Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội việt nam trong thời gian tới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.84 KB, 56 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trên thế giới, BHXH đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm. Ngày nay, BHXH đã trở
thành một cơng cụ hữu hiệu mang tính nhân văn sâu sắc, giúp con người vượt qua được những
khó khăn rủi ro phát sinh trong cuộc sống và trong quá trình lao động như: ốm đau, chăm sóc y
tế, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, tuổi già…Vì thế BHXH ngày
càng trở thành nền tảng cơ bản cho ASXH của mỗi quốc gia và được thực hiện ở hầu hết các
nước trên thế giới.
Ở Việt Nam, từ khi thành lập nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hồ đến nay, Đảng và
Nhà nước ln quan tâm đến đời sống cán bộ, công nhân viên cũng như tồn dân; cụ thể là ln
quan tâm đến phát triển chế độ chính sách BHXH, trong đó vấn đề đầu tư tăng trưởng quỹ
BHXH ngày càng được quan tâm đặc biệt.
Kể từ năm 1995 đến nay, số dư quỹ BHXH liên tục tăng; nhưng nếu xét trong trạng
thái “động”, cân đối trong thời gian dài khoản 50 năm thì nguy cơ mất cân đối quỹ BHXH
đã được các nhà hoạch định chính sách và quản lý BHXH dự báo: Nếu tính tốn theo nh ư
chế độ hiện hành thì khoảng năm 2020 thu sẽ cân đối chi, sau đó quỹ giảm dần và đến năm
2030 thì quỹ BHXH sẽ phải đối mặt với nguy cơ mất khả năng chi trả.
Để khắc phục tình trạng thiếu hụt của quỹ xảy ra trong tương lai, tăng tiềm lực tài chính
cho quỹ và để giảm nhẹ gánh nặng cho NSNN, thì việc đẩy mạnh hiệu quả đầu tư tăng trưởng
quỹ BHXH là giải pháp quan trọng và cần thiết.
Xuất phát từ yêu cầu trên và khắc phục những thiếu hụt quỹ, em đã chọn đề tài: “Giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ Bảo hiểm xã hội Việt Nam
trong thời gian tới”.
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu chắc chắn khơng tránh khỏi những thiếu sót, nên em
rất mong được sự góp ý đánh giá quý báu của các thầy cô để giúp em nhận thức sâu sắc hơn về
vấn đề này.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh sách tài liệu tham khảo, nội dung chính của
chuyên đề gồm 3 chương:
- Chương I: Cơ sở lý luận về quỹ BHXH và đầu tư quỹ BHXH
- Chương II: Thực trạng hiệu quả của hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH
Việt Nam trong thời gian qua
- Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ


BHXH Việt Nam
NỘI DUNG
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUỸ BHXH VÀ ĐẦU TƯ QUỸ BHXH
I. TỔNG QUAN VỀ BHXH
1. Khái niệm BHXH
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở và đi lại…Để thoả mãn
những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản
phẩm được tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã
1


hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy, việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển
của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế, không phải
lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình
thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho
người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm
đâu hay bị tai nạn lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự
phục vụ bị suy giảm…Khi rơi và những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống
khơng vì thế mà mất đi, trái lại có cái cịn tăng lên, thậm chí cịn xuất hiện thêm một số nhu cầu
mới như: Cần được khám chữa bệnh và điều trị ốm đâu, tai nạn thương tật nặng cần phải có
người chăm sóc ni dưỡng…Bởi vậy muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội
lồi người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: San sẻ, đùm
bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng, đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước…Rõ
ràng, những cách đó hồn tồn thụ động và khơng chắc chắn.
Khi nền kinh tế phát triển thì quan hệ thuê mướn cũng ngày càng phổ biến và quan hệ
chủ thợ cũng hình thành. Để đảm bảo lợi ích của người lao động Chính phủ đã xây dựng lên
một quỹ chung do Chính phủ đứng ra tổ chức và yêu cầu:
- Giới chủ phải trích từ phần lợi nhuận thu được một khoản tiền nhất định để đóng góp
vào quỹ này;
- Giới thợ phải trích từ tiền cơng, tiên lương hàng tháng một khoản nhỏ để nộp vào quỹ

này;
- Chính phủ hứa sẽ bảo trợ cho quỹ và thậm chí bù thiếu cho quỹ.
Quỹ này được sử dụng với mục đích để phân phối lại cho những người lao động không
may bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động…Mối quan hệ ràng buộc như vậy được thế giới gọi là
BHXH đối với người lao động.
Cho đến nay vẫn chưa có được một khái niệm chính thống về BHXH. Trong đề tài này
chỉ xin đưa ra hai khái niệm khá phổ biến và dễ hiểu về BHXH:
- “BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động
khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở
hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và
gia đình họ, góp phần bảo đảm an tồn xã hội”.
- “BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thơng qua một loạt các
biệm pháp cơng cộng (bằng pháp luật, trách nhiệm của chính phủ ) để chống lại tình trạng khó
khăn về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc giảm mất thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng
lao động, tuổi già, tàn tật và chết. Hơn nữa, BHXH còn phải bảo vệ cho việc chăm sóc y tế, sức
khoẻ và trợ cấp cho các gia đình khi cần thiết”. Đây là khái niệm về BHXH của tổ chức lao
động quốc tế ILO, phản ánh một các tổng quát về mục tiêu, bản chất và chức năng của BHXH
đối với mỗi quốc gia. Mục tiêu cuối của BHXH là hướng tới sự phát triển của mỗi cá nhân và
toàn xã hội, thể hiện sự gắn kết quyền lợi và trách nhiệm của mỗi cá nhân trong cộng đồng và
của toàn xã hội đối với mỗi người.
2. Bản chất của BHXH
Cùng với q trình phát triển, tiến bộ của lồi người, BHXH được coi là một chính sách
xã hội quan trọng của bất kì Nhà nước nào, nhằm bảo đảm an tồn cho sản xuất, cho đời sống
2


vật chất và tinh thần cho mọi người trong xã hội. Với cách hiểu như vậy, bản chất của BHXH
được thể hiện ở những nội dung chủ yếu:
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà
sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển

đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hồn thiện. Vì thế
có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt qua trạng thái kinh tế của mỗi
nước.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra
giữa ba bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Bên tham gia BHXH có thể
chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH (bên nhận
nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên
được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có thể
là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: Ốm đau, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp…Hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra khơng hồn tồn ngẫu
nhiên như: Tuổi già, thai sản…Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngồi q
trình lao động.
- Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố, rủi
ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ
này do các bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngồi ra cịn được sự hỗ trợ từ phía Nhà
nước.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động
trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã được tổ chức lao
động quốc tế (ILO) cụ thể hoá :
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh
sống thiết yếu của họ;
+ Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật;
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc biệt của
người già, người tàn tật và trẻ em.
Với những mục tiêu trên, BHXH đã trở thành một trong những quyền con người và được
Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thừa nhận.
3. Đối tượng và chức năng của BHXH
3.1. Đối tượng của BHXH
BHXH ra đời vào những năm giữa thế kỷ 19, khi nền cơng nghiệp và kinh tế hàng hố đã

bắt đầu phát triển mạnh ở các nước châu Âu. Tuy ra đời lâu như vậy, nhưng đối tượng của
BHXH vẫn có nhiều điểm chưa thống nhất, đơi khi cịn có sự nhầm lẫn giữa đối tượng BHXH
với đối tượng tham gia BHXH.
BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi do người lao
động bị giảm hoặc bị mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân như ốm đau, tai
nạn, già yếu…Chính vì vậy, đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến
động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những người
lao động tham gia BHXH.
3


Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động. Tuy nhiên, tuỳ
theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nứoc mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc
một bộ phận những người lao động nào đó.
3.2. Chức năng của BHXH
Với đối tượng nói trên, BHXH có những chức năng chủ yếu sau:
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi họ
bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Đây là chức năng cơ
bản nhất, nó liên quan đến tồn bộ hoạt động BHXH nói chung. Sở dĩ như vậy vì:
+ Nó góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ từ một nguồn thu
nhập khác là BHXH;
+ Việc thay thế hoặc bù đắp ở đây liên quan đến tồn bộ q trình lao động và người lao
động, quá trình này thể hiện chủ yếu ở tiền lương tiền công;
+ Việc thay thế hoặc bù đắp ở đây lại phụ thuộc chủ yếu ở quỹ BHXH.
- Phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Chức năng này
góp phần trực tiếp đảm bảo tính cơng bằng xã hội.
- Góp phần kích thích người lao động hăng hái tham gia lao động sản xuất để từ đó nâng
cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa người lao động - người sử dụng lao động - xã hội. Sở dĩ như vậy là
vì:

+ Cả ba bên đều thấy mình có lợi;
+ Chính sách BHXH ra đời góp phần thực hiện an sinh xã hội không chỉ trong phạm vi
quốc gia mà trong phạm vi quốc tế.
4. Những nguyên tắc cơ bản của BHXH
BHXH phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Điều này cũng có nghĩa
là khó có thể có những nguyên tắc chung thống nhất áp dụng cho mọi thời kỳ, mọi quốc gia.
Tuy nhiên BHXH cũng có những nguyên tắc hoạt động cơ bản:
- Nguyên tắc: “Số đơng bù số ít”.
Đây là ngun tắc bất di bất dịch của BHXH nói riêng và của bảo hiểm nói chung. Nó
được qn triệt trong q trình lập quỹ dự trù và chi trả bảo hiểm.
- Nguyên tắc: “Đảm bảo mọi thành viên trong xã hội đều có quyền tham gia và được
hưởng quyền lợi từ BHXH”;
BHXH là một trong những quyền con người được Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa nhận
và ghi trong tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/1948 như sau: “Tất cả mọi người với tư cách là
thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH, quyền đó được đặt trên cơ sở sự thoả mãn các
quyền về kinh tế,xã hội và văn hoá, nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển của con
người”.
- Nguyên tắc: “ BHXH vừa mang tính bắt buộc, vừa mang tính tự nguyện”;
BHXH bắt buộc là cơ sở để tiến tới thực hiện BHXH toàn dân và tiến tới xây dựng hệ
thống chế độ BHXH tối ưu nhất. Tính bắt buộc được thực hiện trong các nghĩa vụ tham gia và
nghĩa vụ đóng góp, gồm mức đóng góp về tiền và thời gian cần thiết của việc tham gia đối với
từng chế độ BHXH cụ thể. Hơn nữa, tính bắt buộc này được thể hiện hố ở hầu hết các nước
dưới hình thức các chính sách, chế độ BHXH, cụ thể là những quy định của Chính phủ hay luật
BHXH.
4


Tính tự nguyện trong BHXH chính là việc cho phép người lao động tham gia BHXH có
quyền lựa chọn hình thức và chế độ tham gia cho phù hợp với nhu cầu và khả năng của bản
thân.

- Nguyên tắc: “ Đảm bảo tính cơng bằng trong xã hội”;
Tính cơng bằng trong BHXH gồm công bằng trong cơ hội tham gia BHXH, trong tỷ lệ
hợp lý giữa mức đóng và mức hưởng, tất cả nhằm mục đích chủ yếu vì lợi ích của số đông cộng
đồng. Mặc dù vậy, tính công bằng tuyệt đối là khơng thể có vì BHXH cịn hoạt động theo một
nguyên tắc chung của bảo hiểm đó là ngun tắc: “Số đơng bù số ít”.
- Ngun tắc: “ Xác định mức đóng và hưởng hợp lý”;
Đóng và hưởng phải hợp lý thì chính sách BHXH đó mới đảm bảo được tính cơng bằng.
Mặt khác, sự hợp lý này còn ảnh hưởng trực tiếp tới số lượng người tham gia thực tế, quyết
định sự thành cơng của chính sách BHXH đối với mỗi quốc gia; có như vậy người lao động mới
tự giác đóng góp vào quỹ BHXH theo quy định.
- Nguyên tắc: “ BHXH phải đảm bảo chi trả bù đắp được thu nhập cho người lao động
để họ có thể duy trì được cuộc sống ở mức tối thiểu khi họ bị mất sức lao động tạm thời cũng
như nghỉ hưu”.
5. Hệ thống các chế độ BHXH
Chính sách BHXH là một trong những chính sách cơ bản nhất của mỗi quốc gia, thường
được Nhà nước luật hoá căn cứ vào điều kiện kinh tế, xã hội của quốc gia trong mỗi thời kỳ
cũng như đặc điểm của nguồn lao động xã hội và việc phân ngành kinh tế xã hội…Còn chế độ
BHXH là sự cụ thể hố chính sách BHXH của mỗi nước; cụ thể hố mục đích của từng chế độ,
đối tượng hưởng, điều kiện hưởng, mức hưởng và thời gian hưởng trợ cấp BHXH.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1919), tổ chức lao động quốc tế được thành lập
( viết tắt là ILO). Sự kiện này đã góp một phần rất quan trọng trong việc phát triển chính sách
BHXH. Năm 1952, ILO có khuyến cáo các nước trên thế giới tham gia công ước 102 (Tháng 6
năm 1952 tại Giơne vơ - Thụy Sỹ). Tại công ước này, hệ thống các chế độ BHXH bao gồm 9
chế độ:
1. Chăm sóc y tế
2. Trợ cấp ốm đau
3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tuổi già
5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình

7. Trợ cấp sinh đẻ
8. Trợ cấp tàn tật
9. Trợ cấp tiền tuất
Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ điều kiện kinh tế - xã
hội mà mỗi nước tham gia cơng ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau,
nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong năm chế độ: (3);
(4); (5); (8); (9).
Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau:
+ Các chế độ được xây dựng theo luật pháp các nước;
+ Hệ thống các chế độ mang tính chất san sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính;
5


+ Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên tham gia
BHXH và quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư có hiệu quả và an tồn thì mức chi trả sẽ cao
và ổn định;
+ Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ;
+ Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh toán. Chi trả BHXH như là
quyền lợi của mỗi chế độ BHXH;
+ Các chế độ BHXH thường được điều chỉnh định kỳ để phản ánh hết sự thay đổi của
điều kiện kinh tế - xã hội.
Toàn bộ hệ thống cũng như mỗi chế độ BHXH trong hệ thống trên khi xây dựng đều phải
dựa vào những cơ sở như: Cơ cấu ngành kinh tế quốc dân, tiền lương và thu nhập của người lao
động, hệ thống tài chính của quốc gia…Đồng thời tùy từng chế độ khi xây dựng cịn phải tính
đến các yếu tố sinh học, yếu tố môi trường như: Tuổi thọ bình quân của người lao động, nhu
cầu dinh dưỡng, xác suất tai nạn lao động và tử vong, độ tuổi sinh đẻ của lao động nữ, môi
trường lao động…
II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUỸ BHXH
1. Khái niệm quỹ BHXH
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngồi ngân sách Nhà nước. Quỹ có

mục đích và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập quỹ BHXH là dùng để chi trả cho người lao động,
giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp những biến cố hoặc rủi ro. Chủ thể của quỹ BHXH chính là
những người tham gia đóng góp để hình thành nên quỹ, do đó có thể bao gồm cả: Người lao
động, người sử dụng lao động và Nhà nước.
Ngân sách Nhà nước và quỹ BHXH có cùng bản chất, chức năng và có quan hệ hữu cơ
với nhau trong quá trình tạo lập và sử dụng. Hoạt động của NSNN và quỹ BHXH đều khơng
nhằm mục đích kiếm lời. Q trình hình thành và sử dụng của mỗi loại đều được biểu hiện dưới
hình thức giái trị (tiền tệ). Việc thu - chi ngân sách và quỹ BHXH đều được quy định bằng pháp
luật và cơ chế quản lý phải tuân theo nguyên tắc cân đối nguồn thu và chi …
Tuy nhiên, giữa NSNN và quỹ BHXH có những điểm khác nhau cơ bản. NSNN ra đời,
tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước và thực hiện chức
năng kinh tế - xã hội của Nhà nước. Bộ máy Nhà nước càng lớn, chức năng và nhiệm vụ càng
mở rộng thì thu chi ngân sách càng lớn. Quan hệ phân phối của nhà nước mang tính pháp lý rất
cao và dựa vào quyền lực chính trị, kinh tế của Nhà nước. Quan hệ phân phối này chủ yếu là
phân phối lại, khơng mang tính chất hồn trả và phản ánh lợi ích xã hội, lợi ích quốc gia, nó chi
phối các quan hệ, các lợi ích bộ phận và cá nhân nhằm đảm bảo cho nền kinh tế - xã hội được
phát triển ổn định. Trong khi đó, quỹ BHXH ra đời, tồn tại và phát triển với sự phát triển của
nền kinh tế hàng hố, các quan hệ th mướn nhân cơng. Mặc dù thu - chi BHXH đều được
Nhà nước quy định bằng các văn bản pháp luật, nhưng chủ yếu dựa vào quan hệ kinh tế, quan
hệ lợi ích giữa các bên tham gia theo ngun tắc có tham gia thì mới được hưởng quyền lợi
BHXH. Quan hệ phân phối của quỹ BHXH có tính chất pháp lý thấp hơn NSNN và mối quan
hệ này trước hết phản ánh lợi ích của các bên tham gia BHXH, sau đó mới đến lợi ích xã hội.
Như vậy, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng đồng thời là một quỹ dự phịng; nó vừa mang
tính kinh tế vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm
bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển.
6


2. Đặc trưng của quỹ BHXH
Mặc dù là một quỹ tài chính nhưng phục vụ cho mục tiêu xã hội, vì vậy quỹ BHXH có

những nét đặc trưng riêng khác với những loại quỹ tài chính khác.Cụ thể:
- Việc hình thành và sử dụng quỹ BHXH khơng vì mục tiêu lợi nhuận
Mục đích khi hình thành quỹ BHXH là nhằm huy động sự đóng góp của người lao
động,người sử dụng lao động, Nhà nước trong một số trường hợp và các nguồn thu hợp pháp
khác để có một lượng tiền đủ lớn, đảm bảo đủ chi trả các trợ cấp BHXH cho các trường hợp bị
giảm hoặc bị mất hẳn các khoản thu nhập thường xuyên từ lao động do gặp phải những sự kiện
hoặc những “rủi ro xã hội” đã nêu và những chi phí cho hoạt động thường xuyên của bộ máy
BHXH. Khác với bảo hiểm thương mại, trong kết cấu phí BHXH khơng tính phần lợi nhuận của
bên bảo hiểm (cơ quan BHXH). Trong tổng phí BHXH chỉ bao gồm phí thuần và phụ phí (bao
gồm quản lý phí và phí dự phịng - nếu có). Trong q trình sử dụng quỹ, các chi phí chi trả trợ
cấp BHXH chiếm phần lớn trong tổng chi, phần chi quản lý thường chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp và
những chi phí này là những chi phí thực sự cần thiết đảm bảo cho cả hệ thống hoạt động bình
thường.
- Quỹ BHXH vừa có tính chất hồn trả vừa có tính chất khơng hồn trả:
Tính hồn trả thể hiện ở chỗ: người lao động vừa là đối tượng tham gia và đóng góp
BHXH, đồng thời họ cũng là đối tượng nhận trợ cấp, được chi trả từ quỹ BHXH cho dù chế độ,
thời gian trợ cấp và mức trợ cấp của mỗi người khác nhau tuỳ thuộc vào những biến cố, rủi ro
mà họ phải gặp, cũng như mức đóng góp và thời gian đóng góp BHXH của họ.
Tính khơng hoàn trả thể hiện ở chỗ: cùng tham gia và đóng góp BHXH, nhưng có người
được hưởng trợ cấp nhiều lần và nhiều chế độ khác nhau, nhưng có những người được ít lần
hơn thậm chí khơng được hưởng. Chính từ đặc điểm này nên một số đối tượng được hưởng trợ
cấp từ quỹ BHXH thường lớn hơn nhiều so với mức đóng góp của họ và ngược lại. Điều đó thể
hiện tính chất xã hội của tồn bộ hoạt động BHXH.
- Quỹ BHXH có q trình tích luỹ để bảo tồn giá trị và bảo đảm an toàn về tài chính.
Đặc trưng này xuất phát từ chức năng cơ bản nhất của BHXH là đảm bảo an toàn về thu nhập
cho người lao động. Vì vậy, đến lượt mình BHXH phải tự bảo vệ mình trước nguy cơ mất an
tồn về tài chính. Nhiều nhà kinh tế cho rằng: Quỹ BHXH là “của để giành” của người lao động
phòng khi ốm đau tai nạn, tuổi già… Nguồn quỹ này được đóng góp và tích luỹ lại trong suốt
q trình lao động. Nếu xem xét tại một thời điểm cụ thể nào đó, quỹ BHXH ln tồn tại một
lượng tiền tạm thời nhàn rỗi để chi trả trong tương lai. Lượng tiền này có thể biến động tăng

cũng có thể biến động giảm do mất an toàn, giảm giá trị do yếu tố lạm phát. Do đó, bảo tồn giá
trị và tăng trưởng quỹ BHXH đã trở thành yêu cầu mang tính ngun tắc trong q trình hoạt
động của BHXH.
- Quỹ BHXH là hạt nhân, là nội dung vật chất của tài chính BHXH.
Quỹ BHXH là khâu tài chính trung gian cùng với NSNN và tài chính doanh nghiệp hình
thành nên hệ thống tài chính quốc gia. Tuy nhiên, mỗi khâu tài chính được tạo lập, sử dụng cho
một mục đích riêng và gắn với một chủ thể nhất định. Vì vậy, chúng ln độc lập với nhau
trong quản lý và sử dụng. Thế nhưng tài chính BHXH, NSNN và tài chính doanh nghiệp lại có
quan hệ chặt chẽ với nhau và đều chịu sự chi phối của pháp luật Nhà nước.
- Sự ra đời, tồn tại và phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế-xã
hội của mỗi quốc gia và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ nhất định của đất nước.
7


Kinh tế - xã hội càng phát triển thì càng có điều kiện thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH,
nhu cầu thoả mãn về BHXH đối với người lao động càng được nâng cao. Đồng thời khi kinh tế
- xã hội ngày càng phát triển người lao động và người sử dụng lao động sẽ có thu nhập cao hơn,
do đó họ càng có điều kiện tham gia và đóng góp BHXH…
3. Vai trị của quỹ BHXH
- Vai trị đối với bản thân hệ thống BHXH
Quỹ BHXH được coi là “xương sống” của hệ thống BHXH. Hệ thống BHXH có ổn định
và phát triển được hay khơng phụ thuộc vào sự hoạt động của quỹ BHXH. Quỹ BHXH là một
quỹ tiền tệ tập trung được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm bao gồm:
người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước; trong một số trường hợp cịn có các
nguồn thu khác được dùng để chi trả cho những trường hợp được hưởng trợ cấp BHXH theo
quy định của pháp luật về BHXH và chi phí cho các hoạt động nghiệp vụ BHXH. Như vậy, vai
trò của quỹ BHXH được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, đối với người lao động: người lao động khi tham gia BHXH, nếu gặp những
biến cố hay những “rủi ro xã hội” như thai sản, ốm đau, tai nạn lao động, thất nghiệp …, thông
qua hệ thống trợ cấp BHXH được nhận những khoản tiền bảo hiểm để trang trải cho những chi

phí do những biến cố hoặc rủi ro xã hội này gây ra. Ở đây, quỹ BHXH có vai trị rất lớn là bù
đắp hỗ trợ cho những thiếu hụt về thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu
nhập từ lao động nghề nghiệp do bị giảm hoặc mất thu nhập từ lao động nghề nghiệp do bị giảm
hoặc mất khả năng lao động do những biến cố hoặc “rủi ro xã hội” nêu trên. Nói cách khác¸quỹ
BHXH giữ vai trị góp phần đảm bảo an tồn cho người lao động và gia đình họ. Tuy nhiên,
mức độ đảm bảo thu nhập đến đâu và được thực hiện như thế nào phụ thuộc vào khả năng thanh
toán của quỹ BHXH và phụ thuộc vào chính sách BHXH của quốc gia trong mỗi thời kỳ, trên
cơ sở nguyên tắc trợ cấp BHXH không được cao hơn so với tiền lương thu nhập từng nghề
nghiệp trước khi nghỉ hưởng trợ cấp BHXH, nhưng không được thấp hơn tiền lương tối thiểu do
nhà nước quy định. Nếu như quỹ BHXH thu được nhiều (thu đúng, thu đủ và đầu tư tăng trưởng
tốt) và số người bị rủi ro ít (số người thụ hưởng ít) thì mức độ đáp ứng của quỹ BHXH cao hơn.
Ngược lại, nếu như nguồn thu của quỹ thấp (thu không được đủ, đầu tư tăng trưởng quỹ
kém…)và số người bị rủi ro nhiều… thì mức độ đáp ứng của quỹ sẽ bị thấp đi. Tuy nhiên như
đã nêu ở trên, quỹ BHXH không chỉ là một quỹ xã hội, nên dù muốn hay không, trợ cấp BHXH
cũng phải đảm bảo ở mức độ nhất định cho người lao động. Đây là vai trò nổi trội, hơn hẳn của
quỹ BHXH so với các loại quỹ tài chính khác.
Thứ hai, đối với hệ thống BHXH: Để cả hệ thống BHXH hoạt động được bình thường,
các hoạt động nghiệp vụ và các hoạt động quản lý đòi hỏi phải có những chi phí nhất định. Ở
hầu hết các nước, các chi phí này tuỳ theo từng nước được tính bằng một tỷ lệ nhất định trên
tổng thu của quỹ BHXH, hoặc được ấn định bằng một mức nào đó trên cơ sở những chi phí của
những năm trước đó. Tuy nhiên, dù tính theo cách nào thì những chi phí này đều do quỹ BHXH
đảm bảo. Như vậy, hiệu quả hoạt động của bộ máy BHXH, đời sống của các nhân viên ngành
BHXH, ở mức độ nào đó phụ thuộc vào tình hình hoạt động (bao gồm cả hoạt động đầu tư) của
quỹ BHXH. Mặt khác, quỹ BHXH do tính đặc thù của hoạt động BHXH nên có một bộ phận
của quỹ tạm thời nhàn rỗi. Phần nhàn rỗi này của quỹ BHXH được đầu tư vào các lĩnh vực khác
nhau cảu nền kinh tế. Thông qua hoạt động đầu tư của quỹ BHXH tạo thêm nguồn lực tài chính
8


để duy trì và phát triển hệ thống BHXH; đồng thời việc đầu tư tăng trưởng quỹ sẽ tăng cường

khả năng chi trả thường xuyên cho các đối tượng được hưởng chế độ BHXH.
- Vai trò của quỹ BHXH đối với nền tài chính quốc gia
Như đã nêu, với tư cách là một quỹ tài chính, dịng tiền của quỹ BHXH ln ln được
lưu thơng và vì vậy ảnh hưởng đến nền tài chính chung của quốc gia. Hoạt động của Quỹ
BHXH được thể hiện ở hai dòng di chuyển của tiền tệ là dòng di chuyển vào và dòng di chuyển
ra.
Dịng di chuyển vào thơng qua sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động
và các nguồn thu khác. Dòng di chuyển này về cơ bản là một phần thu nhập của dân cư, của
doanh nghiệp đưa vào BHXH (trên cơ sở đóng phí). Nói cách khác, quỹ BHXH (từ giác độ
dòng tiền vào) đã thúc đẩy q trình lưu thơng tiền tệ trong dân cư - mọi sự lưu thơng có chủ
định và vì vậy có vai trị điều chỉnh nhất định dịng tài chính quốc gia.
Dòng di chuyển ra của BHXH là các chi phí BHXH bao gồm chi trả các trợ cấp BHXH
và các chi phí cho hoạt động nội bộ BHXH. Các chi phí này rất lớn và như vậy quỹ BHXH có
vai trị máy bơm tiền vào lưu thơng tạo ra cơ cấu về tiêu dùng. Mặt khác thông qua việc đầu tư
vốn vào các chương trình, dự án phát triển kinh tế, quỹ BHXH cũng cung cấp một lượng vốn
lớn và đóng một vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy và tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt, trong
điều kiện nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế khơng ngừng tăng lên, thì việc cung ứng vốn
cho nội bộ nền kinh tế thông qua các tụ điểm tài chính như quỹ BHXH có ý nghĩa vơ cùng quan
trọng. Nói cách khác thơng qua dịng di chuyển ra, quỹ BHXH đã làm tăng quy mơ tài chính
cho nền kinh tế; khơng những thế, quỹ BHXH cịn góp phần điều chỉnh cơ cấu tài chính, cơ cấu
đầu tư, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước… Ngoài ra, thơng qua việc đầu tư như mua
tín phiếu, trái phiếu kho bạc nhà nước, công trái xây dựng tổ quốc hoặc cho ngân hàng và các tổ
chức tín dụng vay…, quỹ BHXH đã tham gia một cách đắc lực vào việc thực hiện các chính
sách tiền tệ, giữ vững sự ổn định tiền tệ và góp phần kiểm sốt lạm phát.
- Vai trị đối với chính trị - xã hội:
Việc hình thành quỹ BHXH tạo ra hệ thống an tồn xã hội, thơng qua q trình phân
phối lại quỹ BHXH góp phần thực hiện mục tiêu đảm bảo an tồn xã hội về kinh tế cho mọi
thành viên trong xã hội.
4. Nguồn hình thành và sử dụng quỹ BHXH
4.1. Nguồn hình thành quỹ BHXH

Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:
- Người sử dụng lao động đóng góp
- Người lao động đóng góp
- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm
- Các nguồn khác (như cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu tư phần quỹ
nhàn rỗi).
Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn nêu trên.
Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia BHXH có khác nhau.
Về phương thức đóng góp BHXH của người lao động và người sử dụng lao động hiện
vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của
người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức đóng
góp.
9


Về mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử dụng lao động phải chịu tồn
bộ chi phí cho chế đọ tai nạn lao động, Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình, các chế độ
còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng
nhau. Một số nước khác quy định, Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu tồn bộ chi phí
quản lý BHXH …
Mức đóng BHXH thực chất là phí BHXH, phí BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu
chi quỹ BHXH. Vì vậy, quỹ này phải được tính tốn một cách khoa học. Trong thực tế, việc
tính phí BHXH là một nghiệp vụ chuyên sâu của BHXH và người ta thường sử dụng các
phương pháp toán học khác nhau để xác định. Khi tính phí BHXH, có thế có những căn cứ tính
tốn khác nhau:
- Dựa vào tiền lương và thang lương để xác định mức trợ cấp BHXH, từ đó có cơ sở xác
định mức phí đóng
- Quy định mức phí BHXH trước rồi từ đó xác định mức hưởng.
- Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức hưởng, rồi từ đó có
thế xác định được mức phí phải đóng.

Phí BHXH xác định theo công thức:
P = f1 + f2 +f3
Trong đó:
P - Phí BHXH
f1 - Phí thuần t trợ cấp BHXH
f2 - Phí dự phịng
f3 - Phí quản lý
Phí thuần tuý trợ cấp BHXH cho cả các chế độ ngắn hạn và dài hạn, ngồi ra phải có phí
dự phịng để đảm bảo quỹ BHXH có dự trữ đủ lớn.
4.2. Sử dụng quỹ BHXH
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu để chi trả cho các mục đích sau đây:
- Chi trợ cấp cho các chế độ bh
- Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH
- Chi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH.
Trong đó, chi trợ cấp BHXH theo các chế độ là lớn nhất và quan trọng nhất, khoản chi
này thường được thực hiện theo luật định và phụ thuộc vào phạm vi trợ cấp của từng hệ thống
BHXH. Về nguyên tắc, có thu mới có chi, thu trước chi sau. Vì vậy, quỹ chỉ chi cho các chế độ
trong phạm vi có nguồn thu. Thu ở chế độ nào thì chi ở chế độ đó.
Tuy nhiên, q trình sử dụng quỹ BHXH mà phần sử dụng nhiều nhất là chi trả các chế
độ còn phụ thuộc vào việc thành lập quỹ BHXH theo phương thức nào:
- Nếu chỉ thành lập một quỹ BHXH tập trung thống nhất thì việc chi trả cũng phải đảm
bảo tính thống nhất theo các nội dung chi.
- Nếu quỹ BHXH được hình thành theo 2 loại: Quỹ BHXH ngắn hạn và quỹ BHXH dài
hạn thì việc chi trả và quản lý chi sẽ cụ thể hơn. Phương thức này đảm bảo cho công tác chi trả
sát thực tế và đúng mục đích hơn. Đồng thời tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia
các chế độ BHXH dài hạn.
10


- Nếu quỹ BHXH được thành lập theo từng chế độ (cịn gọi là quỹ BHXH thành phần) thì

việc chi trả sẽ càng trở nên đơn giản và đảm bảo đúng mục đích.
Nội dung chi trả: gắn liền với nội dung kinh tế - xã hội của từng chế độ hoặc từng nhóm
chế độ. Cụ thể:
+ Đối với chế độ hưu trí và tử tuất
Việc chi trả bắt nguồn từ việc bảo hiểm thu nhập cho người lao động bị già yếu hết tuổi
lao động và qua đời mà bất kỳ người lao động nào cũng phải trải qua. Muốn được chi trả, người
lao động và người sử dụng lao động phải tham gia đóng góp. Quyền lợi được hưởng tương ứng
với mức đóng góp phí BHXH của từng người lao động. Phí BHXH nộp cho các chế độ hưu trí
và tử tuất được cơ cấu vào tiền lương, tiền công.
+ Đối với chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
Nội dung chi trả bắt nguồn từ việc ổn định sản xuất kinh doanh, ổn định kinh tế cho
người sử dụng lao động và ổn định cuộc sống cho người lao động khi họ bị ốm đau, tai nạn
hoặc thai sản. Để có quỹ chi trả, người sử dụng lao động và người lao động đều phải có trách
nhiệm đóng phí. Số phí này cũng phải được hạch toán đầy đủ vào giá thành sản phẩm để tạo
nguồn tài chính nộp phí bảo hiểm. Phương thức này có ưu điểm là dễ dàng cân đối thu chi, từ
đó góp phần xác định mức đóng và mức hưởng trong từng chế độ một các chính xác.
Ngoài việc chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH, quỹ BHXH còn được sử dụng cho chi
quản lý như: Tiền lương cho những người làm việc trong hệ thống BHXH, khấu hao tài sản cố
định,văn phòng phẩm,…Phần quỹ nhàn rỗi phải được đem đầu tư sinh lời, mục đích đầu tư quỹ
BHXH là nhằm bảo tồn và tăng trưởng nguồn quỹ.
5. Mơ hình quỹ BHXH
Xét dưới góc độ nguồn tài chính để hình thành, quỹ BHXH có các mơ hình sau:
- Quỹ BHXH Nhà nước:
Theo mơ hình này, quỹ BHXH có nguồn hình thành duy nhất là do NSNN cấp. Chủ sử
dụng lao động và người lao động khơng phải đóng góp vào quỹ.
- Quỹ BHXH hỗn hợp (Mơ hình quỹ BHXH theo nền kinh tế thị trường): Ở mơ hình này
quỹ BHXH có 3 loại:
+ Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của chủ sử dụng lao động, người lao động,
Nhà nước đóng góp và hỗ trợ.
+ Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của chủ sử dụng lao động và của người

tham gia BHXH.
+ Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của chủ sử dụng lao động, Nhà nước đóng
và hỗ trợ. Người tham gia bảo hiểm khơng phải đóng góp vào quỹ.
- Quỹ BHXH cá nhân (Quỹ BHXH tự nguyện).
Theo mơ hình này, quỹ BHXH có nguồn hình thành duy nhất từ sự đóng góp của cá nhân
người tham gia BHXH.
Xét dưới góc độ hình thức tham gia thì quỹ BHXH có hai mơ hình:
- Quỹ BHXH bắt buộc: Nhà nước ban hành chính sách, chế độ tạo lập và sử dụng quỹ để
bắt buộc một số đối tượng tham gia BHXH. Sự đóng góp của họ hình thành nên quỹ BHXH bắt
buộc.Đối tượng tham gia gồm người sử dụng lao động và người lao động.
- Quỹ BHXH tự nguyện: Trên cơ sở Nhà nước ban hành chính sách, chế độ tạo lập và sử
dụng quỹ để cho đối tượng được quyền tự lựa chọn tham gia phù hợp với điều kiện và nhu
11


cầu của họ. Ở mơ hình này, đối tượng tham gia thường là cá nhân không thuộc đối tượng
tham gia BHXH bắt buộc hoặc là đối tượng tham gia BHXH bắt buộc nh ưng họ tham gia bổ
sung để được hưởng quyền lợi ngoài chế độ BHXH bắt buộc.
Xét dưới góc độ thời gian hưởng chế độ BHXH thì quỹ có 2 mơ hình:
- Quỹ BHXH ngắn hạn: Quỹ được hình thành từ sự đóng góp của đối tượng tham gia
BHXH, dùng để chi trả các chế độ BHXH ngắn hạn như: ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức, tai
nạn lao động và bệnh nghề nghiệp hưởng một lần.
- Quỹ BHXH dài hạn: Quỹ được hình thành từ sự đóng góp của đối tượng tham gia
BHXH, dùng để chi trả các chế độ BHXH dài hạn như: Hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động và
bệnh nghề nghiệp trả hàng tháng.
Xét dưới góc độ cân đối thu - chi thì quỹ có 2 mơ hình cơ bản:
- Mơ hình toạ thu - toạ chi: Cân đối quỹ được xác định hàng năm, thu khơng đủ chi thì
Ngân sách Nhà nước cấp bù (giống như mơ hình quỹ nước tha trước năm 1995)
- Mơ hình tồn tích: Cân đối quỹ BHXH được xác định dài hạn; dựa vào các phương pháp
tính toán thống kê, xác suất theo quy luật số lớn để xác định tổng nguồn thu vào quỹ BHXH và

tổng số chi ra từ quỹ BHXH, để tính cân đối thu - chi dài hạn khoảng 10, 20 và 30 năm. Trong
mơ hình này có hai loại là tồn tích cá nhân và tồn tích cộng đồng. Với mơ hình tồn tích cá nhân
thì mọi sự đóng góp của chủ sử dụng lao động, của người lao động, khoản tiền lãi đầu tư trong
năm được lưu giữ và tồn tích vào một tài khoản cá nhân cho từng người, thuộc quyền sở hữu
của cá nhân họ; Ở mơ hình này thì khơng sợ mất cân đối quỹ, nhưng lại làm mất bản chất của
BHXH là chia sẻ rủi ro, thực chất là “khoản tiết kiệm bắt buộc”. Quỹ BHXH theo mơ hình tồn
tích cộng đồng (giống của nước ta hiện nay) đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng, mang
đúng bản chất của BHXH; quỹ được dùng chung cho tất cả mọi người tham gia BHXH nên tính
nhân văn và xã hội cao; có thể hình dung, quỹ BHXH như một ngôi nhà chung của mọi người
tham gia BHXH, dùng che trở cho họ khi gặp rủi ro, ngôi nhà này càng to càng vững chắc thì
khả năng che trở càng tốt.
6. Các nhân tố tác động đến quỹ BHXH
- Chính sách tiền lương - tiền cơng: Thu nhập của người lao động là đối tượng của
BHXH. Vì vậy, chính sách tiền lương là nhân tố đầu tiên tác động đến quy mơ của quỹ BHXH.
Giữa chính sách tiền cơng - tiền lương và chính sách BHXH nói chung và việc tăng giảm quỹ
BHXH nói riêng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chính sách tiền lương là tiền đề và là cơ sở
cho việc thực hiện chính sách BHXH, trên cơ sở tính tốn mức đóng và mức hưởng BHXH lại
phụ thuộc vào tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Như vậy, khi Nhà nước nâng mức
lương tối thiểu lên thì mức đóng BHXH cũng tăng lên và đương nhiên số thu BHXH cũng tăng
lên tương ứng với sự tăng lên của quỹ BHXH.
- Lực lượng lao động: Người lao động là đối tượng tham gia BHXH, họ là những người
trong độ tuổi lao động, là những người trực tiếp tạo ra của cải cho xã hội. Như vậy, nếu một
quốc gia có dân số “già”- tức là số người trong độ tuổi lao động chiếm tỉ lệ thấp trong tổng số
dân số - sẽ dẫn đến mất cân đối quỹ BHXH bởi vì số người tham gia đóng góp vào quỹ ngày
càng ít đi trong khi số người hưởng chế độ BHXH đặc biềt là chế độ hưu trí ngày càng tăng.
Mặt khác, do ngun tắc của BHXH là “số đơng bù số ít”, nếu số người tham gia BHXH ngày
càng nhiều thì sự rủi ro đến với mỗi người lao động sẽ được dàn trải rất rộng, từ đó tính chất xã
12



hội của bảo hiểm sẽ ngày càng được thể hiện rõ nét, quỹ BHXH sẽ càng vững mạnh, khả năng
chi trả tăng lên và làm tăng phần quỹ nhàn rỗi.
- Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia phản ánh khả năng tiết kiệm tiêu dùng và
đầu tư của Nhà nước, vì thế nếu quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định thì chắc
chắn đời sống của người dân sẽ cao dần lên, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp gặp nhiều thuận lợi, là điều kiện để người lao động tham gia BHXH được nhiều hơn,
để các chủ doanh nghiệp sẵn sàng tham gia BHXH cho người lao động và làm giảm tình trạng
trốn đóng góp BHXH của họ. Thêm nữa, khi đời sống kinh tế cao thì nhận thức của người lao
động cũng cao lên, ngoài việc ý thức bảo đảm cuộc sống hàng ngày cho bản thân và gia đình,
họ cịn mong muốn có khoản trợ giúp trong tương lai khi không may gặp rủi ro xã hội khiến
họ bị mất hoặc bị giảm thu nhập. Tất cả những yếu tố trên tác động tích cực làm tăng thu
BHXH.
- Mức chi trả các chế độ BHXH: Mức chi trả các chế độ BHXH phụ thuộc vào: số lượng
các chế độ BHXH được áp dụng, số người hưởng và tỉ lệ hưởng các chế độ BHXH.
Nếu một quốc gia triển khai và áp dụng nhiều các chế độ trong số 9 chế độ thì số thu
BHXH ngày càng lớn. Mặt khác, tỉ lệ hưởng càng cao có nghĩa là số tiền chi trả cho các chế độ
càng lớn, chính điều này đặt ra yêu cầu thu BHXH ngày càng chặt chẽ hơn để tránh tình trạng
mất cân đối quỹ BHXH. Khi tuổi nghỉ hưu càng tăng lên thì mức chi trả lương hưu sẽ giảm,
mức thu lại càng tăng nên sẽ giảm nguy cơ mất cân đối quỹ.
- Nguồn lãi từ hoạt động đầu tư quỹ BHXH: Nếu quỹ BHXH được thiết kế theo mơ
hình toạ thu - toạ chi thì quỹ ln được cân đối ngay trong năm và khơng có kết dư. Nếu quỹ
được thiết kế theo mơ hình tồn tích thì hàng năm đều có kết dư, đây là nguồn vốn rất quan trọng
để đầu tư vào các lĩnh vực có độ rủi ro thấp. Nếu hoạt động đầu tư có hiệu quả thì tiền lãi từ
hoạt động này sẽ làm quy mô quỹ vững mạnh, đảm bảo cân bằng trong thời gian dài.
7. Các nguyên tắc cân đối quỹ BHXH
Để quỹ BHXH tồn tại và hoạt động độc lập, về nguyên tắc quỹ phải được cân đối có
nghĩa là các khoản thu BHXH tối thiểu phải đảm bảo nhu cầu chi trả các chế độ BHXH và chi
quản lý bộ máy. Cân đối quỹ BHXH được hiểu là mối quan hệ tương đương về lượng và sự
bằng nhau giữa hai đại lượng thu - chi, ngoài ra cân đối quỹ BHXH cịn thể hiện ở việc bố trí cơ

cấu và quan hệ số lượng giữa các yếu tố trong cơ cấu thu - chi quỹ BHXH.
Cân đối quỹ BHXH về hình thức là cân đối giữa thu và chi. Về thực chất, cân đối quỹ
BHXH phản ánh nguồn lực tài chính có thể chi phối trực tiếp, nó thể hiện sự cân đối tài chính
trong phạm vi của một quỹ. Cũng giống như sự phát triển của mọi sự vật, cân đối thu - chi quỹ
BHXH là tương đối chứ không tuyệt đối, luôn ở trạng thái vận động, cân đối và khơng cân đối
chuyển hố lẫn nhau. Cân đối quỹ BHXH được thể hiện trong suốt quá trình phát sinh giải
quyết mâu thuẫn giữa thu và chi, do đó ít nhiều có số dư có thâm hụt (trong phạm vi cho phép).
Các trường hợp đó đều phải coi là phạm vi cân đối cơ bản, đều là hình thức biểu hiện của cân
đối quỹ BHXH.
Từ sự vận động thu - chi của quỹ BHXH, về nguyên tắc cân đối phải đảm bảo:
Tổng số tiền
Tổng chi
Tổng chi
Tổng thu + sinh lời từ = các chế độ + phí cho + Chi khác
đầu tư
BHXH
quản lý
13


Từ đó cho biết nguyên nhân làm mất cân đối quỹ BHXH:
- Mức độ phát triển của nền kinh tế
- Hiệu quả của hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ bh
- Cơ cấu hợp lý giữa các khoảng thu- chi bh
- Cơ chế quản lý tài chính BHXH kém hiệu quả.
Các nguyên tắc cân đối quỹ BHXH: Để đảm bảo cho quỹ BHXH tồn tại độc lập với
NSNN trong nền kinh tế thị trường và trở thành một bộ phận của hệ thống tài chính quốc gia,
một tụ điểm của thị trường tài chính thì ngun tắc cân đối quỹ BHXH là:
- Tổng số thu từ người lao động và chủ sử dụng lao động phải lớn hơn tổng số chi cho
các chế độ BHXH và phần tích luỹ ngày càng cao làm gia tăng khoản chi đầu tư tăng trưởng.

- Trong trường hợp bội chi quỹ BHXH thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư tăng
trưởng quỹ để đảm bảo quỹ luôn được cân đối
- Tổng số chi cho các chế độ BHXH dài hạn và ngắn hạn không vượt quá tổng số thu vào
các quỹ BHXH dài hạn và ngắn hạn.
- Lợi nhuận đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH mang lại phải đảm bảo nguyên tắc: không sử
dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích tăng trưởng quỹ BHXH.
III. VẤN ĐỀ ĐẦU TƯ QUỸ BHXH
1. Sự cần thiết của đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH
Trong hoạt động của quỹ BHXH, do tính đặc thù của quá trình thu - chi BHXH nên quỹ
BHXH ln có một lượng tiền tạm thời nhàn rỗi, phần tiền này với tư cách là một bộ phận tài
chính cần phải được đem đầu tư. Có rất nhiều lý do dẫn đến cần phải đầu tư tăng trưởng quỹ
BHXH, nhưng chủ yếu là các lý do sau:
- Trong các nguồn thu của quỹ thì có một bộ phận được dụng ngay (cho các trợ cấp
BHXH ngắn hạn); nhưng phần lớn dùng để chi trả cho các trợ cấp BHXH dài hạn mà tính từ khi
đóng phải hàng chục năm sau mới phải chi (nếu chỉ tính riêng cho từng cá nhân). Đối với những
hệ thống BHXH trẻ (như Việt Nam), số người đóng góp hiện tại lớn hơn nhiều so với số người
hưởng BHXH hiện tại, thì số tiền chưa được dùng đến ngay rất lớn. Đây được gọi là phần nhàn
rỗi tương đối của quỹ BHXH. Theo quy luật tiền tệ, phần nhàn rỗi của quỹ BHXH khơng được
để đóng băng mà phải được đưa vào lưu thông, phải được đầu tư để tránh những rủi ro về tiền tệ
như lạm phát và các rủi ro khác. Do vậy, đầu tư trước hết là để đảm bảo giá trị của phần vốn
này, mặt khác phần sinh lời thực tế (sau khi đã trừ đi lạm phát) sẽ làm tăng quy mơ của quỹ
BHXH, góp phần cải thiện cho các trợ cấp ngắn hạn; đồng thời đảm bảo cho các hoạt động của
BHXH được tốt hơn cả trong hiện tại và tương lai.
- Do thiết kế kỹ thuật, có tính tới yếu tố thu nhập hiện thời của người lao động, nên phí
BHXH chỉ là phí tối thiểu. Nếu tính riêng cho một người lao động thì phần đóng góp của họ
khơng đủ chi trả cho họ từ sau khi nghỉ hưu cho đến khi chết. Vì vậy, trong kỹ thuật tính phí
BHXH phải dựa trên số đơng bù số ít và có tính đến các yếu tố đầu tư. Do vậy, nếu không đầu
tư tăng trưởng quỹ thì quỹ BHXH khơng thể chi dùng đủ cho tương lai, trong khi nhu cầu thụ
hưởng của người lao động ngày càng cao theo thời gian.
- Là một bộ phận của tài chính quốc gia, muốn nền kinh tế tăng trưởng, cải thiện đời sống

chung cho nhân dân, các nguồn lực tài chính phải được huy động tối đa, do vậy sự huy động
phần nhàn rỗi của quỹ BHXH vào nền kinh tế là u cầu có tính khách quan, vừa góp phần tăng
14


trưởng quỹ, vừa góp phần tăng vốn cho nền kinh tế. Thơng qua việc đầu tư vốn vào các chương
trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội hoặc các thị trường tài chính ( thơng qua mua cổ phiếu,
trái phiếu…), quỹ BHXH đã cung cấp một lượng vốn lớn và đóng một vai trị quan trọng trong
việc thúc đẩy và tăng trưởng nền kinh tế; góp phần lành mạnh hố thị trường tài chính của đất
nước.
- Khi quỹ BHXH ổn định và tăng trưởng, phần chi từ NSNN cho BHXH sẽ giảm đi và
NSNN sẽ có điều kiện để tập trung chi vào các mục tiêu trọng yếu khác.
- Hiện nay, mặc dù các chế độ ngắn hạn ln có kết dư, song các chế độ dài hạn như hưu
trí và tử tuất thì tốc độ tăng thu luôn thấp hơn tốc độ tăng chi, như vậy trong vòng 30 năm tới
nếu chỉ dựa vào các khoản thu thì quỹ có nguy cơ mất cân đối. Vì vậy, phải có biệm pháp bảo
tồn và tăng trưởng quỹ.
2. Đặc điểm của đầu tư quỹ BHXH
Ở mỗi quốc gia, công tác đầu tư quỹ BHXH đều có những nét riêng, nhưng hầu hết đều
có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Quỹ BHXH được hình thành trên cơ sở chủ yếu là đóng góp của các bên tham gia
BHXH, vốn đầu tư của quỹ không phải là vốn kinh doanh mà là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi dự
trữ cho tương lai nhằm để chi trả các trợ cấp BHXH cho người lao động khi tham gia BHXH.
Do đó khơng có khái niệm kinh doanh quỹ BHXH mà chỉ là các hoạt động đầu tư phần nhàn rỗi
tương đối của quỹ BHXH.
- Sự chuyển quyền sử dụng vốn trong công tác đầu tư quỹ BHXH chủ yếu được tiến hành
dưới các hình thức mua bán vốn như: mua cổ phiếu, trái phiếu, cơng trái, tín phiếu, cho vay,
mua bất động sản…
- Ở hầu hết các nước, Chính phủ đều quy định danh mục đầu tư, hoặc phân cấp rõ ràng
danh mục đầu tư gắn liền với trách nhiệm của các cấp, các ngành để hạn chế rủi ro của quỹ.
- Quỹ BHXH là thuộc sở hữu của các bên tham gia đóng góp, đó là quỹ của xã hội dùng

để chi cho các chế độ BHXH theo quy định. Vì vậy, việc đầu tư của quỹ phải đảm bảo yêu cầu
thu hồi vốn thuận tiện, hết thời hạn đầu tư phải thu hồi được cả vốn và lãi, dễ dàng chuyển đổi
các nguồn vốn đem đầu tư thành tiền mặt khi cần.
- Hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH cũng phải tuân thủ yêu cầu khách quan của
các quy luật kinh tế trên thị trường vốn.
3. Nguyên tắc cơ bản đầu tư quỹ BHXH
Do quỹ BHXH có những đặc trưng riêng, khác với những tổ chức tài chính khác, nên
việc đầu tư tăng trưởng quỹ phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc: “Đảm bảo an toàn khi đầu tư”.
Mục tiêu hình thành quỹ BHXH là để góp phần đảm bảo an tồn thu nhập cho người lao
động và sâu sa hơn là đảm bảo an sinh xã hội cho dân cư. Vì vậy, an tồn là nguyên tắc hàng
đầu trong việc đầu tư quỹ BHXH. Có thể nói, quỹ BHXH về bản chất là tài sản của nhiều thế hệ
lao động, luôn luôn gắn liền với đời sống của hàng triệu người tham gia BHXH và gia đình họ.
Quỹ BHXH được bảo tồn và tăng trưởng tốt sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng của
người lao động tham gia BHXH và góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất
nước, góp phần ổn định và phát triển đất nước. Ngược lại, nếu quỹ BHXH không được sử dụng
đúng, khơng đảm bảo được giá trị, mất an tồn ( thâm hụt) thì đời sống của người tham gia và
15


thụ hưởng sẽ bị ảnh hưởng đầu tiên; hậu quả là sé dẫn đến rối loạn xã hội nghiêm trọng. Nhiều
Chính phủ đã phải sụp đổ do những vấn đề có liên quan đến lợi ích của người tham gia BHXH.
- Nguyên tắc: “ Hiệu quả”.
Yêu cầu của nguyên tắc này là đầu tư tiền nhàn rỗi của quỹ BHXH phải mang lại lợi
nhuận. Đây cũng là yêu cầu tất yếu của hoạt động đầu tư, bởi vì mọi đầu tư vốn đều nhằm tối đa
hoá lợi nhuận. Khoản lợi nhuận này phải được thực hiện qua từng dự án đầu tư trong từng giai
đoạn cụ thể. Nghĩa là kết quả của hoạt động đầu tư phải cao hơn chi phí đã bỏ ra. Để thực hiện
ngun tắc này địi hỏi phải tuân thủ quy luật lãi suất dương và lãi suất phải được điều chỉnh kịp
thời theo sự biến động của chỉ số lạm phát và lãi suất thị trường; mặt khác, phải có chiến lược
đầu tư tổng thể và có lộ trình đầu tư trên cơ sở xác định được danh mục đầu tư, các lĩnh vực đầu

tư chủ yếu.
- Nguyên tắc: “khả năng thanh toán thường xuyên”.
Mục tiêu lập quỹ BHXH là để đáp ứng được những chi trả các trợ cấp BHXH ở bất cứ
thời điểm nào và ở bất cứ đâu. Nói cách khác, quỹ BHXH phải ln ở chế độ sẵn sàng có tiền
để chi trả trợ cấp BHXH định kỳ hoặc đột suất. Chính vì vậy, phần chưa dùng đến của quỹ
BHXH mới được gọi là phần nhàn rỗi tương đối. Do đó, nguyên tắc cơ bản khi tổ chức các hoạt
động đầu tư của quỹ BHXH là dù đầu tư quỹ vào lĩnh vực nào, dưới hình thức nào cũng phải
đảm bảo khả năng chuyển đổi các tài sản đầu tư thành tiền và có thể thu hồi được dễ dàng.
Chính phủ nhiều quốc gia thường quản lý danh mục đầu tư chặt chẽ. ILO khuyến cáo trong cơ
quan BHXH nên có bộ phận đầu tư và phải có chuyên gia đánh giá đầu tư chuyên nghiệp. Việc
đánh giá này phải nêu lên được những ưu nhược điểm của các danh mục dự định đầu tư để có
lựa chọn những danh mục hợp lý nhất, đảm bảo nguyên tắc có khả năng thanh tốn này.
- Ngun tắc: “Đảm bảo lợi ích xã hội”.
BHXH là một trong những chính sách xã hội quan trọng của Nhà nước. Mục đích của
BHXH là đảm bảo thu nhập cho người lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an sinh xã
hội và mục đích xa hơn của BHXH là nhằm góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, nâng
cao mức sống chung của dân cư. Vì vậy, song song với các yêu cầu về hiệu quả kinh tế nhằm
tăng trưởng quỹ, việc đầu tư quỹ BHXH phải đạt hiệu quả về mặt xã hội, đảm bảo được các lợi
ích xã hội, cần chú trọng tới các dự án phục vụ công cộng và các mục tiêu xã hội thực sự cho dù
hiệu quả kinh tế đầu tư có thể thấp. Đầu tư quỹ BHXH phải ln gắn liền với các chính sách về
xã hội như dân số, lao động và môi trường sống… Nguyên tắc này phải được vận dụng trong tất
cả các nghiệp vụ đầu tư, từ việc xác định danh mục hạn mức đến xác định mức lãi đầu tư vốn,
nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài, đồng thời tuân thủ một cách nghiêm túc yêu cầu khách
quan của các quy luật.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư quỹ BHXH
4.1. Các nhân tố khách quan
- Môi trường đầu tư: Đây là nhân tố tác động trực tiếp đến hiệu quả đầu tư quỹ. Môi
trường đầu tư thuận lợi tạo điều kiện cho cơ quan BHXH đưa luồng tiền tạm thời nhàn rỗi vào
hoạt động một cách nhanh chóng nhất tránh hiện tượng ứ đọng vốn từ đó tác động tới lợi suất
của việc đầu tư, tạo điều kiện lựa chọn danh mục đầu tư ít rủi ro và có lợi suất tối ưu.

- Cơ chế pháp lý về đầu tư quỹ: Những định chế pháp lý về đầu tư quỹ BHXH đầy đủ và
đồng bộ là yếu tố có tính quyết định tới hiệu quả đầu tư quỹl. Những quy định pháp lý bắt buộc
16


phải được thể chế hoá như: Nguyên tắc đầu tư, danh mục đầu tư, tỉ lệ phân bổ nguồn vốn đầu
tư, phân phối lợi nhuận từ hoạt động đầu tư…
Một hệ thống định chế pháp đầy đủ và đồng bộ sẽ là cơ sở tạo điều kiện thuận lợi cho quỹ
BHXH tham gia đầu tư trên thị trường đồng thời nó cũng tác động tích cực đến lợi tức và rủi ro
mong đợi của hoạt động đầu tư.
- Chính sách tài chính tiền tệ quốc gia: Chính sách tài khố và chính sách tiền tệ tác động
mạnh mẽ đến hiệu quả điều hành kinh tế vĩ mơ từ đó tác động đến hiệu quả đầu tư. Đối với
chính sách tài khố, nếu Chính phủ kiểm sốt được thâm hụt NSNN, xác định được nguồn bù
đắp bội chi cho NSNN làm lành mạnh hoá động NSNN, sẽ là cơ sở để cơ quan BHXH định
hướng hoạt động đầu tư. Đối với chính sách tiền tệ, nếu Chính phủ kiểm sốt được tỷ lệ lạm
phát ở một tỷ lệ thích hợp cũng là cơ sở để cơ quan BHXH xác định một lợi suất mong đợi hợp
lý nhằm đảm bảo giá trị thực của quỹ trong tương lai.
4.2. Nhân tố chủ quan
- Hiệu quả hoạt động của tổ chức đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH: Đây là yếu tố quyết
định đến hiệu quả đầu tư quỹ BHXH. Để đảm bảo lợi ích người lao động thì việc nâng cao hiệu
quả đầu tư quỹ BHXH luôn được thực hiện bởi một tổ chức chun trách về đầu tư có trình độ
chun mơn.
- Cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động đầu tư: Hoạt động đầu tư quỹ BHXH là một hoạt
động đầu tư phức tạp địi hỏi nhiều thơng tin từ nhiều phía. Đế cơ quan bảo hiểm ra quyết định
đúng đắn thì việc trang bị cơ sở vật chất, thiết bị và công nghệ đầu tư hiện đại là một việc làm
thiết yếu trong hoạt động đầu tư quỹ BHXH.
- Sự phối kết hợp với các tổ chức tài chính tín dụng khác: BHXH là một trung gian tài
chính phi ngân hàng, hoạt động đầu tư quỹ BHXH đặc biệt là đầu tư vào thị trường tài chính
ln ln gặp phải sự cạnh tranh của các tổ chức tài chính như Ngân hàng, các cơng ty Bảo
hiểm…, vì vậy hiệu quả của việc phối kết hợp của các tổ chức tài chính trung gian trong nền

kinh tế thị trường sẽ tác động đến hiệu quả đầu tư quỹ BHXH đồng thời hạn chế những rủi ro
đối với cơ quan BHXH.
5. Sử dụng vốn đầu tư từ quỹ BHXH
5.1. Tiêu chuẩn lựa chọn tài sản đầu tư từ quỹ BHXH
Nhà đầu tư xem xét 5 yếu tố trọng điểm sau để làm căn cứ ra quyết định đầu tư:
- Của cải: Đối với BHXH, khi nguồn nhàn rỗi tăng lên, theo tiêu chuẩn này thì tỉ lệ vốn
đầu tư vào các loại chứng khoán sẽ tăng cao hơn so với đầu tư vào tiền gửi ngân hàng. Khi
lượng tiền trong két tăng lên đến một mức nào đó thì nó có thể đầu tư để kiếm lời,nếu lãi suất
tăng lên thì số tiền mặt được gửi để tiến hành giao dịch sẽ giảm xuống.
- Lợi suất kỳ vọng: Là hiệu suất sinh lời mà nhà đầu tư mong muốn và dự kiến có thể đạt
được khi quyết định bỏ vốn đầu tư. Trong cùng một môi trường đầu tư, Nhà đầu tư sẽ lựa chọn
tài sản nào có lợi suất kỳ vọng cao hơn. Đối với BHXH thì tiêu chuẩn này hết sức quan trọng,
đặc biệt đối với nghiệp vụ dài hạn với yêu cầu đầu tư phải đạt được lãi suất nhất định. BHXH
chỉ có thể đầu tư vào loại tài sản có hiệu suất sinh lời cao nhất khi các yếu tố khác tương tự
nhau.
- Mức độ rủi ro: Rủi ro thường tương quan với lợi suất kỳ vọng, vì thế để đảm bảo
nguyên tắc “an toàn”, BHXH sẽ phải lựa chọn tài sản có mức độ rủi ro thấp chứ khơng thể ưu
tiên loại tài sản có lợi suất kỳ vọng cao.
17


- Tính lỏng: Tính lỏng sẽ giúp cho cơ quan BHXH ổn định chi tiêu và rút vốn trong các
trường hợp cần thiết. Tính lỏng của các tài sản là khác nhau, tiền mặt lỏng nhất, trái phiếu, các
loại cổ phiếu,…Khi các yếu tố khác khơng thay đổi, tính lỏng của một tài sản tăng lên so với tài
sản kia, dẫn tới lượng cầu về tài sản đó tăng.
- Chi phí thơng tin: BHXH sẽ phải giảm chi phí cho việc đánh giá TSCĐ. Những tài sản
có chi phí thơng tin ít như trái phiếu chính phủ (TPCP), trái phiếu của các tổ chức tín dụng
mạnh. Ngược lại, cổ phiếu và trái phiếu công ty, khoản cho vay cho các tổ chức hoặc cá nhân
vay địi hỏi chi phí thơng tin lớn.
Điều này được thể hiện ở bảng sau:


Bảng tiêu chuẩn lựa chọn tài sản đầu tư
Các yếu tố
Lượng
Lý do
cầu
về tài sản
Của cải
Tăng
Nhà đầu tư có nhiều tiềm lực hơn
để lựa chọn
Lợi suất kỳ vọng tài sản so với
Tăng
Nhà đầu tư thu được nhiều lợi
lợi suất mong đợi của tài sản
nhuận hơn
khác.
Rủi ro đi liền với lợi tức mong
Giảm
Nhà đầu tư khơng ưa rủi ro
đợi của tài sản
Tính lỏng
Tăng
Tài sản dễ dàng chuyển thành tiền
mặt để ổn định chi tiêu
Chi phí thơng tin
Giảm
Nhà đầu tư mất nhiều tiền để thu
lượm,phân tích lợi tức trên tài sản
5.2. Phương pháp trích lập nguồn vốn đầu tư từ quỹ BHXH

* Đặc trưng của nguồn vốn đầu tư (NVĐT)
- Là khoản tạm thời nhàn rỗi nhằm thực hiện nhiệm vụ của BHXH đối với người lao
động chứ không phải là nguồn vốn kinh doanh.
- Quy mô của NVĐT trong quỹ BHXH phụ thuộc vào số người tham gia BHXH, số
người hưởng trợ cấp BHXH và chính sách thu - chi quỹ bh
- Tỷ trọng vốn đầu tư chiếm trong tổng thể nguồn vốn của quỹ BHXH càng lớn thì khả
năng tài chính của quỹ càng vững mạnh.
- Nguồn vốn đầu tư trong quỹ BHXH là số tồn tích qua thời gian dài, đây là số vốn thực
trong quỹ, điều này khác với nguồn vốn ngân sách.
* Phương pháp trích lập NVĐT từ quỹ BHXH
18


Để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi và phù hợp với đặc
trưng của nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của quỹ BHXH thường chia ra làm NVĐT ngắn hạn và
NVĐT dài hạn.
NVĐT ngắn hạn = Tổng thu quỹ BHXH - Tổng giá trị các khoản chi trả
ngắn hạn trong tháng
BHXH ngắn hạn trong tháng
NVĐT dài hạn = Tổng thu quỹ BHXH - Tổng giá trị các khoản chi trả
dài hạn trong tháng BHXH dài hạn trong tháng
5.3. Danh mục tài sản đầu tư
Thông thường, danh mục tài sản đầu tư quỹ BHXH ở các nước bao gồm:
5.3.1. Cổ phiếu
- Lợi thế:
+ Mang lại thu nhập dưới dạng cổ tức có thể tái đầu tư để tối đa hố lợi nhuận.
+ Có khả năng tăng vốn trong dài hạn và cho phép người đầu tư chống lạm phát.
+ Không chụi ảnh hưởng của thuế vì cổ tức được miễn thuế.
+ Có tính lỏng cao
- Bất lợi

+ Sự bất ổn về giá cổ phiếu làm cho việc đầu tư vào lĩnh vực này là rất mạo hiểm, nên
đầu tư vào cổ phiếu không phải là giải pháp tối ưu đối với nguồn quỹ BHXH.
+ Thu nhập của cổ phiếu khơng chắc chắn, nó khơng đảm bảo nguyên tắc: “an toàn”khi
đầu tư quỹ BHXH.
+ Chi phí về thơng tin cao.
+ Ngồi ra cịn một số nguy cơ: lạm phát, rủi ro về kinh tế vĩ mơ, rủi ro về chính trị - xã
hội.
Chính vì vậy đầu tư vốn của BHXH vào cổ phiếu luôn bị pháp luật khống chế bằng một tỉ
lệ hạn chế trên tổng số vốn đem đầu tư
5.3.2. Trái phiếu
- Lợi thế
+ Thu nhập thường xuyên cao và đảm bảo, đặc biệt là các trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn.
+ An tồn vốn cao vì trái phiếu trên thị trường thường do Chính phủ hoặc các doanh
nghiệp, tập đồn lớn có uy tín phát hành.
- Bất lợi
+ Giá trái phiếu biến động và chụi sự tác động rất lớn của lãi suất, làm cho việc đầu tư
vốn nhàn rỗi ngắn hạn gặp nhiều khó khăn.
+ Thu nhập từ trái phiếu khơng tránh khỏi thuế thu nhập, vì đối với người đi vay việc trả
trái tức được tính vào chi phí sử dụng vốn và chưa nộp thế thu nhập.
+ Không chống được lạm phát, khi nền kinh tế lạm phát cao khơng theo dự kiến thì đầu
tư vào trái phiếu là bất lợi vì lãi suất thực âm.
Như vậy, với nguồn vốn dài hạn thì trái phiếu là tài sản đầu tư phù hợp nhất đối với
BHXH.
5.3.3. Các chứng khoán trên thị trường tiền tệ
Các chứng khoán trên thị trường tiền tệ là những chứng khốn ngắn hạn bao gồm: Tín
phiếu kho bạc, các chứng chỉ tiền gửi, giấy chập nhận thanh toán của Ngân hàng, chứng thư
thương mại, hợp đồng mua bán lại.
19



Nhìn chung, các chứng khốn này có đặc tính chung là tính thanh khoản cao, thời hạn
ngắn và ít rủi ro. Đầu tư vốn ngắn hạn vào các tài sản này là thích hợp nhất.
5.3.4. Cho vay
Khi tiến hành cho vay, BHXH phải tuân thủ những quy định của pháp luật liên quan đến
hoạt động của các tổ chức tín dụng. Để đảm bảo nguyên tắc an toàn, việc cho vay phải được
tiến hành theo hình thức “cho vay thế chấp”. Với loại hình này, BHXH có thể thu được lãi suất
cao,an toàn về vốn cao và thời hạn đầu tư dài. Tuy nhiên, khó có thể cạnh tranh được với các
ngân hàng thương mại, những tổ chức cho vay chuyên nghiệp.
5.3.5. Tiền gửi tại các tổ chức tín dụng
Đây là hình thức đầu tư ngắn hạn và đơn giản nhất. Nếu BHXH lựa chọn các ngân hàng
thương mại có tiềm lực tài chính mạnh, uy tín thì khả năng khơng trả nợ là rất khó xảy ra. Tuy
nhiên BHXH cũng khơng tránh khỏi những rủi ro có tính hệ thống như: rủi ro lãi suất, lạm phát,
thời hạn đầu tư ngắn…
5.3.6. Bất động sản
- Lợi thế
+ Thời hạn đầu tư dài phù hợp với nguồn vốn dài hạn
+ Có khả năng chống lạm phát, làm tăng vốn của quỹ BHXH
- Bất lợi
+ Tính lỏng rất thấp, việc chuyển thành tiền mặt khá khó khăn vì sự lên xuống bất thường
của giá cả.
+ Đây là lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Giá cả của nó rất bất thường phụ thuộc vào nhiều yếu
tố: biến động của nền kinh tế thị trường, chính trị, xã hội, đặc biệt là vấn đề tâm lý của người
dân.
Như vậy, mỗi loại trong danh mục tài sản đầu tư đều có những lợi thế và bất lợi. Để có
thể nâng cao hiệu quả đầu tư quỹ BHXH thì BHXH Việt Nam cần phải đánh giá các loại tài sản
đầu tư và xây dựng các chiến lược chính sách cụ thể.
6. Đánh giá hiệu quả đầu tư quỹ BHXH
Hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư phản ánh trình độ sử dụng vốn đầu tư thông qua
việc so sánh giữa thu nhập của nhà đầu tư với số vốn mà nhà đầu tư bỏ ra để đạt được mức thu
nhập đó.

Để đánh giá hiệu quả đầu tư quỹ BHXH vào một dự án đầu tư nào đó, ta thường sử dụng
chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư. Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận bình qn năm tính
trên một đồng vốn đầu tư, nói cách khác là một đồng vốn đầu tư hàng năm mang lại bao nhiêu
đồng lợi nhuận bình qn.
Cơng thức thường sử dụng là:
R=


K

= { B - (C +

D )}/K

Trong đó:
R: tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư
 : lợi nhuận bình quân năm trong giai đoạn vận hành dự án
B : Tổng thu bình quân năm
C : Tổng chi phí vận hành bình qn năm
D : Khấu hao bình quân trong giai đoạn vận hành dự án
20



×