Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Một vài suy nghĩ về quan điểm thế giới quan hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (75.49 KB, 7 trang )

Một vài suy nghĩ về quan điểm thế giới quan Hồ Chí Minh
Một bộ phận quan trọng trong hệ tư tưởng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại
là quan niệm thế giới quan, là toàn bộ các quan điểm và cách thức nhìn nhận của
con người về thế giới trong tính chỉnh thể của nó, về con người và vị trí, vai trò của
con người trong thế giới đó.
Thế giới quan triết học được hình thành trên cơ sở tổng hòa tri thức khoa
học và triết lý của con người trong việc giải thích nguồn gốc của các sự vật, hiện
tượng trong thế giới tự nhiên và xã hội. Thế giới quan triết học, do đó thể hiện
trình độ phát triển rất cao của nhận thức con người về thế giới.
Quá trình hình thành và đặc điểm của thế giới quan trong tư tưởng Hồ Chí
Minh
Thứ nhất, thế giới quan của Chủ tịch Hồ Chí Minh là thế giới quan duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin được tổng hợp với các yếu tố duy vật biện
chứng trong triết học Việt Nam và phương Đông
Thế giới quan của chủ nghĩa Mác - Lênin là toàn bộ các quan điểm và cách
thức duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của con người về thế giới trong tính chỉnh
thể của nó - sau đây gọi tắt là thế giới quan Mác - Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh
tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lê-nin con đường và phương pháp giải phóng dân tộc.
Cho nên, trước tiên Người chịu ảnh hưởng của thế giới quan Mác - Lênin ở
phương diện thế giới quan duy vật lịch sử. Nói cách khác, Người tiếp cận thế giới
quan Mác - Lênin trước hết từ tính đặc trưng của triết học phương Đông, nhất là
của Việt Nam, là tư duy trực giác tổng hợp và tập trung nhắm vào vấn đề “là người
và làm người” hay vấn đề nhân sinh quan. Từ đó Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ
tiếp thu thế giới quan Mác - Lênin ở từng nguyên lý riêng lẻ, mà trước hết tiếp
nhận chủ nghĩa Mác - Lênin ở phương diện chủ nghĩa duy vật lịch sử; trong đó tập
trung giải quyết mối quan hệ giữa hoạt động tự do của con người với tính tất yếu
lịch sử theo quan điểm duy vật biện chứng. Trên cơ sở đó, Người khắc phục được
cách giải đáp chưa khoa học, có khi rơi vào duy tâm, trừu tượng và thần bí của
thuyết Thiên - Địa - Nhân hợp nhất trong thế giới quan triết học phương Đông.
Thứ hai, để hình thành thế giới quan mới, trước hết Chủ tịch Hồ Chí Minh
xây dựng tư tưởng về con người, bản chất con người và sự cần thiết phải giải


phóng con người khỏi thế giới quan cũ, xây dựng thế giới quan mới
Khi bắt đầu tổ chức tiến hành đấu tranh cách mạng, ngay trên đầu trang
nhất, số đầu tiên của báo Le Paria - Người cùng khổ, Hồ Chí Minh viết: Báo Le
Paria sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu, mục đích của nó chắc chắn sẽ đạt được:
giải phóng con người. Lúc cuối đời, trong Di chúc, Người vẫn tâm niệm, việc “đầu
tiên là công việc đối với con người”. Theo Người, “ở trong xã hội, muốn thành
công phải có ba điều kiện là: thiên thời, địa lợi, nhân hòa.
Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên thời không quan trọng
bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hòa.
Nhân hòa là thế nào?
Nhân hòa là tất cả mọi người đều nhất trí. Nhân hòa là quan trọng hơn hết”.
(1)
Để giải phóng con người khỏi thế giới quan cũ và xây dựng thế giới quan
mới, cũng như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí
Minh xuất phát từ con người hiện thực. Vì phải xuất phát từ “con người hiện thực”,
“nhân dân hiện thực” mới hình thành được thế giới quan đúng, và mới có tiền đề
hiện thực để hiểu được quá trình phát triển của lịch sử loài người. Những con
người hiện thực là đồng bào Việt Nam khi mất nước; là phụ lão, nhi đồng, thanh
niên, phụ nữ, công, nông, binh, trí thức, cán bộ, đảng viên trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Con người, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, có nhân cách với những “tính cách
riêng”, “sở trường riêng”, quyền lợi riêng, đời sống riêng. Người ta có tính tốt và
tính xấu. Mỗi con người đều có thiện và ác trong lòng. Thiện và ác không phải tự
nhiên có, mà “phần lớn do giáo dục mà ra”. Do đó, phải biết làm cho phần tốt
trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi.
Gốc rễ của việc giải phóng con người Việt Nam khỏi thế giới quan cũ là
phải giành được độc lập, tự do cho dân tộc. Nhưng giành được độc lập, tự do cho
dân tộc mà nhân dân không được hưởng sung sướng thì cũng chẳng có nghĩa lý gì
cho việc xây dựng thế giới quan mới. Vì thế, phải xây dựng chủ nghĩa xã hội để
“làm sao cho dân giàu nước mạnh”, thực hiện “công bằng hợp lý, làm nhiều hưởng

nhiều, làm ít hưởng ít, Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp
đỡ và chăm nom”, “nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân và
do nhân dân tự xây dựng lấy”
(2)
.
Còn bản thân con người phải có tài và đức; trong đó đạo đức là cái gốc làm
người (người dân, cán bộ, đảng viên, ), còn tư tưởng làm cốt của trí khôn, là bàn
chỉ nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rõ: “Cây phải có gốc, không có gốc thì
cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng
cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn
bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”
(3)
.
Từ quan niệm về tính tích cực của chủ thể, Hồ Chí Minh yêu cầu phải
“trồng người” để con người có khả năng nhận thức và cải tạo thế giới, theo phương
châm: Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có những con
người xã hội chủ nghĩa. Và sự nghiệp xây dựng đó có thể “trồng” được những con
người xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, vai trò quyết định của thực hành và sứ mệnh “cải tạo thế giới” của
thế giới quan mới
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, “chỉ có thực hành mới là mực
thước đúng nhất cho sự hiểu biết của người về thế giới. Chỉ do quá trình thực hành
(quá trình sản xuất vật chất, giai cấp đấu tranh, khoa học thực nghiệm), người ta
mới đạt được kết quả đã dự tính trong tư tưởng, và lúc đó sự hiểu biết mới được
chứng thực”
(4)
.
Ở Người, nội dung hoạt động thực hành gồm tất cả các hoạt động chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hóa và cả sinh hoạt thường nhật, để giải phóng con người khỏi

giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm và “chiến thắng mọi tính xấu trong mình ta”,
nhằm phát triển con người mới, xã hội chủ nghĩa.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, hoạt động thực hành không phải là hoạt
động trừu tượng, chung chung, không gắn với các công việc thực tế hằng ngày và
không gắn với việc bồi dưỡng chủ thể hoạt động thực hành trong những điều kiện
lịch sử - cụ thể. Nó là hoạt động giải phóng, đồng thời gắn với xây dựng, phát triển
con người, giai cấp, dân tộc và nhân loại.
Việc coi sinh hoạt thường nhật là một dạng hoạt động thực hành, hoạt động
vật chất có chủ đích, chứng tỏ Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm nhuần, vận dụng và
phát triển sáng tạo quan niệm của C. Mác về bản chất tổng hòa các quan hệ xã hội
của con người trong đời sống hiện thực. Quan niệm “chiến thắng mọi tính xấu
trong mình ta” là nhằm xây dựng ý thức tự giác của các chủ thể hoạt động thực
hành, đặc biệt ở con người xã hội chủ nghĩa.
Hoạt động thực hành, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, diễn ra trong mối quan
hệ biện chứng giữa “diện” và “điểm”, cụ thể là giữa việc thực hiện các “công việc
hằng ngày” với phong trào thi đua, giữa tấm gương “người tốt, việc tốt” với người
người thi đua, ngành ngành thi đua, giữa giải phóng và phát triển, nhằm xây dựng
xã hội mới, con người mới. Chỉ thông qua thực hành “mà tìm ra sự thật. Lại do
thực hành mà chứng thực sự thật và phát triển sự thật. Từ hiểu biết bằng cảm giác
tiến lên hiểu biết bằng lý trí. Lại từ hiểu biết bằng lý trí tiến lên thực hành lãnh đạo
cách mạng, cải tạo thế giới”
(5)
. Nói cách khác, chỉ thông qua thực hành, con người
mới phản ánh được thế giới, giải thích được thế giới, và quan trọng là cải tạo được
thế giới.
Thứ tư, thế giới quan của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hệ quan điểm duy vật về
thế giới hiện thực dựa trên phương pháp biện chứng
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh hai điểm rất quan trọng trong quá trình
nhận thức thế giới:
“Một là sự hiểu biết bằng lý trí phải dựa vào sự hiểu biết bằng cảm giác.

Nếu không có cảm giác, thì lý trí như một dòng nước, không có nguồn, một chòm
cây không có rễ; mà như thế là chủ quan. Nếu nhắm mắt, bịt tai, không nghe,
không thấy sự vật khách quan bên ngoài thì làm gì có hiểu biết. Đó là hiểu biết
theo chủ nghĩa duy vật.
Hai là hiểu biết phải tiến hóa sâu sắc, từ giai đoạn cảm giác đến giai đoạn
lý trí. Đó là hiểu biết theo phương pháp biện chứng.
Chỉ cảm giác thôi không đủ. Muốn hiểu biết toàn bộ một sự vật, hiểu biết
bản chất và quy luật nội bộ của nó, thì phải suy xét kỹ lưỡng, gom góp những cảm
giác phong phú lại, rồi chọn lọc cái nào thật, cái nào giả, cái nào đúng, cái nào sai,
từ ngoài đến trong, để tạo thành một hệ thống khái niệm lý luận. Đó là hiểu biết do
thực hành mà có và được cải tạo trong thực hành. Hiểu biết ấy đúng hơn, phản ánh
sự vật một cách hoàn toàn hơn”
(6)
.
Nhưng nếu chỉ dừng ở hệ thống khái niệm lý luận thì “hiểu biết như thế chỉ
mới là hiểu một nửa”, mà còn phải dùng sự hiểu biết ấy cải tạo thế giới. “Sự tiến
tới (phát triển) của hiểu biết chẳng những ở chỗ từ cảm giác tiến đến lý luận, mà
cốt nhất là từ lý luận tiến đến thực hành cách mạng”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích ngắn gọn, giản dị, khúc triết về nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng, sự tồn tại xã hội quyết định ý thức
xã hội, Và từ quan niệm “lấy dân làm gốc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định
rằng nhân dân không chỉ là đối tượng chủ yếu của nhận thức lịch sử, mà là chủ thể
chủ yếu có năng lực nhận thức và cải tạo thế giới. Vì “một lẽ rất đơn giản, dễ hiểu:
tức là vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều thế
cả”
(7)
. Nhân dân là lực lượng chủ yếu thực hiện sản xuất, tiến hành đấu tranh chống
bọn bóc lột. Do đó, nhận thức của họ là nội dung chủ yếu của lịch sử, và cũng là
nội dung chủ yếu của thế giới quan về lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày
ngắn gọn, khúc triết về sự phát triển của các hình thái xã hội với tính cách là một

trong những vấn đề quan trọng nhất của chủ nghĩa duy vật lịch sử: “Lịch sử của xã
hội do người lao động tạo ra. Sự phát triển của lịch sử là quy luật không ai ngăn trở
được. Chế độ cộng sản nguyên thủy biến đổi thành chế độ nô lệ. Chế độ nô lệ biến
đổi thành chế độ phong kiến. Chế độ phong kiến biến đổi thành chế độ tư bản chủ
nghĩa. Chế độ tư bản chủ nghĩa nhất định sẽ biến đổi thành chế độ xã hội chủ
nghĩa”
(8)
.
Thứ năm, tính thống nhất của thế giới quan duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, kinh nghiệm, cảm giác là bước đầu tiên trong
quá trình hiểu biết. Đó là hiểu biết theo chủ nghĩa duy vật lịch sử. Hiểu biết phải
tiến hóa sâu sắc, từ giai đoạn cảm giác đến giai đoạn lý trí. Đó là hiểu biết theo
phương pháp biện chứng. Và không chỉ dừng ở hiểu biết lý trí (lý luận), mà phải
dùng sự hiểu biết ấy để cải tạo thế giới. Đó là sự thống nhất của của hiểu biết theo
phương pháp biện chứng và theo phương pháp duy vật lịch sử. Qua đó, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã góp phần làm rõ tính thống nhất của thế giới quan duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử trong chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán quan niệm duy tâm tư biện của “những
người khuynh hữu. Tư tưởng của họ không theo kịp sự biến đổi của tình hình
khách quan. Tình hình đã tiến lên, mà sự hiểu biết của họ cứ ở chỗ cũ”
(9)
. Và Người
cũng “phản đối những người khuynh tả. Họ chỉ biết nói cho sướng miệng. Tư
tưởng của họ nhảy qua những giai đoạn phát triển nhất định. Họ cho ảo tưởng là sự
thật. Họ xa rời thực hành của đại đa số nhân dân”
(10)
. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luận chứng mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể trong quá trình phát triển của
thế giới quan duy vật biện chứng: “Thực hành, hiểu biết, lại thực hành, lại hiểu biết

nữa. Cứ đi vòng như thế mãi, không bao giờ ngừng. Và nội dung của thực hành và
hiểu biết lần sau cao hơn lần trước. Đó là nội dung vấn đề hiểu biết trong duy vật
biện chứng.
Đó là quan điểm biết và làm thống nhất của duy vật biện chứng”
(11)
.
Mối quan hệ giữa thế giới quan và năng lực nhận thức, cải tạo của con
người đối với thế giới trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Kế thừa tư tưởng của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trong
tác phẩm Thực hành sinh ra hiểu biết, hiểu biết tiến lên lý luận, lý luận lãnh đạo
thực hành (năm 1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “hoạt động sản xuất là
nguồn gốc của sự phát triển hiểu biết của loài người.
Ngoài hoạt động của sản xuất, sự thực hành của người ta còn có: giai cấp
đấu tranh, sinh hoạt chính trị, hoạt động khoa học và nghệ thuật, Tóm lại, tất cả
mọi ngành hoạt động trong xã hội đều do người của xã hội tham gia”
(12)
.
Qua đó, Người đã góp phần làm rõ mối quan hệ giữa thế giới quan và vấn
đề cơ bản của triết học: giữa vật chất và ý thức thì cái nào có trước, cái nào có sau,
và cái nào quyết định cái nào? Kế thừa quan điểm của V.I.Lê-nin về lý luận nhận
thức trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (năm
1908), Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, con người có khả năng nhận thức thế giới;
tức là Người bác bỏ thuyết “bất khả tri”. Theo Người, “hoạt động sản xuất của xã
hội phát triển từng bước, từ thấp đến cao. Vì vậy sự hiểu biết của người ta (về giới
tự nhiên, cũng như về xã hội) cũng phát triển từng bước, từ thấp đến cao, từ cạn
đến sâu, từ một mặt đến toàn diện.
Trước kia, người ta chỉ hiểu một mặt của lịch sử. Đó là vì giai cấp bóc lột
thường làm sai lịch sử của xã hội, lại vì sản xuất hãy còn trong khuôn khổ nhỏ hẹp,
nên nó hạn chế tầm con mắt người ta. Chỉ đến khi có công nghiệp to, sản xuất lớn,
có giai cấp vô sản, sự hiểu biết lịch sử mới phát triển đến toàn diện, sự hiểu biết xã

hội mới thành một khoa học. Đó là duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác”
(13)
.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, một mặt, “trong cả tổng quá trình phát
triển tuyệt đối của toàn thể vũ trụ thì những quá trình phát triển cụ thể chỉ là tương
đối. Vì thế, những sự hiểu biết của người ta trong từng giai đoạn nhất định chỉ là
những sự thật tương đối trong cái sự thật tuyệt đối to lớn. Vô số sự thật tương đối
thì họp thành sự thật tuyệt đối”
(14)
. Mặt khác, “sự phát triển của quá trình khách
quan chứa đầy mâu thuẫn và đấu tranh. Sự phát triển của hiểu biết cũng đầy mâu
thuẫn và đấu tranh. Công việc xã hội phát sinh, phát triển và tiêu diệt là vô cùng.
Sự hiểu biết phát sinh, phát triển cũng là vô cùng”
(15)
, cho nên trong việc xem xét
năng lực nhận thức của con người đối với thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan
tâm, tôn trọng “tính cách riêng”, “sở trường riêng”, “đời sống riêng”, quyền lợi
riêng của mỗi người.
Nghĩa là, Người không cào bằng tính cách, sở trường, đời sống và quyền
lợi riêng của mỗi con người trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Người
nêu khẩu hiệu “đảng viên đi trước, làng nước theo sau” là với ý nghĩa đó. Người
xem xét phẩm chất đạo đức không tách rời năng lực, ý chí, nghị lực cá nhân. Đối
với Người, trí tuệ, dũng khí cá nhân có vai trò tổ chức, dẫn dắt để bảo đảm cho sự
bền vững và tiến bộ quá trình nhận thức thế giới. Và bản thân Hồ Chí Minh đã hơn
một lần thể hiện, khẳng định trí tuệ, dũng khí cá nhân, ở những thời điểm then chốt
của lịch sử; ví dụ khi quyết định Đảng rút vào hoạt động bí mật (tháng 11-1945) và
khi ký Hiệp định sơ bộ (ngày 6-3-1946),
Chủ tịch Hồ Chí Minh chú ý đến sự đóng góp khác nhau của con người
trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Trên cơ sở chú ý đến năng lực, phẩm
chất sáng tạo cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò của mỗi cá nhân, mỗi

nhóm người tùy theo điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của họ trong quá trình nhận thức
và cải tạo thế giới. Nhưng Người không tuyệt đối hóa tính chất bẩm sinh, thiên phú
của phẩm chất, năng lực cá nhân. Người đấu tranh để “quyét sạch chủ nghĩa cá
nhân”.
Thiện, ác và năng lực cá nhân, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “phần lớn do
giáo dục” mà hình thành; nghĩa là được hình thành chủ yếu từ việc truyền lại, bồi
dưỡng, giáo dưỡng của thế hệ trước, của xã hội. Vì thế, vai trò của các hạng người,
nhất là hạng hăng hái, trung kiên chỉ được phát huy trong sự đoàn kết của các hạng
người, trong sự đoàn kết toàn dân. Bởi lẽ, năng lực nhận thức, cải tạo thế giới của
mỗi cá nhân chỉ là hữu hạn trong sức nhận thức và cải tạo vô hạn của toàn dân.
Đoàn kết để nhận thức và cải tạo thế giới với sự chú ý đúng mức đến phẩm chất,
năng lực sáng tạo của mỗi cá nhân, để hướng năng lực cải tạo thế giới hữu hạn của
cá nhân vào sự sáng tạo vô hạn trong nhận thức và cải tạo thế giới của toàn dân và
để sáng tạo vô hạn của toàn dân được lâu bền, được tiến bộ.
Do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh chữ “đồng”, như đồng
tình, đồng sức, đồng lòng, đồng bào, đồng minh, đồng chí. Người coi trọng đoàn
kết toàn dân và coi đó là động lực sáng tạo. Nhưng Người không xem “Dân”,
“Nhân dân”, “Toàn dân” là một khối quần chúng đồng nhất, mà là một cộng đồng,
là đồng bào, gồm những người có phẩm chất, năng lực khác nhau trong nhận thức
và cải tạo thế giới; những nhóm người trung kiên, hăng hái khác nhau; các giai cấp,
giai tầng xã hội, các dân tộc khác nhau; đồng bào trong nước, đồng bào ngoài
nước. Cho nên phải chú ý đến những năng lực khác nhau đó trong đoàn kết toàn
dân để nhận thức và cải tạo thế giới. Nếu trái lại, sự đoàn kết sẽ không lâu bền và
không đạt được kết quả tiến bộ trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, một nguyên tắc quan trọng là huy động được
các nguồn lực trong dân (tài dân, sức dân và của dân), để nhận thức và cải tạo thế
giới. Chỉ như vậy mới tự chủ, tự lực cánh sinh, sáng tạo trong nhận thức và cải tạo
thế giới. Thông qua đó, mỗi người dân, mỗi cộng đồng và toàn dân, thực sự là
người sáng tạo và phát huy được năng lực nhận thức và cải tạo thế giới của mình.
Cuối cùng, theo Người, một nguyên tắc có tính mục tiêu là phải hướng mọi

hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới vào làm lợi cho dân. Mỗi người dân, mỗi
cộng đồng và toàn dân không được hưởng hạnh phúc thì mọi hoạt động sáng tạo
trong nhận thức và cải tạo thế giới của họ cũng chẳng có nghĩa lý gì./.
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5,
tr.479.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.8, tr.226, t.9, tr.175, và t.10, tr.556.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.5, tr.252-253.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.6, tr.249.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.6, tr.248.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.6, tr.248-257.
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.5, 241.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, Hà Nội, 2000, t.9, tr.20.
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.6, tr.248-257.
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.6, tr.248-257.
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.6, tr.257.
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.6, tr.248.
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.6, tr.248-257.
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.6, tr.248-257.
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.6, tr.248-257.

×