Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm sinh thái của cây củ mài và khả năng nhân giống bằng hom củ trong giai đoạn vườn ươm tại rừng đặc dụng Copia, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.86 MB, 120 trang )


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cây củ mài (Dioscorea persimilis Prainet Burkill), thuộc họ Củ nâu
(Dioscoreaceae) là một trong những loài thực vật thân leo nằm trong danh mục
nhóm lâm sản ngoài gỗ (Nguyễn Hồng Quân, 2006 ) 15. Ngoài ra trong dân
gian cây củ mài còn được biết đến với nhiều cái tên khác nhau như: khoai mài,
sơn dược, mằn chèn, mán dịn, co mằn kép (tiếng dân tộc Thái), mằn ôn (tiếng
dân tộc Nùng), hìa dòi (tiếng dân tộc Dao), gờ lờn (tiếng dân tộc K'dong) củ mài
sau khi chế biến được gọi là hoài sơn. Cây củ mài là loài cây có rễ củ lớn, chứa
nhiều tinh bột, có vị ngọt, ngoài ra các lá non và thân non cây củ mài cũng được
sử dụng như một loại rau rừng (Võ Văn Chi, 1998) 5. Do có vị ngọt và tính
mát, mùi vị rất đặc trưng nên từ nhiều năm nay củ mài được chế biến thành
những mặt hàng thực phẩm đặc sản (bánh củ mài, chè củ mài ) tại một số vùng
miền núi như Chùa Hương, Đền Hùng, Phú Thọ.
Cây củ mài ngoài vai trò chính là nguồn cung cấp lương thực, trong dân
gian củ mài còn được con người nghiên cứu và biết đến với vai trò là một vị
thuốc nằm trong danh mục Dược điển Việt Nam (Đỗ Huy Bích, 2004) 1, (Đỗ
Tất Lợi, 2003) 13.
Khu rừng đặc dụng Copia, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La nằm tại khu
vực miền núi phía Tây Bắc, có diện tích 19467,7 ha, với sự đa dạng về hệ thống
thực vật. Ngoài những lâm sản trực tiếp từ rừng như: gỗ, củi, động vật rừng…thì
khu vực này còn có sự phân bố của nhiều loài lâm sản ngoài gỗ có giá trị, như củ
mài, dây bò khai, sa nhân tím, trám đen. Đây là khu vực có nhiều dân tộc cùng
sinh sống như dân tộc Thái, Hơ’Mông, Xá, Kinh tuy nhiên chủ yếu là cộng đồng
dân tộc Thái là có số lượng đông nhất (với 10.538 nhân khẩu, chiếm 51,7% tổng
dân số toàn khu rừng đặc dụng). Các dân tộc tại đây đã gắn bó từ nhiều đời với
rừng, rừng chính là nguồn nguyên liệu cung cấp trực tiếp hay gián tiếp các nguồn
sống chính của người dân ở đây, họ có một kiến thức bản địa phong phú về sử


2
dụng các loài thực vật làm thực phẩm, làm thuốc, phục vụ các nhu cầu về sinh
hoạt trong đời sống hàng ngày.
Tuy nhiên, do ngày nay đời sống người dân đã được nâng cao, đồng thời
nhu cầu sử dụng các tài nguyên thực vật rừng càng tăng lên như: gỗ và các loài
lâm sản ngoài gỗ đã gây ra những ảnh hưởng rất lớn tới rừng và thảm thực vật
rừng. Hiện trạng khai thác nguồn tài nguyên từ rừng không bền vững đã gây
ra những hậu quả ảnh hưởng nghiêm trọng về môi trường khu vực Copia nói
riêng và môi trường sinh thái toàn khu vực nói chung. Với những hậu quả gây
ra từ việc mất đi rừng đang diễn ra thì việc nghiên cứu để tìm ra các giải pháp
nhằm giảm thiểu sự tác động của người dân tới rừng là một trong những quan
điểm nóng bỏng của tỉnh Sơn La trong việc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên
nhiên quý giá này.
Hiện nay, việc gắn bảo tồn và phát triển lâm sản ngoài gỗ, góp phần vào
việc khôi phục, bảo tồn đa dạng sinh học và nâng cao giá trị kinh tế của rừng là
quan điểm nhất quán của Việt Nam nhất là các khu vực miền núi phía Bắc nơi
đang lưu giữ rừng đầu nguồn.
Việc bảo tồn phát triển lâm sản ngoài gỗ cho các vùng miền núi phía Bắc
là hết sức quan trọng và cần thiết vì các lý do sau: Đây là vùng có nguồn đa dạng
sinh học về lâm sản ngoài gỗ rất phong phú; là vùng cư trú của rất nhiều nhóm
dân tộc bản địa mà cuộc sống của họ phụ thuốc rất nhiều vào tài nguyên rừng;
bản thân họ cũng có những kiến thức bản địa rất đa dạng và phong phú về khai
thác và sử dụng các loại lâm sản ngoài gỗ; vùng có địa hình chia cắt mạnh…Cho
nên vai trò đầu nguồn của thảm rừng rất cần được bảo vệ và phát triển.
Một số định hướng về phát triển rừng đã được xây dựng nhằm bảo vệ và
phát triển rừng như ―(ICARD-14/6/2007). Theo Cục Lâm nghiệp (2007) 8:
Việt Nam phấn đấu đến năm 2020 đưa lâm sản ngoài gỗ trở thành một phân
ngành sản xuất trong lâm nghiệp, đạt giá trị xuất khẩu từ 700-800 triệu USD,
chiếm hơn 20% giá trị sản xuất lâm nghiệp; đồng thời tạo việc làm ổn định
cho 1,5 triệu lao động nông thôn miền núi vào việc thu hái, sản xuất kinh

doanh lâm sản ngoài gỗ‖.

3
Trong ―Đề án về bảo tồn và phát triển lâm sản ngoài gỗ giai đoạn 2006-
2020‖ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm (2006) 3. Với nội dung ưu
tiên phát triển các lâm sản ngoài gỗ trong đó việc nhân giống và gây trồng cây củ
mài được xây dựng ở cả khu vực đồng bằng và miền núi phái Bắc, nhằm tăng
thêm thu nhập cho người nông dân đồng thời góp phần bảo tồn các loài lâm sản
ngoài gỗ và bảo về môi trường rừng.
Cây củ mài được người dân địa phương biết đến và sử dụng từ rất lâu đời,
tuy nhiên một hiện trạng ở khu vực nghiên cứu là chưa có một phương pháp hay
một mô hình nghiên cứu nào về loài cây này tại khu vực, người dân khai thác cây
củ mài từ tự nhiên, với mục đích làm thực phẩm ăn ngoài là chính còn thu hoạch
về làm thuốc chỉ chiếm một số lượng ít. Việc nghiên cứu gây trồng củ mài còn
chưa được chú ý đúng mức chỉ mang tính tự phát và thu hái tự nhiên. Vì vậy,
không có những biện pháp nhân giống để gây trồng cũng như bảo tồn, phát triển
thì loài cây này sẽ ngày càng bị suy thoái, đồng thời cũng góp phần làm tăng
thêm thu nhập kinh tế cho nhân dân địa phương.
Việc nghiên cứu các phương pháp bảo tồn và phát triển lâm sản ngoài gỗ
nói chung và củ mài nói riêng là một trong những vấn đề thu hút được mối quan
tâm của nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Hướng nghiên cứu bảo tồn
loài cây này tại địa phương cũng phù hợp với định hướng về phát triển các loại
lâm sản ngoài gỗ theo chủ trương của nước ta.
Với mục tiêu đó, nhằm tìm hiểu đặc điểm phân bố tự nhiên của củ mài và
nghiên cứu phương pháp nhân giống, chăm sóc, nhằm góp phần vào bảo tồn và
gìn giữ sự đa dạng thảm thực vật, đồng thời nâng cao thu nhập kinh tế cho người
dân khu vực Tây Bắc giảm bớt sự lệ thuộc vào rừng. Tôi tiến hành thực hiện đề
tài “Nghiên cứu một số đặc điểm sinh thái của cây củ mài và khả năng nhân
giống bằng hom củ trong giai đoạn vườn ươm tại rừng đặc dụng Copia,
huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La” .

Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở quan trọng trong việc đề xuất
các biện pháp kỹ thuật nhân giống phù hợp, hiệu quả đối với việc gây trồng cũng
như các biện pháp bảo tồn tại chỗ và chuyển chỗ đối với cây củ mài.

4
2. Mục đích.
Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái, giải phẫu và khả năng sinh trưởng
của cây củ mài trong giai đoạn vườn ươm trên địa bàn rừng đặc dụng Copia
nhằm cung cấp cơ sở khoa học bảo tồn và phát triển loài cây củ mài, góp phần
bảo vệ hệ sinh thái rừng đặc dụng Copia.
3. Nhiệm vụ.
- Xác định được các đặc điểm về hình thái, giải phẫu các cơ quan sinh
dưỡng (thân, rễ) cây củ mài nhằm rút ra các nhận xét về những đặc điểm thích
nghi của loài cây này với môi trường sống tại khu vực rừng đặc dụng Copia.
- Xác định được các đặc điểm sinh thái cây củ mài ngoài tự nhiên: mùa
vụ, đặc điểm sinh trưởng và phát triển ngoài tự nhiên, khu vực phân bố…
- Xác định khả năng nhân giống cây củ mài bằng phương pháp nhân giống từ
hom củ và nghiên cứu các đặc điểm sinh trưởng của hom giống trong giai đoạn vườn
ươm tại Trung tâm thực nghiệm Nông – Lâm, trường Đại học Tây Bắc.
4. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái, giải phẫu cây củ mài thích nghi
với môi trường sống trong tự nhiên
- Tìm hiểu một số kiến thức bản địa của người dân địa phương về sử dụng,
gây trồng và phát triển loài cây củ mài.
- Nghiên cứu khả năng nhân giống cây củ mài từ củ và các đặc điểm sinh
trưởng của hom giống trong giai đoạn vườn ươm.
- Đề xuất một số giải pháp quản lí và bảo tồn loài cây củ mài tại khu vực
nghiên cứu rừng đặc dụng Copia.








5
CHƢƠNG I
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Tổng quan tài liệu về nghiên cứu và sử dụng cây củ mài
1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây củ mài ở Việt Nam
*) Nghiên cứu về đặc điểm hình thái giải phẫu cây củ mài
Trong cuốn sách ―Cây thuốc và vị làm thuốc Việt Nam‖ Đỗ Tất Lợi đã mô
tả về đặc điểm hình thái cây củ mài (Đỗ Tất Lợi, 2004) 13. Cây củ mài là loài
dây leo sống lâu năm trong rừng nhiệt đới có thân nhẵn, hơi góc cạnh, màu hồng
đỏ. Rễ ăn sâu hơi phình phía gốc, vỏ ngoài màu nâu xám, thịt mềm màu trắng. Lá
mọc so le mọc đối hay hình tim dài 10cm, cụm hoa đơn tính. Quả nang, hạt có
mào thích nghi với lối thụ phấn nhờ gió. Năm 2011 sau cuộc thi Chương trình
sáng tạo Việt Nam ―Viet nam Innovation Day 2011- VID, 2011‖ (Traphaco,
2012) 30 công ty cổ phần Traphaco được nhận tài trợ của Ngân hàng thế giới
với đề án ― Xây dựng bộ nhận diện củ mài (Dioscorea persimilis) và vị thuốc
hoài sơn (Tuber Dicoscorea per similis). Hiện nay công ty vẫn đang tiến hành
nghiên cứu về loài cây củ mài: phương pháp trồng, thu hoạch và chủ yếu là
nghiên cứu phương pháp chế biến củ mài thành những vị thuốc. Trong dự án hợp
tác kỹ thuật ―Dự án nâng cao năng lực nghiên cứu trường Đại học Tây Bắc hợp
tác với tổ chức JACA Nhật Bản‖ có một hợp phần nghiên cứu về ―Giải pháp kỹ
thuật nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế cây củ mài tại khu vực đèo Pha Đin tỉnh
Sơn La‖ đang tiến hành nghiên cứu về các đặc điểm hình thái nhận dạng cây củ
mài cũng như nghiên cứu về biện pháp gây trồng loài cây này trên thực địa (Đại
học Tây Bắc, 2012) 27.
Ngoài các nghiên cứu của các tác giả trên còn có nghiên cứu khác về hình

thái, giải phẫu thực vật như: Đỗ Thị Lan Hương (2004) 11 đã tiến hành nghiên
cứu đặc điểm hình thái và cấu tạo giải phẫu thích nghi với chức năng của một số
cây trong 3 họ bầu bí, củ nâu, khoai lang. Trong nghiên cứu đã đề cập về hình
thái giải phẫu của thân, lá, rễ và củ cây củ mài và một số loài cây có củ thuộc họ
Củ Nâu (củ từ năm lá, củ từ lông ).

6
*) Nghiên cứu về nhân giống và gây trồng cây củ mài
Giâm hom là một phương pháp nhân giống sinh dưỡng sử dụng thân cây
(bao gồm các dạng thân như thân củ, thân rễ, thân cành), cành và lá, rễ cây để tạo
ra cây mới gọi là cây hom. Cây hom có đặc tính di truyền giống như cây mẹ.
Nhân giống bằng hom có hệ số nhân giống lớn, giữ được đặc tính tốt của
cây mẹ và tương đối rẻ tiền nên được sử dụng rộng rãi trong nhân giống cây
trồng, cây cảnh và cây ăn quả. Rễ bất định là rễ sinh ra ở bất kỳ bộ phận nào của
cây ngoài hệ rễ của nó. Có hai loại rễ bất định là rễ tiềm ẩn và rễ mới sinh. Rễ
tiềm ẩn là rễ có nguồn gốc tự nhiên trong thân, cành nhưng chỉ phát triển khi
đoạn thân hoặc cành đó tách rời khỏi cây, còn rễ mới sinh được hình thành khi
cắt hom và là hậu quả của của phản ứng với vết cắt (Phạm Đức Tuấn, 2010) 21.
Khi hom bị cắt, các tế bào sống ở vết cắt bị tổn thương và các tế bào dẫn
truyền đã chết của mô gỗ được hở ra và gián đoạn, sau đó, quá trình tái sinh sẽ
diễn ra theo các bước là các tế bào mặt ngoài chết, hình thành lớp bao bọc, mạch
gỗ được đậy lại bằng lớp keo để mặt cắt khỏi bị thoát nước. Sau đó, các tế bào
bên trong phân chia và hình thành lớp mô mềm. Các tế bào ở vùng lân cận của
tượng tầng mạch và libe bắt đầu hình thành rễ bất định. Các rễ này thường được
hình thành bên cạnh và sát ngoài lõi trung tâm của mô mạch và ăn sâu vào trong
thân tới gần ống sát bên ngoài tượng tầng (Phạm Đức Tuấn, 2010) 21.
Nhìn chung, với việc giâm hom từ thân, cành, củ để hom hình thành một
bộ rễ mới là vấn đề quan trọng nhất. Tuy nhiên, có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng
đến tỷ lệ ra rễ, chồi (tuổi hom, thời vụ giâm hom, giá thể cắm hom hay đặc điểm
loài) (Phạm Đức Tuấn, 2010) 21.

Đa phần các nghiên cứu về gây trồng mới chỉ được nghiên cứu sơ lược về
cách nhân giống và gây trồng sản xuất nhằm phục vụ mục đích sử dụng củ để
làm thuốc, ít có những nghiên cứu về vai trò làm thực phẩm của cây củ mài.
Theo nghiên cứu của ―Trung tâm nghiên cứu khoa học nông vận‖ (Trung
tâm Nghiên cứu khoa học nông vận, 2013) 31 củ mài thích hợp với những nơi
có độ ẩm không khí 82-85%, sinh trưởng mạnh trên các dạng đất rừng còn tương
đối tốt, hàm lượng mùn và đạm khá cao, đất giàu kali dễ tiêu, có thành phần cơ

7
giới thịt - thịt nặng, tầng đất dày, không hoặc ít đá lẫn. Đất gần như đủ ẩm quanh
năm, xốp, thấm nước nhanh, khả năng giữ giữ nước cao, thoát nước tốt, không bị
úng. Nhân giống cây củ mài bằng phương pháp sinh dưỡng: Sử dụng củ con hay
gốc rễ, mật độ trồng: 2x2 m, 2.500 cây/ha. Kích thước hố là 40 x 40 x 40.
Trung tâm ứng dụng khoa học- công nghệ tỉnh Bình Dương (Trung tâm
ứng dụng khoa học- công nghệ tỉnh Bình Dương, 2012) 32 đã tiến hành triển
khai mô hình trồng củ mài trên đất dốc. Theo trung tâm cây củ mài ở giai đoạn
nhỏ, có khả năng chịu bóng, do đó nó có thể tái sinh tự nhiên dưới tán rừng tự
nhiên thứ sinh có độ tán che 0,3-0,5%. Sau đó, nhu cầu ánh sáng tăng dần, trở
thành loài cây có nhu cầu ánh sáng tương đối cao nên cây củ mài phải nhờ các
cây gỗ xung quanh để leo lên tầng trên cua tán rừng, nơi có đầy đủ ánh sáng hơn.
Cây củ mài là loài cây ưa ẩm, không chịu được úng nước và khả năng chịu hạn
kém. Cây có nhu cầu tương đối cao về các chất khoáng dinh dưỡng N, P, K, đặc
biệt là đạm và kali. Theo nghiên cứu của trung tâm cây củ mài được trồng vào
mùa xuân, lúc khí hậu băt đầu ấm và ẩm hơn và sử dụng các đầu rễ củ làm giống
(rễ củ), mật độ trồng: 2x2m – 2500 cây/ha. Cây củ mài được trồng trong hố với
kích thước hố là 40x40x40cm.
Sau khi trồng hai tháng tháng, khu vực trồng cây củ mài thường có nhiều
cỏ mọc, cần tiến hành phát quang, làm cỏ, xới gốc cho cây. Hàng năm chăm sóc
cây củ mài 3 lần vào tháng 4, tháng 7 và tháng 10. Khi cây củ mài dài khoảng 20-
25 cm tiến hành cắm các giá thể leo cho cây củ mài leo lên (cành cây khô, làm

giàn tre…). Sau cùng là vắt dây củ mài vào thân các cây gỗ hoặc cây ăn quả thân
gỗ kề bên, để dây leo cao lên tầng trên của tán rừng hoặc vườn quả. Cây củ mài
sinh trưởng năm là cho củ, thu hoạch củ vào vụ thu khi cây đã lụi hết thân và lá.
Vào năm 2011 trường Đại học Tây Bắc đã tiến hành 11 nghiên cứu trong
lĩnh vực Nông – Lâm nghiệp thuộc dự án hợp tác quốc tế giữa trường Đại học
Tây Bắc và tổ chức JICA của Nhật Bản trong đó có một nghiên cứu về cây củ
mài về lĩnh vực nhận dạng và gây trồng cây củ mài ngoài thực địa. Dự án đang
trong quá trình nghiên cứu về sự sinh trưởng và phát triển của cây củ mài ngoài
tự nhiên tại Đèo Pha Đin, tỉnh Sơn La. Bước đầu nhóm xây dựng được quy trình

8
nhân giống cây củ mài từ các bộ phận sinh dưỡng của cây và đã đạt được một số
kết quả khả quan về vấn đề nhân giống cây củ mài như sau:

Hình 1.1: Các phương pháp nhân giống từ thân, củ, hạt cây củ mài
Nhân giống bằng thân củ: Nghiên cứu phương pháp nhân giống từ các lát
cắt nhỏ hơn nhằm giảm thiểu việc lãng phí và tốn nguyên liệu. Tỷ lệ sống của
hom giống đạt mức cao từ 97-99%.
Nhân giống bằng hạt: Tiến hành nghiên cứu việc nhân giống củ mài từ hạt
(tỷ lệ hạt nảy mầm rất cao đạt đến 98% tuy nhiên cây rất nhỏ và yếu, khi cây ra
bầu thì tỷ lệ sống chỉ có 2%).
Nhân giống bằng thân: Việc tiến hành nhân giống từ thân cũng gặp rất
nhiều khó khăn do không đúng thời vụ (việc bảo quản thân rất khó) và tỷ lệ sống
của việc nhân giống củ mài từ thân là 0% .
*) Nghiên cứu ứng dụng củ mài trong y học
Các công trình nghiên cứu cơ bản về loài cây củ mài là rất ít chủ yếu là
những nghiên cứu về công dụng làm thuốc từ củ mài (Viện Dược liệu, hay các
danh y như Đỗ Tất Lợi….) hoặc chỉ lồng ghép mô tả trong các chương trình về
lâm sản ngoài gỗ và các dự án nghiên cứu về gây trồng, phát triển đã và đang
diễn ra như Công ty cổ phần Traphaco đã được nhận tài trợ của Ngân hàng thế

giới với đề án (Traphaco, 2011) 30.
Từ rất lâu đời cây củ mài đã được các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực y học viết
lên những cuốn sách cẩm nang về vai trò của củ mài trong việc chữa bệnh cho con
người. Theo tài liệu y học cổ: Sách Bản thảo cương mục: " hoài sơn ích thận khí, kiện
tỳ vị, cầm tả lî, hóa đờm diện, nhuận bì mao (Lý Thời Trân, 1963) 20.

9
Theo phân tích của Viện Dược liệu Việt Nam (2011) 33 trong rễ củ của cây
củ mài khô có chứa một số thành phần dinh dưỡng như: gluxit 63,25%, protit 6,75%,
lipit 0,45%, chất nhầy 2,0 – 2,8%, dioscin sapotoxin, allantoin, dioscorin và các axit
amin, mucin là một loại protein nhớt và một số chất khác như allantion, cholin,
arginin, men maltose, saponin có nhân sterol. Viên đã có một số nghiên cứu tác dụng
dược lý của củ mài trên cơ thể sống (chuột) thông qua các chỉ tiêu như tăng thân
trọng, tăng sự đồng hóa và tác dụng nội tiết hướng sinh dục….
Theo danh y Đỗ Tất Lợi (2004) 13 chất mucin trong củ mài hòa tan
trong nước ở điều kiện axit và nhiệt độ thích hợp sẽ phân giải thành chất protid
và hydrat carbon. Ở nhiệt độ 45 – 55 độ C, khả năng thủy phân chất đường của
men trong củ mài rất cao, trong axit loãng trong 3 giờ có thể tiêu hóa 5 lần lượng
đường có vai trò rất quan trọng trong việc chữa bệnh tiểu đường ở con người. Củ
mài với công năng kiện tỳ, chỉ tả, bổ phế khí, ích thận, cố tinh, giải độc, được
dùng trong các trường hợp tỳ vị hư nhược, ăn uống kém tiêu, tiêu chảy hoặc trẻ
em bị vàng da, bụng ỏng, mắt mũi nhoèn gỉ mà y học cổ truyền gọi là ―bệnh
cam‖, có thể phối hợp với các vị thuốc kiện tỳ: bạch truật, hoàng kỳ, bạch biển
đậu… hoặc trong trường hợp khí phế hư nhược, đoản hơi, mệt mỏi, ho khan,
phối hợp với đảng sâm, cát cánh, bách bộ Còn dùng khi thận hư, mộng tinh, di
tinh, tiểu tiện không cầm, phụ nữ bạch đới, phối hợp với ba kích, kim anh, khiếm
thực…, đái tháo đường, phối hợp với mạch môn, thiên hoa phấn, sinh địa…
Dùng ngoài, trị viêm tuyến vú gây đau đớn: củ mài tươi, rửa sạch, giã nát, đắp
vào chỗ sưng đau, cách dùng vị hoài sơn là rất phong phú và đa dạng.
Đề tài ―Chế biến tinh bột củ mài hỗ trợ điều trị bệnh nhân đái tháo đường

týp 2‖ (Hải Lan, 2011) 29 do Trần Hữu Dũng Trường Đại học Y Dược Huế
cùng cộng sự được thực hiện từ tháng 3- 2011 đến tháng 9- 2012 nhằm nghiên
cứu về các đặc tính lý hóa, cấu trúc và thành phần của tinh bột củ mài. Theo Trần
Hữu Dũng thông qua nghiên cứu lâm sàng trên 60 người tình nguyện bị đái tháo
đường týp 2 (được cho ăn các khẩu phần bánh chế biến từ nguyên liệu tinh bột củ
mài theo một cách xác định), bước đầu đã chứng minh được rằng, khẩu phần
bánh tạo ra có thể sử dụng để hỗ trợ điều trị bệnh đái tháo đường một cách hiệu
quả.

10
Ngoài ra theo Đông dược (2012) 28. Củ mài được sử dụng trong các bài
thuốc chữa bệnh như: Ngày dùng 12-24g sắc nước uống, thường dùng phối hợp
với các vị thuốc khác. Một số bài thuốc thường dùng:
1. Chữa trẻ em gầy yếu, nhác ăn, phụ nữ có mang mỏi mệt chán cơm hay
người có bệnh đái đường gầy róc, dùng hoài sơn thái miếng đồ lên, sao già tán
bột, uống mỗi lần 6-10g; ngày uống 2-3 lần vào giữa buổi lúc đói hoặc dùng củ
mài luộc ăn.
2. Chữa trẻ em ỉa chảy kéo dài hoặc ỉa phân nhầy có mùi, lỵ mạn tính, phụ
nữ bạch đới, nam giới di tinh, đau lưng suy yếu; dùng hoài sơn 200g, củ súng, hạt
sen, ý dĩ sao đều 100g, sấy khô tán bột uống mỗi ngày 20g với nước cơm.
3. Thuốc bổ dưỡng: hoài sơn, quả tơ hồng, hà thủ ô, huyết giác, đỗ đen
sao cháy mỗi loại 1kg, vừng đen 300g, ngải cứu 200g, gạo nếp rang 100g,
muối rang 5g, tán bột, làm viên, uống mỗi ngày 10-20g (viên Kiến thiết của
Hợp tác xã Hợp).
1.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng củ mài trên thế giới
Theo tài liệu Trung Quốc, trong thành phần cây củ mài có hàm lượng chất
dinh dưỡng gồm: chất bột 16%, chất nhầy, cholin, 16 axit amin, các men oxy
hoá, vitamin C. Trong chất nhày có axit phytic.Trong củ có nhiều loại nguyên tố
vi lượng và số lượng tuỳ theo địa điểm cây mọc khác nhau. Ngoài ra, còn có d -
abscicin và dopamin (Y học cổ truyền, 1997) 25.

Trong cuốn Từ điển bách khoa về phương thuốc cổ truyền Trung Quốc,
(1997) (bản dịch) 25  đã nêu vai trò của rất nhiều các loại mộc thảo trong lĩnh
vực y học dân gian cũng như y học hiện đại. Cây củ mài được biết đến với các
phương thuốc chữa các bệnh về đường tiêu hóa hoặc kết hợp với các vị thuốc
thảo mộc khác chữa được dùng để chữa bệnh.
Cây củ mài phân bố rất nhiều ở Trung Quốc nhất là những vùng đồi núi hoặc
các vùng ven chân núi. Theo kinh nghiệm dân gian người dân thường đi đào củ mài
về để chế biến thành các món ăn (trộn cơm, nấu canh, làm súp….). Ngoài ra củ mài
(sau khi chế biến được gọi là hoài sơn) còn được sử dụng sấy khô để làm thuốc bắc.

11
Nhật Bản: Một số trường đại học ở Nhật đã nghiên cứu và phân loại các
cây trong họ Củ Nâu. Các sản phẩm đó cũng đã được đưa vào sử dụng trong cuộc
sống. Nghiên cứu về thời gian ngủ nghỉ và tác động của các hóa chất sinh trưởng.
Ảnh hưởng của điều kiện dinh dưỡng tới sự sinh trưởng và phát triển của cây củ
mài (Onjo M., 2003)26.
Người dân Nhật Bản sử dụng củ mài để làm thực phẩm ăn tươi phục vụ
cho đời sống ẩm thực như lấy chất nhầy, trộn thêm các thức ăn khác: tương,
trứng sống, cơm… Ngoài ra củ mài còn được chế biến làm sạch đóng gói và bảo
quản lạnh thành các sản phẩm để bán trong các siêu thị, nhà hàng.

Hình 1.2: Củ mài tại Nhật Bản (Siêu thị tại thành phố Isahaya ngày 30/10/2012)
Từ những nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam cho thấy những nghiên
cứu mới chỉ tập trung chủ yếu vào nghiên cứu tác dụng của cây củ mài vào lĩnh
vực y học, chứ chưa đi sâu vào những nghiên cứu cơ bản về loài cây này, nghiên
cứu mới chỉ mang tính mô phỏng về hình thái. Hiện nay ở Việt Nam có rất ít các
công trình nghiên cứu chuyên sâu về phương pháp nhân giống từ hom và
phương thức gây trồng loài cây này, đặc biệt tại khu vực nghiên cứu.
1.3. Tình hình nghiên cứu kiến thức bản địa ở Việt Nam
Việt Nam với diện tích 3/4 là đồi núi, với cơ cấu sản xuất nông nghiệp

chiếm chủ yếu nên các cộng đồng dân tộc nước ta có truyền thống và vốn kiến
thức ngàn đời về sản xuất nông nghiệp và quản lý tài nguyên. Cộng đồng 54 dân
tộc khắp mọi miền đất nước đang sở hữu kho tàng vô cùng phong phú và đồ sộ
về các kiến thức bản địa trong sản xuất nông lâm nghiệp. Trước đây, những kiến

12
thức này ít được quan tâm nhưng đến hiện nay các dự án cũng như những nghiên
cứu về kiến thức bản địa đang được chú trọng trong chiến lược phát triển nông
thôn.
Theo Viện khoa học Lâm nghiệp Việt Nam (1998) 23 đã khẳng định
nghiên cứu kiến thức bản địa là một yếu tố rất quan trọng trong công tác bảo vệ,
phát triển nguồn tài nguyên rừng. Viện khoa học Lâm nghiệm cũng đã rất chú
trọng việc phát triển các loài lâm sản ngoài gỗ dưới tán rừng dựa trên những kiến
thức bản địa của người dân nhằm tăng thu nhập kinh tế cũng như giảm áp lực tác
động tới rừng của người dân.
Theo Lê Trọng Cúc (1996) [7] thì kiến thức bản địa là kiến thức được sử
dụng trong cuộc sống bởi những người dân địa phương. Các kỹ thuật truyền
thống này có khả năng thích ứng cao với điều kiện môi trường tự nhiên cũng như
tập quán xã hội. Việc gắn kết kiến thức bản địa với kỹ thuật hiện đại là phương
pháp tốt nhất để ứng dụng khoa học kỹ thuật mới vào nông thôn và miền núi.
Ngoài ra, kiến thức bản địa còn là nguồn ý tưởng ban đầu cho các công trình
nghiên cứu khoa học, kỹ thuật trong tương lai.
Hai phương pháp điều tra chính mà các nhà khoa học Việt Nam cũng như
quốc tế thường áp dụng khi tiến hành điều tra về kiến thức bản địa là PRA
(PRA: Prarticipatory Rural Appraisal phương pháp đánh giá nông thôn có sự
tham gia của người dân) và RRA (Rural Rapid Appraisal phương pháp đánh giá
nhanh nông thôn RRA). Tác giả Lê Trọng Cúc (1996) [7] đã chỉ ra rằng, đối với
miền núi, việc áp dụng hai phương pháp trên có những hạn chế nhất định. Phần
lớn các đoàn điều tra đều gặp khó khăn về ngôn ngữ và hạn chế về trình độ hiểu
biết cũng như khả năng trao đổi của đồng bào dân tộc ít người. Tác giả cũng đề

nghị phương pháp điều tra về cơ bản vẫn áp dụng PRA và RRA, tuy nhiên cần
tăng cường quan sát nhiều hơn khi phỏng vấn.
Ở Việt Nam có rất nhiều cộng đồng có các luật tục liên quan đến quản lý
bảo tồn các nguồn tài nguyên. Theo Ngô Đức Thịnh (2001) [17] thì luật tục là
một hình thức của kiến thức bản địa. Nó được hình thành trong quá trình lịch sử
lâu dài, qua kinh nghiệm ứng xử với môi trường và xã hội. Chính vì vậy, các luật

13
tục này thường chứa đựng một kho tàng tri thức vô cùng phong phú của các tộc
người về môi trường tự nhiên và tài nguyên nơi mà họ sinh sống. Luật tục xác
định các quan hệ sở hữu đối với nguồn tài nguyên thiên nhiên, những tri thức dân
gian về quản lý bảo vệ nguồn tài nguyên
Ngoài ra, kiến thức bản địa luôn gắn với văn hoá của từng cộng đồng,
từng địa phương. Do vậy, nếu kiến thức bản địa được đánh giá đúng và được tôn
trọng sẽ góp phần bảo tồn văn hoá truyền thống của các dân tộc Việt Nam.
Hiểu được tầm quan trọng của tri thức bản địa, trong đời sống bà con các
dân tộc, đặc biệt là bà con dân tộc thiểu số miền núi, cho đến nay đã có rất nhiều
chương trình lớn có gắn kết nghiên cứu về kiến thức bản địa ở hầu khắp các địa
phương. Một số nghiên cứu của các tác giả chủ yếu về tìm hiểu những luật tục và
những kinh nghiệm của một số cộng đồng dân tộc thiểu số, điều tra đánh giá và
kiến thức bản địa trong việc sử dụng, quản lý tài nguyên thiên nhiên (về lâm sản
ngoài gỗ, sử dụng gỗ củi, cây thuốc, bảo vệ rừng, hệ thống canh tác…).
Phương pháp nghiên cứu: lựa chọn đối tượng nghiên cứu, phỏng vấn,
phân tích SWOT, các dạng ma trận, sơ đồ, biểu đồ (VENN, Chappati…), tư
liệu hoá các thông tin thu được (Lê Trọng Cúc,1996) [7], (Ngô Đức Thịnh,
2001)[17].
Có thể thấy, việc nghiên cứu sâu rộng về vấn đề kiến thức bản địa ở Việt
Nam hiện nay còn hạn chế. Các nghiên cứu mới chỉ được tiến hành lồng ghép
trong các dự án, chương trình khác hoặc là những nghiên cứu nhỏ lẻ ở từng đề tài
của các cá nhân. Phạm vi nghiên cứu chỉ chủ yếu trong những kiến thức nông

nghiệp về trồng trọt, chăn nuôi, quản lý tài nguyên. Các kết quả mới mang tính
thống kê mà chưa phân tích sâu và nhiều chiều cũng như tư liệu hoá các thông tin
thu được thành một hệ thống.
Do vậy cần có những nghiên cứu sâu hơn nữa về kiến thức bản địa góp
phần nâng cao hiệu quả sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên nói
chung và các loại lâm sản nói riêng. Đây là những vấn đề đặc thù cần tập trung
giải quyết của khu vực miền núi phía Bắc cũng như của khu vực nghiên cứu.

14
Một phần nội dung đề tài này tiến hành nghiên cứu kiến thức bản địa
của người dân tộc địa phương về gây trồng, sử dụng, khai thác cây củ mài -
một loại lâm sản ngoài gỗ có tiềm năng tại rừng đặc dụng Copia huyện Thuận
Châu, tỉnh Sơn La. Đây là vấn đề nghiên cứu mới tại địa phương, lại mang
những nét đặc trưng riêng nên tìm hiểu kiến thức bản địa về loài cây này, đề
tài lựa chọn phương pháp chính là PRA với công cụ là phỏng vấn, kết hợp với
quan sát, khảo sát cùng người dân trong quá trình sử dụng hàng ngày tại gia
đình, quá trình khai thác trong rừng và thu thập thêm thông tin tại các chợ địa
phương nơi có bán loại củ này.



















15
CHƢƠNG II
THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM, ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Thời gian nghiên cứu
- Từ tháng 3-4 tiến hành nghiên cứu nhân giống củ mài trong vườn ươm
tại Trung tâm thực nghiệm Nông – Lâm trường Đại học Tây Bắc.
- Tháng 5-6 nghiên cứu khảo sát, nghiên cứu ngoài thực địa
2.2. Địa điểm nghiên cứu
Rừng đặc dụng Copia huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La.

Hình 2.1: Bản đồ địa lí rừng đặc dụng Copia

2.2.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý:
Ngày 11/11/2002, UBND tỉnh Sơn La có quyết định: Số 3440/2002 QĐ –
UBND về việc thành lập BQL bảo tồn thiên nhiên Côpia thuộc chi cục kiểm lâm
Sơn La; và ngày 14/7/2008, UBND tỉnh Sơn La có quyết định: Số 1723/2008 QĐ
– UBND về việc đổi tên Ban quản lí bảo tồn thiên nhiên Côpia thành Ban quản lí
rừng đặc dụng Côpia

16
Rừng đặc dụng Copia nằm phía Tây Bắc tỉnh Sơn La, cách Thị xã Sơn La
54 km và cách thị trấn huyện Thuận Châu 20 km, thuộc địa phận của huyện

Thuận Châu và diện tích trải rộng trên 4 xã: Chiềng Bôm, Co Mạ, Long Hẹ và
Nậm Lầu.
Phía Bắc giáp tiểu khu 245a, tiểu khu 242 xã Long Hẹ và Tiểu khu 234
thuộc xã Chiềng Bôm
Phía Nam giáp xã Chiềng Phung, xã Nậm Ty, huyện Sông Mã
Phía Đông giáp xã Púng Tra và Tiểu khu (TK) 256, TK 265, TK 276, TK
280, TK 279 thuộc xã Nậm Lầu.
Phía Tây và Tây Nam giáp TK 246, TK 259, TK 271 thuộc xã Co Mạ.
Toạ độ địa lý:
+ 21
0
17' 30" - 21
0
25' 54" độ vĩ Bắc
+ 103
0
32' 00" - 103
0
44' 00" độ kinh Đông
Nguồn: (Chi cục kiểm lâm tỉnh Sơn La, 2002) [6].
- Diện tích của rừng đặc dụng:
Khu rừng đặc dụng Copia có 18 tiểu khu với diện tích 19.467,7 ha nằm
trên 4 xã (Xã Co Mạ 270,5 ha; Xã Chiềng Bôm 4.496,4 ha; Xã Long Hẹ 811 ha;
Xã Nậm Lầu 7.889,8 ha). Với diện tích rộng như vậy rất thuận lợi cho việc tận
dụng các diện tích ít sử dụng (trên núi đá, dưới tán rừng, ven rừng ) trồng các
loài lâm sản ngoài gỗ nhằm tăng sinh kế cho người dân địa phương (Chi cục
kiểm lâm tỉnh Sơn La, 2002) [6].
- Địa hình, địa thế:
Theo phân vùng địa lý tự nhiên, rừng đặc dụng Copia chủ yếu là địa hình
xâm thực. Khu vực có nhiều giông núi có độ cao trên 1000 m so với mực nước biển,

hình thành nên những vòng cung, lấy đường giông chính gồm nhiều đỉnh núi có độ
cao trên 1500m. Độ cao so với mức nước biển biến động từ 500 m, 600 m đến 1.800
m, nơi cao nhất là đỉnh Pu Sam Sẩu 1.821 m và đỉnh Copia 1.816,8 m.
Địa hình khu vực nghiên cứu chia cắt mạnh do các dông núi phụ, các khe
suối chạy từ trên các đỉnh cao xuống, tạo thành thung lũng sâu, sườn núi dốc, độ

17
dốc trung bình 25
0
đến 30
0
nhiều nơi có độ dốc trên 35
0
. Hệ giông chính đã tạo
nên 2 phần của khu bảo tồn có đặc điểm địa hình và hướng giông núi chạy có sự
khác nhau. Tạo cho rừng đặc dụng Copia có hai vùng Tây Bắc và Đông Nam của
hướng giông chính từ phía Tây Nam chạy Đông Bắc.
Nhìn chung địa hình khu nghiên cứu thuộc loại địa hình vùng núi cao, có
độ chênh cao trên 1000m, càng đi về phía trung tâm khu nghiên cứu càng cao và
độ dốc càng lớn, nhiều núi cao, thung lũng sâu, sườn núi dốc.
- Thổ nhưỡng:
Với quá trình hình thành đất và địa chất trong khu rừng đặc dụng Copia và kết
quả điều tra khảo sát của các chuyên gia lập địa, ở Copia bước đầu tìm hiểu có thể
phân ra các loại đất chính sau: (Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La, 2002) [22].
Đất mùn vàng xám: phân bố từ độ cao 1500 – 2000m so với mặt nước
biển . Đất tầng A thường có độ dày trên 1m, độ dốc khá lớn >35
0
, độ phì của đất
còn khá cao.
Đất Feralit mùn có màu vàng gạch cua nhạt trên độ cao 1000m – 1500m

so với mặt nước biển, tập trung loại đất này phần lớn thuộc dãy núi ở phía Đông
Nam của giông chính.
Đất Feralit vàng nâu trên đất sét và đá biến chất nằm ở độ cao 1200m –
1500m, độ dày tầng A trên 1m, thuộc dãy núi 9 đỉnh: Huổi Viếng, Huổi Nhộp, độ
phì của đất còn tương đối tốt, độ dốc mặt đất 30
0
– 35
0
.
Đất Feralit biến chất do canh tác nương rẫy hoặc bồi tụ ven suối, đất tầng A có
độ dày trên 1m, độ dốc mặt đất trung bình nhỏ hơn 25
0
, cục bộ có nơi độ dốc nhỏ hơn
15
0
. Đất tốt, dinh dưỡng khá, có nhiều khả năng tái sinh rừng tự nhiên.
Đánh giá chung các loại đất ở khu rừng đặc dụng Copia: Nhìn chung đất
trong khu vực là đất thịt tới sét nhẹ, tơi, xốp, có độ ẩm cao nơi còn rừng, đối với
những khu vực đất dốc đất dễ bị khô cứng nơi mất rừng do sự rửa trôi tầng mặt
của nước, đất có thành phần cơ giới từ nhẹ đến trung bình, kết cấu viên nhỏ và có
độ mùn từ trung bình đến khá, còn tính chất đất rừng rất thuận lợi cho quá trình
phát triển các loài lâm sản ngoài gỗ dưới tán rừng. Có vai trò rất quan trọng trong
việc bảo vệ thảm thực vật rừng khu vực có địa hình đất dốc như ở Copia.

18
- Khí hậu:
Khu rừng đặc dụng Copia khí hậu mang tính chất chung của khu Tây Bắc
(Nhiệt đới gió mùa) và có các đặc trưng cơ bản:
Một năm có hai mùa: Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 - 9, mùa khô từ tháng
10 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa bình quân năm 1500 - 1600mm/năm, mưa

tập trung từ tháng 6 đến tháng 8 (chiếm 70% cả năm). Lượng mưa trung bình lớn
tập trung trong 2 tháng nên thời gian này khu vực hay bị lũ quét và sạt lở đất do
mưa lũ. Còn ngoài tháng 6- 8 hàng năm thì khu vực thường hay gặp hạn hán và
nước cung cấp phục vụ cho người dân cũng rất ít. Sản xuất nông nghiệp cũng gặp
rất nhiều những khó khăn và thời gian này cũng hay xảy ra các vụ cháy rừng do
khí hậu khô.
Nhiệt độ: Nhiệt độ tối cao bình quân 32
0
C; Nhiệt độ tối thấp bình quân
14
0
C; Nhiệt độ trung bình cả năm 19
0
C. Ẩm độ tối cao 90%; Ẩm độ tối thấp
70%; Ẩm độ trung bình 85%. Do khu vực này có ẩm độ cao và nhiệt độ trung
bình thấp 19
0
C nên hàng năm vào mùa rét thừ tháng 11-2 dương lịch năm sau
thường có khí hậu lạnh hơn so với Thuận Châu. Thậm chí nhiều năm còn xuất
hiện sương muối và nhiệt độ có thể xuống 0
0
C ảnh hưởng rất lớn đến đời sống và
hiệu quả về kinh tế của người dân địa phương.
Khu vực này chịu ảnh hưởng gió mùa Đông Bắc từ tháng 11 đến tháng 2
năm sau, làm cho nhiệt độ hạ thấp về đêm, gây nên các hiện tượng thời tiết
(Sương muối và băng giá) thường xuất hiện vào cuối tháng 12 và đầu tháng 1 gây
thiệt hại rất lớn cho cây trồng, ảnh hưởng tới sức khoẻ người dân các cộng đồng và
vật nuôi. Không những thế các vùng này cũng bị ảnh hưởng rất mạnh bởi gió Lào
(gió Tây Nam) nóng và khô hanh vào khoảng tháng 3 và tháng 4, thời gian này các
cộng đồng dân tộc ở đây cũng tiến hành phát nương đốt rẫy dẫn đến nguy cơ cháy

rừng cao, chi phối rất tới hoạt động sản xuất nông lâm nghiệp, cho hoạt động giữ gìn
và bảo vệ rừng (Đài Khí tượng thủy văn tỉnh Sơn La, 2012) [9].
- Thuỷ văn:
Khu rừng đặc dụng Copia không có sông lớn do đặc điểm địa hình địa thế
của khu vực mà khu rừng đặc dụng Copia có các hệ suối đầu nguồn chính gồm:
Hệ thống suối Nậm là đầu nguồn của suối Nậm Muội đổ ra sông Đà; Hệ suối
Hủa Lương, Hủa Nhứ (suối Đen) nước chảy về hướng Tây và Tây Bắc đổ ra suối

19
lớn đổ về sông Mã; Hệ suối Nậm Lu, Kộp, Hủa Ty, Lầu đổ về suối lớn (suối Ty)
chảy ra sông Mã. Ngoài ra còn có một số chi lưu nhỏ khác chịu sự chi phối rất
lớn của khu bảo tồn thiên nhiên như suối Liếp, suối Nậm Cang vv…
Với điều kiện khí hậu thời tiết ở rừng đặc dụng Copia lượng mưa tập
trung cường độ mưa lớn (trong vòng hai tháng chiếm tới 70% lượng mưa cả năm)
đã gây nên hiện tượng sạt lở, xói mòn đất, lũ ống và lũ quét trong những năm gần
đây xảy ra liên tục, gây thiệt hại lớn cho cộng đồng, gây khó khăn cho giao thông,
giao lưu của các cộng đồng với thị trấn Thuận Châu. Tuy vậy đúng với mùa mưa ở
Copia lại chính là vụ trồng cây, trồng rừng của khu rừng đặc dụng.
Với điều kiện địa hình, khí hậu và thuỷ văn như vậy cùng với sự suy giảm
lớp thảm thực vật đã gây nên hiện tượng sạt lở, sói mòn đất, gây thiệt hại rất lớn
về kinh tế và xã hội trong vùng. Điều đó cho thấy sự cần thiết phải được bảo vệ
và phát triển rừng trong khu vực. Ngoài giá trị phòng hộ (điều hoà nguồn nước,
điều hoà khí hậu, bảo vệ và tăng độ phì đất, hạn chế sự bồi lấp lòng suối…) khu
rừng đặc dụng Copia còn có giá trị bảo đảm sự cân bằng sinh thái tự nhiên, tạo
nên môi trường ổn định và bền vững. Nó cũng còn có ý nghĩa về nghiên cứu
khoa học, du lịch sinh thái và cũng là nơi phân bố của nhiều loài thực vật quý
hiếm, trong đó các loại lâm sản ngoài gỗ cũng chiếm một vị trí quan trọng trong
quá trình bảo vệ sinh thái rừng.

Hình 2.2: Lượng mưa và sự thay đổi về nhiệt độ bình quân theo tháng

Nguồn : (Đài Khí tượng thủy văn tỉnh Sơn La, 2012) [9].
- Tài nguyên động vật:

20
Là một khu vực tỉnh miền núi phía Bắc, diện tích rừng còn rộng và vẫn
còn mang tính tự nhiên nên Khu rừng đặc dụng Copia có hệ thống tài nguyên
động vật rất đa dạng và phong phú: Khu hệ động vật khu đặc dụng Copia qua
các tài liệu đã thống kê được 307 loài thuộc 90 họ và 25 bộ.
Bảng 2.1: Thành phần động vật tại rừng đặc dụng Copia

STT

Lớp
Bộ
Họ
Loài
Số
lượng
Tỷ lệ
%
Số
lượng
Tỷ lệ
%
Số
lượng
Tỷ lệ
%
1
Thú (Manmalia)

8
32
25
28
65
21
2
Chim (Aves)
14
56
47
52
184
60
3
Bò sát (Reptilia)
2
8
12
13
36
12
4
Ếch nhái (Amphibia)
1
4
6
7
22
7

Tổng cộng
25
100
90
100
307
100
Nguồn: (Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật , 2009) [24
Tuy nhiên, tài nguyên động vật của khu rừng đặc dụng Copia hiện nay đang
suy giảm nghiêm trọng và đang đứng trước nguy cơ cao bởi nạn săn bắn diễn ra
thường xuyên. Trong khi đó, rừng đặc dụng chưa có chương trình, dự án hoặc
những nghiên cứu lớn nào về bảo tồn và phát triển các loài động vật tại nơi đây.
- Thành phần thực vật:
Qua điều tra bước đầu đã thống kê được trong khu rừng đặc dụng Copia
có khoảng 639 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 156 họ, 424 chi của 5 ngành
thực vật bậc cao có mạch.
Bảng 2.2: Thành phần thực vật khu rừng đặc dụng Copia
Ngành thực vật
Số họ TV
Số chi TV
Số loài TV
Thông đất (Lycopodiophyta)
2
3
4
Mộc tặc (Equisetophyta)
1
1
1
Dương xỉ (Polypodiophyta)

13
17
33
Thông (Pinophyta)
6
10
12
Mộc lan (Magnoliophyta)
134
393
589
Tổng cộng:
156
424
639
Nguồn: (Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, 2009) [24 

21
Các dân tộc vùng Tây Bắc nói chung hay các dân tộc sinh sống tại khu
rừng đặc dụng Copia nói riêng phần lớn là làm kinh tế nông nghiệp - lâm
nghiệp. Rừng là nguồn cung cấp nguồn sống chính mọi hoạt động sống của
người dân bản địa. Người dân thường xuyên tác động tới rừng thông qua các
hoạt động canh tác nông nghiệp, săn bắn, mua bán đã làm thay đổi cấu trúc
hệ thống thảm thực vật, hệ thực vật và hệ động vật rừng. Mức tác động diễn
ra càng mạnh, càng sâu sắc khi dân số tăng cao, nhu cầu đời sống phát triển.
Với quá trình khai thác không phục hồi, khai thác không có quy hoạch nên
hệ thống một số loài thực vật hiện nay rất hiếm gặp trong khu rừng đặc dụng
như: nghiến, pơ mu, táu…
Ngoài ra hệ thống động vật cũng đang ngày càng hiếm đi. Một phần
cũng là do hệ thống giao thông chạy qua khu rừng đặc dụng Copia cũng

thuận tiện. Đây cũng là một nguyên nhân khách quan làm suy giảm hệ thống
động vật, thực vật.
- Các kiểu thảm thực vật:
Bảng 2.3: Các kiểu thảm thực vật ở rừng đặc dụng Copia
TT
Kiểu thảm thực vật
Phân bố theo
độ cao
1
Rừng kín thường xanh mưa nhiệt đới
< 700m
2
Rừng kín lá rộng thường xanh mưa á nhiệt đới núi thấp
700 – 1700m
3
Rừng kín hỗn giao cây lá rộng và lá kim, ẩm, á nhiệt đới núi thấp
≥ 1700m
Nguồn: (Chi cục Kiểm lâm tỉnh Sơn La , 2002) [6
+) Kiểu phụ thứ sinh nhân tác rừng kín thường xanh ẩm nhiệt đới núi thấp:
Nguồn gốc của các thảm thực vật này là rừng kín thường xanh ẩm nhiệt
đới núi thấp nhưng do bị tác động bởi nhiều hình thức phục vụ nhu cầu đòi hỏi
của các cộng đồng dân tộc ở đây. Kiểu rừng này thường gặp ở những khu vực địa
hình ít khó khăn, người dân dễ xâm nhập, hoặc ở gần làng bản của các dân tộc.
+) Kiểu phụ thứ sinh nhân tác rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới
phục hồi sau nương rẫy:

22
Thảm thực vật: tre, giang, sặt, nứa xen cây gỗ thường gặp ven theo suối
Hua Lương, suối Đen và một số khe suối cạn khác,… mặc dù diện tích phân bố
không lớn nhưng chúng có vai trò nhất định tham gia và tồn tại trong Khu bảo

tồn. Tuy nhiên tỷ lệ tre, nứa hỗn giao với cây gỗ không đồng nhất giống nhau do
việc đánh giá trữ lượng gỗ và số cây nứa, giang, sặt, lành hanh, chưa đầy đủ,
phản ánh chưa khách quan.
Trảng cỏ cây bụi cây gỗ thứ sinh phân tán, trạng thái này có diện tích rất
lớn (và có cả phần rừng gieo bay được đưa vào Khu bảo tồn).
- Mức độ đa dạng về giá trị của các loài thực vật:
*) Công dụng:
Khu vực rừng đặc dụng Copia có hệ thống thực vật đa dạng về số lượng
loài, chủng loại. Việc sử dụng các nguồn tài nguyên đó cũng được người dân địa
phương sử dụng từ lâu đời với những mục đích sử dụng khác nhau phục vụ cho
đời sống hàng ngày của người dân bản địa tại khu vực .
Cây cho gỗ điển hình như: pơ mu, giổi đen, giổi găng, đinh, lim sẹt, ràng
ràng, dẻ gai, trường sâng, gội nếp, vối thuốc, sến, sấu, trâm, re hương, vù hương,
kháo vàng, kháo nước, xoan nhừ, hà nu, chò chỉ, chò nhai, táu mặt quỷ, lát hoa,
dẻ cau Được người dân sử dụng với nhiều mục đích khác nhau: Làm nhà, làm
các dụng cụ trong nhà phục vụ cho sinh hoạt (tủ, giường, bàn ghế…).
Với những kiến thức bản địa phong phú của người dân địa phương đã sử
dụng hệ thống thực vật phục vụ cho đời sống của mình: Lấy dầu thơm từ sả, ngải
cứu Sử dụng các loài lâm sản dưới tán rừng trong lĩnh vực làm thực phẩm hay
làm thuốc như: ba kích, ngũ gia bì, củ mài…
*) Giá trị về khoa học của hệ thực vật Copia:
Bước đầu điều tra hệ thực vật Copia có 59 loài thực vật với 39 họ thuộc
nhóm quý hiếm như táu mật, thổ phục linh, đẳng sâm, cốt toái bổ, bảy lá một
hoa, du sam, giổi, vù hương Mức độ quý hiếm trong sách đỏ Việt Nam (Bộ
khoa học công nghệ và môi trường, 2007) [2 xếp vào các nhóm: Cấp E có 6 loài;
Cấp T có 12 loài; Cấp R có 2 loài; Cấp V có 17 loài; Cấp K có 11 loài.

23
Khu rừng đặc dụng Copia có hệ thống thực vật đa dạng và còn đang bảo
tồn nhiều loài thực vật nằm trong Sách đỏ Việt Nam, do đó cần có những nghiên

cứu nhằm giảm thiểu sự tác động của cộng đồng dân cư địa phương tác động đến
hệ sinh thái rừng.
Thông qua những đặc điểm về điều kiện tự nhiên của khu rừng đặc
dụng Copia chúng ta có thể rút ra một số nhận xét về những thuận lợi và
khó khăn như sau:
+) Thuận lợi:
Khu rừng đặc dụng Copia có diện tích rất rộng 19467,7 ha trong số đó
nhiều diện tích đất vẫn còn chưa được đưa vào sán xuất. Điều kiện khí hậu, địa
hình và đất đai phù hợp với với phát triển nông – lâm kết hợp. Ví dụ : trồng cây
dưới tán rừng hay tận dụng núi đá trồng cây lâm sản ngoài gỗ (cây củ mài, cây bò
khai ). Sự đa dạng về hệ thống thực vật và động vật: phục vụ cho những nghiên
cứu chuyên sâu. Đây là khu vực có tiềm năng phát triển du lịch sinh thái.
+) Khó khăn:
Địa hình chia cắt mạnh bởi các dãy núi khó khăn cho giao thông đi lại, đất
dốc dễ bị rửa trôi khó khăn trong sản xuất nông nghiệp. Hàng năm sự rửa trôi
diễn ra rất mạnh, lượng đất bạc màu tăng lên. Đây cũng là một vấn đề nhức nhối
của cán bộ kiểm lâm quản lý Rừng khu đặc dụng về việc phá rừng mở rộng đất
canh tác nông nghiệp của người dân địa phương. Mặt khác do địa hình rộng lớn
khó khăn trong công tác bảo vệ, khoanh nuôi các loài động thực vật rừng. Sự
phân bố về khí hậu, lượng mưa trong năm không đều gây ra những khó khăn cho
sản xuất nông – lâm nghiệp của dân cư trong vùng.
2.2.2. Đặc điểm điều kiện xã hội
- Đặc điểm dân cư:
Khu vực rừng đặc dụng Copia có cộng đồng dân cư sinh sống đông với nhiều
các dân tộc cùng sinh sống trong đó người dân tộc Thái chiếm tỷ lệ cao nhất.
Tổng số nhân khẩu trong khu vực là: 20.373 người.


24
Bảng 2.4: Cơ cấu thành phần dân tộc tại khu rừng đặc dụng Copia

TT
Dân tộc
Số người
Tỷ lệ %
Ghi chú
1
Thái
10.538
51,7
Hiện tại người Kinh
(có các thầy cô giáo và
một số người làm ăn
kinh tế ở các xã)
2
H’mông
7.293
35,8
3
Kháng
2.262
11,1
4
Khơ Mú
280
1,4
Tổng
20.373
100
Nguồn: (Chi cục Kiểm lâm tỉnh Sơn La , 2002) [6
Bảng 2.5: Số bản, số hộ và số nhân khẩu trong khu rừng đặc dụng Copia

TT
Tên xã
Sô bản
Số hộ
Số nhân khẩu
1
Chiềng Bôm
17
1009
5.315
2
Co Mạ
22
668
4.372
3
Long Hẹ
19
414
2.759
4
Nậm Lầu
26
807
5.717
5
Púng Tra
12
377
2.589

Nguồn: (Chi cục Kiểm lâm tỉnh Sơn La , 2002) [6
Về mật độ dân số bình quân chung của 05 xã trong rừng đặc dụng Copia
khoảng 10 người/km
2
. Tuy nhiên, trong các xã có mật độ phân bố không đồng
đều mà chỉ tập trung ở những vùng có điện, nước sinh hoạt, có nhiều đất canh tác
nông nghiệp thì người dân tập trung và mật độ cao hơn.
- Tập quán canh tác, sinh hoạt văn hóa và phong tục địa phương:
+) Tập quán canh tác
Mặt bằng chung các dân tộc sống tồn tại thông qua lao động truyền thống
bằng nông nghiệp, chủ yếu từ chọc lỗ, cuốc hố bỏ hạt cho đến cày, cấy lúa nước.
Kinh tế lạc hậu, lao động thủ công năng suất thấp, lệ thuộc hoàn toàn vào tự
nhiên; sản xuất mang tính tự cung, tự cấp. Do điều kiện địa lý và sự phân bố các
dân tộc đều sống thành cụm bản làng. Dân tộc Thái chủ yếu sống tập trung ở các
chân núi theo hạ lưu các khe suối nhỏ, sống chủ yếu bằng trồng cấy lúa nước và
vừa trồng cấy trên các sườn núi, cuộc sống tương đối ổn định, định cư và luân
canh nương rẫy. Còn các dân tộc Kháng, H’mông và Khơ Mú lại phân bố trên

25
các sườn cao định cư nhưng du canh. Trước đây còn sống du canh du cư; do cuộc
sống khó khăn kéo dài và đó cũng là nguyên nhân cơ bản của việc phá đốt rừng,
săn bắn chim thú rừng làm giảm số lượng và chất lượng của chúng dẫn đến sự
suy thoái, cá thể các loài động thực vật quý hiếm đang có nguy cơ bị tuyệt chủng.
Hiện nay nhờ có Đảng, Chính phủ quan tâm đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng, đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật đến hướng dẫn sản xuất cho dân, giúp
dân phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống giảm bớt khó khăn. Nhưng trồng trọt
vẫn chiếm một tỷ trọng lớn là nguồn thu nhập chính của người dân trong vùng.
Ruộng nước ít, hầu như không đáp ứng đủ nhu cầu lương thực tại chỗ, năng suất
cây trồng nông nghiệp thấp. Ngành chăn nuôi chưa thành nguồn chính do chủ
yếu chăn nuôi bằng các giống địa phương, số lượng còn ít.

Sản xuất lâm nghiệp: Còn nặng về lệ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, nên
việc khai thác sử dụng lâm sản không có kế hoạch, tự phát, sử dụng vào mục đích
làm nhà, chuồng trại chăn nuôi và đồ gia dụng. Trong khai thác lâm sản còn lãng
phí nhiều do chưa hiểu biết về lợi ích lâu dài và tác dụng đa dạng của rừng nên
chưa chú ý trong lợi dụng lâm sản và phát triển rừng, nên làm cho diện tích rừng
ngày càng thu hẹp, số lượng và chất lượng giảm dần dẫn đến giảm số loài động
thực vật trong khu rùng đặc dụng.
Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Nhà nước, của tỉnh Sơn
La, UBND huyện Thuận Châu, đặc biệt là hạt kiểm lâm huyện Thuận Châu, Ban
quản lí rừng đặc dụng Copia các hoạt động bảo vệ rừng nói riêng và phát triển lâm
nghiệp nói chung đã được thực hiện như khoanh nuôi bảo vệ rừng, trồng rừng.
+) Sinh hoạt văn hóa và phong tục của địa phương:
Trong khu rừng đặc dụng Copia có số lượng đông nhất là dân tộc Thái đen
và ít nhất là dân tộc Khơ Mú. Nhưng các dân tộc đều có những phong tục tập
quán, hình thức sinh hoạt văn hóa riêng, thể hiện bản sắc dân tộc của mình; dân
tộc Thái ở nhà sàn có cấu trúc tương đối bền, kín đáo; còn dân tộc Kháng, Khơ
Mú cũng ở nhà sàn nhưng cấu trúc đơn giảm, tạm thời; dân tộc H’mông ở nhà đất
trên núi cao, thiết kế thấp nhưng các dân tộc đều mang cái chung là tập trung
thành các bản.

×