Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Sự thích ứng của sinh viên đối với hoạt động học tập ở môi trường đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.05 KB, 15 trang )

Phần mở đầu
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kì đất nước ta đang ngày càng hội nhập, ngày càng phát
triển trên tất cả các mặt văn hóa- xã hội, kinh tế- chính trị,….Vì vậy đòi hỏi
mỗi cá nhân phải có rất nhiều năng lực mới để thích ứng với sự thay đổi
của đất nước. Thích ứng có vai trò quan trọng đối với hiệu quả công việc,
có tác dụng làm tăng hiệu suất lao động. Đặc biệt trong quá trình học tập thì
sự thích ứng này là điều kiện quan trọng cho việc hình thành hệ thống tri
thức chuyên môn, rèn luyện tay nghề của mỗi cá nhân. Đối với sinh viên
vấn đề này đang được đặt ra một cách cấp thiết đặc biệt là sinh viên năm
nhất.
Với tốc độ phát triển của thông tin như hiện nay, đồng thời sự khác
biệt giữa học tập ở đại học với trung học phổ thông đòi hỏi sinh viên phải
có kĩ năng, phương pháp học tập mới để có thể tiếp nhận một lượng kiến
thức lớn, tự trau dồi kiến thức cho mình. Hoạt đông học tập của sinh viên là
đi sâu vào những chuyên ngành cụ thể thể hiện tính độc lập, tự chủ, sáng
tạo. Do đó mà mỗi bản thân phải luôn chủ động, tích cực để hòa nhập và tự
hoàn thiện chính bản thân.
Học tập trong môi trường đại học sinh viên luôn phải tiếp nhận và
làm việc với lượng thông tin lớn và cường độ cao, do vây nếu không kịp
thời thích ứng sẽ dẫn đến chỗ kết quả học tập không đáp ứng được yêu cầu
về chất lượng. Bên cạnh đó, mỗi sinh viên lại có điều kiện khác nhau trong
quá trình học tập và nghiên cứu: với các sinh viên có nền tảng tốt từ phổ
thông như tiếp cận được với những phương tiện thông tin đại chúng, tiếp
cận phương pháp học tập hiện đại, thì việc thích ứng trở nên dễ dàng, còn
ngược lại đối với sinh viên không có điều kiện thuận lợi từ phổ thông thì
đây là điều hết sức khó khăn, đặc biệt với sinh viên sống ở những vùng
nông thôn, vùng kinh tế khó khăn, vùng sâu vùng xa.
Từ thực trạng trên chúng tôi thấy việc nghiên cứu sự thích ứng với
hoạt động học tập trong môi trường đại học của sinh viên năm nhất là việc
làm cần thiết , giúp nâng cao hiệu quả, chất lượng học tập của sinh viên. Do


đó chúng tôi đã nghiên cứu đề tài : “ Sự thích ứng của sinh viên đối với
hoạt động học tập ở môi trường đại học”.
2.Mục đích nghiên cứu đề tài:
Làm rõ thực trạng thích ứng của sinh viên với hoạt động học tập trong môi
trường đại học, phân tích các nguyên nhân của thực trạng . Và trên cơ sở
đó đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao mức độ thích ứng với hoạt
động học tập của sinh viên nhất trong môi trường đại học.
3.Nhiệm vụ nghiên cứu:
-Xác định những khái niệm công cụ của đề tài: Sự thích ứng; Hoạt động
học tập; sự thích ứng với hoạt động học tập.
-Khảo sát thực trạng thích ứng với hoạt động của sinh viên
-Phân tích một số nguyên nhân ảnh hưởng đến sự thích ứng trong hoạt động
học tập của sinh viên, từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm giúp sinh
viên nhanh chóng thích ứng và thích ứng tốt với hoạt động học tập.
4.Đối tượng nghiên cứu:
Sự thích ứng của sinh viên với hoạt động học tập ở môi trường đại học.
PHẦN NỘI DUNG
1. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu:
1 1 Một số nghiên cứu nước ngoài về vấn đề thích ứng:
- Thuyết phân tâm về vấn đề thích ứng:
Người sáng lập ra phân tâm học là Sigmund Freud. Những nghiên cứu về
thích ứng của nhân cách được Frued đưa ra trong quan điểm của mình về cấu
trúc và sự phát triển nhân cách. Theo Freud, nhân cách là cấu trúc tổng thể trọn
vẹn gồm: “cái nó”( Id); “cái tôi”(ego); “cái siêu tôi”( super ego). Khi phân tích
các thành phần cấu trúc nhân cách theo Freud thì “cái nó” tương đương với
khái niệm trước của Frued vê cái vô thức. Cái nó là bể chứa những bản năng và
libodo. Tuy nhiên, cái bản năng luôn bị cấm đoán bởi cái siêu tôi. Để tồn tại,
con người phải đạt sự cân bằng , sự hài hòa giữa hai cái đối lập “cái nó” và “
cái siêu tôi”- đó chính là thích ứng.
Trên cơ sở học thyết về bản năng, Frued đề ra phát triển nhân cách theo

các giai đoạn : giai đoạn môi miệng; giai đoạn hậu môn; giai đoạn dương vật;
giai đoạn phát triển cá tính và giai đoạn phát dục. Từ việc phân tích các giai
đoạn phát triển của nhân cách thì vấn đề của nhân cách cũng được giải quyết
trên cơ sở đó. S.Freud tập trung giải thích tính thích ứng và tính chất lượng của
thích ứng phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển mà nội dung của nó là bản
năng tính dục được thỏa mãn như thế nào? thuận tiện hay bị ngăn trở? . Nếu
như quá trình thỏa mãn gặp khó khăn, có mâu thuẫn thì dẫn đến hậu quả là “cái
tôi” bị chèn ép, yếu đuối, không phát triển bình thường. Ngược lại, nhân cách
sẽ có hành vi thích ứng tốt nếu như ở các giai đoạn phát triển thơ ấu nó nhận
được sự hài hòa giữa khả năng thỏa mãn và sự cấm đoán.
Sau này một số những người kế tục Freud đã xây dựng nên trường phái
phân tâm hiện đại như Karen horney; E.Fromm; C.Jung; Altred Adler,….thì
khác với Freud, các nhà phân tâm hiện đại đã coi trọng vai trò của quan hệ xã
hội đối với các hành vi thích ứng của con người
Một số nhà phân tâm còn đi xa hơn, đã xem sự thích ứng của nhân cách
như là cái mang nội dung xã hội, tức là xem khả năng thích ứng thể hiên ở việc
con người thiết lập được quan hệ tình cảm gắn bó với người khác. Những quan
điểm này được hai tác giả là E.Fromm và Erickson quan tâm và bàn đến rất
chi tiết trong lý thuyết của các ông.
E.Fromm cho rằng: “ Cần phải xem xét hành vi thích ứng của con người từ
tính chất xã hội của môi trường”.
Ẻrickson thì có quan điểm: “ Sự thích ứng tâm lý là sự thiết lập các quan
hệ xã hội của con người với những người xung quanh”.
Mặc dù chưa giải thích được bản chất của sự thích ứng của con người,
nhưng phân tâm học chứa đựng những điểm hợp lý cần được chú ý về mặt lý
luận và thực tiễn của vấn đề
-Thuyết tâm lý học nhân văn nghiên cứu về vấn đề thích ứng
Đại biểu nội bật nhất là Abraham Maslow và Carl roger. Trường phái này
xây dựng một quan điểm thích ứng mới, lấy con người làm trung tâm.
A.maslow coi thích ứng là sự thể hiện được những cái vốn có của cá nhân

trong những điều kiện sống nhất định. Sự thích ứng chính là sự không được
tự thể hiện, sẽ tạo ra xung đột và ảnh hưởng tới sự phát triển nhân cách.
Tiền đề tao ra sự thích ứng là một hệ thống nhu cầu của nhân cách, đươc
sắp xếp theo thứ tự thứ bậc mà cao nhất là nhu cầu tự thể hiện- một nhân
cách bẩm sinh nhưng có tính chất nhân văn chỉ xuất hiện khi các nhu cầu
bậc thấp được thỏa mãn. Theo ông, nhu cầu tự thể hiện phát triển hết mức
khả năng của bản than chính là yếu tố quyết định sự thích ứng của con
người.
Maslow đã chú trọng đến tính tích cực, tính trọn vẹn và phẩm chất tự
đánh giá của nhân cách trong các quan hệ cá nhân- xã hội. Tuy chưa đầy đủ
nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong xây dựng hệ thống các biện pháp tác
động đến sự thích ứng tâm lí của con người trong những điều kiện hoàn
cảnh mới với những yêu cầu đòi hỏi mới.
- Thuyết tâm lý học hành vi về nghiên cứu thích ứng:
Người đại diện là J. Watson. Theo quan điểm của waston thì khi nghiên
cứu đời sống tâm lý của con người không thể lí giải bằng các khái niệm ý
thức chung chung được mà phải lấy cái hành vi quan sát được, đo đạc
được, dự đoán được làm đối tượng nghiên cứu.
Theo quan điểm của những người theo trường phái này về nguyên
tắc các quy luật và cơ chế thích ứng ở người giống động vật, chỉ khác là
môi trường sống của con người có them một số yếu tố mới như ngôn ngữ
và các quy tắc xã hội. Sự thích ứng người có cơ chế và quy luật phức tạp
hơn nhưng không có sự khác biệt về chất so với động vật. Nên khi nghiên
cứu sự thích ứng của con người vẫn phải giữ lại những khái niệm cơ bản
của tiến hóa sinh học, thích nghi với môi trường và sống còn, liên kết và
phân hóa các chức năng của chúng, kinh nghiệm loài và cá thể,… Sự thích
ứng của con người chỉ phức tạp hơn của động vật về mặt số lượng.
Sau này thuyết hành vi mới ra đời, các tác giả tiêu biểu như Albert
Bandura, Julian Rottr,… đã bổ sung một số khái niệm mới về hành vi
tạo tác, hành vi học tập xã hội, hành vi học tập theo quan sát, tự thức ,tự

phát. Chủ nghĩa hành vi mới có đặc trưng đó là đã đưa ra các yếu tố xã
hội vào để giải thích sự thích ứng tâm lí ở người.
Lý thuyết tâm lý học hành vi có một xu hướng phát triển khác là tâm
lý học hành vi nhận thức với đại diện tiêu biểu là W. Micschel. Trường
phái này chú trọng vai trò của nhận thức con người trong quá trình thích
ứng.
Thuyết hành vi đã có những đóng góp nhất định vào việc giải quyết
vấn đề mặc dù chỉ vạch ra được bản chất đích thực của sự thích ứng tâm
lý ở người.
- Tâm lý học hoạt động nghiên cứu về vấn đề thích ứng:
Tâm lý học hoạt động giải quyết vấn đề theo hướng hoàn toàn khác là
lấy triết học Mác- lê nin làm cơ sở lí luận và phương pháp để nghiên cứu đời
sống tâm lí của chủ thể. Vừa thừa nhận con người phải thích nghi với môi
trường sống như là một tồn tại tự nhiên không thể đứng ngoài sự tác động của
môi trường, đồng thời khẳng định con người là một thực thể xã hội.
Các đại diện của các nhà tâm lí học hoạt động nổi tiếng Vwgotxki,
Leonchev, Luria,… đã đánh dấu một thời kì phát triển của tâm lí học thực sự
khách quan trong nghiên cứu con người.
Vưgôtxki đã đưa ra một tư tưởng mới về bản chất của sự thích nghi
của con người. Từ quan niệm về sự thống nhất biện chứng của hai mặt tự
nhiên và văn hóa trong sự phát triển của trẻ em,, ông khẳng định: “ Con người
có một hình thức thích nghi mới và đây là cơ chế cân bằng chủ yếu của cơ thể
với môi trường, dạng thức hành vi này nảy sinh trên cơ sở tiền đề sinh vật tạo
nên một hệ thống hành vi có chất lượng khác và theo một tổ chức mới ”,
Vưgôtxki gọi dạng thức hành vi chuyên biệt người này là “ hành vi cấp cao”.
Hệ thống hành vi cấp cao ở người khác biệt hẳn về mặt chất lượng so
với hành vi của động vật. Trước hết ở kích thích tạo ra chúng. Con người có
khả năng đặc biệt là tự tạo ra các kích thích tác động vào bản than mình. Có
người còn dung các kích thích tự tạo này để làm chủ hành vi của mình. Ông
viết: “ Con người tự kiếm soát hành vi của chính mình bằng các kích thích-

phương tiện tự tạo ví dụ gieo quẻ bói toán, buộc nút,… tức là tạo ra một vật
thể để dựa vào đó mà nói ra suy nghĩ của mình hay dựa vào đó mà nhờ cái gì
đó, chẳng hạn nhớ những ngày chồng đi săn.
Các kích thích- phương tiện được Vưgôtxki coi là chìa khóa để giải
quyết vấn đề thích ứng tâm lý ở người , là vấn đề có tính nguyên tắc để phân
biệt phương thức thích ứng ở người và động vật. Ông cho rằng thích ứng theo
nguyên tắc tín hiệu là loại thích ứng chung cho cả người và động vật, nhưng
phương thức đóng vai trò chủ đạo ở người là nguyên tắc dấu hiệu. Quá trình
tín hiệu hóa phản ánh các môi quan hệ tự nhiên đảm bảo cho cơ thể đáp ứng
kích thích của môi trường. Cùng với dấu hiệu cuộc sống xã hội tạo ra tất yếu
buộc hành vi cá thể phải tuân thủ các yêu cầu xã hội. Đó là loại hành vi đặc
thù quyết định từ xã hội. Để có chúng, cá nhân còn phải lĩnh hội từ xã hội.
Mặt khác, để điều khiển hành vi còn phải có nguyên tắc chuyên biệt,
người đó là nguyên tắc tự kích thích và làm chủ bản than. Nguyên tắc có được
nhờ sự chiếm lĩnh được từ xã hội. Theo Vưgôtxki: “ mọi chức năng trong phát
triển văn hóa của trẻ xuất hiện trên vũ đại hai lần trong hai bình diện khác
nhau. Lúc đầu trong bình diện xã hội rồi sau đó trong bình diện tâm lí lúc đầu
trong mối quan hệ người ngươi với nhau, sau đó ở bản than trẻ, tức là sự
chuyên hóa từ bên ngoài vào trong, dần dần thay đổi cấu trúc và chức năng”.
Vưgôtxki đã thấy sự khác biệt cơ bản của sự thích ứng tâm lý xã hội ở người
và thích nghi sinh học ở động vật. Theo đó, sự thích ứng môi trường của trẻ ở
môi trường xã hội là một quá trình thành các dạng thực hiện cấp cao, đồng
thời thực hiện các chức năng tam lí cấp cao để trở thành chủ thể của hành vi
đó, chúng được hình thành cơ chế lĩnh hội nền văn hóa- xã hội.
Quan điểm đúng đắn của Vưgôtxki đã được các nhà tâm lý học đời
sau kế thừa.
Theo Leonchiev: “ phải nhấn mạnh riêng về sự khác biệt giữa quá
trình ấy( tiếp thu, lĩnh hội) với quá trình cá thể thích nghi với môi trường tự
nhiên vì gần như mọi người chấp nhận rằng có thể đem khái niệm thích nghi,
cân bằng với môi trường dùng nguyên vẹn vào cho sự phát triển cá thể người.

Nhưng dùng khái niệm ấy cho vào người mà không có sự phân tích cần thiết
thì chỉ làm lu mờ sự phát triển của người”.
Leonchiev chỉ rõ: “ Sự khác biệt cơ bản giữa các quá trình thích nghi
theo đúng nghĩa của nó và các quá trình lĩnh hội, tiếp thu là ở chỗ quá trình
thích nghi sinh viên là quá trình thay đổi các thuộc tính của loài và năng lực
của cơ thể và hành vi của cơ thể. Quá trình lĩnh hội hay tiếp thu thì khác. Đó
là quá trình mang lại kết quả có thể tái tạo lại được những năng lực và chức
năng người hình thành trong quá trình lịch sử.
Ông đã đưa ra khái niệm thích ứng dựa trên quan điểm hoạt động,
ông cho rằng con người không đơn thuần thích ứng với môi trường mà còn
tao ra phương tiện để tồn tại. Ông viết: “ Sự phát triển của con người cũng
mang tính chất môi trường (tức là phụ thuộc vào những điều kiện bên ngoài ),
nhưng khác với tiến hóa động vật, sự phát triển con người không phải là quá
trình thích nghi hiểu theo nghĩa của từ này”. Leonchiev cũng đã vạch ra sự
khác biệt về cơ chế của sự hình thành hành vi động vật và người. Ở người,
hành vi được hình thành bằng cơ chế lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội- lịch
sử. Trong khi ở động vật, hành vi hình thành bởi inh nghiệm loài và cá thể
trong đó sự hình thành kinh nghiệm những cá thể là đem lại hành vi loài thích
nghi với những yếu tố biến động của môi trường bên ngoài.
Sau này một số nhà tâm lý học hoạt động tiếp tục nghiên cứu vấn đề
thích ứng. D.A. Andreva đã phân biêt rõ các thích ứng và thích nghi sinh học.
Bà nhân mạnh hai khái niệm này gần nghĩa nhưng cần phân biệt chúng. Cần
hiểu thích ứng là sự thích nghi đặc biệt của cá nhân với điều kiện sống mới, là
sự thâm nhập của nó vào điều kiện đó một cách không gượng ép. Bà chỉ rõ: “
Sự thích ứng của con người phải làm sao góp phần cho con người thoát khỏi
sự phụ thuộc có tính chất nô lệ, trực tiếp vào trạng thái cơ thể mình và khả
năng tù hãm trực tiếp của cơ thể”. Bà đã phân biệt rõ thích ứng tâm lí người
vơi thích ngh sinh học, đưa khái niệm thích ứng thoát khỏi lập trường thích
nghi sinh học, xem xét nó dưới góc độ hoạt động và đặt nó hoàn toàn vào địa
hạt của tâm lý con người.

Như vậy, bằng cách tiếp cận khác về vấn đề thích ứng, các nhà tâm lú
học hoạt động đã chỉ ra được bản chất hoạt động, nội dung xã hội lịch sử, tính
tích cực và các chỉ số của hiện tượng thích ứng ở con người.
1.2 Một số nghiên cứu trong nước vê vấn đề thích ứng.
Ở nước ta đã có một số nghiên cứu bước đầu về vấn đề thích ứng trong
học tập của sinh viên đại học như của GS.TS Nguyễn Quang Uẩn,
GS.TS Nguyễn Ngọc Phú, PGS.TS Nguyễn Thạc
Vấn đề thích ứng đã được đề cấp thành các đề tài luận văn thạc si và
tiến sĩ:
Năm 1981, tác giả Bùi Ngọc Dung trong đề tài luận văn của mình
mang tên: “Bước đầu tìm hiểu sự thích ứng nghề nghiệp của giảng viên
tâm lý giáo duc”. Tác giả đã đưa ra môt số tiêu chí để đánh giá khả
năng thích ứng nghề nghiệp của giảng viên tam lý- giáo dục.
Năm 1983, Hoàng Tràn Doãn đã đề cập tới vấn đề thích ứng qua để
tài luận văn thạc sĩ: “ Sự thích ứng với học tập của sinh viên khoa văn
và toán trường đai hoc Sư phạm Hà Nội I”.
Năm 2000, Phan Quốc Lâm làm luận án tiến sĩ với đề tài: “ Sự thích
ứng với hoạt động học tập của học sinh lớp 1”.
Năm 2003, PGS.TS Trần Thị Minh Đức đã tiến hành nghiên cứu đề
tài: Nghiên cứu sự thích ứng của sinh viên năm nhất ĐHQG Hà Nôi
với môi trường đại học.
Như vậy, có rất nhiều đề tài quan tâm nghiên cứu vấn đề thích ứng
với học tập của sinh viên. Việc nghiên cứu này với mong muốn phần
nào làm rõ thực trạng thích ứng của sinh viên với hoạt đông học tập
trong môi trường đại học, qua đó có thể tìm biện pháp để giúp cho họ
thích ứng tốt để có kết quả học tập tốt.
2. Các khái niêm công cụ:
2.1. Khái niệm thích ứng:
Để làm rõ khái niệm thích ứng, chúng ta cần phân biệt rõ khái niệm thích ứng
với khái niệm thích nghi.

Trong từ điển tiếng viêt ( NXB khoa học xã hội, Hà Nội, 1994), khái niệm
thích nghi được giải thích là những biến đổi nhất định cho phù hợp với hoàn
cảnh mới, môi trường mới, còn thích ứng là những thay đổi cho phù hợp với
các điều kiện mới, yêu cầu mới.
Trong từ điển Tâm lí học của viện Tam lý học do Vũ Dũng chủ biên, thích
nghi xã hội là: 1. Quá trình thích nghi tích cực của cá nhân với những điều kiện
của môi trường xã hội mới; 2. Kế quả của quá trình trên.
Như vậy theo chúng tôi khái niệm thích nghi xã hội và khái niệm thích ứng có
thể được hiểu như nhau
Trong từ điển tam lý học do Nguyễn Khắc Viện chủ biên thích ứng và
thích nghi được dùng một mức đó là bước đầu là điều chỉnh những phản ứng
sinh lý ( thích nghi với nhiệt độ cao hay thấp, môi trường khô hay ẩm) sau là
thay đổi cách ứng xử, đây à thích nghi tâm lý.
Theo PGS,TS Trần Thị Minh Đức: Thích ứng là một quá trình hòa nhập
tích cực với hoàn cảnh có vấn đề, qua đó cá nhân đạt được sự trưởn thành về
mặt tâm lý.
Hòa nhập tích cực: là sự chủ động thay đổi bản than và cải tạo hoàn cảnh
trong sự hài hòa nhất định. Cá nhân phát triển vấn đề, phân tích vấn đề liên hệ
kinh nghiệm bản than và tìm cách thay đổ bản than, cải tạo hoàn cảnh cho phù
hợp với bản thân.
Hoàn cảnh có vấn đề: Tình huống sự kiện xuất hiện không nằm trong kinh
nghiệm của cá nhân có ảnh hưởng đến cuộc sống của cá nhân, buộc cá nhân
phải huy động tiềm năng của bản thân để giải quyết.
Sự trưởng thành về mặt tâm lý xã hội là sự thoải mái bên trong của mỗi cá
nhan, sự phát triển hài hòa và làm chủ trong các mối qun hệ xã hội.
Quá trình thích nghi diễn ra theo ba mức độ:
Mức độ 1: Cá nhân hòa đồng với nhóm, tổ chức bằng cách điều chỉnh
các nhu cầu, suy nghĩ,… của mình theo các chuẩn mực.
Mức độ 2: Cá nhân có những sang kiến từng bước góp phần thay đổi
chuẩn mực.

Mức độ 3: Là mức độ cao nhất và cũng là mục tiêu của cùng quá
trình thích ứng cần đạt tới đó là cá nhân làm thay đổi hệ thống chuẩn mực xây
dựng hệ thống chuẩn mực va có những biện pháp để duy trì chuẩn mực.
Để làm rõ hai khái niệm thích nghi và thích ứng, chúng ta cần tìm hiểu cơ
chế của sự thích ứng. Cơ chế của sự thích ứng là sự lĩnh hội nhũng kinh
nghiệm xã hội- lịch sử theo nguyên tắc chuyển từ ngoài vào trong, để hình
thành những cấu tạo tam lý mới cho phép cá nhân có những hành vi, ứng xử
đáp ứng được đã hỗ trợ điều kiên sống và hoạt động mới.
Như vậy, Thích ứng tâm lí là một quá trình con người luôn tích cực chủ
động hòa nhập, lĩnh hội các điều kiện, các yêu cầu, phương thức mới của hoạt
động nhằm đạt được mục đích của hoạt động đã đề ra. Thông qua đó chủ thể
của hoạt động liên tục phát triển và hoàn thiện về mặt nhân cách, đáp ứng
những yêu cầu của xã hội.
2.2 Khái niệm sinh viên:
Thei hai cuốn địa từ điển tiếng viêt ( Nguyên Như Ý) và từ điển tiếng
việt( Hoàng Phổ chủ biển) thì sinh viên được hiểu là người đang học ở
bậc đại học.
Sinh viên la môt nhóm người có vị trí chuyên tiếp, chuẩn bị cho một
đôi ngũ tri thức có trình độ và nghê nghiệp tương đối ổn cao trong xã
hội. Họ sẽ là nguồn dữ trữ chủ yếu cho đội ngũ những chuyên gia theo
các nghê nghiệp khác nhau trong cấu trúc của tầng lớp tri thức xã hội.
2.3. Khái niệm về hoạt động học tập:
là hoạt động trong đó diễn ra quá trinh người học tích cực, tự giác
chiếm lĩnh khái niệm khoa học dưới sự điều khiển sư phạm của giáo viên.
2.4. Khái niệm thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên
Theo Hoàng Trần Doãn: : “ thích ứng học tập là một quá trinhg thích
nghi đặc biệt của cá nhân đối với điều kiệ mới, là sự thâm nhập của cá nhân vào điều kiện
mới một cách thuần thục và chính trong quá trình hoạt động có đối tượng như một chủ
thể động”.
Trong bài viết “ giáo dục- nhân tố quyết dịnh hình thành nhân cách trẻ em” có viết:

“ thích nghi với hoạt động học tập là quá trình làm quen thâm nhập liên tục chủ động tích
cực của người học vào môi trường hoạt đông nhằm lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội-
lịch sử tích lũy trong học tập. tri thức kĩ năng,kĩ xảo, các quy tắc chuẩn mực của lối sống,
hành vi,…
Như vậy, thích ứng vớ hoạt đông học tập có thể được hiểu là một quas trình người
sinh vien tích cực chủ động, hòa nhập vào các điều kiện học tập, nôi dung và phương
pháp học tập và các mối quan hệ mới so với hoạt động học tập ở phổ thong nhằm hình
thành phát triển và hoàn thiện nhân cách đáp ứng những yêu cầu của xã hội.
3. Kết quả nghiên cứu đề tài:
3.1 Thực trạng thích ứng học tập của sinh viên:
3.1.1. Sự thích ứng về mặt nhận thức:
- Sự thích ứng nhận thức về mục đích và đặc điểm của đào tạo đại học:
Nhìn chung sinh viên đã có nhận thức về mục tiêu cũng như đặc điểm quan
trọng của đào tạo ở đại học. Sinh viên đã nhận thức khá đúng đắn về mô hình
đào tạo mới ở môi trường đại học
Theo kết quả nghiên cứu trong đề tài luận văn thạc sĩ “ tìm hiêu sự thích
ứng trong hoạt động học tập của sinh viên năm nhất trường đại học khoa học
xã hội và nhân văn” của Phạm Thị Hòa thì có tới 79,3% sinh viên cho rằng học
theo nhóm theo chủ đề là đặc điểm quan trọng nhất , có 67,9% số sinh viên
chon sinh viên được chủ động sắp xếp thơi gian học tập.
Về mục đích đào tạo thi có 62,1% sinh viên nhận định rằng mục đích hang
đầu của đào tạo đại học là tăng cường chủ động, sang tạo cho sinh viên.
Theo kết quả trong để tài “ nghiên cứu sự thích ứng cả sinh viên năm thứ
nhất ĐHQGHN với môi trường đại học” của PGS.TS Trần Thị Minh Đức thì
cho thấy các mục tiêu sinh viên tự đặt ra cho bản thân có mức độ quan trọng
khác nhau, nhưng nhìn chung không có mục tiêu nào là không quan trọng đối
với sinh viên. Trong đó về mục đích “ có được kĩ năng chuyên môn được sinh
viên” xem là mục đích quan trọng nhất ( đạt điểm trung bình là 9,78, độ phân
tán thấp nhất là 1,09), mục đích có được phương pháp nghiên cứu khoa học là
mục tiêu quan trọng thứ hai, sau mục tiêu có được phương pháp nghiên cứu

khoa học là mục tiêu quan trọng thứ hai.
-Nhận thức về việc tự học:
Thời gian sinh viên lên lớp ít, sinh viên tự học là chính. Hầu hết Sinh
viên tự nhận thức được rằng học tập ở môi trường đai học thì tự học là
quan trọng. Sự chủ động, tích cực, năng động từ chính sinh viên- những
yếu tố chủ quan có tính quyết định nhất tới hiệu quả học tập của chính
các em. Sinh viên nhận thức được rằng việc tự học phụ thuộc chủ yếu
vào chính bản thân họ như sự chủ động biết cách sắp xếp thời gian,.
Nhưng yếu tố khách quan cũng có tác động trong quá trình chủ thể thực
hiện hành động.
3.1.2. Thái độ của sinh viên với hoạt động học tập:
- Thái độ của sinh viên về ngành học:
Các sinh viên có những nhận định khác nhau về ngành học và cảm
nhận khác nhau về ngành học, về trường đại học họ đang theo học. Một số sinh viên tỏ ra
thất vọng với ngành học hiện tại, số sinh viên khác thì không có cảm giác đó. Điều này
dẫn đến thái độ khác nhau của sinh viên tự xem xét mình có phù hợp với ngành học.
Theo kết quả của PGS.TS Trần Thị Minh Đức thì có 69% sinh viên thấy rằng mình phù
hợp với ngành học hiện tại, tương ứng với 60,9% không muốn chuyển ngành học khác.
Điều này cho thấy không phải tất cả sinh viên cảm thấy phù hợp với ngành học hiện tại
tất yếu sẽ dẫn đến việc họ không muốn chuyển ngành khác. Tuy nhiên cũng có sinh viên
muốn chuyển ngành học không phải vì lí do không thích hợp với ngành học hiện tại. Trên
thực tê, monh muốn chuyển ngành học không hoàn toan dồng nhất với sự kém thích ứng
và đồng thời những sinh viên không muốn chuyển ngành lại có thể thích ứng với ngành
học. Đa số những sinh viên bày tỏ không muốn chuyển ngành học là những sinh viên đã
thích ứng với ngành học hay ít ra những sinh viên này đang tự tạo ra hứng thú, động cơ
và những nổ lực cần thiết để học tập. Những sinh viên không biết mình phù hợp hay
không với ngành học hiện tại, không biết mình có nên chuyển nhành học hay không là
những sinh viên mang một tam lí mơ hồ về ngành học ít nhiều thể hiện sự thua kém thích
ứng trong hiện tại.
-Về sự sắp xếp thời gian học của nhà trường:

Sự thích ứng về thời gian học của sinh viên còn rất chậm chạp, chưa đồng
đều. Theo kết quả nghiên cứu của Phạm Thị Hòa thì có tới 55,7% sinh viên
cho rằng thời gian học, thời khóa biểu của nhà trường sắp xếp không thích
hợp, Sinh viên bày tỏ thái độ khó khăn trong việc đăng kí môn học, và
không hài long với chính thời khóa biểu của mình.
-Về bài giảng, bài tập của thầy cô giáo:
Sinh viên có thái độ thích ứng với bài giảng của giảng viên đặc biệt
là những giảng viên có phươn phá giảng dạy gây hứng thú dễ hiểu, giúp
sinh viên hinh thành được kĩ năng , phương pháp hoc tập. Theo nghiên
cứu Phạm Thị Hòa trong đề tài luận văn thạc sĩ của mình thì có 38,6%
số sinh viên được biết là bài giảng của giảng viên giúp các bạn hình
thành được phương pháp kĩ năng học tập.; có 38,5% sinh vin nhận thấy
là bài giảng rất sát với nội dung. Bên cạnh đó 16,4% sinh viên thấy bài
giảng của giảng viên qua lan man.
Như vậy những sinh viên có thái độ tích cực đối với ngành nghề, với thời
gian học tập cũng như bài giảng của giảng viên đều có sự thích ứng hoc tập tốt hơn.
3.1.3 Hành vi thích ứng của sinh viên với hoạt động hoc tập:
- Hoạt đông học tập trên lớp của sinh viên:
Được thể hiện qua nội dung học tập, phương tiện học tập, và phương pháp học
tập. Những sinh viên tiếp thu tốt những nội dung học tập, sử dụng các phương tiện học
tập linh hoạt, có phương pháp học tập phù hợp thì sẽ khả năng thích ứng với học tập sẽ
cao hon những sinh viên khác.
-Hoạt động tự học:
Thể hiện ở việc sinh viên tìm kiếm tài liệu, lập kế hoạch học tập, làm
nhóm. Những sinh viên găp khó khăn trong việc tự tìm kiếm tài liệu,
lập kê hoạch hay làm việc nhóm đều thể hiện sự khó khăn trong
việc thích ứng trong học tập.
-Mối quan hệ với thầy cô, bạn bè:
Hầu hết mối quan hệ của sinh viên với bạn bè ở môi trường đại học
thể hiện sự gần gũi hơn với thầy cô. Sinh viên đa phần gặp thầy cô để

trao đổi về những vấn đề khó khăn trong học tập.
3.2 Yếu tố ảnh hưởng tới sự thích ứng học tập của sinh viên
3.2.1 Yếu tố chủ quan:
Yếu tố chủ quan ảnh hưởng không nhỏ tới sự thich ứng của sinh viên
trong hoạt động học tập. Những sinh viên chưa có sự thích ứng tốt do
nhiều nguyen nhân chủ quan như là do chưa tâp trung nghe giảng, chưa có
phương pháp học tập tốt,
3.2.2 Yếu tố khách quan:
Bên cạnh yếu tố chủ quan thì khách quan cungc đóng vai trò quyết
định, có nhiều nguyên nhân như do lớp quá đông, trang bị sách tham
khảo, thiết bị vật chất còn nhiều hạn chế,…
KẾT LUẬN
Thích ứng tâm lý là một quá trình cá nhân tích cực củ động hòa nhập, lĩnh
hội các điều kiện và phương thức mới của hoạt động nào đó. Thông qua
đoa, chủ thể hoạt động và phát triển ,hoàn thiện nhân cách nhằm đáp ứng
được yêu cầu mới của xã hội.
Có thể nói thích ứng trong hoạt động học tập của sinh viên là quá
trình sinh viên tích cực chủ đông hòa nhập vào các điều kiện học tập, nôi
dung, phương pháp và các mối quan hệ mới. nhằm hình thành, phát triển
và hoàn thiện nhân cách đáp ứng những yêu cầu xã hội.

.

×