiết.
4.2. Phương pháp thu thập, phân tích và tổng hợp tài liệu
Đây là một phương pháp nghiên cứu rất quan trọng trong việc tiếp cận
vấn đề. Tài liệu thu thập được về mặt lí luận sẽ giúp chúng ta hiểu biết được các
thành tựu trong quá khứ và những vấn đề cập nhật hiện tại.
7
Sau khi phân tích và nhóm tài liệu, xử lý theo yêu cầu của khóa luận sẽ
giúp chúng ta phát hiện những vấn đề trọng tâm cũng như những vấn đề đang bỏ
ngỏ một tài liệu toàn diện và khái quát những vấn đề nghiên cứu.
Các tài liệu mà tác giả thu thập được rất phong phú từ các sách báo, các đề
tài nghiên cứu khoa học và các luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ, các tài liệu bàn
về KNS trên mạng internet… tất cả các tài liệu đó tác giả nghiên cứu, phân tích,
đánh giá để có cái nhìn toàn diện, sâu sắc về vấn đề nghiên cứu.
4.3. Phương pháp thực nghiệm
Khóa luận đã thiết kế được 5 giáo án liên quan đến giáo dục KNS qua một
số bài học Địa lí lớp 11. Tác giả đã vận dụng thử nghiệm trong các bài giảng để
tăng khả năng ứng dụng của khóa luận. Khóa luận được thực nghiệm ở các
trường THPT số 1 Bảo Yên, THPT số 1 Bát Xát, THPT DTNT tỉnh.
Khi tiến hành thực nghiệm ở các trường phổ thông có bài tác giả đã xin ý
kiến của giáo viên đóng góp cho giáo án và trực tiếp giảng dạy, có bài tác giả
nhờ giáo viên phổ thông trực tiếp giảng dạy hộ. Khi dạy xong các bài đó tác giả
đã phát phiếu xin ý kiến của học sinh. Tại các trường đến thực nghiệm tác giả
cũng xin ý kiến ở cả các lớp không lồng ghép kiến thức KNS. Tuy nhiên, với
thời gian nghiên cứu cũng như những điều kiện khác, tác giả chỉ tiến hành thực
nghiệm được ở một số trường và một số bài cụ thể mà chưa tiến hành trên diện
rộng. Trong khi thực hiện khóa luận, tác giả vẫn tiếp tục thử nghiệm để sau này
khi ra trường sẽ vận dụng tốt hơn kết quả nghiên cứu của khóa luận.
4.4. Phương pháp phỏng vấn
Được thực hiện nhằm tìm hiểu các nguyên nhân về thực trạng giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh THPT và tìm hiểu quan điểm của các đối tượng được
phỏng vấn về việc lồng ghép KNS trong môn Địa lí cho học sinh lớp 11 trên địa
bàn tỉnh Lào Cai.
Trong quá trình thực hiện khóa luận, tác giả đã gặp gỡ, trao đổi với nhiều
giáo viên và các em học sinh ở các trường phổ thông đó. Qua các cuộc tiếp xúc,
nói chuyện tác giả đã nhận thấy rằng việc lồng ghép kiến thức KNS cho học sinh
rất cần thiết, tác giả đã phỏng vấn thông qua phiếu điều tra tới 589 học sinh.
Trong quá trình phỏng vấn tác giả không chỉ phỏng vấn ở những lớp được lồng
ghép kiến thức KNS mà còn phỏng vấn cả những lớp không dạy. Trên cơ sở
những ý kiến đó tác giả xác định sự cần thiết phải rèn KNS cho học sinh THPT.
Những thông tin mà tác giả thu được thông qua phiếu điều tra đó là cơ sở cần
thiết để khẳng định được kết quả nghiên cứu của khóa luận.
8
4.5. Phương pháp biểu đồ
Đây là một phương pháp phổ biến và thông dụng trong môn Địa lí. Các
biểu đồ đều mang một thông tin nhất định. Vì vậy, trong khóa luận để thể hiện
kết quả nghiên cứu tôi đã xây dựng biểu đồ cột. Khóa luận đã xây dựng được 2
biểu đồ thể hiện kết quả nghiên cứu về sự cần thiết phải lồng ghép nội dung giáo
dục KNS cho học sinh trung học phổ thông qua môn Địa lí.
5.1. Về lí luận
Khóa luận hoàn thành sẽ góp phần phát triển lí luận về giáo dục KNS cho
học sinh THPT và bước đầu thiết lập cơ sở lí luận về giáo dục KNS trong môn
Địa lí thông qua việc lồng ghép những nội dung cụ thể trong từng môn học.
Những vấn đề trên thể hiện qua một số quan điểm sau:
Giáo dục KNS nói chung và thông qua môn Địa lí lớp 11 trên địa bàn tỉnh
Lào Cai nói riêng nhằm giúp phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh để các
em rèn KNS, kỹ năng ứng xử với môi trường tự nhiên trong thời kì biến đổi khí
hậu. Trên cơ sở đó giúp các em biết ứng xử với cuộc sống, con người và vận
dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn sản xuất sau này để có thể sử dụng, khai
thác hợp lí nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Việc tích hợp và lồng ghép thông qua một số bài học cụ thể không chỉ đem
lại sự sinh động, phong phú trong nội dung bài giảng mà còn góp phần hình
thành những suy nghĩ, tư duy nhận thức mới cho học sinh lớp 11 ở tỉnh Lào Cai.
5.2. Về thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của khóa luận khẳng định:
Học sinh lớp 11 trên địa bàn tỉnh Lào Cai rất hạn chế về KNS. Một trong
những nguyên nhân của thực trạng này là do giáo dục THPT, đặc biệt là nội
dung môn học chưa được quan tâm thỏa đáng đến vấn đề giáo dục KNS cho học
sinh. Chưa xác định phương pháp hiệu quả để lồng ghép các nội dung liên quan
tới KNS vào từng môn học, trong đó có môn Địa lí.
Tính tích hợp và lồng ghép nội dung, vấn đề cụ thể vào một số bài học
trong môn Địa lí THPT là nội dung cần được triển khai nhằm cho học sinh lớp
11 ở tỉnh Lào Cai được trang bị những kỹ năng cơ bản và hiệu quả nhất, phù hợp
với sự phát triển của nền giáo dục gắn với thực tiễn. Khóa luận hoàn thành là
nguồn tư liệu bổ ích giúp cho các sinh viên và giáo viên ở trường THPT tham
khảo để có thể lồng ghép các KNS trong các bài học Địa lí ở trường phổ thông.
9
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận bao gồm 3 chương:
Chương 1 : Cơ sở lí luận và thực tiễn của khóa luận;
Chương 2: Một số nội dung có thể lồng ghép kỹ năng sống trong môn Địa
lí lớp 11 ở trường THPT;
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
10
1.1.
1.1.1. Một số khái niệm về kỹ năng sống
Khái niệm về kỹ năng sống được sử dụng rộng rãi nhằm vào mọi lứa tuổi
trong lĩnh vực hoạt động khác nhau của đời sống xã hội. Ngay những năm đầu
thập kỉ 90, các tổ chức Liên Hợp Quốc như: Tổ chức Y tế thế giới (WHO),
UNESCO đã chung sức xây dựng chương trình giáo dục KNS cho thanh thiếu
niên. Tuy nhiên, cho đến nay, KNS vẫn chưa có một định nghĩa nào rõ ràng và
đầy đủ.
Theo UNESCO: Kỹ năng sống là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các
chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày. Đó là khả năng làm cho hành
vi và sự thay đổi của mình phù hợp với cách ứng xử tích cực giúp con người có
thể kiểm soát, quản lí có hiệu quả các nhu cầu và những thách thức trong cuộc
sống hàng ngày.
Theo UNICEF: Kỹ năng sống là khả năng phân tích tình huống và ứng xử,
khả năng phân tích cách ứng xử và khả năng tránh được các tình huống. Các
KNS nhằm giúp chúng ta chuyển dịch kiến thức “cái chúng ta biết” và thái độ,
giá trị “cái chúng ta nghĩ, cảm thấy, tin tưởng thành hành động thực tế làm gì và
làm cách nào” là tích cực nhất và mang tính chất xây dựng.
WHO quan niệm: Kỹ năng sống là năng lực tâm lí xã hội, là khả năng ứng
phó một cách có hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó
cũng là khả năng của một cá nhân để duy trì một trạng thái khỏe mạnh về mặt
tinh thần, biểu hiện qua các hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người
khác, với nền văn hóa và môi trường xung quanh. Năng lực tâm lí có vai trò
quan trọng trong việc phát huy sức khỏe theo nghĩa rộng nhất về thể chất, tinh
thần và xã hội. KNS là khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lí xã hội này.
Tại Việt Nam, hiện nay cũng có khá nhiều quan niệm khác nhau về khái
niệm KNS. Trong bài viết “Khái niệm KNS nhìn từ góc độ tâm lí học”, PGS
Nguyễn Quang Uẩn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã xem xét khái niệm
KNS dưới góc độ tâm lí học, tác giả đã phân tích: Cuộc sống của con người
diễn ra bằng hoạt động sống, với sự đan xen của dòng “hoạt động có đối
tượng” và “mối quan hệ giao tiếp ứng xử” giữa con người với con người, đó là
hai mặt có quan hệ tác động lẫn nhau, tạo nên cuộc sống đích thực của mỗi con
người. Trong hệ thống các kỹ năng cơ bản có tính tổng hợp và phức tạp trong
11
hoạt động sống của con người có các KNS. Tác giả đã đưa ra khái niệm về kỹ
năng sống như sau: “KNS là một tổng hợp phức tạp của một hệ thống các kỹ
năng nói lên năng lực sống của con người, giúp con người thực hiện công việc
và tham gia vào cuộc sống hàng ngày có kết quả, trong những điều kiện xác
định của cuộc sống”.
Theo tiến sĩ tâm lí Huỳnh Minh Sơn: “KNS là những kỹ năng tinh thần hay
những kỹ năng tâm lí, kỹ năng tâm lí - xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và
thích ứng trong cuộc sống. Những kỹ năng này giúp cho cá nhân thể hiện được
chính mình cũng như tạo ra những nội lực cần thiết để thích nghi và phát triển.
Kỹ năng sống còn được xem như một biểu hiện quan trọng của năng lực tâm lí
xã hội giúp cho cá nhân vững vàng trước cuộc sống có nhiều thách thức nhưng
cũng nhiều cơ hội trong thực tại…”.
Ngoài ra, ThS. Nguyễn Thị Oanh trình bày quan điểm KNS với tư cách là
đối tượng của giáo dục KNS là năng lực tâm lí xã hội để đáp ứng và đối phó
với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày [13].
Từ các quan niệm về kỹ năng sống nêu trên, có thể rút ra nhận xét:
- Có nhiều cách biểu đạt khái niệm KNS với quan niệm rộng hẹp khác nhau
tùy theo cách tiếp cận vấn đề. Khái niệm KNS hiểu theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm
những năng lực tâm lí xã hội. Theo nghĩa rộng, KNS không chỉ bao gồm năng
lực tâm lí xã hội mà bao gồm cả những kỹ năng vận động.
- Mặc dù cách biểu đạt khái niệm KNS có khác nhau (việc xác định nội
hàm của khái niệm rộng, sâu khác nhau dẫn đến phạm vi phản ánh của khái
niệm rộng, hẹp khác nhau) nhưng điểm thống nhất trong các quan niệm về KNS
là: Khẳng định KNS thuộc về phạm trù năng lực (hiểu kỹ năng theo nghĩa rộng)
chứ không thuộc phạm trù kĩ thuật của hành động, hành vi (hiểu kỹ năng sống
theo nghĩa hẹp).
- Do tính chất phức tạp của KNS nên trong thực tế, các tài liệu về KNS đề
cập đến mọi lĩnh vực hoạt động từ học tập để chuẩn bị vào nghề, cách học ngoại
ngữ, kỹ năng làm cha mẹ đến tổ chức trại hè. Tuy nhiên, cần phân biệt giữa kỹ
năng để sống còn như học chữ, học nghề, làm toán tới kỹ năng bơi lội…với khái
niệm KNS đã được đề cập ở các định nghĩa nêu trên.
Tóm lại, khái niệm KNS được hiểu theo nhiều cách khác nhau ở từng khu
vực và từng quốc gia. Ở một số nước, KNS được hướng vào giáo dục vệ sinh,
dinh dưỡng và phòng bệnh. Một số nước khác, KNS lại hướng vào giáo dục
hành vi và cách ứng xử, giáo dục an toàn giao thông, bảo vệ môi trường hay
12
giáo dục lòng yêu hòa bình. Theo đó, vấn đề phát triển KNS cho thanh thiếu
niên ở các nước cũng khác nhau. Có nước chỉ hạn chế những KNS cần cho lĩnh
vực bảo vệ sức khỏe, phòng tránh tệ nạn xã hội, nghĩa là kỹ năng sống chỉ dành
cho một số nhóm đối tượng có nguy cơ cao để đương đầu với những thách thức
của xã hội, KNS không phải là cần cho mọi người. Nhưng ở một số nước khác
sự nhận thức về KNS sâu sắc hơn, do đó KNS được phát triển cho mọi đối
tượng để với những KNS đó con người có thể vận dụng vào giải quyết các vấn
đề xã hội khác nhau, trong các hoàn cảnh và tình huống khác nhau của từng loại
đối tượng. Tuy nhiên, xu hướng chung là sử dụng khái niệm KNS của UNESCO
(sử dụng khái niệm KNS theo nghĩa rộng) để triển khai các hoạt động phát triển
kỹ năng sống cho các đối tượng trong xã hội, đặc biệt là thanh thiếu niên. Điều
này được lí giải bởi hai lí do: Thứ nhất, nếu hiểu KNS theo nghĩa hẹp là đồng
nhất KNS với năng lực tâm lí xã hội do đó làm giảm đi phạm vi ảnh hưởng cũng
như tác dụng của KNS. Năng lực tâm lí xã hội đề cập tới khả năng của con
người biểu hiện những cách ứng xử đúng hoặc chính xác khi tương tác với
người khác trong các tình huống khác nhau của môi trường xung quanh dựa trên
nền văn hóa nào đó. Nhưng, điều cần lưu ý là con người không chỉ cần có năng
lực thích ứng với những thách thức của cuộc sống mà con người còn cần và phải
biết thay đổi một cách phù hợp mang tính tích cực; Thứ hai, khái niệm KNS
theo nghĩa rộng bao hàm trong nó năng lực tâm lí xã hội với ý nghĩa là thành
phần có vai trò chung cho việc hỗ trợ cho sức khỏe tinh thần và sức khỏe thể
chất, giúp cá nhân sống hạnh phúc với người khác trong xã hội. Bên cạnh đó,
theo nghĩa rộng, khái niệm KNS còn đề cập đến khả năng con người quản lí
được các tình huống rủi ro, không chỉ đối với bản thân mà có thể gây ảnh hưởng
đến mọi người trong việc chấp nhận các biện pháp ngăn ngừa rủi ro. Đây chính
là khả năng con người quản lí một cách thích hợp bản thân, người khác và xã hội
trong cuộc sống hàng ngày.
Do tiếp cận kỹ năng sống tương đối đa dạng nên cũng có nhiều cách phân
loại KNS. Theo tổng hợp của tác giả Nguyễn Thanh Bình [3], tồn tại các cách
phân loại kỹ năng như sau:
- Phân loại xuất phát từ lĩnh vực sức khỏe. Theo cách phân loại này có 3
nhóm kỹ năng: Nhóm thứ nhất, là nhóm kỹ năng nhận thức bao gồm các kỹ năng
cụ thể: Kỹ năng giải quyết vấn đề, nhận thức hậu quả, tư duy phân tích, khả năng
sáng tạo, tự nhận thức, đặt mục tiêu…; Nhóm thứ hai, là các kỹ năng đương đầu
với cảm xúc, gồm các kỹ năng cụ thể : Kiềm chế sự căng thẳng, kiềm chế được
cảm xúc, tự quản lí, tự giám sát và tự điều chỉnh; Nhóm cuối cùng, là nhóm kỹ
13
năng xã hội (hay kỹ năng tương tác) với các kỹ năng thành phần: Giao tiếp, quyết
đoán, thương thuyết, từ chối, hợp tác, sự cảm thông chia sẻ, khả năng nhận thấy
thiện cảm của người khác.
- Với mục đích giúp người học ứng phó với các vấn đề của cuộc sống và tự
hoàn thiện mình, UNICEF phân loại KNS theo các mối quan hệ của cá nhân với
nhóm KNS:
+ Nhóm kỹ năng nhận biết và sống với chính mình, bao gồm các kỹ năng:
Kỹ năng tự nhận thức, lòng tự trọng, sự kiên định, đương đầu với cảm xúc,
đương đầu với căng thẳng.
+ Nhóm kỹ năng nhận biết và sống với người khác, với các kỹ năng thành
phần: Kỹ năng quan hệ tương tác nhân cách, sự cảm thông, đứng vững trước áp lực
tiêu cực của bạn bè hoặc của người khác, thương lượng, giao tiếp có hiệu quả.
+ Nhóm kỹ năng ra quyết định một cách hiệu quả, gồm các kỹ năng: Tư
duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề.
Những cách phân loại nêu trên đã đưa ra bảng danh mục các KNS có giá trị
trong nghiên cứu phát triển lí luận về KNS và chỉ có tính chất tương đối. Trên
thực tế, các KNS có mối quan hệ mật thiết với nhau bởi khi tham gia vào một
tình huống cụ thể, con người cần phải sử dụng rất nhiều kỹ năng khác nhau. Ví
dụ, khi cần quyết định một vấn đề nào đó, cá nhân phải sử dụng những kỹ năng
như: Kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tư duy sáng tạo…
Kết quả nghiên cứu về KNS của nhiều tác giả [3,4] đã khẳng định: Dù phân
loại theo hình thức nào thì một số kỹ năng vẫn được coi là kỹ năng cốt lõi như:
Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng đương đầu với cảm xúc, căng thẳng; kỹ năng giải
quyết mâu thuẫn một cách tích cực; kỹ năng ra quyết định, kỹ năng đặt mục
tiêu [3]. Thống nhất với quan niệm này, khóa luận đã giới hạn các KNS được
nghiên cứu để giáo dục cho học sinh lớp 11 trên địa bàn tỉnh Lào Cai thông qua
môn Địa lí gồm các kỹ năng: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử với môi trường
thiên nhiên, kỹ năng bảo vệ môi trường, kỹ năng sử dụng hiệu quả tài nguyên
thiên nhiên, phòng tránh thiên tai và những hành vi gây hại đến môi trường
sống. Trên cơ sở đó giúp các em biết ứng dụng các kiến thức đã học vào thực
tiễn sản xuất sau này để sử dụng và khai thác hợp lí tài nguyên thiên nhiên, đảm
bảo sự phát triển biền vững.
Khóa luận nghiên cứu các kỹ năng này nhằm giáo dục cho học sinh một số
kỹ năng cần thiết để giúp cho các em học sinh THPT có thể vận dụng vào thực
tiễn ở địa phương, khai thác có hiệu quả hơn tài nguyên thiên nhiên.
14
1.1.2. Giáo dục kỹ năng sống
Khái niệm giáo dục cũng được hiểu theo nghĩa rộng, hẹp khác nhau ở cấp
độ xã hội và cấp độ nhà trường [10]. Ở cấp độ nhà trường, khái niệm giáo dục
chỉ quá trình giáo dục tổng thể (dạy học và giáo dục theo nghĩa hẹp) được thực
hiện thông qua các hoạt động giáo dục. Hoạt động giáo dục là các hoạt động do
các cơ sở giáo dục (trường học và các cơ sở khác) tổ chức thực hiện theo kế
hoạch, chương trình giáo dục, trực tiếp điều hành và chịu trách nhiệm về chúng.
Trong các hoạt động giáo dục, hoạt động dạy học là nền tảng và chủ đạo không
chỉ trong các môn học, mà ở tất cả các hoạt động giáo dục khác trong nhà
trường. Nó là hoạt động giáo dục cơ bản nhất, có vị trí nền tảng và chức năng
chủ đạo trong hệ thống các hoạt động giáo dục. Hoạt động giáo dục được tổ
chức có định hướng về mặt giá trị nhằm tạo ra những môi trường hoạt động và
giao tiếp có định hướng của người học. Khi tham gia các hoạt động giáo dục,
người học tiến hành các hoạt động của mình theo những nguyên tắc chung, mục
tiêu chung, những chuẩn mực giá trị chung và các biện pháp chung, nhờ vậy học
sinh được giáo dục theo những tiêu chí chung.
Kỹ năng sống được hình thành thông qua quá trình xây dựng những hành vi
lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực trên cơ sở giúp người
học có cả kiến thức, giá trị, thái độ và kỹ năng thích hợp. Do vậy, KNS phải
được hình thành cho học sinh thông qua con đường đặc trưng - hoạt động giáo
dục. Theo UNICEF, giáo dục dựa trên kỹ năng sống cơ bản là sự thay đổi trong
hành vi hay một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến thức, thái
độ, hành vi.
Giáo dục KNS là một quá trình với những hoạt động giáo dục cụ thể nhằm
tổ chức, điều khiển để học sinh biết cách chuyển dịch kiến thức (cái học sinh
biết) và thái độ, giá trị (cái học sinh nghĩ, cảm thấy, tin tưởng) thành hành động
thực tế (làm gì và làm cách nào) một cách thích hợp và mang tính chất xây
dựng. Giáo dục KNS cho học sinh là giáo dục cho các em có cách sống tích cực
trong xã hội hiện đại, là xây dựng hoặc thay đổi ở các em một số hành vi theo
hướng tích cực phù hợp với mục tiêu phát triển toàn diện nhân cách người học
dựa trên cơ sở giúp học sinh có tri thức, giá trị, thái độ và kỹ năng phù hợp.
1.1.3. Nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
Có rất nhiều những kiến thức liên quan đến kỹ năng sống. Bởi thế khi giáo
dục kỹ năng sống có nhiều nội dung khác nhau. Một số nội dung cơ bản như: Kỹ
năng kiểm soát cảm xúc, kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng
15
sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, kỹ năng phòng tránh thiên tai, kỹ năng
bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường…
1.1.3.1. Kỹ năng kiểm soát cảm xúc
Kiểm soát cảm xúc là khả năng con người nhận thức rõ cảm xúc của mình
trong một tình huống nào đó và hiểu được ảnh hưởng của cảm xúc đối với bản
thân và người khác như thế nào, đồng thời biết cách điều chỉnh và thể hiện cảm
xúc một cách phù hợp. Kỹ năng xử lí cảm xúc còn có nhiều tên gọi khác như:
Xử lí cảm xúc, kiềm chế cảm xúc, làm chủ cảm xúc
Một người biết kiểm soát cảm xúc thì sẽ góp phần giảm căng thẳng, giúp
giao tiếp và thương lượng hiệu quả hơn, giải quyết mâu thuẫn một cách hài hòa
và mang tính xây dựng hơn, giúp ra quyết định và giải quyết vấn đề tốt hơn.
Kỹ năng xử lí cảm xúc cần sự kết hợp với kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng
ứng xử với người khác và kỹ năng ứng phó với căng thẳng, đồng thời góp phần
củng cố các kỹ năng này.
1.1.3.2. Kỹ năng tự nhận thức
Tự nhận thức là tự nhìn nhận, tự đánh giá về bản thân.
Kỹ năng tự nhận thức là khả năng con người hiểu về chính bản thân mình,
như cơ thể, tư tưởng, các mối quan hệ xã hội của bản thân; biết nhìn nhận, đánh
giá đúng về tiềm năng, tình cảm, sở thích, thói quen, điểm mạnh, điểm yếu, của
bản thân mình; quan tâm và luôn ý thức được mình đang làm gì, kể cả nhận ra
lúc bản thân đang cảm thấy căng thẳng.
Tự nhận thức là một kỹ năng sống rất cơ bản của con người, là nền tảng để
con người giao tiếp, ứng xử phù hợp và hiệu quả với người khác cũng như để có
thể cảm thông được với người khác. Ngoài ra, có hiểu đúng về mình, con người
mới có thể có những quyết định, những sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với khả
năng của bản thân, với điều kiện thực tế và yêu cầu xã hội. Ngược lại, đánh giá
không đúng về bản thân có thể dẫn con người đến những hạn chế, sai lầm, thất
bại trong cuộc sống và trong giao tiếp với người khác.
Để tự nhận thức đúng về bản thân cần phải trải nghiệm qua thực tế, đặc biệt
là qua giao tiếp với người khác.
1.1.3.3. Kỹ năng tư duy sáng tạo
Tư duy là khả năng nhìn nhận và giải quyết vấn đề theo một cách mới, với
ý tưởng mới, cách sắp xếp và tổ chức mới; là khả năng khám phá và kết nối mối
quan hệ giữa các khái niệm, ý tưởng, quan điểm, sự việc; độc lập trong suy nghĩ.
16
Kỹ năng tư duy sáng tạo giúp con người tư duy năng động với nhiều sáng
kiến và óc tưởng tượng; biết cách phán đoán và thích nghi, có tầm nhìn và khả
năng suy nghĩ rộng hơn những người khác, không bị bó hẹp vào kinh nghiệm
trực tiếp đang trải qua; tư duy minh mẫn và khác biệt.
Tư duy sáng tạo là một KNS quan trọng bởi vì trong cuộc sống con người
thường xuyên bị đặt vào trong những hoàn cảnh bất ngờ hoặc ngẫu nhiên xảy ra.
Khi gặp những hoàn cảnh như vậy đòi hỏi chúng ta phải có tư duy sáng tạo để
có một cách ứng phó linh hoạt và phù hợp.
Khi một người biết kết hợp tốt giữa tư duy phê phán và tư duy sáng tạo thì
năng lực tư duy của người ấy càng được tăng cường và giúp ích rất nhiều cho
bản thân trong việc giải quyết vấn đề một cách thuận lợi và phù hợp nhất.
1.1.3.4. Kỹ năng giao tiếp
Kỹ năng giao tiếp là khả năng có thể bày tỏ ý kiến của bản thân theo hình thức
nói, viết hoặc sử dụng ngôn ngữ có thể một cách phù hợp với hoàn cảnh và văn hóa,
biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến người khác ngay cả khi bất đồng quan điểm.
Kỹ năng giao tiếp giúp con người biết đánh giá tình huống giao tiếp và điều
chỉnh cách giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả; bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc
nhưng không làm hại hay tổn thương cho người khác, kỹ năng này giúp chúng ta
có mối quan hệ tích cực với các thành viên trong gia đình, bạn bè.
Kỹ năng giao tiếp là yếu tố cần thiết cho nhiều kỹ năng khác như bày tỏ sự cảm
thông, thương lượng, hợp tác, tìm kiếm sự giúp đỡ, giải quyết mâu thuẫn, kiểm soát
cảm xúc. Người có kỹ năng giao tiếp tốt biết dung hòa đối với mong đợi của những
người khác; có cách ứng xử phù hợp khi làm việc cùng và ở cùng với người khác
trong một môi trường tập thể quan tâm đến những điều người khác quan tâm và giúp
họ có thể đạt được những điều họ mong muốn một cách chính xác.
1.1.3.5. Kỹ năng bảo vệ thiên nhiên và môi trường, phòng tránh thiên tai
Hiện nay, tài nguyên thiên nhiên đang bị cạn kiệt, môi trường đang bị ô
nhiễm. Bởi thế việc rèn kỹ năng bảo vệ tài nguyên và môi trường có ý nghĩa
quan trọng. Rèn kỹ năng này là dạy cho học sinh hiểu về các loại tài nguyên
thiên nhiên, sự suy giảm, xuống cấp của tài nguyên thiên nhiên để học sinh có ý
thức hơn trong việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Thông qua đó học sinh biết
cách khai thác tài nguyên thiên nhiên tiết kiệm, hợp lý, biết phòng tránh thiên
tai, rủi ro do tai biến thiên nhiên. Có ý thức hơn trong việc bảo vệ môi trường.
Những hành động nhỏ của học sinh như không vứt rác bùa bãi, không phá hoại
17
tài sản công, biết giữ gìn bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, đó là những mục tiêu mà
trong các bài dạy Địa lí đang hướng tới.
1.1.3.6. Kỹ năng giải quyết vấn đề
Kỹ năng giải quyết vấn đề là khả năng của cá nhân biết quyết định, lựa
chọn phương án tối ưu và hành động theo phương án đã chọn để giải quyết vấn
đề hoặc tình huống gặp phải trong cuộc sống.
Để giải quyết vấn đề có hiệu quả, chúng ta cần:
- Xác định rõ vấn đề hoặc tình huống đang gặp phải, kể cả tìm kiếm thông
tin cần thiết.
- Liệt kê các cách giải quyết vấn đề, tình huống đã có.
- Hình dung đầy đủ về kết quả xảy ra nếu ta lựa chọn phương án giải
quyết nào đó.
- Xem xét về suy nghĩ và cảm xúc của bản thân nếu thực hiện phương án
giải quyết đó.
- So sánh các phương án để đưa ra quyết định cuối cùng.
- Hành động theo quyết định đã lựa chọn.
- Kiểm định lại kết quả để rút kinh nghiệm cho những lần ra quyết định và
giải quyết vấn đề sau.
Kỹ năng giải quyết vấn đề rất quan trọng, giúp con người có thể ứng phó
tích cực và hiệu quả trước những vấn đề, tình huống của cuộc sống. Trong học
tập môn Địa lí, kỹ năng này trang bị cho học sinh tính kiên định trước mọi tình
huống gặp phải trong cuộc sống, ứng phó linh hoạt, thích hợp và hiệu quả khi
đứng trước một hiện tượng bất thường của tự nhiên.
1.1.4. Phương thức và phương pháp tiếp cận trong giáo dục KNS cho HS
trung học phổ thông.
Trước yêu cầu cấp bách về việc đưa KNS vào chương trình giáo dục học
đường, trong đó có giáo dục phổ thông nói chung, THPT nói riêng, thời gian qua
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức nhiều hội thảo khoa học về việc xây dựng
chương trình giáo dục KNS cho HS các cấp học. Một trong những vấn đề được
quan tâm ở các hội thảo này là phương thức thực hiện giáo dục KNS cho HS
như thế nào cho hiệu quả.
Tổng kết thực tiễn và kinh nghiệm của một số nước cho thấy có 3 phương
án thực hiên giáo dục KNS cho học sinh là.
18
- Xây dựng môn học về giáo dục KNS đưa vào chương trình học tập của
học sinh.
- Lồng ghép các nội dung giáo dục KNS vào các môn học có ưu thế và các
hoạt động giáo dục khác.
- Tích hợp giáo dục KNS vào các môn học (trong đó có môn Địa lí).
Theo quan điểm của tác giả do KNS được hình thành và phát triển thông
qua trải nghiệm và gắn liền với hoạt động sống của HS nên việc giáo dục KNS
cho học sinh hình thành một môn học riêng là ít khả thi, kém hiệu quả vì để xây
dựng nên một môn học theo hướng trên sẽ tốn nhiều thời gian nghiên cứu và
thực hiện, cũng như môn học đạo đức vậy HS có thể học thuộc lòng các khái
niệm đạo đức nhưng chưa chắc học sinh có những hành vi phù hợp với chuẩn
mực đạo đức mà các em rất thuộc.
Phương thức lồng ghép cũng được thực hiện với một số nội dung giáo dục
cần cập nhật vào chương trình giáo dục phổ thông như giáo dục dân số, giáo dục
môi trường …tuy nhiên giáo dục KNS, phương thức này cũng không nhiều hiệu
quả. Những khó khăn khi thực hiện theo phương thức này là:
- Khó khăn trong việc xác định các môn học để lồng ghép. Những môn học
này phải đảm bảo những yếu tố tương đồng với đặc trưng của giáo dục KNS
(chú trọng thực hành và kinh nghiệm sống của HS; thiết lập hành vi cụ thể …).
- Khó khăn trong việc đảm bảo nội dung giáo dục KNS đã được lồng ghép.
Bởi vì do tính chất lồng ghép, nội dung giáo dục KNS có tính độc lập nhất định
so với nội dung của môn học được sử dụng để lồng ghép, việc khai thác nội
dung giáo dục KNS đến đâu phụ thuộc vào từng giáo viên, thậm chí từng tiết
học của môn học được lồng ghép.
Với những phân tích trên, tác giả cho rằng, cần xác định giáo dục KNS là
mục đích của giáo dục, theo đó, tất cả các môn học, các hoạt động giáo dục
trong nhà trường phải hướng đến giáo dục KNS cho HS. Có như vậy, giáo dục
KNS cho HS mới được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục về cả thời
gian và không gian nhờ đó mà các mục tiêu về giáo dục KNS cho HS mới đạt
được ở mức độ cao. Đây cũng là lí do, tác giả lựa chọn phương thức tích hợp là
phương thức giáo dục KNS cho HS trong trường THPT.
Như vây, theo phạm vi giới hạn của khóa luận, vấn đề giáo dục KNS cho
HS lớp 11 trên địa bàn tỉnh Lào Cai qua môn Địa lí chính là việc thực hiện giáo
dục KNS cho HS theo phương thức tích hợp.