Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

ĐỀ tài những quan niệm cân đối ngân sách nhà nước và giải pháp bù đắp thâm hụt ngân sách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.35 KB, 8 trang )

TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH HỌC
ĐỀ TÀI: Những quan niệm cân đối Ngân sách nhà nước
và giải pháp bù đắp thâm hụt Ngân sách
I. Khái niệm:
- Ngân sách nhà nước: là toàn bộ các khoản thu chi
của nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo
thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
- Thâm hụt ngân sách: Thâm hụt ngân sách nhà nước
là tình trạng các khoản thu ngân sách nhỏ hơn các khoản chi.
Thâm hụt ngân sách được thể hiện bằng tỉ lệ phần trăm so với
GDP.
II. Các quan điểm về cân đối NSNN:
1. Quan điểm thứ nhất: NSNN phải cân bằng hàng năm
tức là tổng số chi không được vượt quá tổng số thu.
Biện pháp tài trợ phù hợp theo quan điểm này: giảm chi
tiêu công, vay nợ.
a) Giảm chi tiêu công: cắt hoặc giảm các khoản chi kém
hiệu quá hoặc chưa thật sự cần thiết. Triệt để tiết kiệm các khoản
đầu tư công.
Ưu điểm:
+ phù hợp cho cả mục tiêu ngắn hạn và dài hạn;
+ dễ dàng thực hiện vì nằm trong quyền quyết định của CP;
+ không tạo gánh nặng nợ cho quốc gia.
Hạn chế:
+ có giới hạn, không thể giảm chi quá nhiều;
+ dễ gây ra sự phản ứng tiêu cực từ công chúng.
b) Vay nợ:
Vay trong nước: bằng việc phát hành tín phiếu, trái phiếu
kho bạc nhà nước, trái phiếu đầu tư.
Ưu điểm:


+ duy trì việc giảm thâm hụt ngân sách mà không cần phải
tăng cơ sở tiền tệ hoặc giảm dự trữ quốc tế.
+ Tập chung được khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân
cư; tránh được nguy cơ khủng hoảng nợ nước ngoài; dễ triển
khai.
Hạn chế:
+ chứa đựng nguy cơ kìm hãm sự phát triển của các hoạt
động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế.
+ việc trả lãi trong tương lai tạo ra một gánh nặng nợ cho
chính phủ (trừ khi những thâm hụt ngân sách nhà nước này bắt
nguồn từ việc chi tiêu cho các dự án đầu tư có sức sinh lời).
Ở Việt Nam, Chính phủ thường uỷ nhiệm cho Kho bạc nhà
nước phát hành trái phiếu dưới các hình thức: tín phiếu kho bạc;
trái phiếu kho bạc; trái phiếu công trình.
Vay nợ nước ngoài: có thể được thực hiện vay từ
chính phủ các nước, các tổ chức tài chính quốc tế hoặc phát
hành trái phiếu quốc tế.
Ưu điểm:
+ không gây sức ép lạm phát cho nền kinh tế;
+ nguồn vốn với quy mô lớn, lãi suất ưu đãi.
Hạn chế:
+ gánh nặng nợ nần, nghĩa vụ trả nợ tăng lên, giảm khả
năng chi tiêu của chính phủ.
+ dễ khiến cho nền kinh tế trở nên bị phụ thuộc vào nước
ngoài; có thể phải nhượng bộ trước những yêu cầu từ phía nhà
tài trợ.
Viện trợ nước ngoài là nguồn vốn phát triển của các
chính phủ, các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức quốc tế cung
cấp cho chính phủ của một nước nhằm thực hiện các chương
trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội và hiện nay chủ yếu là

nguồn vốn phát triển chính thức ODA.
Vay nợ nước ngoài có thể thực hiện dưới các hình thức:
phát hành trái phiếu bằng ngoaị tệ mạnh ra nước ngoài, vay bằng
hình thức tín dụng
2. Quan điêm thứ 2, lý thuyết về ngân sách chu kỳ: Quan
điểm này cho rằng ngân sách nhà nước không cần cân bằng
hàng năm mà nên cân bằng theo chu kỳ, vì nền kinh tế phát triển
theo chu kỳ, có thời kỳ tăng trưởng, có thời kỳ suy thoái.
Theo quan điểm này thì nó được áp dụng trong giai đoạn
phồn thịnh hay nền kinh tế đang tăng trưởng vàviệc cân bằng
ngân sách nên theo chu kỳ tức là trong ngắn hạn nên biện pháp
tài trợ thâm hụt NS phù hợp sẽ là: giảm chi tiêu công, tăng thuế
và kiện toàn hệ thống thuế, vay nợ.
Tăng thuế và kiện toàn hệ thống thu: điều chỉnh tăng thuế
suất; hướng đến cải cách các sắc thuế, mở rộng diện chịu thuế,
kiện toàn và nâng vao hiệu quả công tác hành thu nhằm chống
thất thu thuế.
Ưu điểm:
+ tạo ra tính chủ động cho nhà nước;
+ tăng thuế thu nhập có tác dụng kích thích tăng trưởng
kinh tế.
Hạn chế:
+ Khi vượt qua giới hạn chịu đựng của nền kinh tế, tăng
thuế suất trực thu sẽ làm giảm nguồn thu từ thuế của ngân sách
nhà nước và thúc đẩy trốn thuế, lậu thuế.
+ không dễ áp dụng và rất tốn kém.
3. Quan điểm thứ 3, ngân sách cố ý thiếu hụt: Vấn đề cân
bằng ngân sách phải được giải quyết tùy thuộc vào thực trạng
nền kinh tế và sự ảnh hưởng của chính sách thu, chi tài chính
công tới nền kinh tế. Thâm hụt ngân sách cố ý sẽ mang lại hậu

quả rất nguy hại là gây ra lạm phát. Nhưng những người theo
quan điểm này lại cho rằng sự thúc đẩy hoạt động kinh tế đang trì
trệ sẽ làm nhẹ gánh nặng của ngân sách.
Quan điểm này áp dụng phù hợp trong giai đoạn nền kinh tế
đang suy thoái, biện pháp tài trợ thâm hụt NH phù hợp: giảm chi
tiêu công, vay nợ (vay nợ nước ngoài), phát hành tiền.
- Việc vay nợ trong giai đoạn này chỉ nên vay nợ nước
ngoài còn việc vay nợ trong nước thực sự là không thích hợp.
(bởi vì Nếu chính phủ huy động được nhiều tiền trong dân thì
đương nhiên phần tiền còn lại dành cho đầu tư phát triển sản
xuất kinh doanh ở khu vực ngoài quốc doanh sẽ giảm đi.
Như vậy, chưa biết chính phủ sẽ làm gì, làm như thế nào
đối với lượng tiền huy động được, nhưng xã hội hay trực tiếp hơn
là khu vực các doanh nghiệp và dân cư đó sẽ mất đi một nguồn
vốn tương ứng có khả năng dành cho đầu tư phát triển kinh tế.
Nếu các biện pháp thu hút tiền vay của chính phủ và của ngân
hàng càng có lãi suất cao thì càng tạo ra luồng tiền vốn dịch
chuyển từ các khu vực doanh nghiệp và dân cư sang hệ thống tài
chính ngân hàng mà không chảy vào sản xuất kinh doanh. Do
vậy, vay trong nước để bù đắp thâm hụt ngân sách luôn luôn
chứa đựng nguy cơ kìm hãm các hoạt động sản xuất kinh doanh
của nền kinh tế. Mục tiêu chấn hưng kinh tế của chính phủ thông
qua con đường phát hành trái phiếu, tín phiếu bị chính bản thân
giải pháp này cản trở ngay từ nguồn gốc.)
- Phát hành tiền giấy: phát hành thêm lượng tiền cơ
sở.
Ưu điểm:
+ bù đắp ngân sách một cách nhanh chóng;
+ không gây ra gánh nặng nợ cho quốc gia.
Hạn chế:

+ chứa đựng nguy cơ lạm phát, gây tác động tiêu cực đến
mọi mặt đời sống chính trị, kinh tế và xã hội.
III. Giải pháp phù hợp với VN hiện nay.
Hiện nay nền kinh tế của chúng ta đang trong giai đoạn
thoát ra khỏi tình trạng suy thoái, như vậy có thể ngầm hiểu rằng
chúng ta đang theo quan điểm thứ 3 về cân đối NSNN. Do đó giải
pháp phù hợp được đưa ra là: giảm chi tiêu công, vay nợ (vay
nợ nước ngoài).
Cụ thể việc giảm chi tiêu công:
- Chỉ đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo, hiệu
quả nhằm tạo ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế - xã hội,
đặc biệt những dự án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt
giảm, thậm chí không đầu tư.
- Mặt khác, bên cạnh việc triệt để tiết kiệm các khoản
đầu tư công, những khoản chi thường xuyên của các cơ quan
nhà nước cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi này không
hiệu quả và chưa thực sự cần thiết như chi lương, chi mua sắm
trang thiết bị cho bộ máy quản lý hành chính.
Về việc vay nợ:
- Vay nợ nước ngoài: nhận viện trợ nước ngoài hoặc
vay nợ nước ngoài từ các chính phủ nước ngoài, các định chế tài
chính thế giới như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), các tổ chức liên chính
phủ, tổ chức quốc tế
Hiện nay, VN nhận viện trợ chủ yếu là nguồn vốn phát triển
chính thức ODA.
Ngoài ra:
- Yêu cầu minh bạch: Chính phủ cần minh bạch hơn,
rạch ròi hơn về chi tiêu cho lĩnh vực công, làm rõ hiệu quả đầu tư,
tách bạch hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội, ngăn chặn chi tiêu

công theo kiểu “tiền chùa”. Việc công khai, minh bạch chi tiêu
ngân sách sẽ giúp lập dự toán ngân sách hợp lý, loại bỏ được
các khoản không thực sự cần thiết.
- Cần phân biệt giữa hỗ trợ và đầu tư, kiên quyết loại
bỏ các chính sách hỗ trợ tín dụng qua các kênh ngân hàng chính
sách, bởi một khi chính sách còn mập mờ, như các chương trình
mục tiêu quốc gia, thì hiệu quả đầu tư sẽ rất thấp, là khoảng trống
cho tham nhũng phát triển.

×