Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

QUẢN lý CHẤT THẢI NGUY hại NGÀNH GIẤY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.07 KB, 45 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP HCM
BÁO CÁO TIỂU
LUẬN
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG HỆ
THỐNG QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY
HẠI CHO NHÀ MÁY GIẤY
GVHD: TH.S VŨ HẢI YẾN
NHÓM 11: LÊ THỊ HOÀI
NGUYỄN THỊ NGỌC MAI
HỒ HOÀNG THÁI
1
CHƯƠNG I
GIỚI THIỆU VỀ NGÀNH SẢN XUẤT GIẤY
1. Giới thiệu ngành sản xuất giấy ở Việt Nam.
Ngành giấy là một trong những ngành được hình thành từ rất sớm tại Việt Nam,
khoảng năm 284. Đây là một trong những ngành quan trọng trong nền kinh tế quốc dân,
đóng góp một phần giá trị GDP của cả nước, phục vụ trực tiếp cho sự phát triển văn hóa,
giáo dục, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Nhu cầu tiêu dùng giấy cả nước năm 2012 ước khoảng 2,9 triệu tấn giấy các loại.
Trong đó giấy in, giấy viết ước khoảng 585 nghìn tấn, giấy in báo là
70.000 tấn, giấy bao bì công nghiệp là 1,79 triệu tấn, giấy tissue là 83,1 nghìn tấn, v.v
Năm 2013, nhu cầu tiêu dùng giấy các loại của cả nước đạt trên 3 triệu tấn, tăng nhẹ so
với mức tiêu thụ của năm 2012.
Hiện cả nước có khoảng 500 nhà máy giấy, nhưng đa số còn ở quy mô nhỏ và
trung bình, công nghệ đã lỗi thời. Thời gian qua, dù một số dự án lớn trong ngành công
nghiệp giấy được triển khai như dự án nhà máy bột giấy tại Tuyên Quang (công suất
130.000 tấn/năm), nhà máy bột giấy Phương Nam, v.v nhưng theo các đơn vị này thì
cho đến nay các dự án vẫn gặp nhiều khó khăn về vốn, nguyên liệu, v.v
Bộ Công Thương dự báo, năm 2013 sản lượng giấy trong nước dự kiến sẽ đạt 2,18
triệu tấn giấy các loại, tăng 17,7 % so với năm 2012. Cộng thêm khoảng 1,3 triệu tấn giấy


nhập khẩu, thì nguồn giấy tại thị trường trong nước sẽ khá dồi dào.
Đến năm 2020 thì nhu cầu giấy sẽ đạt 3,6 triệu tấn. Nhu cầu sử dụng giấy tương
đối lớn nhưng khả năng đáp ứng tiêu dùng trong nước của toàn ngành giấy là 70 %, còn
lại vẫn phải nhập khẩu.
Nước thải, lignin là những vấn đề môi trường chính đối với ngành sản xuất giấy.
Việc xử lý là bắt buộc trước khi thải ra môi trường. Bên cạnh đó, phát thải khí từ nồi hơi,
chất thải rắn trong quá trình nấu, bùn thải của hệ thống xử lý nước thải cũng là những vấn
đề môi trường cần được quan tâm. Hiện tại chiến lược phát triển ngành giấy và bột giấy
2
Việt Nam là khuyến khích việc thành lập các doang nghiệp sản xuất bột giấy công suất
100.000 – 150.000 tấn/năm trở lên và các nhà máy giấy có công suất 200.000 – 250.000
tấn/năm. Hiệp hội Giấy Việt Nam đang xúc tiến xây dựng tiêu chuẩn phát thải môi trường
của ngành, đồng thời đề xuất cắt giảm hỗ trợ đối với các cơ sở sản xuất có quy mô dưới
30.000 tấn/năm.
2. Khái quát về sản xuất giấy.
2.1 Các loại nguy ê n liệu giấy :
Nguyên liệu để làm giấy trước tiên phải có tính chất sợi chúng có khả năng đan
kết và ép thành dạng tấm đồng nhất.
Tất cả các loại thực vật có xơ sợi đều có thể sử dụng cho công nghệ sản xuất giấy, các
loại nguyên liệu này đều có thành phần hoá học đáng quan tâm là lignin, hemicellulose
và cellulose.
Nguyên liệu thực vật bao gồm rất nhiều loại. Để đảm bảo chất lượng giá trị kinh tế
khi sản xuất giấy ta quan tâm đến một số loại nguyên liệu thích ứng với công nghiệp giấy
cũng như điều kiện trồng trọt ở nước ta. Căn cứ vào tính chất của từng loại thực vật
người ta phân ra những nhóm sau đây:
● Gỗ lá kim : là nhóm cây có thời gian sinh trưởng lâu năm, hàm lượng lignin thấp từ 16-
24%, độ dài sơ sợi bình quân 2- 4,5 mm. Đây là nguyên liệu để sản xuất giấy in cao cấp
● Gỗ lá rộng :như bạch đàn, tràm, bồ đề…hàm lượng lignin từ 27-33 % sơ xợi ngắn hơn
khoảng từ 0,9 -1,5 mm
● Cây họ trúc : như tre ,nứa, lồ ô hàm lượng lignin từ 10-20 % độ dài sơ xợi từ 1,1-2,3

mm đây là nguồn nguyên liệu chủ yếu ở nước ta
● Cây thân thảo : rơm rạ, bã mía, lau sậy là những cây ngắn ngày, hàm lượng lignin thấp,
sơ xợi ngắn
Ở Việt Nam vấn đề trồng rừng đang được đẩy mạnh và do có thành phần hoá học được
liệt kê bên dưới thì việc sử dụng gỗ trong công nghiệp giấy vẫn là vấn đề then chốt
2.2 Vùng nguyên liệu cho c á c nh à m á y giấy:
3
Khả năng đáp ứng nhu cầu thấp và không đồng đều. Vùng nguyên liệu tập trung chủ
yếu ở miền Bắc và miền Trung trong khi năng lực sản xuất lại tập trung phần lớn ở miền
Nam.
Một điểm đáng lưu ý là, trong khi vùng nguyên liệu đều tập trung ở Miền Bắc và
Miền Trung thì năng lực sản xuất giấy tập trung lớn nhất ở Miền Nam. Do vậy, các nhà
máy sản xuất bột từ nguyên liệu nguyên nguyên thủy tại Miền Nam hiện nay đang gặp
vấn đề về nguồn nguyên liệu. Các doanh nghiệp chỉ tập trung sản xuất bột từ giấy phế
liệu. Các nhà máy giấy tại Miền Nam cũng phải nhập khẩu bột giấy với số lượng lớn do ở
Việt Nam chưa có doanh nghiệp sản xuất bột giấy thương mại.
3. Quy trình công nghệ sản xuất giấy.
3.1. Sản xuất giấy từ nguyên liệu.
Các phương pháp chính sản xuất bột giấy gồm: phương pháp hóa học (sulfat,
sulfit…), bán hóa học, nhiệt cơ.
- Phương pháp hóa học:
Sơ chế nguyên liệu → nấu bột → bểchứa → sàng, rửa → tẩy → bột giấy thành
phẩm.
- Phương pháp bán hóa học:
Gỗ nguyên liệu → ngâm tẩm trong điều kiện hóa chất/nấu → bột giấy thành phẩm.
- Phương pháp nhiệt cơ: hiệu suất bột loại này thường cao (85-90%) nhưng sử dụng
nhiều năng lượng. Bột giấy có độ bền không cao, dễ bị ố vàng…
Gỗ nguyên liệu → cắt mảnh → nghiền bột → sàng chọn → bột giấy thành phẩm.
 Nguyên lý cơ bản của các phương pháp sản xuất bột giấy bao gồm hoá học, bán
hóa học, hoá nhiệt cơ (bảng 1). Trên thực tế thường kết hợp các phương pháp nêu

trên để sản xuất các loại bột giấy theo yêu cầu tiêu thụ.
4
Bảng 1. Các phương pháp sản xuất bột giấy phổ biến.
Phương pháp Xử lý hóa học(hóa chất nấu) Hiệu suất(%)(không tẩy)
1.Hóa học
-Sunfat NaOH + Na
2
SO
3
40-55
-Soda Na
2
CO
3
+ NaOH 40-55
-Sunfit Sulfit axit 40-60
-Bisunfit Mg - sulfit 45-60
2.Bán hóa học
-Sunfit trung tính
Na
2
SO
3
+ Na
2
CO
3
+ Na
2
HCO

3
65-90
-Sunfat NaOH + Na
2
S 75-85
-Soda Na
2
SO
3
+ NaOH 65-85
-Sunfit Mg-Sunfit 60-90
3.Hóa nhiệt cơ
-Sunfat NaOH + Na
2
S 55-60
-Soda Mg – Sulfit 55-70
-Sunfit Sunfit axit 55-70
Hiện nay, trên thế giới khoảng 75% công nghệ sản xuất bột giấy là công nghệ sulfat
và sulfit do các phương pháp này có một số ưu điểm. Bột giấy sản xuất bằng hai công
nghệ này có độ bền, độ trắng cao và cũng có thể sử dụng cho nhiều loại nguyên liệu thô
như: tre, nứa và có khả năng thu hồi hóa chất nấu bằng phương pháp cô đặc – đốt – xút
hóa dịch đen để tái sinh sử dụng lại dung dịch kiềm cho công đoạn nấu.
3.2 Sản xuất giấy từ giấy loại.
Sau khi giấy loại (AOCC) được đánh tơi, lọc nồng độ cao, sàng, lọc nồng độ trung
bình, từ thiết bị phân tách sợi lần 1, dòng bột được chia thành xơ sợi ngắn và xơ sợi dài:
- Xơ sợi ngắn tiếp tục được xử lý dùng để làm lớp giữa tờ giấy.
- Xơ sợi dài tiếp tục được phân tách ở thiết bị phân tách lần hai để lại phân thành
hai loại xơ sợi.
+ Loại dài hơn được gia công tiếp và rồi lại phân thành hai nhóm xơ sợi sau khi
phân tách nóng.

+ Nhóm sợi tốt nhất được chuyển sang dây chuyền chuẩn bị sợi từ bột nguyên để
làm lớp mặt tờ giấy.
5
+ Nhóm sợi kém hơn được xử lý rồi cùng với loại sợi ngắn hơn sau lần phân tách
thứ hai ở công đoạn nghiền để làm lớp lưng tờ giấy. Xơ sợi ngắn được tách ra ở
thiết bị phân tách thứ hai được gia công để làm lớp lưng tờ giấy.
3.2. Sản xuất giấy từ bột giấy.
a) Chuẩn bị bột xeo.
Nguyên liệu được băng chuyền kiểu tấm xích cân đong rồi chuyển tải đến
máy nghiền bột thủy lực để đánh tơi ở nồng độ 4%. Sau đó dòng bột được đưa vào
thiết bị lọc thô nồng độcao để lọc những mảnh tạp chất thô (các loại rác nhựa,
thủy tinh, kim loại…, sạn cát lẫn vào trong quá trình vận chuyển, bảo quản…).
Sau đó bột được đưa vào bể chứa. Ở đây tiếp nhận thêm bột sợi dài được phân
tách từ dây chuyền sản xuất đủ tiêu chuẩn làm bột lớp mặt tờ giấy. Dòng bột tiếp
tục được đưa vào máy nghiền đĩa đôi để chổi hoá xơ sợi rồi vào bể chứa bột cho
máy xeo.
Bột sau khi xử lý được chứa trong các bể dung dịch bột lớp mặt, lớp giữa
và lớp đáy.
b). Xeo giấy
Sơ đồ công nghệ dây chuyền xeo giấy làm bao bì được trình bày trong hình 2:
6
Hình 1: Dây chuyền xeo giấy làm bao bì.
Bột xeo được các dây chuyền trong công đoạn chuẩn bị bột được chứa trong các
bể
bột xeo lớp mặt, bột xeo lớp lưng và bột xeo lớp giữa cho tờ giấy.
Từ bể chứa riêng biệt ở công đoạn chuẩn bị bột, từng loại bột xeo được đưa vào bể
chứa đầu máy là bể chứa lớn có khuấy liên tục dung để chứa bột sau khi đã phối trộn. Tại
bể chứa đầu máy này, các chất phụ gia được bổsung và phối trộn với bột giấy để tăng
cường thêm những tính chất cần thiết cho tờ giấy.
Bơm quạt là một bơm công suất lớn dùng để bơm dòng bột đã hoà loãng ở nồng độ

thấp thích hợp khi vào thiết bị tinh lọc và sàng chọn trước khi lên máy xeo.
Sau khi được tinh lọc và sàng tinh thì dòng bột được hoà loãng tới nồng độ khoảng
0,5% rồi bơm vào thùng đầu của máy xeo để xeo giấy.
7
4. Máy móc thiết bị.
Đối với ngành công nghiệp sản xuất giấy và bột giấy thông thường máy móc thiết
bị được đầu tư cho các công đoạn từ khai thác nguyên liệu, nguồn vật liệu thô đến sản
phẩm phụ thuộc vào tính chất công việc ( khai thác, vận chuyển…) và công nghệ sản
xuất.
Các phương tiện vận chuyển có thể là xe ô tô tải, tàu, các loại thuyền bè. Những
phương tiện vận chuyển này cũng được sử dụng để chuyển giấy thành phẩm đến nơi
tiêu thụ.
Các hạng mục công trình chủ yếu sử dụng để sản xuất giấy và bột giấy được trình
bày ở bản 2 và bảng 3 dưới đây:
Bảng 2: Các hạng mục công trình chủ yếu sử dụng để sản xuất giấy và bột giấy.
1. Sản xuất hóa chất
8. Sân bãi nguyên liệu
2. Cơ điện
9. Kho tàng
3. Động lực
10. Bến cảng
4. Sản xuất bột giấy
11. Đường sắt
5. Xeo giấy
12. Đường bộ
6. Hệ thống cầu cống, chuyển tải hơi,
điện nước và hóa chất
13. Điều hành sản xuất( có thể là phòng
điều khiển tự động)
7. Xưởng sửa chữa ô tô và các phân

xưởng vận tải, bốc dỡ
14. Nhà hành chính
Bảng 3: Các thiết bị chủ yếu sử dụng để sản xuất giấy và bột giấy.
Thiết bị Công suất( đơn vị)
Xử lý nước M
3
/h
Lò hơi FCB Tấn hơi/h
Tua bin ngưng MW/h
Tua bin đổi áp MW/h
8
Máy xeo giấy Tấn
Nồi nấu bột Tấn/năm
Lò hơi thu hồi kiềm Tấn hơi/năm
Phân xưởng hóa chất Tấn/năm
CHƯƠNG II
TỔNG QUAN VỀ CHẤT THẢI NGUY HẠI VÀ CÁC BIỆN PHÁP
XỬ LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI
1. Định nghĩa chất thải nguy hại.
9
Định nghĩa trong Nghị Định về quản lý chất thải rắn số 59/2007/NĐ-CP:
“CTRNH là chất thải có chứa các chất có một trong các đặc tính gây nguy hại trực tiếp
(dễ cháy, dễ nổ, làm ngộ độc, dễ ăn mòn, dễ lây nhiễm và có đặc tính gây độc hại khác),
hoặc tương tác với các chất khác và gây nên các tác động nguy hại đối với môi trường và
sức khỏe con người”.
Cũng như các loại chất thải khác, thành phần CTNH rất đa dạng bao gồm các chất
hữu cơ, vô cơ hoặc có khi kết hợp cả hai. Mức độ nguy hại của các chất đôi khi cũng
khác nhau tùy thuộc vào liều lượng và khả năng gây độc hại của một số chất độc hại
trong đó. Thậm chí tính chất nguy hại của chất thải nguy hại còn được thể hiện trong điều
kiện môi trường như PH, nhiệt độ, áp suất, độ ẩm nhất định nào đó.

2. Nguồn gốc chất thải nguy hại
CTNH phát sinh từ các nguồn sau :
 Các hoạt đôïng sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.
 Các hoạt động sản xuất nông nghiệp.
 Các bệnh viện, trung tâm Y tế.
 Các dịch vụ đặc biệt như : các trạm xăng, dầu, các garage bảo trì xe ô tô, cửa hàng
hóa chất BVTV…
 Trong sinh hoạt.
Công nghiệp:
Ngành công nghiệp hoá chất (sản xuất ác quy, pin, axít, kiềm, dung môi, sơn keo,
mỹ phẩm, chất tẩy rửa, dược phẩm, thuốc nhuộm, phân hoá học, thuốc trừ sâu…) ngành
chế biến dầu mỏ, ngành dệt nhuộm, ngành thuộc da, ngành chế biến gỗ, ngành luyện kim,
khai khoáng,ngành xi mạ, ngành sản xuất linh kiện điện tử
Bệnh viện:
Do các hoá chất sử dụng trong bệnh viện bao gồm: formaldehit, phenols thường
dùng làm các chất khử trùng, thuỷ ngân thường được dùng trong nhiệt kế, hoặc thiết bị để
đo huyết áp. Có thể là do sự sử dụng một cách lãng phí (sử dụng hoá chất một cách lãng
phí, vứt bỏ các dụng cụ y học như: kim tiêm, gạc, băng y tế…) các bệnh phẩm, các bộ
phận, những chất lỏng của con người.
10
Từ sinh hoạt:
Chủ yếu là do sử dụng không đúng mức, và do sự thải bỏ của các vật dụng sau khi sử
dụng từ các hộ gia đình bao gồm: những nguồn pin cũ, các hoá chất tẩy rửa, dụng cụ y tế,
mĩ phẩm, các chất bảo vệ…
3. Phân loại chất thải nguy hại.
3.1 Phân loại theo khả năng xử lý
Để dễ dàng áp dụng các phương pháp xử lý. Ví dụ như, chất thải có chứa hợp
chất Cr
3+
lớn hơn 1% trọng lượng, bắt buộc phải dùng phương pháp hóa học – oxy hóa để

xử lý.
3.2. Phân loại theo tính chất nguy hại của chất thải
Ứng dụng nhằm bảo đảm an toàn khi vận chuyển, tồn trữ CTNH. Ví dụ, những
CTNH có khả năng dễ cháy, nổ, lây nhiễm, bay hơi, thăng hoa, dung môi hữu cơ dễ bay
hơi, acid, kiềm, thuốc trừ sâu, bệnh phẩm đều được phân loại riêng trước khi vận chuyển
và tồn chứa.
3.3. Phân loại theo mức độ độc hại của chất thải
Để phòng tránh bị ngộ độc trong khi tiếp xúc với chất thải. Cách phân loại này
đặc biệt quan trọng đối với một số hóa chất có chứa độc cấp tính. Ví dụ như: các loại
muối xianua, hợp chất clo mạch vòng, các hợp chất của Pb, Hg.
3.4. Phân loại chất thải dựa vào loại hình công nghiệp
Xem xét quy trình công nghệ người quản lý dễ dàng nhận dạng được CTNH
ngay từ khâu sản xuất. Ngoài ra, cách phân loại này còn đóng vai trò quan trọng trong
việc khảo sát thành phần và khối lượng CTNH theo từng ngành, để dự báo tải lượng phát
sinh ở phạm vi lớn hơn. Thông qua cách phân loại này có thể nhận dạng một số ngành
công nghiệp điển hình sẽ phát sinh CTNH như: Công nghiệp hóa dầu (sản xuất ăcquy,
pin, axit, kiềm, dung môi, sơn, keo, mỹ phẩm, chất tẩy rửa, dược phẩm, thuốc nhuộm,…),
ngành chế biến, ngành dệt nhuộm, ngành thuộc da, ngành chế biến gỗ, ngành chế biến
bột giấy, ngành xi mạ…
4. Tác động của chất thải nguy hại đối với con người và môi trường
11
Tác động tức thời:
Các CTNH dễ cháy nổ và các chất ăn mòn, các chất phản ứng mạnh, chất có độc tính
cao thuộc nhóm có tác động tức thời. Các chất dễ cháy nổ có thể dẫn đến các sự cố cháy
nổ gây thiệt hại về người và tài sản, gây đình trệ sản xuất… Ngoài ra, các đám cháy cũng
giải phóng vào môi trường một lượng lớn các chất ô nhiễm, gây nên các tác động tác
động đến môi trường sống của con người và hệ sinh thái. Các sản phẩm khác của quá
trình cháy có thể là mối nguy hại khác của sự cháy nổ.
Tác động lâu dài:
Sự phát thải các thành phần chất thải nguy hại ra môi trường bên ngoài có thể thông

qua các quá trình bay hơi, lan truyền theo dòng nước, thấm. Nước mặt bị ô nhiễm kéo
theo sự ô nhiễm của đất và không khí. CTNH được chôn lấp ở những bãi rác không hợp
vệ sinh rò rỉ gây ô nhiễm đất, nước mặt và nước ngầm.
CTNH có thể ảnh hưởng trực tiếp qua con người thông qua các tuyến hô hấp, tiêu hóa
hay qua da, mắt.
5. Tổng quan các phương pháp giảm thiểu CTNH.
5.1 Tổng quan phương pháp giảm thiểu chất thải tại nguồn
Giảm thiểu chất thải tại nguồn là các biện pháp quản lý và vận hành sản xuất, thay đổi
quy trình công nghệ sản xuất nhằm giảm lượng chất thải hay độc tính của chất thải.
a. Cải tiến trong quản lý và vận hành sản xuất
Cải tiến cách thức vận hành cần thực hiện trong tất cả các lĩnh vực sản xuất như sản
xuất, bảo trì, vận hành, sử dụng và lưu trữ vật liệu thô, sản phẩm, lưu giữ và quản lý chất
thải. Công tác này sẽ giảm thiểu tối đa việc tạo thành các sản phẩm bị lỗi kỹ thuật, kém
chất lượng cũng như sự rơi vãi của nguyên vật liệu, chất thải trong nhà xưởng. Bên cạnh
đó việc quản lý hợp lý có thể giảm đáng kể sự nhiễm bẩn của nguyên liệu, sản phẩm cũng
như các nguyên liệu không cần thiết trong sản xuất.
b. Thay đổi nguyên liệu đầu vào
12
Thay đổi nguyên liệu có tính nguy hại bằng các thành phần ít độc hơn hay không độc
hại góp phần giảm lượng CTNH sinh ra trong nhà máy. Ví dụ ngành in thay thế mực in
có dung môi hữu cơ bằng mực in có dung môi là nước.
c. Thay đổi về kỹ thuật, công nghệ
Cải tiến quy trình sản xuất: Là cải tiến quy trình vận hành, thiết bị sản xuất và chế độ
bảo trì hợp lý máy móc, thiết bị. Công việc này sẽ giúp giảm thiểu lượng nước thải sinh
ra do có sự cố trong sản xuất cũng như giảm các thao tác thừa và các công đoạn thừa phát
sinh chất thải trong toàn bộ quy trình.
5.2 Phương pháp lưu giữ và phân loại tại nguồn
CTNH sau khi được thải bỏ tại các cơ sở sản xuất sẽ được cơ sở đó phân loại riêng
từng thành phần chất thải nguy hại, chất thải có khả năng tái chế, tái sử dụng, tái sản xuất
tạo ra sản phẩm mới. Từng loại chất thải sau khi được phân loại này được chứa đựng

trong các dụng cụ chuyên dụng riêng biệt sau đó được nhân viên thu gom và vận chuyển
đến trạm trung chuyển chất thải để đưa đi xử lý.
5.3 Tái sử dụng, tái chế và tái sinh CTNH
a. Tái sử dụng
Tái sử dụng là việc đưa vào sử dụng lại các chất thải hay các sản phẩm nhiều hơn
một lần. Các sản phẩm sau khi sử dụng không bị thải bỏ mà được sử dụng lại.
b. Tái chế
Tái chế là các hoạt động bao gồm phân loại các chất thải như nhựa, plastic, sắt,
đồng,…từ dòng chất thải và sử dụng chúng như nguyên liệu sản xuất ra các sản phẩm,
chất lượng các sản phẩm này có thể kém hơn các sản phẩm ban đầu. Nói cách khác, tái
chế là hoạt động thu gom lại từ chất thải các thành phần có thể sử dụng tái chế thành các
sản phẩm mới sử dụng lại cho các hoạt động sinh hoạt và sản xuất.
c. Tái sinh
Tái sinh là việc tách các nguyên liệu hoặc năng lượng có giá trị kinh tế từ dòng
thải. Cũng có thể coi hoạt động tái chế như hoạt động tái sinh chất thải thông qua:
13
− Tái sinh sản phẩm chuyển hóa hóa học: Chủ yếu dùng các phương pháp đốt
chuyển hóa thành các sản phẩm khí đốt, hơi nóng và các hợp chất hữu cơ;
− Tái sinh các sản phẩm chuyển hóa sinh học: Chủ yếu thông qua quá trình lên men,
phân hủy chuyển hóa sinh học để thu hồi các sản phẩm như phân bón, khí metan,
protein, các loại cồn và nhiều hợp chất hữu cơ khác;
− Tái sinh năng lượng từ các sản phẩm chuyển hóa: Từ các sản phẩm chuyển hóa
bằng quá trình hóa học, sinh học có thể tái sinh năng lượng bằng quá trình đốt tạo
thành hơi nước và phát điện.
6 Các biện pháp xử lý chất thải nguy hại.
Xu hướng hiện nay là thực hiện mọi cách làm giảm thiểu lượng chất thải phát sinh
và giảm tính độc hại của chất thải. Tuy nhiên, dù thực hiện mọi biện pháp giảm thiểu thế
nào đi nữa thì luôn tồn tại một lượng chất thải từ quá trình sản xuất. Vì vậy việc xử lý và
thải bỏ cuối cùng chất thải vẫn đóng một vai trò quan trọng trong việc tránh các tác động
nguy hại của chất thải đến con người và môi trường. Có rất nhiều phương pháp xử lý

nhằm làm giảm độc tính của chất thải:
Bảng 4: Các phương pháp xử lý nhằm giảm độc tính chất thải
Quá trình
xử lý
Chất thải công nghiệp Các dạng
chất thải
14
Chất ăn mòn
Hợp chất xyanua
Dung môi halogen
Dung môi phihalogen
Chất hữu cơ clo
Chất hữu cơ khác
Chất thải nhiễm dầu
PCBs
Chất lỏng nhiễm bẩn kim loại
Chất lỏng nhiễm bẩn hữu cơ
Đất ô nhiễm
Chất lỏng
Chất lỏng
Chất rắn hay dạng bùn nhão
Chất khí
Hấp thụ
bằng than
hoạt tính
X X X X X
Trao đổi
ion
X X
Chưng cất X X X X X

Điện phân X X
Thủy phân X X
Trích ly
chất lỏng
X X X X X X
Tách bằng
màng
X X X
Tách khí,
hơi
X X X X X X
Bay hơi
qua lớp
film mỏng
X X X X
Làm lạnh,
tinh thể
hóa
X X X X X X X
6.3 Các phương pháp hóa học - vật lý
Xử lý chất thải bằng phương pháp vật lý nhằm tách chất nguy hại ra khỏi chất thải
rắn bằng phương pháp tách pha.
Xử lý chất thải nguy hại bằng phương pháp hóa học nhằm thay đổi tính chất của
chất thải để chuyển nó về dạng không nguy hại.
15
a. Lọc
Là phương pháp tách hạt rắn ra khỏi dòng thải (khí, lỏng hay dòng kem nhão…)
khi đi qua môi trường xốp. Các hạt rắn được giữ lại ở vật liệu lọc. Quá trình lọc được
thực hiện nhờ chênh lệch áp xuất gây bởi trọng lực, lực li tâm, áp suất chân không, áp
suất dư.

b. Kết tủa
Là quá trình chuyển hóa chất hòa tan thành dạng không tan bằng các phản ứng hóa
học tạo tủa hay thay đổi thành phần hóa chất trong dung dịch, thay đổi điều kiện vật lý
của môi trường (hạ nhiệt độ) để giảm độ hòa tan của hóa chất, phần chất rắn tan sẽ kết
tinh. Phương pháp này thường dùng với các phương pháp tách chất rắn như lắng cặn, li
tâm, lọc.
c. Oxy hóa khử
Phản ứng oxy hóa khử là phản ứng trong đó tính chất oxy hóa của chất phản ứng
tăng lên khi tính chất oxy hóa của một chất khác giảm xuống. Chất cho điện tử là chất
khử, chất nhận điện tử là chất oxy hóa. Để thực hiện quá trình oxy hóa khử người ta trộn
chất thải với hóa chất xử lý (tác nhân oxy hóa hay khử) hay cho tiếp xúc các hóa chất ở
dạng dung dịch với hóa chất ở thể khí.
d. Bay hơi
Là làm đặc chất thải dạng lỏng hay huyền phù bằng phương pháp cấp nhiệt để hóa
hơi chất lỏng. Phương pháp này thường dùng trong giai đoạn xử lý sơ bộ để giảm lượng
chất thải cần xử lý cuối cùng.
e. Đóng rắn và ổn định chất thải
Đóng rắn là làm cố định hóa học, triệt tiêu tính lưu động hay cô lập các thành phần
ô nhiễm bằng lớp vỏ bền vững, tạo thành một khối nguyên có tính toàn vẹn cấu trúc cao.
Phương pháp này nhằm giảm tính lưu động của chất nguy hại trong môi trường; làm chất
thải dễ vận chuyển do giảm khối lượng chất lỏng trong chất thải và đóng rắn chất thải;
16
làm giảm bề mặt tiếp xúc chất thải với môi trường tránh thất thoát chất thải do lan truyền,
rò rỉ, hạn chế sự hòa tan, khử độc các thành phần nguy hại.
6.4 Các phương pháp nhiệt
Đốt là quá trình oxy hóa ở nhiệt độ cao bằng oxy không khí. Bằng cách đốt chất
thải ta có thể giảm thể tích của nó đến 80% - 90%. Nhiệt độ buồng đốt phải cao hơn
800
0
C. Sản phẩm cuối cùng của quá trình đốt là các chất không gây hại như nước, CO

2

Có 3 phương pháp đốt: Đốt bằng phương pháp phun chất lỏng, đốt thùng quay, đốt có
xúc tác.
a. Sử dụng CTNH làm nhiên liệu
Đây là phương pháp tiêu hủy chất thải bằng cách đốt cùng với các nhiên liệu thông
thường để tận dụng nhiệt cho các thiết bị tiêu thụ nhiệt: nồi hơi, lò nung, lò luyện kim, lò
nấu thủy tinh, lượng chất thải bổ sung vào lò đốt có thể chiếm 12 – 25% tổng lượng nhiên
liệu.
b. Nhiệt phân
Là quá trình tiêu hủy hay biến đổi hóa học xảy ra do nung nóng trong điều kiện
không có oxy. Quá trình nhiệt phân gồm 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: (Quá trình khí hóa) Chất thải được gia tăng nhiệt độ để tách thành phần dễ
bay hơi như hơi nước, khí cháy…ra khỏi thành phần cháy không hóa hơi và tro;
Giai đoạn 2: Các thành phần bay hơi được đốt (nhằm mục tiêu tận dụng nhiệt) ở điều
kiện phù hợp để tiêu hủy các cấu tử nguy hại.
6.5 Phương pháp sinh học
CTR cũng có thể xử lý như chất thải thông thường bằng phương pháp xử lý hiếu
khí và yếm khí. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp cần bổ sung chủng loại vi sinh thích
hợp và điều kiện tiến hành cần kiểm soát chặt chẽ hơn.
a. Quá trình hiếu khí
17
Quá trình xử lý sinh học hiếu khí là quá trình của vi sinh vật chuyển hóa các chất
hữu cơ thành các hợp chất vô cơ (quá trình khoáng hóa) trong điều kiện đủ oxy. Sản
phẩm của quá trình chủ yếu là CO
2
, H
2
O;
b. Quá trình yếm khí

Quá trình xử lý sinh học yếm khí là quá trình khoáng hóa nhờ vi sinh vật trong
điều kiện không có oxy. Công nghệ xử lý sinh học yếm khí tạo thành sản phẩm là khí
CH
4
, CO
2
(chiếm thành phần lớn) và H
2
, N
2
, H
2
S, NH
3
.
6.6 Chôn lấp an toàn CTR – CTNH
Chôn lấp là công đoạn cuối cùng không thể thiếu trong hệ thống quản lý CTNH.
Chôn lấp là biện pháp nhằm cô lập chất thải nhằm ngăn chặn sự phát tán chất thải vào
môi trường. Các chất thải nguy hại khi chôn trong bãi chôn lấp cần đáp ứng các tiêu
chuẩn sau:
− Chỉ có chất thải vô cơ (ít hữu cơ);
− Tiềm năng nước rỉ rác thấp;
− Không có chất lỏng;
− Không có chất nổ;
− Không có chất phóng xạ;
− Không có lốp xe.
Thông thường các CTNH được chôn lấp bao gồm:
− Chất thải kim loại có chứa chì;
− Chất thải thành phần có chứa thủy ngân;
− Bùn xi mạ và bùn kim loại;

− Chất thải amiăng;
− Chất thải rắn có xyanua;
− Bao bì nhiễm bẩn và thùng chứa bằng kim loại;
− Cặn từ quá trình thiêu đốt chất thải.
Khi lựa chọn địa điểm bãi chôn lấp, người quy hoạch và thiết kế phải khảo sát kỹ các yếu
tố sau:
18
− Vị trí bãi chôn lấp phải cách xa khu dân cư, khu đô thị ít nhất là 5 km;
− Địa chất khu vực phải ổn định, không có địa chấn, động đất, khả năng chống
thấm tự nhiên lớn;
− Chế độ thủy văn khu vực ổn định, không xảy ra ngập lụt;
− Địa điểm bãi chôn lấp có gần mực nước mặt, nước ngầm cung cấp cho sinh hoạt
không;
− Giao thông thoát nước có thuận tiện không.
CHƯƠNG III
CÁC CHẤT THẢI NGUY HẠI PHÁT SINH TỪ NHÀ MÁY GIẤY

1. Khái quát chung về ô nhiễm trong ngành sản xuất giấy.
19
Sản xuất giấy là một công nghệ tạo ra nhiều ô nhiễm bậc nhất so với nhiều công nghệ
khác. Lượng nguyên liệu sử dụng như xút caustic, Clo và một số hoá chất khác cùng
những phế thải rắn và lỏng vẫn còn là hai vấn nạn lớn trong công nghệ này.
Trong quá trình sản xuất giấy, hầu như tất cả lượng nước đưa vào sử dụng sẽ là lượng
nước thải ra, trong đó những yếu tốgây ô nhiễm chính đó là:
- pH cao do kiềm dư gây ra là chính.
- Thông số cảm quan (màu đen, mùi, bọt) chủ yếu là do dẫn xuất của lignin gây ra là
chính.
- Cặn lơlửng (do bột giấy và các chất độn như cao lin gây ra).
- COD & BOD do các chất hữu cơ hòa tan gây ra là chính, các chất hữu cơ ở đây là lignin
và các dẫn xuất của lignin, các loại đường phân tử cao và một lượng nhỏ các hợp chất có

nguồn gốc sinh học khác. Quá trình nấu bột giấy (bằng phương pháp sunfit hay sunfat)
cũng thải ra các
hợp chất (ở dạng lỏng) chứa lưu huỳnh, đồng thời thải ra khí SO
2
, H
2
S, các mercaptan,
các sunfua
Quá trình tẩy trắng bột giấy gây ô nhiềm môi trường nhiều nhất vì có sử dụng tới clo
(tạo ra một số hoá chất độc hại nhưfurans và dioxins) và các hợp chất của nó như
hypoclorit, clo đioxit, một số hợp chất hữu cơ, kim loại độc hại như arsenic, mangan,
selenium v.v…. Để tẩy trắng 1 tấn bột giấy cần tới 100kg clo và các hợp chất của nó
(trong đó khoảng 50% là clo phân tử). Về mặt công nghệ sản xuất, trong quá trình tẩy
trắng bột giấy, đưa bao nhiêu hợp chất clo vào thì lại thải ra bấy nhiêu. Hiện nay trên thế
giới cũng chưa có công nghệ tái sử dụng Clo trong khâu tẩy trắng bột giấy. Những chất
hữu cơ như lignin, chất bán sợi và các hóa chất dùng để làm phân rã mảnh nguyên liệu
trong nước thải là những tác nhân gây ô nhiễm nặng nếu không thu hồi được dịch đen.
Ngoài ra, trong quá trình xeo bột giấy thành giấy, các nhà máy còn thải ra những sợi
nhỏvà các chất độn như bột đá không chìm trong nước, những chất này khi thải ra sẽ hình
thành các "bãi sợi" hữu cơ, tạo quá trình lên men, tiêu hao ô-xy hòa tan trong nước, tác
động đến sự sống của sinh vật, làm mất cân bằng sinh thái.
20
So với nhiều ngành công nghiệp sản xuất khác, ngành giấy có mức độ ô nhiễm cao và
dễ gây tác động đến con người và môi trường xung quanh do ô nhiễm từ nguồn nước thải
xử lý không đạt yêu cầu. Công nghệ sản xuất giấy ở Việt Nam còn rất lạc hậu. Để sản
xuất ra một tấn giấy thành phẩm, các nhà máy phải sử dụng từ 30-100 m
3
nước, trong khi
các nhà máy giấy hiện đại của thế giới chỉ sử dụng 7-15 m
3

/tấn giấy. Sự lạc hậu này
không chỉ gây lãng phí nguồn nước ngọt, tăng chi phí xử lý nước thải mà còn đưa ra
sông, rạch lượng nước thải khổng lồ. Trong các cơ sở công nghiệp giấy và bột giấy, nước
thải thường có độ pH trung bình 9 - 11, chỉ số nhu cầu ôxy sinh hoá (BOD), nhu cầu oxy
hoá học (COD) cao, có thể lên đến 700mg/l và 2.500mg/l. Hàm lượng chất rắn lơ lửng
cao gấp nhiều lần giới hạn cho phép. Đặc biệt nước có chứa cả kim loại nặng, lignin (dịch
đen), phẩm màu, xút, các chất đa vòng thơm Clo hoá là những hợp chất có độc tính sinh
thái cao và có nguy cơ gây ung thư, rất khó phân huỷ trong môi trường. Có những nhà
máy giấy, lượng nước thải lên tới 4.000 - 5.000m
3
/ngày, các chỉ tiêu BOD, COD gấp 10 –
18 lần tiêu chuẩn cho phép; lượng nước thải này không được xử lý mà đổ trực tiếp vào
sông.
Ngoài ra, trong công nghiệp xeo giấy, để tạo nên một sản phẩm đặc thù hoặc những
tính năng đặc thù cho sản phẩm, người ta còn sử dụng nhiều hóa chất và chất xúc tác.
Những chất này nếu không được thu hồi hoặc xử lý mà xả thẳng ra sông ngòi thì vấn đề ô
nhiễm là không tránh khỏi, làm mất cân bằng sinh thái trong môi trường nước. Hiện nay,
ở các khu vực có cơ sở sản xuất giấy đang phải chịu sức ép nặng nề về ô nhiễm môi
trường, để sản xuất mỗi tấn bột giấy phải thải ra 10 tấn dịch đen. (Thành phần chính
trong dịch đen là Lignin-nhựa cây).
Ví dụ: Riêng khu vực sông Cầu, chỉ với 3.500 m
3
nước xả mỗi ngày, nhưng ngành
giấy đã là thủ phạm số một gây ô nhiễm nặng cho dòng sông này,trong đó nhà máy giấy
Hoàng Văn Thụ đứng đầu bảng.
2. Chất thải nguy hại trong ngành sản xuất giấy.
Trong quá trình sản xuất giấy, phần lớn chất thải nguy hại phát sinh ra từ công đoạn
sản xuất bột giấy. Nguồn nguyên vật liệu ban đầu và hóa chất sử dụng sẽ ảnh hưởng đến
thành phần và tính chất của chất thải.
21

Ngoài ra, trong giai đoạn hoạt động nhà máy sản xuất giấy và bột giấy sẽ phát sinh
các loại chất thải nguy hại khác, bao gồm chất thải từ quá trình bảo quản gỗ, nguyên vật
liệu, bao bì gỗ
Bên cạnh đó, nó còn phụ thuộc vào mức độ cơ khí hoá của trang thiết bị máy móc,
quá trình sản xuất, nguyên liệu sử dụng cũng như khả năng tuần hoàn tái sử dụng nước
cho sản xuất.
Căn cứ theo quyết định 23/2006/QĐ-BTNMT về việc ban hành danh mục các chất
thải nguy hại trong đó có ngành chế biến gỗ và sản xuất giấy, các chất thải nguy hại phát
sinh trong ngành sản xuất giấy được thể hiện trong bảng 5.
Bảng 5: Bảng thống kê các chất thải nguy hại phát sinh trong ngành sản xuất giấy.
Tên chất thải nguy hại Mã chất thải nguy hại
1.Hóa chất có chứa hợp chất Halogen thừa, tràn đổ. 03 02 02
2.Bùn thải từ quá trình xử lý nước thải 12 06 06
3.Dầu động cơ, mỡ bôi trơn máy móc, thiết bị rò rỉ, tràn đổ. 17 02 03
4.Giẻ lau dính dầu 18 02 01
5.Bao bì chứa hóa chất, dầu mỡ thải 18 01 01
6.Mẩu, mắt nguyên liệu thừa có chứa chất bảo quản nguy hại. 03 01 04
2.1 Hóa chất có chứa hợp chất Halogen thừa, tràn đổ.
Các hóa chất có chứa hợp chất halogen phát sinh bao gồm các loại như: Clo, Peroxit,
Clodioxit, Natrihypoclorit phát sinh trong công đoạn nấu, tẩy trắng. Bản chất và tính
chất nguy hại của các hóa chất này được thể hiện trong bảng 6,7,8,9.
Bảng 6: Đặc tính và mức độ nguy hiểm của hóa chất Clo trong sản xuất giấy.
Hình thức sử
dụng
Clo sẽ chuyển giao bột giấy trong các nhà máy như là một chất lỏng gây áp và
nó sẽ bốc hơi trước khi cho bột giấy vào.
Mức nguy hiểm
của phản ứng
- là chất oxi hoá mạnh: nó có thể phản ứng mãnh liệt với các nguyên vật liệu
dễ cháy.

- có thể phản ứng với H
2
S, CO và SO
2
tạo thành những khí ăn mòn gây phá
huỷ và rất độc.
22
- ở trạng thái ướt nó ăn mòn rất nhanh đối với sắt thép.
- ở trạng thái khô nó phản ứng rất mãnh liệt với Titan.
Mức nguy hiểm
tới sức khỏe
- 3,5 ppm khí : Giới hạn dò tìm mùi.
- 5 - 8 ppm khí : kích thích rất mãnh liệt đến mắt, mũi, bộ phận hô hấp.
- 30-50 ppm khí : Có thể làm chết người trong một giờ.
Bảng 7: Đặc tính và mức độ nguy hiểm của hóa chất Clodioxit(ClO
2
) trong sản xuất
giấy.
Hình thức sử
dụng
Clo dioxit được dùng để sản xuất bột giấy trong các nhà máy, và nó được
dùng trong các phân xưởng dưới dạng dung dịch pha loãng.
Mức nguy hiểm
của phản ứng
- Sự phân huỷ dễ cháy nổ do nồng độ của clo dioxit quá cao.
- Sau khi phân huỷ, sản phẩm tạo thành là khí Cl
2
và O
2
. Khí Cl

2
là khí ăn
mòn gây phá huỷ và rất độc.
Mức nguy hiểm
tới sức khỏe
- ppm: giới hạn nồng độ này có thể chấp nhận được trong 8 giờ.
- Nồng độ cao: những hiệu ứng ăn mòn cục bộ.
Bảng 8: Đặc tính và mức độ nguy hiểm của hóa chất Peroxit(H
2
O
2
) trong sản xuất
giấy.
Hình thức sử
dụng
50% dung dịch sẽ chuyển giao bột giấy trong các nhà máy và nó được sử
dụng ở dạng pha loãng đến 2% trước khi sử dụng.
Mức nguy hiểm
của phản ứng
- Trong quá trình phân huỷ các chất xúc tác thì nó sẽ bốc hơi (do hơi nóng) và
sẽ phóng thích oxi.
- Là chất oxi hoá mạnh (khi nồng độ cao có thể phản ứng mãnh liệt).
- Khi cháy H
2
O
2
sẽ giải phóng oxi.
Mức nguy hiểm
tới sức khỏe
- Sự cô đặc dung dịch là nguyên nhân có thể làm cháy da và niêm mạc.

- Dung dịch có nồng độ trên 8% thì không độc và không ảnh hưởng đến da.
- Dung dịch có nồng độ nhỏ hơn 3 % thì không ảnh hưởng đến mắt.
23
Bảng 9: Đặc tính và mức độ nguy hiểm của hóa chất NaClO hoặc CaOCl
2
trong sản
xuất giấy.
Hình thức sử
dụng
Dung dịch hypoclorit được pha loãng bởi khí clo với dd NaOH hay dd
Ca(OCl)
2
. Nồng độ của dd này đã biểu thị đương lượng gam của Cl
2
, thường
từ 30-40g/l.
Mức nguy hiểm
tới sức khỏe
- Là dd oxi hoá có tính chất kiềm nên dễ ăn da tay.
- Ngoài ra nó làm thiệt hại những loại vải dệt mỏng do có hiệu ứng ăn mòn
cục bộ.
Trong quá trình pha chế, trộn hóa chất với vật liệu có thể bị tràn , đổ ra ngoài. Với đặc
tính và mức độ nguy hiểm như trên thì các hóa chất này được xếp vào loại chất thải nguy
hại trong ngành sản xuất giấy và cần có biện pháp quản lý, xử lý phù hợp.
2.1 Bùn thải từ qu á tr ì nh xử l ý nước thải.
Như đã trình bày ở phần 1, nước thải trong ngành sản xuất giấy chứa hàm lượng chất
ô nhiễm khá cao và thành phần chứa các kim loại, lignin ( dịch đen), phẩm màu, xút, các
chất đa vòng thơm Clo hoá là những hợp chất có độc tính sinh thái cao và có nguy cơ gây
ung thư, rất khó phân huỷ trong môi trường. Chính vì vậy mặc dù đã qua quy trình xử lý
nước thải nhưng 1 lượng khá lớn các hóa chất độc hại này còn tồn đọng lại trong bùn thải

hình thành sau công đoạn này.
Tùy vào công suất hoạt động của từng nhà máy sản xuất giấy cũng như phụ thuộc vào
nguồn nguyên liệu đầu vào mà hàm lượng các độc tố có trong bùn thải khác nhau.
2.3 Dầu động cơ, mỡ bôi trơn máy móc, thiết bị rò rỉ, tràn đổ.
Hiện nay, hầu hết các nhà máy giấy đều sử dụng phương pháp sản xuất công nghiệp,
mỗi công đoạn sản xuất là một thiết bị chuyên dung khác nhau, để đạt hiệu quả sản xuất
cao thì những thiết bị máy móc này cần phải được bảo trì, bảo dưỡng thường xuyên với
khối lượng dầu, mỡ bôi trơn không hề nhỏ. Bên cạnh đó phải kể đến các thiết bị hoạt
động bằng xăng, dầu. Trong quá trình làm việc hay bảo trì máy móc chắc hẳn không
tránh khỏi việc tràn đổ hay rò rỉ các loại xăng, dầu nhớt, mỡ bôi trơn ra ngoài. Đa số các
loại dầu nhớt đều có cấu trúc vòng benzen thơm, rất khó hòa tan, phân hủy. Chính vì vậy
24
mức độ nguy hiểm của nó đối với con người và môi trường cực kì cao nếu không có biện
pháp quản lý phù hợp và kịp thời.
2.3.1 Mức độ nguy hiểm của xăng, dầu:
* Mức xếp loại nguy hiểm.


Mức độ nguy hiểm
HFPA HMIS Thông tư 12/2006TT-BCN
Sức khoẻ 1 1
Độ bốc cháy 3 3 Rất dễ cháy
Độ phản ứng 0(tối thiểu) 0 Hạng nguy hiểm : 03
* Cảnh báo nguy hiểm :
- Các nguy hiểm về cháy nổ:
+ Có thể bốc cháy và kích cháy nổ bởi nhiệt , tia sáng, lửa, hoặc các nguồn kích nổ khác.
+ Điện tích tĩnh điện có thể xảy ra trong quá trình vận chuyển.
- Các nguy hiểm về sức khỏe:
+ Nhiễm độc đau nhức da nghiêm trọng.
+ Nguy hiểm nếu nuốt vào, có thể xâm nhập vào phổi và gây hủy hoại phổi.

+ Tác động của việc tiếp xúc qúa lâu có thể gây khó chịu cho mũi, họng, hệ tiêu hoá, có
thể gây đau đầu và chóng mặt, gây mê và có thể ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương.
+ Ung thư: có khả năng gây ung thư.
- Nguy hiểm đối với môi trường:
+ Độc hại cho hệ sinh thái dưới nước. có thể gây ảnh hưởng lâu dài cho môi trường
nước.
* Các đường tiếp xúc và triệu chứng
- Mắt: Khi tiếp xúc với mắt gây khó chịu, cay mắt, đau, chảy nước mắt, đỏ, sưng và giảm
thị lực.
- Thở: hơi hoặc khói từ xăng có thể gây kích thích hệ hô hấp như ho hoặc khó thở. Nếu
hít phải một lượng vượt mức tiếp xúc cho phép có thể ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung
ương gây đau đầu, chóng mặt, buồn nôn, nôn mửa, suy nhược, uể oải, rối loạn, mất
25

×