Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

Luận văn kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam và thực tiễn tại tỉnh điện biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.84 KB, 70 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................1
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ KIỂM
SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG VIỆC ÁP DỤNG BIỆN
PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM
1.1. Lý luận về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giam...........................................................................6
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.......................................6
1.1.2. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát với Cơ quan điều tra, Tòa án khi kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam
.......................................................................................................................17
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam................21
1.2.1. Hoạt động kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam của
Viện kiểm sát.................................................................................................21
1.2.2. Hoạt động của Viện kiểm sát trong việc thay thế hoặc hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn tạm giam.......................................................................................29
1.2.3. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong trong việc áp dụng biện pháp
ngăn chặn tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ, trại tạm giam........................31
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1............................................................................36
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP
LUẬT TRONG VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM
GIAM TẠI TỈNH ĐIỆN BIÊN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
2.1. Thực tiễn kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giam tại tỉnh Điện Biên...........................................37
2.1.1. Những kết quả đạt được......................................................................37
2.1.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân..............................................47
2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam................53
2.2.1. Hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành và các văn bản khác có


liên quan đến kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp
ngăn chặn tạm giam.......................................................................................53
2.2.2. Một số kiến nghị khác.........................................................................57
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2............................................................................65
KẾT LUẬN..................................................................................................66


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Biện pháp tạm giam là biện pháp mang tính cưỡng chế rất nghiêm khắc
và có tầm quan trọng đặc biệt. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn này
(BPNC) sẽ tạo điều kiện thuận lợi, có ảnh hưởng nhiều đến q trình giải
quyết vụ án hình sự nhưng mặt khác lại hạn chế các quyền của công dân được
ghi nhận và bảo đảm trong Hiến pháp.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, việc áp dụng BPNC tạm giam
người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là một yêu cầu cần thiết
nhằm bảo đảm cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự
được thực hiện nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật. Tuy nhiên, việc tạm
giam người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải được tuân thủ
đúng các quy định của pháp luật, các chế độ về tạm giam phải được bảo đảm
thực hiện, các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giam không bị
pháp luật tước bỏ hay hạn chế thì phải được tơn trọng. Để đảm bảo cho việc
áp dụng biện pháp tạm giam đúng với quy định pháp luật thì việc kiểm sát
hoạt động tư pháp trong việc áp dụng biện pháp này của Viện kiểm sát nhân
dân (VKSND) là vô cùng quan trọng.
Kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giam là một trong những công tác
thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát (VKS),
trong đó Viện kiểm sát sử dụng các quyền năng mà pháp luật quy định để

kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, người có thẩm quyền trong
quản lý, thi hành việc tạm giam nhằm bảo đảm việc tạm giam không bị pháp
luật hạn chế được tôn trọng và bảo vệ, quyền khiếu nại, quyền tố cáo những
hành vi, quyết định trái pháp luật trong tạm giam được thực hiện theo pháp


2

luật; mọi vi phạm pháp luật trong việc tạm giam phải được phát hiện và xử lý
kịp thời, nghiêm minh.
Trong những năm vừa qua, thực tiễn công tác kiểm sát việc áp dụng
BPNC tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên cho thấy, vai trò
của Viện kiểm sát trong việc bảo đảm các quyền của người bị tạm giam đã đạt
được những thành tựu nhất định, góp phần bảo vệ kịp thời các quyền và lợi
ích hợp pháp của cơng dân, bảo đảm an tồn về tính mạng, tài sản, danh dự,
nhân phẩm của người bị tạm giam.
Tuy nhiên thực tế hoạt động kiểm sát của VKS cũng bộc lộ những hạn
chế, thiếu sót trong cơng tác kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giam, chất
lượng hiệu quả kiểm sát chưa cao nên cịn xảy ra tình trạng các thủ tục về tiếp
nhận, quản lý người bị tạm giam còn chưa thực hiện đúng theo quy định,….
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này một phần là do VKS chưa thực hiện
được đầy đủ vai trò trách nhiệm của mình. Tinh thần trách nhiệm của một bộ
phận cán bộ, Kiểm sát viên phụ trách kiểm sát công tác này chưa cao; lý luận
về hoạt động này chưa được nghiên cứu sâu và ứng dụng có hiệu quả vào
thực tiễn.
Vì vậy, để góp phần nâng cao hiệu quả, đồng thời đánh giá kinh
nghiệm thực tiễn trong công tác kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giam của
VKS trên địa bàn tỉnh Điện Biên làm nền tảng để xây dựng cơ sở lý luận cho
việc nhận thức và nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc áp dụng BPNC
tạm giam trong tố tụng hình sự, tác giả đã chọn đề tài nghiên cứu: “Kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam
và thực tiễn tại tỉnh Điện Biên” làm luận văn Thạc sĩ Luật học là rất cần
thiết, nhằm đáp ứng cả về phương diện lý luận và thực tiễn trong việc áp dụng
BPNC tạm giam trong ngành Kiểm sát.


3

2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực
tiễn về vai trò kiểm sát của Viện kiểm sát trong việc áp dụng BPNC tạm giam
theo quy định pháp luật TTHS, luận văn nhằm đưa ra các giải pháp nâng cao
hiệu quả cơng tác kiểm sát tạm để góp phần nâng cao hiệu quả công tác kiểm
sát việc áp dụng BPNC tạm giam của Viện kiểm sát trên địa bàn tỉnh Điện
Biên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam hiện
hành về kiểm sát việc tạm giam và thực tiễn thi hành công tác này của VKS
làm cơ sở cho việc xây dựng giải pháp đảm bảo việc tuân thủ đúng quy định
pháp luật trong kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động kiểm sát việc tạm giam trên
cơ sở quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS), Luật tổ chức VKSND
năm 2014 và Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 về nhiệm vụ, quyền
hạn của VKSND khi kiểm sát việc tạm giam
Về thời gian và không gian: Luận văn nghiên cứu trên cơ sở thu thập số
liệu thực tiễn của công tác kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giam của
VKSND hai cấp tỉnh Điện Biên từ năm 2018 đến năm 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp luận của triết học Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng một số phương


4

pháp nghiên cứu khoa học cụ thể khác như: Phương pháp lôgic, các phương
pháp đối chiếu, thống kê, tổng hợp, so sánh để phù hợp với yêu cầu của luận
văn.
5. Ý nghĩa và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý
luận về vị trí, vai trị của VKS trong công tác kiểm sát việc áp dụng BPNC
tạm giam trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, vì đây là cơng trình nghiên
cứu có hệ thống ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học về vai trò kiểm sát của
Viện kiểm sát trong vấn đề tạm giam, trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan
trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới vai trò kiểm sát của Viện kiểm sát
trong việc áp dụng BPNC tạm giam.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề tài đã đề xuất các
giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện
nay ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, đề tài sẽ là một tài liệu tham khảo trong học tập và nghiên
cứu về vai trò kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giam được thi hành đúng quy định pháp luật. Góp phần
bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân nói chung cũng như quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị tạm giam nói riêng được Hiến pháp năm 2013 ghi
nhận, ngoài ra, tháo gỡ những hạn chế, vướng mắc trong công tác tạm giam
để có cái nhìn tồn diện, thống nhất về BLTTHS cũng như Luật thi hành tạm
giữ, tạm giam năm 2015 trong việc cụ thể hóa Hiến pháp.

6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận đề tài được kết cấu thành 02
chương, cụ thể như sau:


5

Chương 1: Lý luận và quy định của pháp luật về kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.
Chương 2: Thực tiễn kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam tại tỉnh Điện Biên và một số kiến nghị.


6

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIỆC
TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN TẠM GIAM
1.1. Lý luận về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam
1.1.1.1. Khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng
biện pháp ngăn chặn tạm giam
Các BPNC là một trong những chế định pháp lý quan trọng có ý nghĩa
to lớn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong số những BPNC có ý
nghĩa quan trọng nhất đó là tạm giam. Việc nhận thức thống nhất, đồng thời
các quy định và áp dụng đúng đắn các BPNC nói chung hay BPNC tạm giam
nói riêng là bảo đảm cần thiết cho việc thực hiện tốt các nhiệm vụ của TTHS

để phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội1.
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn được quy định trong tố tụng hình sự
do những người có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các giai
đoạn điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo thi hành án hình sự.
Từ điển Luật học năm 2006 có khái niệm về tạm giam như sau: Tạm
giam là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự
do thân thể của công dân. Đây là biện pháp ngăn chặn, cách ly bị can, bị cáo
trong thời gian nhất định nhằm ngăn chặn các hành vi trốn tránh pháp luật,
cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội mới của bị can,
Nguyễn Hữu Tùng Lâm (2018), Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, Tr. 8.
1


7

bị cáo, đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử được thuận lợi 2. Theo khái
niệm này thì người bị tạm giam bao gồm bị can, bị cáo, người bị kết án phạt
tù, người bị kết án tử hình mà bản án chưa có hiệu lực pháp luật hoặc trong
thời gian chờ thi hành án, người bị tạm giam để thực hiện việc dẫn độ. Tuy
nhiên, khái niệm này chưa nêu ra được mục đích, thẩm quyền, phạm vi áp
dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam mà chỉ nêu được đối tượng và bản chất
của tạm giam.
Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà
Nội có khái niệm: Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội
rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng hay bị can, bị cáo về tội ít nghiêm
trọng, tội nghiêm trọng theo quy định của pháp luật 3. Đối chiếu với khái niệm
trước, khái niệm này đã nêu được thẩm quyền, đối tượng và phạm vi áp dụng

do pháp luật quy định nhưng chưa nêu rõ được mục đích của việc áp dụng
biện pháp ngăn chặn tạm giam.
Theo khái niệm tạm giam trong Giáo trình Luật tố tụng hình sự của
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội: Tạm giam là biện pháp ngăn chặn do người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng, hạn chế tự do thân thể trong một
thời hạn nhất định đối với bị can, bị cáo khi có căn cứ do BLTTHS quy định
nhằm ngăn chặn việc bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố,
xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án 4. Khái niệm này
đã nêu ra được đối tượng áp dụng, căn cứ áp dụng do BLTTHS quy định,
thẩm quyền áp dụng và đã nêu ra được mục đích áp dụng của biện pháp ngăn
chặn này.
Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, tr. 690.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Cơng an nhân dân, Hà
Nội, tr.255.
4
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2016), Giáo trình Luật tố tụng hình sự, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội,
tr.242.
2
3


8

Từ ba khái niệm đã phân tích trên, theo tác giả có thể đưa ra khái niệm
tạm giam như sau: “Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc được quy
định trong luật tố tụng hình sự do những người có thẩm quyền thuộc Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có căn cứ
để hạn chế tự do thân thể của bị can, bị cáo trong thời hạn nhất định, ngăn
chặn các hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở các hoạt động tố tụng hoặc có
thể tiếp tục phạm tội của bị can, bị cáo, góp phần đảm bảo cho việc điều tra,

truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi”.
Kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giam là một trong những công tác
của VKSND để thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Hoạt động
này có vai trị quan trọng trong việc đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật
nhằm phục vụ cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm có hiệu quả, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân ở cơ sở giam giữ.
Sự khác biệt giữa hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát với hoạt động
giám sát của các chủ thể khác chính là một số quyền đặc thù mà pháp luật cho
phép chỉ có Viện kiểm sát mới được thực hiện. Các quyền này đồng thời cũng
là nghĩa vụ của Viện kiểm sát, tạo nên sự khác biệt về phương thức hoạt động
kiểm sát mà các chủ thể khác không có5.
Hoạt động kiểm sát tạm giam là một quyền năng pháp lý quan trọng mà
Đảng và Nhà nước ta đã trao cho ngành Kiểm sát; là một hoạt động phức tạp,
địi hỏi Kiểm sát viên, Kiểm tra viên làm cơng tác này phải hết sức cầu thị,
không ngừng học hỏi, rèn luyện để nâng cao trình độ chun mơn, kĩ năng
kiểm sát, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác, đảm bảo cho

Võ Bình Vương (2018), Kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam từ thực tiễn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học
xã hội, Hà Nội, tr.21.
5


9

những người bị tạm giam, không bị oan sai; các chế độ, quyền lợi được thực
hiện đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật6.
Theo Từ điển Luật học: Kiểm sát các hoạt động tư pháp là kiểm tra,
xem xét theo dõi việc tuân theo pháp luật đối với hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án, giam giữ, cải tạo của các cơ quan tiến hành tố tụng và giải

quyết các hành vi phạm pháp, kiện tụng trong nhân dân bảo đảm cho pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất7.
Việc áp dụng BPNC tạm giam ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do
thân thể của con người nên cần có quy định về cơ chế kiểm tra, giám sát để
kịp thời phát hiện và khắc phục những vi phạm trong việc áp dụng biện pháp
này của các cơ quan có thẩm quyền theo luật TTHS quy định. Vì vậy, Nhà
nước đã giao VKS là cơ quan thực hiện chức năng này. Hiến pháp năm 2013
quy định chức năng của Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp và Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ
pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất. Có thể thấy Hiến pháp ghi nhận chức năng này của VKSND nhằm bảo
đảm cho pháp luật được áp dụng thống nhất và nghiêm chỉnh, qua đó bảo đảm
tơn trọng và bảo vệ các quyền tự do thân thể của con người, quyền công dân,
góp phần trong cơng cuộc đấu tranh, phịng chống tội phạm.
Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức,
cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình
/>truy cập ngày 20/5/2021.
7
Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, tr. 443.
6


10

giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân
sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án,

việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư
pháp khác theo quy định của pháp luật8.
Với chức năng kiểm sát hoạt động tự pháp của VKS thì kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam là một
công tác rất quan trọng. Quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND,
BLTTHS và các văn bản pháp luật khác có liên quan đều là căn cứ để VKS
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn này
để kiểm tra, xem xét, đánh giá tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của
cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong áp dụng BPNC tạm giam. VKS có
quyền áp dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định như kháng nghị, kiến
nghị, yêu cầu khắc phục vi phạm để loại bỏ việc vi phạm pháp luật của các cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền trong việc áp dụng BPNC tạm giam cho đến khi
những quyền con người, quyền cơng dân đó là người bị áp dụng BPNC này
được khắc phục theo pháp luật quy định. Việc áp dụng BPNC tạm giam bắt
đầu từ khi các cơ quan THTT ra lệnh hoặc quyết định áp dụng biện pháp này
đối với người bị tạm giam và kết thúc khi người bị tạm giam có bản án của
Tịa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc họ được thay đổi BPNC khác hoặc họ
được hủy bỏ BPNC tạm giam khi vụ án bị đình chỉ, được trả tự do vì khơng
phạm tội.
Pháp luật TTHS chỉ quy định thẩm quyền áp dụng BPNC tạm giam đối
với CQĐT, VKS và Tịa án trong q trình giải quyết vụ án hình sự chứ
khơng phải tất cả các cơ quan tư pháp đều có thẩm quyền này. Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật nhằm bảo đảm cho việc ra lệnh, quyết định, thực hiện
BPNC tạm giam được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất được khi các cơ
8

Quốc hội (2014), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 10.


11


quan THTT áp dụng BPNC này. Có thể thấy, đối tượng của kiểm sát việc áp
dụng BPNC tạm giam là hành vi xử sự của cơ quan, người có thẩm quyền ra
lệnh hay quyết định tạm giam theo quy định của pháp luật TTHS đó là CQĐT
và Tịa án.
Khi tiến hành hoạt động kiểm sát, VKSND phải dựa trên căn cứ pháp
lý và các văn bản pháp luật khác có liên quan để xem xét, bảo đảm sự tuân
theo pháp luật của các chủ thể bị kiểm sát cũng như bảo đảm tính hợp pháp
của chính các hoạt động kiểm sát của VKSND 9. Theo quy định của pháp luật
TTHS, khi phát hiện thấy vi phạm của các cơ quan, người có thẩm quyền
trong việc áp dụng BPNC tạm giam thì VKS có thẩm quyền ban hành các văn
bản như kháng nghị, kiến nghị và yêu cầu khắc phục vi phạm đối với CQĐT,
Tịa án để có biện pháp sửa chữa, thay đổi lệnh hoặc quyết định áp dụng
BPNC tạm giam nhằm bảo đảm đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền áp dụng
của biện pháp này và bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân được
Hiến pháp và pháp luật bảo vệ. CQĐT, Tịa án có trách nhiệm thực hiện
kháng nghị, kiến nghị và yêu cầu khắc phục vi phạm do VKS ban hành.
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm: “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam là hoạt động của Viện
kiểm sát trong việc áp dụng các quy định của pháp luật để kiểm tra, giám sát
các hành vi, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam nhằm bảo đảm việc áp
dụng kịp thời, có căn cứ theo đúng quy định của pháp luật; bảo đảm tính
mạng, danh dự, nhân phẩm của người bị tạm giam và các quyền và lợi ích
hợp pháp khác của họ; bảo đảm yêu cầu của đấu tranh phòng chống tội
phạm”.
Phạm Hồng Quân (2012), Về chức năng và nhiêm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra
các vụ án hình sự, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Luật học số 28, tr.191.
9



12

1.1.1.2. Đặc điểm của kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam
Trong các BPNC thì biện pháp ngăn chặn tạm giam là một trong những
BPNC nghiêm khắc nhất được quy định trong luật TTHS và giữ vai trò quan
trọng trong việc giải quyết vụ án hình sự. Việc áp dụng biện pháp tạm giam
để bảo đảm ngăn chặn người bị buộc tội tiếp tục phạm tội, người bị bắt có khả
năng trốn hoặc gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm thi
hành án nhằm tạo điều kiện cho cơ quan THTT thu thập tài liệu, chứng cứ
bước đầu thuận lợi cho việc xử lý tội phạm được kịp thời và chính xác. Biện
pháp tạm giam vừa mang các đặc điểm chung của BPNC, BPCC trong TTHS
và các đặc điểm riêng mà chỉ biện pháp này mới có nên kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc áp dụng BPNC tạm giam có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp
dụng biện pháp tạm giam mang tính quyền lực nhà nước, bảo đảm cho việc
tuân theo pháp luật trong quá trình hoạt động tư pháp của các chủ thể. Ngoài
việc chấp hành pháp luật và việc tự kiểm tra, giám sát nội bộ của các cơ quan
tư pháp được hoạt động đúng pháp luật và hiệu quả thì Hiến pháp và các đạo
luật đã quy định cơ chế giám sát, quy định các cơ quan tư pháp này phải được
đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của Quốc hội là cơ quan được Quốc hội trao
quyền kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật là Viện kiểm sát. Trong
phạm vi thực hiện chức năng của mình, VKSND được xem như là một thiết
chế có sứ mệnh quan trọng bảo đảm cho pháp luật nói chung và pháp luật về
tạm giữ, tạm giam được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất10.
VKS đã được Quốc hội giao cho thực hiện quyền giám sát việc tuân
theo pháp luật của các cơ quan chức năng có thẩm quyền, tổ chức xã hội và
Đỗ Chí Thành (2017), Vị trí, vai trị của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr.34.

10


13

mọi công dân. VKS được Quốc hội lập ra, hoạt động theo nguyên tắc tập
trung thống nhất và độc lập so với các cơ quan hành pháp và cơ quan xét xử.
Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS là bảo đảm cho pháp luật
được thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà
nước, mọi công dân luôn được bảo vệ, không bị xâm phạm. Trong hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp tạm giam, khi
phát hiện có vi phạm VKS có quyền ban hành kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu
khắc phục vi phạm đối với các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong việc áp
dụng biện pháp tạm giam nhằm bảo đảm việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
này được đúng theo quy định của BLTTHS, quyền con người không bị xâm
phạm và được bảo vệ. Do đó, các kháng nghị, kiến nghị và yêu cầu khắc phục
vi phạm của VKS phải được các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong việc
áp dụng BPNC tạm giam tôn trọng và chấp hành.
Thứ hai, đối tượng của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc áp dụng biện pháp tạm giam là việc tuân theo pháp luật của cơ
quan, người có thẩm quyền trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam
như Cơ quan điều tra, Nhà tạm giữ, Trại tạm giam, Tịa án,… Hoạt động phê
chuẩn hay khơng phê chuẩn, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giam của cơ
quan, người có thẩm quyền cũng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân.
Thứ ba, hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng
biện pháp tạm giam của VKS mang tính thường xuyên và bất thường 11. Đây là
hoạt động thực hiện quyền giám sát do Quốc hội giao cho VKS, thông qua
hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp thì VKS có trách nhiệm kiểm sát chặt
chẽ việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp tạm giam. Tính

Nguyễn Thị Ngọc Anh (2018), Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật hiện hành,
Luận văn Thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr.21.
11


14

thường xuyên và bất thường đó là VKS có quyền và trách nhiệm tham gia ở
tất cả các giai đoạn từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự,
kể từ khi người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam cho đến khi bản án
có hiệu lực pháp luật hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giam bằng biện
pháp ngăn chặn khác.
1.1.1.3. Ý nghĩa của kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam
Biện pháp ngăn chặn tạm giam trong luật TTHS có tác dụng ngăn chặn
tội phạm, ngăn chặn việc bỏ trốn, ngăn chặn việc cản trở gây khó khăn cho
cơng tác điều tra, bảo đảm cho quá trình giải quyết vụ án của cơ quan THTT
đúng theo thời hạn luật định nên biện pháp này có ý nghĩa rất lớn trong cơng
cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Hoạt động kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc áp dụng biện pháp tạm giam của VKS có ý nghĩa rất
quan trọng. Cụ thể:
Thứ nhất, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giam cịn có ý nghĩa lớn lao trong việc tôn trọng và bảo
vệ quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận.
Công tác kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam là một trong các công tác kiểm
sát thực hiện chức năng của Viện kiểm sát nhân dân nhằm bảo đảm: Việc tạm
giữ, tạm giam theo đúng quy định của pháp luật; chế độ tạm giữ, tạm giam,
quản lý được chấp hành nghiêm chỉnh; tính mạng, tài sản, danh dự, nhân
phẩm của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam và các quyền khác của họ không bị
pháp luật tước bỏ, được tôn trọng. Như vậy, hoạt động của Viện kiểm sát thực

hiện kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam là một trong những phương thức để
Viện kiểm sát bảo vệ quyền của con người (của người bị bắt, tạm giữ, tạm


15

giam)12. Quyền con người, quyền công dân được thế giới bảo vệ và được ghi
nhận trong nhiều văn kiện pháp lý Quốc tế cũng như ở trong nước. Hiến pháp
và pháp luật ghi nhận các quyền con người như quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, quyền tự do cư trú, quyền tự do đi lại… đều được bảo vệ và chỉ bị
hạn chế theo quy định của pháp luật.
Việc quy định áp dụng các BPNC nói chung và biện pháp tạm giam nói
riêng trong TTHS khơng chỉ có ý nghĩa trong cơng cuộc đấu tranh phịng,
chống tội phạm mà còn nhằm đảm bảo việc thực hiện đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Những BPNC chỉ
được áp dụng đối với đối tượng nhất định trong những trường hợp nhất định
khi có đủ căn cứ pháp luật quy định nên phải bảo đảm quyền tự do dân chủ,
tôn trọng quyền con người, quyền công dân đã được pháp Hiến pháp và pháp
luật quy định. Để thực hiện đúng các nguyên tắc trên, cơ quan, người có thẩm
quyền THTT khi áp dụng biện pháp tạm giam phải đối xử với người bị áp
dụng biện pháp này như mọi cơng dân bình thường khác. Đồng thời, phải kịp
thời thay thế hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam theo đúng quy định theo
nguyên tắc tôn trọng quyền con người và bảo vệ quyền cơ bản của mỗi công
dân, đặc biệt không được dùng các biện pháp bức cung, nhục hình, tra tấn
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân nên những hoạt
động của Nhà nước khơng nhằm mục đích nào khác đó là phục vụ quyền lợi
của nhân dân. Cũng như bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa là một chế độ
dân chủ trong đó các quyền của cơng dân phải được tôn trọng, được pháp luật
bảo vệ về các quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi cơng dân. Pháp luật xã hội

chủ nghĩa không cho phép một hành vi trái pháp luật nào xâm phạm đến các
Nguyễn Mạnh Cường (2018), Bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam qua thực tiễn
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr. 40.
12


16

quyền và lợi ích của cơng dân dù đó là hành vi của cơ quan Nhà nước hay
những người có thẩm quyền THTT. Do đó, khi VKS thực hiện tốt chức năng
của mình thì kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp
ngăn chặn tạm giam sẽ bảo đảm cho hoạt động áp dụng biện pháp ngăn chặn
này được thực hiện đúng quy quy định pháp luật. Người bị tạm giam không bị
xâm phạm về quyền và lợi ích của họ, từ đó góp phần trong cơng tác đấu
tranh phịng, chống tội phạm đạt hiệu quả.
Thứ hai, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp
ngăn chặn tạm giam có ý nghĩa thiết thực trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự. Người thực hiện hành vi tội phạm thường có ý thức về hậu quả mà
mình gây ra là nguy hiểm cho xã hội nên họ sẽ tìm mọi cách để có thể thực
hiện được hành vi phạm tội, vừa có thể che giấu và trốn tránh sự phát hiện của
pháp luật, do đó việc áp dụng biện pháp tạm giam rất cần thiết để nhằm ngăn
chặn kịp thời và hiệu quả ngay từ đầu các hành vi thực hiện tội phạm hoặc
hành vi trốn tránh, gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Để thực hiện tốt cơng tác chủ động phịng ngừa, ngăn chặn tội phạm,
phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý hiệu quả mọi hành vi phạm tội thì
cơ quan có thẩm quyền THTT được sử dụng các BPNC nói chung và cụ thể là
biện pháp tạm giam nói riêng như là phương tiện hữu ích trong qúa trình điều
tra ban đầu của vụ án hình sự. Trong quá trình áp dụng BPNC tạm giam, cơ
quan có thẩm quyền THTT có thời gian để thu thập tài liệu, chứng cứ xác
định có hành vi phạm tội hay khơng? Từ đó tạo tiền đề cho hoạt động thực

hành quyền công tố của Viện kiểm sát và hoạt động xét xử của Tòa án được
bảo đảm đúng theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, để bảo đảm việc thi hành án hình sự đúng theo quy định. Theo
Điều 106 của Hiến pháp năm 2013 quy định: “Bản án, quyết định của Tòa án


17

nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn
trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Nguyên tắc Hiến định này yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng và
nghiêm chỉnh chấp hành đối với bản án, quyết định của Tịa án có hiệu lực
pháp luật. Thi hành án hình sự có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết
vụ án, thể hiện tính quyền uy, nghiêm khắc, trừng trị và giáo dục pháp luật
đối với người phạm tội. Thi hành án hình sự là giai đoạn cuối cùng trong quá
trình tố tụng hình sự, mục đích của thi hành án hình sự khơng chỉ nghiêm
khắc trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục, cải tạo họ trở thành người tốt,
có ích cho đất nước để khi tái hịa nhập cộng đồng khơng tiếp tục phạm tội.
1.1.2. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát với Cơ quan điều tra, Tòa án
khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn
chặn tạm giam
1.1.2.1. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát với Cơ quan điều tra
Trong giai đoạn tố tụng hình sự, VKS và CQĐT vừa tiến hành các hoạt
động tố tụng độc lập, vừa có mối quan hệ mật thiết trong từng chế định tố
tụng. Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, CQĐT có chức năng, nhiệm vụ
phát hiện tội phạm, điều tra vụ án hình sự, cịn VKS có chức năng, nhiệm vụ
thực hành quyền cơng tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động
điều tra vụ án hình sự, bảo đảm hoạt động điều tra vụ án hình sự đúng người,
đúng tội và đúng pháp luật. Do vậy, VKS và CQĐT không chỉ có mối quan
hệ trong từng chế định tố tụng hình sự cụ thể mà là sự phối hợp xuyên suốt

tồn bộ q trình tố tụng từ khi phát hiện tội phạm đến khi kết thúc điều tra vụ
án hình sự.
CQĐT là chủ thể chính áp dụng BPNC tạm giam ngay từ giai đoạn
khởi tố vụ án, khởi tố bị can và VKS với tư cách là chủ thể kiểm tra, giám sát


18

và phối hợp trong việc áp dụng BPNC tạm giam. Trong việc thực hiện BPNC
tạm giam, mối quan hệ giữa VKS với CQĐT ln thể hiện rõ tính phối hợp và
chế ước. Sự chế ước chỉ được thực hiện một chiều giữa VKS đối với CQĐT.
Có thể hiểu, VKS là cơ quan chế ước, còn CQĐT là cơ quan bị chế ước. Theo
pháp luật TTHS, quyền chế ước của VKS chỉ được tiến hành đối với hoạt
động của CQĐT, có nghĩa là đối tượng của sự chế ước chính là quyết định,
hành vi của CQĐT và ĐTV trong quá trình tiến hành tố tụng. Cụ thể ở đây là
sự chế ước được tiến hành trong từng chế định tố tụng hình sự và mức độ chế
ước rất cao đối với những hoạt động tố tụng liên quan trực tiếp đến quyền con
người trong TTHS như khởi tố bị can hoặc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
nói chung và biện pháp ngăn chặn tạm giam nói riêng, đều phải có sự phê
chuẩn của VKS trước khi thi hành.
Sự phối hợp giữa VKS và CQĐT trong việc áp dụng BPNC tạm giam
là sự hợp tác của VKS và CQĐT với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ
nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ cho rằng bị can sẽ gây
khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội theo đúng
quy định pháp luật. Về hình thức, VKS và CQĐT phối hợp bằng nhiều cách
thức, cấp độ, tần suất khác nhau như: Phối hợp theo quy định của pháp luật
(Bộ luật Tố tụng hình sự, Thơng tư liên tịch…), các quy định giữa hai ngành,
hai đơn vị cùng cấp (quy chế phối hợp). Về chủ thể, có sự phối hợp giữa lãnh
đạo VKS với lãnh đạo CQĐT hoặc giữa ĐTV với KSV thông qua các cuộc
hợp giao ban liên ngành tố tụng từ trung ương đến địa phương cơ sở. Về hình

thức phối hợp thông qua văn bản hoặc trao đổi trực tiếp… Về nội dung, VKS
và CQĐT phối hợp trong việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn
chặn. Trong đó, VKS và CQĐT cùng có sự phối hợp chặt chẽ trong việc áp
dụng BPNC tạm giam đúng theo quy định pháp luật. Trường hợp xét thấy
việc lệnh, quyết định tạm giam người khơng có căn cứ và trái pháp luật thì


19

thực hiện theo quy định tại Điều 5 Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLTVKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 của VKSND tối cao, Bộ Cơng an,
Bộ quốc phịng về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện
một số quy định của BLTTHS. Trong trường hợp cần thiết phải gia hạn tạm
giam thì thực hiện theo quy định tại Điều 173 BLTTHS năm 2015. Trong giai
đoạn điều tra, nếu xét thấy cần thiết thì tiếp tục tạm giam bị can hoặc thấy
việc tạm giam khơng cần thiết thì ĐTV trao đổi, thống nhất ý kiến với KSV
thay thế BPNC tạm giam bằng BPNC khác. Nếu quan điểm của ĐTV và KSV
khơng thống nhất thì ĐTV chủ động báo cáo đề xuất lãnh đạo CQĐT tổ chức
họp lãnh đạo hai đơn vị để xin ý kiến. Vì BPNC tạm giam do VKS phê chuẩn
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự thì việc thay thế bằng BPNC khác phải
do VKS quyết định.
Tóm lại, mối quan hệ giữa VKS và CQĐT khi kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam là sự phối hợp và
chế ước của VKS đối với CQĐT cùng cấp, nhằm bảo đảm việc áp dụng
BPNC tạm giam đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quyền con người,
không làm oan, sai người vô tội.
1.1.2.2. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát với Tòa án
Mối quan hệ giữa VKS và Tòa án khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam chỉ xuất hiện sau khi vụ án
hình sự đã được VKS truy tố bằng việc ban hành Cáo trạng hoặc quyết định
truy tố và chuyển hồ sơ vụ án sang Tòa án để đưa vụ án ra xét xử. Trong giai

đoạn xét xử, việc áp dụng BPNC nói chung và việc áp dụng BPNC tạm giam
nói riêng ở giai đoạn này hồn tồn do Tịa án trực tiếp quyết định. Sau khi
thụ lý vụ án, Thẩm phán giải quyết vụ án kiểm tra căn cứ, tài liệu trong hồ sơ
vụ án để đề nghị Chánh án, Phó Chánh án áp dụng BPNC tạm giam nếu xét



×