………………………………
TP. HỒ CHÍ MINH – 2013
………………………………
Mã
1.
2.
TP.HỒ CHÍ MINH- 2013
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS.Nguyễn Văn Tiệp và PGS.TS. Trần Hồng Liên. Các
số liệu, tài liệu nêu ra trong luận án là trung thực, đảm bảo tính khách quan,
khoa học. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Lời cám ơn
Để hoàn thành được luận án này tôi đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiều từ
thầy cô, đồng nghiệp, bạn bè và người thân.
Trước hết, tôi chân thành biết ơn sự hướng dẫn nhiệt tâm của hai thầy, cô:
PGS.TS. Nguyễn Văn Tiệp và PGS.TS. Trần Hồng Liên. Và tôi cũng nhận được sự
giúp đỡ rất nhiều từ PGS.TS. Trần Hữu Quang, Ths. Đỗ Hồng Quân trong nghiên
cứu định lượng.
Tôi chân thành cám ơn những anh chị em nguyên là cán bộ Ban Công tác
người Hoa Thành phố Hồ Chí Minh: Dao Nhiễu Linh (Nguyên là Trưởng ban Công
tác người Hoa), Khưu Thiên Thành, Trần Chí Vĩ, Bành Chấn Thanh, Nhâm Thị
Dung, Ths.Văn Trung Hiếu, và Trần Chí Minh đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong việc
thực hiện nghiên cứu điền dã tại địa bàn.
Luận án sẽ không thể hoàn thành nếu không có những người cung cấp thông
tin nhiệt tình như Hòa thượng Thích Duy Trần, các chú ở Hội Cựu học sinh trường
Mạch Kiếm Hùng: Lương Tài, Hà Kiến Dân, Huỳnh Cầu, của 140 người Hoa
Quảng Đông ở địa bàn nghiên cứu của luận án.
Tôi chân thành cám ơn hai em Ths.Lưu Hồng Sơn và Nguyễn Hữu Lộc đã tìm
và dịch giúp tôi những tài liệu bằng tiếng Hoa. Tôi cũng vô cùng cảm ơn anh
Nguyễn Thanh Lợi đã đọc và sửa chữa giúp tôi những lỗi chính tả, lỗi đánh máy để
có được bản in cuối cùng hoàn chỉnh.
Hơn nữa, nếu không có sự quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi của
Ban Giám hiệu, Ban chủ nhiệm Khoa Sử, trường Đại học Thủ Dầu Một tôi cũng
không thể hoàn thành luận án.
Và để luận án này được bảo vệ, tôi xin gửi đến Ban giám hiệu, Khoa Nhân
học, phòng Sau Đại học, Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn lòng biết ơn
đã đào tạo và tổ chức cho tôi được bảo vệ luận án.
Cuối cùng, tôi không thể nào quên ơn người mẹ, người chồng đã luôn sẳn
sàng chia sẻ mọi việc để tôi có thể hoàn thành luận án này.
1
1. Lý do – Mục đích nghiên cứu 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 3
4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu 5
5. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu 6
6. Đóng góp của luận án 9
7. Khung phân tích 10,14
8. Bố cục của luận án 10
9. Những khó khăn và thuận lợi 12
15
Nghi lễ 15
Nghi lễ chuyển đổi 16
Mạng lưới xã hội 18
Cấu trúc xã hội 19
Tiếp biến văn hóa 19
Biểu tượng 20
Người Hoa Quảng Đông 20
1.2. 21
1.3. 37
1.3.1. Lý thuyết nghi lễ chuyển đổi 37
1.3.2. Tiếp cận theo lý thuyết chức năng 44
1.3.3. Tiếp cận theo lý thuyết tương tác biểu tượng và biểu tượng trong nghi lễ
45
1.4.
Minh……. 50
1.4.1. Quá trình định cư, địa bàn cư trú và phân bố dân cư: 50
1.4.2. Vài nét về cộng đồng 52
57
:
2.1. Lễ đầy tháng 60
2.2. Lễ khai học 66
2.3. Lễ cưới 69
2.4. Lễ mừng thọ. 83
2.5. Lễ tang. 86
Tiểu kết chương 2 99
3.1. Chức năng tâm lý 101
3.1.1. Nghi lễ nâng đỡ người thụ lễ 101
3.1.2. Nghi lễ mang ý nghĩa “phòng vệ” và “tạo dấu ấn” 106
3.2. Chức năng xã hội 108
3.2.1. Nghi lễ tạo bối cảnh thừa nhận sự chuyển đổi của cá nhân 108
3.2.2. Nghi lễ kiến tạo các chuẩn tắc của cộng đồng 111
3.2.3. Nghi lễ phản ánh bản chất của gia đình và cấu trúc xã hội của cộng đồng
117
3.3. Chức năng văn hóa-giáo dục 122
3.3.1. Nghi lễ chuyển tải và củng cố văn hóa cộng đồng 122
3.3.2. Nghi góp phần giáo dục con người 139
Tiểu kết chương 3 142
4.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến nghi lễ chuyển đổi 144
4.1.1 Yếu tố giới, tuổi, mạng lưới xã hội và điều kiện kinh tế 144
4.1.2.Tín ngưỡng - Tôn giáo 150
4.1.3. Tiếp biến văn hóa 180
4.2. Những biến đổi trong nghi lễ chuyển đổi 183
4.2.1. Tính thiêng trong nghi lễ 184
4.2.2. Sự chuyển đổi của người thụ lễ 186
4.2.3. Hình thức và nội dung của nghi lễ 187
Tiểu kết chương 4 194
197
T 206
1
2 (trích 8
3 (tquan sát tham gia) 50
4 ) 67
5 ( ) 75
C
1. Nghi lễ chuyển đổi NLCĐ
2. Nhật ký điền dã NKĐD
3. Ngưỡng kích thích dưới NKTD
4. Biên bản phỏng vấn BBPV
5. Phỏng vấn viên (tác giả) PVV
6. Trả lời (Người được phỏng vấn) TL
7. Chú thích CT
8. Khoa học xã hội KHXH
9. Khoa học Xã hội và Nhân văn KHXH&NV
10. Nhà xuất bản NXB
11. Phụ lục PL
1. Lý do :
Ở thành phố Hồ Chí Minh, dân số người Hoa là 414.045 người (chiếm
50,3% tổng số người Hoa tại Việt Nam), đứng thứ hai sau người Việt, gồm năm
nhóm ngôn ngữ: Hẹ, Triều Châu, Hải Nam, Phúc Kiến và Quảng Đông, trong
người Hoa Quảng Đông sống tập trung ở quận 5, quận 6 và quận 11 [7]. Do sống
tập trung theo cộng đồng nên các yếu tố văn hóa truyền thống mang đặc trưng
Quảng Đông còn rõ nét, là cơ sở để chúng ta tìm ra những nét tương đồng và dị biệt
giữa văn hóa của người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh nói chung và người Hoa
nhóm ngôn ngữ Quảng Đông nói riêng.
Mặc dù đã rời bỏ quê hương đến định cư ở vùng đất Sài Gòn – Gia Định,
hơn ba thế kỷ, nhưng các cộng đồng người Hoa (theo nhóm ngôn ngữ) vẫn giữ được
bản sắc văn hóa của mình. Điều gì đã làm cho người Hoa Quảng Đông còn giữ lại
được những nét văn hóa đặc sắc khác với những nhóm Hoa khác. Điều này đã thôi
thúc chúng tôi tìm hiểu nghi lễ chuyển đổi của họ - vì nghi lễ chuyển đổi gắn với
từng thành viên trong cộng đồng, dù ở hoàn cảnh nào con người cũng không thể
chối bỏ những nghi lễ ấy, nên nghi lễ chuyển đổi là điểm mấu chốt giúp chúng tôi
hiểu được bản sắc văn hóa cộng đồng.
Từ miền Nam Trung Quốc di cư đến vùng đất Sài Gòn – Gia Định người
Hoa đã cư trú tập trung theo nhóm phương ngữ nên văn hóa của người Hoa cũng
mang dấu ấn cộng đồng ngôn ngữ - địa phương rõ rệt. Để hiểu văn hóa của người
Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh phải bắt đầu từ văn hóa của từng nhóm ngôn ngữ
này và trong đó nghi lễ chuyển đổi là nghi lễ bảo lưu những yếu tố văn hóa truyền
thống mang tính phương ngữ rõ rệt nhất.
Hơn nữa, nghiên cứu nghi lễ chuyển đổi không chỉ để hiểu rõ những nét văn
hóa truyền thống mà còn thấy được những yếu tố văn hóa mới mà cộng đồng có
được trong quá trình tiếp biến văn hóa với các tộc người khác ở Thành phố Hồ Chí
Minh. Từ đó chỉ ra được những biến đổi trong văn hóa truyền thống của cộng đồng
người Hoa Quảng Đông trong đời sống đô thị hiện đại.
Arnold van Gennep đã định nghĩa “các nghi thức chuyển đổi” là “các nghi
thức đi kèm bất kỳ một sự thay đổi nào về địa điểm, trạng thái, địa vị xã hội và tuổi
tác” [48: 327]. Nghi lễ chuyển đổi đánh dấu sự chuyển đổi của cá nhân trong suốt
vòng đời, hợp nhất những kinh nghiệm của con người và kinh nghiệm văn hóa với
vận số sinh học: ra đời, trưởng thành, kết hôn, lên lão và chết đi. Mỗi một nghi lễ
chuyển đổi, mỗi người chỉ trải qua một lần trong đời, nên nghi lễ này rất quan trọng
và đáng nhớ, được tổ chức chu đáo, phản ánh sâu sắc bản chất văn hoá của từng tộc
người.
Mặt khác “nghi lễ không phải là một hình thức đặc biệt của sự kiện nhưng là
lĩnh vực có ý nghĩa nhất của tất cả các hoạt động của con người. Nghi lễ chuyển tải
thông điệp về tình trạng văn hóa, xã hội của những cá nhân, bất cứ hành động nào
của con người đều có khuôn khổ mang tính nghi lễ. Nghi lễ cung cấp cho nhà nhân
học nguồn thông tin dồi dào nhất về văn hóa. Trong rất nhiều trường hợp, nghi lễ
giải thích và kịch tính hóa thần thoại của một nền văn hóa. Nghi lễ chứa đựng dồi
dào thông tin mang tính biểu tượng về thế giới văn hóa và xã hội của những người
tham dự” [91: 410]. Những giá trị của con người, của nhóm cũng được bộc lộ qua
nghi lễ và hình thức nghi lễ mang tính quy ước và bắt buộc. Nghiên cứu nghi lễ là
một cách để hiểu kết cấu thiết yếu của xã hội loài người.
Như Victor Turner đã chứng minh việc phân tích biểu tượng và hành vi nghi
lễ được sử dụng như chìa khóa để hiểu cấu trúc và tiến trình xã hội. Hiểu được “giai
đoạn ngưỡng” của nghi lễ chuyển đổi có thể hiểu được phạm vi bao quát những
hiện tượng xã hội [96:2] và “những nghi lễ này có liên quan đến lịch sử và cấu trúc
của một xã hội nhất định” [100: 5]. Do đó, nghiên cứu nghi lễ chuyển đổi là nghiên
cứu một thành tố quan trọng của văn hóa tộc người và qua đó khái quát hệ thống giá
trị đạo đức, cấu trúc xã hội của cộng đồng người Hoa Quảng Đông ở thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay.
Với xu hướng hiện đại hóa và toàn cầu hóa, mọi dân tộc trên thế giới nói
chung và người Hoa Quảng Đông nói riêng đang có khuynh hướng từ bỏ hay đơn
giản hóa những lễ nghi cổ truyền để tổ chức theo nghi thức hiện đại mang tính phổ
quát, làm mai một đi những yếu tố văn hóa mang tính tộc người. Phân tích chức
năng nghi lễ chuyển đổi của người Hoa Quảng Đông để có được những cơ sở khoa
học chứng minh sự cần thiết của việc bảo tồn và phát huy những nghi lễ chuyển đổi
này đối với việc ổn định trật tự xã hội, duy trì sự cố kết cộng đồng, gìn giữ bản sắc
văn hóa tộc người.
Mục tiêu của đề tài này nhằm:
- Nhận diện những nghi lễ nào của người Hoa Quảng Đông là nghi lễ chuyển
đổi, những biểu hiện của giai đoạn trước ngưỡng, trong ngưỡng và sau ngưỡng ở
mỗi nghi lễ. Các yếu tố (giới, tuổi, điều kiện kinh tế, mạng lưới xã hội và niềm tin
tôn giáo, giao lưu và tiếp xúc văn hóa) ảnh hưởng đến hình thức và nội dung của
nghi lễ. Khái quát giá trị đạo đức và cấu trúc xã hội của cộng đồng được thể hiện
qua nghi lễ chuyển đổi.
- Chỉ ra những nguyên nhân và sự biến đổi của những nghi lễ chuyển đổi
hiện nay so với những nghi lễ diễn ra trong những năm nửa đầu thế kỷ XX.
- Làm rõ chức năng của nghi lễ chuyển đổi đối với cá nhân và cộng đồng
người Hoa Quảng Đông ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay: chức năng tâm lý, chức
năng xã hội và chức năng văn hóa-giáo dục.
Đối tượng nghiên cứu: đối tượng nghiên cứu chính của luận án là những
nghi lễ chuyển đổi của người Hoa nhóm ngôn ngữ Quảng Đông, đặt trong bối cảnh
kinh tế, văn hóa và xã hội thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Thông qua nghi lễ tìm
hiểu chiến lược ứng xử của cá nhân, gia đình, cộng đồng trong mối tương quan với
giá trị đạo đức, và cấu trúc xã hội của cộng đồng.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu những nghi lễ chuyển đổi được
tổ chức tại nhà, tại các nơi tổ chức của cộng đồng (nhà hàng, nhà tang lễ) ở quận 5,
quận 6 và quận 11, nơi có người Hoa Quảng Đông sống tương đối tập trung, và là
địa bàn cư trú lâu đời của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh.
3.
- Ý nghĩa khoa học:
Nghi lễ vòng đời không phải là đề tài mới của dân tộc học Việt Nam, nhưng
nghiên cứu nghi lễ vòng đời theo lý thuyết Nghi lễ chuyển đổi của Anorld van
Gennep là hướng tiếp cận chưa được nhiều người quan tâm mặc dù đây là lý thuyết
đã ra đời ở châu Âu từ đầu thế kỷ XX. Kết quả nghiên cứu luận án góp phần giới
thiệu một khung lý thuyết nghiên cứu về nghi lễ vòng đời – với khái niệm nghi lễ
chuyển đổi – nhấn mạnh những bước ngoặt quan trọng ở mỗi giai đoạn của một đời
người. Với lý thuyết nghi lễ chuyển đổi của Arnold van Gennep luận án nhận diện
những nghi lễ chuyển đổi của người Hoa, chỉ ra ba giai đoạn phân ly, chuyển tiếp và
hội nhập của các nghi lễ.
Victor Turner đã cống hiến cho ngành nhân học thế giới một công trình rất
có giá trị - The forest of Symbols (Rừng biểu tượng). Vận dụng phương pháp nghiên
cứu biểu tượng của Victor Turner, tác giả luận án giải mã những biểu tượng trong
nghi lễ chuyển đổi qua đó khái quát giá trị đạo đức và cấu trúc xã hội của cộng đồng
người Quảng Đông hiện nay.
Nghiên cứu nghi lễ chuyển đổi của người Hoa Quảng Đông theo hướng tiếp
cận chức năng của Radcliffe – Brown và Bronislaw Malinowski góp phần làm sáng
tỏ một trường phái lý thuyết nhân học ra đời từ đầu thế kỷ XX vào nghiên cứu
trường hợp ở Việt Nam.
Nội dung luận án là sự vận dụng thuyết cấu trúc qua nghi lễ chuyển đổi của
Arnold van Gennep, thuyết chức năng của Radcliffe - Brown, Bronislaw
Malinowski, biểu tượng trong nghi lễ của Victor Turner vào nghiên cứu những nghi
lễ chuyển đổi của một cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay – người Hoa
Quảng Đông.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Từ việc phân tích và lý giải các chức năng của nghi lễ chuyển đổi khẳng
định vai trò và lý do cần duy trì những nghi lễ ấy cho dù cuộc sống có thay đổi theo
chiều hướng ngày càng hiện đại.
Công trình còn chỉ ra phương cách người Hoa Quảng Đông giữ gìn, bảo tồn
các giá trị văn hóa truyền thống cũng như tiếp thu những yếu tố văn hóa mới do
hoàn cảnh sống thay đổi.
4. Nhng câu hi nghiên cu và gi thuyt nghiên cu
Xuất phát từ mục tiêu trên, cuộc nghiên cứu này cần trả lởi những câu hỏi
nghiên cứu chính yếu như sau:
- Những nghi lễ chuyển đổi của người Hoa Quảng Đông bao gồm những
nghi lễ nào – trình tự và ý nghĩa của sự chuyển đổi, các giai đoạn chuyển đổi được
thể hiện như thế nào? Giá trị đạo đức và cấu trúc xã hội người Hoa được thể hiện
qua nghi lễ là gì?
- Tại sao có sự khác nhau trong việc thực hành nghi lễ chuyển đổi giữa các
cá nhân trong cộng đồng? Những nguyên nhân nào dẫn đến những biến đổi trong
nghi lễ chuyển đổi và những biến đổi đó là gì?
- Chức năng của nghi lễ chuyển đổi là gì – xét dưới góc độ cá nhân và
cộng đồng?
Từ những câu hỏi nghiên cứu trên, chúng tôi có thể đưa ra những giả thuyết
nghiên cứu chính:
1. Nghi lễ chuyển đổi của người Hoa Quảng Đông ở Thành phố Hồ Chí là
những nghi lễ gắn liền với sự thay đổi từng giai đoạn của một đời người. Sau mỗi
nghi lễ vai trò, vị thế của cá nhân thay đổi. Giải mã ý nghĩa các biểu tượng trong
nghi lễ có thể biết được giá trị đạo đức và cấu trúc xã hội của cộng đồng.
2. Trong những nghi lễ chuyển đổi của người Hoa Quảng Đông hiện nay
ngoài những yếu tố văn hóa truyền thống mang tính tộc người còn có những yếu tố
văn hóa mới mang dấu ấn văn hóa đô thị thời hiện đại. Các yếu tố giới, tuổi, mạng
lưới xã hội, điều kiện kinh tế, niềm tin tôn giáo có ảnh hưởng đến hình thức và nội
dung của nghi lễ chuyển đổi.
3. Những nghi lễ chuyển đổi giúp giảm thiểu các tác động có hại của những
thay đổi về trạng thái, tình trạng xã hội của mỗi cá nhân, có chức năng gìn giữ
truyền thống văn hóa, tăng cường cố kết gia đình, cộng đồng, hình thành những
chuẩn tắc đạo đức trong cộng đồng.
5. : Luận án áp dụng cách tiếp
cận nghiên cứu trường hợp bao gồm nghiên cứu định tính và nghiên cứu định
lượng.
Nghiên cứu định tính: quan sát – tham dự, phỏng vấn sâu và phỏng vấn tập
trung.
Phương pháp quan sát-tham dự là cách “thu thập dữ kiện bằng cách sống
gần gũi trong một thời gian dài với thành viên của một xã hội khác” [16:56]. Địa
bàn nghiên cứu cũng chính là nơi tác giả sinh sống nên tác giả thuận lợi trong việc
quan sát-tham dự các nghi lễ của các thành viên trong cộng đồng người Hoa Quảng
Đông. Quan sát – tham dự 15 nghi lễ chuyển đổi (lễ đầy tháng: 2, lễ khai học: 1, lễ
cưới: 5, lễ mừng thọ: 2, lễ tang: 5) chúng tôi có được thông tin về trình tự nghi lễ,
thái độ, hành vi của những người thụ lễ và những người liên quan. Dữ liệu thu thập
được từ quan sát-tham dự làm sáng tỏ hơn những thông tin có được từ phỏng vấn
sâu. Tuy nhiên, chỉ quan sát-tham dự không thể hiểu rõ ý nghĩa của những biểu
tượng, ý nghĩa và lý do tồn tại của những nghi thức. Mặt khác, có những nghi lễ
người dân không muốn có sự hiện diện của nhà nghiên cứu – lễ tang – thời điểm
tang gia bối rối, có thể có những sơ xuất trong thái độ, hành vi ứng xử, sự có mặt
của người ngoài làm cho họ cảm thấy không thoải mái. Điểm bất lợi của phương
pháp nghiên cứu này là việc tham dự nghi lễ của nhà nghiên cứu hoàn toàn phụ
thuộc vào thời gian người dân tổ chức các nghi lễ, nên có những trường hợp nhà
nghiên cứu không thể tham dự được.
Phỏng vấn sâu (20 cuộc) những người hiểu biết về phong tục tập quán giúp
chúng tôi có bức tranh toàn diện hơn về các nghi lễ: xác định những nghi lễ nào của
một đời người được người dân xem là nghi lễ chuyển đổi. Những người thông tin
cung cấp thông tin về trình tự các nghi thức, lý do và ý nghĩa của các nghi thức, các
biểu tượng trong nghi lễ. Thông tin thu được từ phỏng vấn hồi cố giúp chúng tôi có
dữ liệu để so sánh sự giống và khác nhau giữa những nghi lễ chuyển đổi trước đây
và hiện nay. Đối với từng nghi lễ chúng tôi có chiến lược phỏng vấn những người
cung cấp thông tin khác nhau nhằm thu được nhiều thông tin nhất. Riêng lễ tang,
chúng tôi thực hiện 5 cuộc phỏng vấn những chuyên gia thực hành tôn giáo (Linh
mục, Hòa thượng, Đạo sĩ, Thầy tụng, những người làm dịch vụ mai táng) để thu
thập thông tin về lễ tang. Phỏng vấn những người lớn tuổi, bà mai, những người
chuyên tổ chức lễ cưới tại nhà hàng (6 cuộc) để có được thông tin về lễ đầy tháng,
lễ cưới và lễ mừng thọ. Riêng đối với lễ khai học chúng tôi tiến hành 3 cuộc phỏng
người lớn tuổi vốn có học chữ Hán, am hiểu về văn hóa cộng đồng.
Mặt khác chúng tôi cũng tiến hành thảo luận nhóm tập trung (2 cuộc)
những người làm công tác quản lý cộng đồng – Ban Công tác người Hoa Thành phố
Hồ Chí Minh – Những người chuyên nghiên cứu văn hóa Hoa giúp chúng tôi kiểm
định lại những thông tin thu thập được từ cộng đồng qua quan sát tham gia, phỏng
vấn sâu (những người thông tin), để đảm bảo tính chính xác của thông tin.
Nghiên cứu định lượng để đo lường ý kiến của từng cá nhân về những
thông tin có được từ nghiên cứu định tính: như tên gọi các nghi lễ chuyển đổi ở mỗi
giai đoạn của một đời người, ý nghĩa của nghi lễ, cảm xúc của cá nhân đối với từng
nghi lễ, những kiêng kỵ trong nghi lễ, những nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi về
hình thức và nội dung của nghi lễ.
Tiêu chí chọn mẫu: Mẫu nghiên cứu là cá nhân, am hiểu về các nghi lễ, mang
tính đại diện về giới, tuổi, điều kiện kinh tế, tôn giáo.
Đây là điều tra mẫu với 120 đơn vị mẫu cá nhân, kết hợp phương pháp chọn
mẫu khu vực điển hình, chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống.
+ Quy trình chọn mẫu:
- Dựa theo số liệu người Hoa trên toàn thành phố của Cục thống kê cùng với
sự tham mưu của Ban công tác người Hoa thành phố Hồ Chí Minh, chọn ba điểm
người Hoa Quảng Đông sống tập trung và có tính đại diện của các nhóm xã hội:
nghèo, trung bình, khá và giàu thuộc địa bàn các quận: 5, 6, 11.
- Theo báo cáo tình hình cư trú của cư dân tại ba quận (5, 6, 11), mỗi quận sẽ
chọn ba phường có số lượng hộ người Hoa Quảng Đông cao nhất: quận 5 (phường
6, phường 11 và phường 14); quận 6 (phường 5, phường 6, phường 10 ), quận 11
(phường 9, 11, 14). (Số lượng này do Ủy ban phường cung cấp)
- Bằng cách tập hợp danh sách hộ người Hoa Quảng Đông do người phụ trách
về người Hoa ở từng khu phố cung cấp (tuy nhiên cũng có những trường hợp nhầm,
họ là người Hoa nhưng không phải là người Hoa Quảng Đông, khi phỏng vấn tác giả
phát hiện, sẽ phải đổi mẫu: có 7 trường hợp nhầm người Hoa Triều Châu, Phúc Kiến.
Tuy nhiên, tác giả vẫn phỏng vấn những trường hợp để có thông tin so sánh với người
Hoa Quảng Đông), mỗi phường chọn một khu phố có đông hộ người Hoa Quảng
Đông nhất, lập danh sách toàn bộ những hộ ở chín khu phố này (do người phụ trách
về người Hoa khu phố cung cấp danh sách tên các hộ gia đình người Hoa Quảng
Đông), chọn theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống với bước nhảy k = (Bước nhảy
k= tổng số hộ Hoa Quảng Đông/120), trên cơ sở đó chúng tôi lập được danh sách cá
nhân cần phỏng vấn.
- Với 120 đơn vị mẫu được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống,
mẫu nghiên cứu sẽ đa dạng và mang tính đại diện về yếu tố giới, tuổi, nguyên quán,
tôn giáo, mạng lưới xã hội, địa vị kinh tế. Qua đó công trình có thể phác họa nên
bức tranh nhiều màu sắc về nghi lễ chuyển đổi của cộng đồng. Đây là điều lý tưởng,
nhưng trên thực tế danh sách do cán bộ công tác người Hoa ở khu phố cung cấp
không mang tính đại diện (điều này thể hiện qua đặc điểm mẫu nghiên cứu được thể
hiện bên dưới).
.
Mẫu nghiên cứu của đề tài là 120 cá nhân ở quận 5, quận 6 và quận 11. Đối
tượng phỏng vấn là những người am hiểu về phong tục tập quán trong gia đình,
trong đó có 70% là nữ và 30% nam. Về độ tuổi những người phỏng vấn: 31-40
(8,6%), 41-50 (10,3%), 51-60 (24,1%) và 60 tuổi trở lên (56,9%). Người Hoa
Quảng Đông ở thành phố Hồ Chí Minh trong cuộc nghiên cứu này đến từ tỉnh
Quảng Đông (Trung Quốc) nhưng ở rất nhiều huyện khác nhau như Cao Yếu, Cửu
Giang, Đông Quảng, Hạt Sơn, Hoa Huyện, Hoa Viên, Học Sơn, Hợp Phố, Khai
Bình, Nam Hải, Phan Du, Phan Duy, Phật Sơn, Tam Thủy, Tân Hội, Thuận Đức,
Triều Dương, Trung Sơn, Tứ Kim, Tứ Hội. Vì chủ hộ là những người ở độ tuổi trên
60 nên 41,4 % người không còn lao động, phần lớn lứa tuổi lao động làm nghề buôn
bán (25,1%), thủ công nghiệp (20,7%), công chức trong cơ quan nhà nước (6,9%)
chỉ có 1,7% là công nhân. Đa phần người Hoa Quảng Đông có đời sống kinh tế khá
giả (70,7%), trung bình (15,5%), người nghèo (8,6%) và người giàu (5,2%). Phần
lớn người Hoa Quảng Đông đã đến sống tại Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh từ
bốn thế hệ (48,3%), chỉ có số ít đến đây từ 5, 6 thế hệ (3,4%). Về tôn giáo: Tín
ngưỡng dân gian (thờ Quan Thế Âm Bồ Tát, thờ thần, thờ tổ tiên): 90%; Phật giáo:
6,6%; Công giáo: 1,7% và Tin Lành: 1,7% [Kết quả khảo sát của tác giả (năm
2010)].
6.
Về phương diện lý thuyết, nghiên cứu “Nghi lễ chuyển đổi của người Hoa
Quảng Đông ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” góp thêm tư liệu để bổ sung và
làm sáng tỏ lý thuyết Nghi lễ chuyển đổi của Anorld van Gennep, lý thuyết chức
năng của Bronislaw Malinowski và Radcliffe-Brown, lý thuyết biểu tượng trong
nghi lễ của Victor Turner.
Đóng góp thứ nhất, luận án cho thấy không phải tất cả thay đổi (của con
người) làm khuấy động cuộc sống xã hội và cá nhân, mang đến những tác động có
hại nên nghi lễ chuyển đổi mới ra đời. Có những thay đổi, đánh dấu một bước ngoặt
của cuộc đời nhưng không gây nên sự khủng hoảng (tại một thời điểm) mà vẫn có
nghi lễ chuyển đổi – lễ khai học, lễ mừng thọ. Mặt khác, luận án còn chỉ ra ba giai
đoạn trước ngưỡng, trong ngưỡng và sau ngưỡng trong các nghi lễ chuyển đổi mà
Anorld van Gennep đưa ra không phù hợp với tất cả các nghi lễ chuyển đổi của
người Hoa Quảng Đông.
Đóng góp thứ hai, kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ nhận
định của Radcliffe Brown về các chức năng của nghi lễ nói chung và nghi lễ chuyển
đổi nói riêng là tạo quy củ và những cảm giác tích cực (đối trọng lại những cảm
giác tiêu cực hay mất niềm tin), gắn kết các thành viên trong cộng đồng, tạo và tái
tạo sức sống di sản của cộng đồng và truyền đạt giá trị văn hóa, đạo đức cho một thế
hệ tiếp theo.
Đóng góp thứ ba, góp phần bổ sung về một hình thức biểu tượng trong cộng
đồng người Hoa Quảng Đông vốn không có trong người Ndembu mà Victor Turner
đã nghiên cứu – dùng từ đồng âm, cận âm, cận nghĩa như những biểu tượng bên
cạnh các biểu tượng là sự vật, hành động, các mối quan hệ, hiện tượng và điệu bộ.
Về phương pháp luận: Đây là luận án tiến sĩ đầu tiên áp dụng ba lý thuyết cấu
trúc, chức năng và tương tác biểu tượng trong nghiên cứu trường hợp – nghi lễ
chuyển đổi của một cộng đồng ở thành phố Hồ Chí Minh.
Về mặt tư liệu và luận cứ khoa học: Nghiên cứu góp phần tập hợp tư liệu về
nghi lễ chuyển đổi của người Hoa Quảng Đông hiện nay, vốn còn thiếu trong các
nghiên cứu dân tộc học.
Kết quả nghiên cứu là:
- Xác định những nghi lễ chuyển đổi của người Hoa Quảng Đông và giải
thích những chuyển đổi đó đối với cá nhân người thụ lễ và những người có liên
quan – hiện chưa có một công trình nào về nghi lễ chuyển đổi của cộng đồng này.
- Thông qua nghi lễ, khái quát những giá trị đạo đức, cấu trúc xã hội của cộng
đồng người Hoa Quảng Đông hiện nay.
- Phân tích và lý giải các chức năng của nghi lễ chuyển đổi qua đó khẳng định
sự cần thiết của việc duy trì và bảo tồn các nghi lễ - nhưng không cổ súy các nghi
thức rườm rà, lãng phí thời gian và tiền của.
7. Khung phân tích:
Chủ đề phân tích của luận án là nghi lễ chuyển đổi. Vận dụng thuyết cấu trúc,
thuyết chức năng và biểu tượng trong nghi lễ để phân tích nghi lễ dưới nhiều góc
độ: diễn trình và cấu trúc, chức năng của nghi lễ, nghi lễ của những nhóm xã hội
khác nhau và nghi lễ hiện nay so với nghi lễ được tổ chức những năm nửa đầu thế
kỷ XX (Xin xem sơ đồ khung phân tích ở trang sau).
8
Ngoài phần dẫn luận và kết luận, luận án gồm 180 trang chính văn, chia
làm bốn chương:
- Chương 1: Những tiền đề lý thuyết và tổng quan về tình hình nghiên
cứu
Chương này có 43 trang trình bày và phân biệt rõ các các khái niệm liên
quan đến đề tài, phân tích ba nhóm lý thuyết cơ bản: thuyết cấu trúc, thuyết chức
năng và tương tác biểu tượng của những nhà nhân học phương Tây. Từ đó giải thích
vì sao tác giả sử dụng những lý thuyết đó trong luận án này. Tiếp theo là tổng quan
tình hình nghiên cứu về nghi lễ của người Hoa. Tổng quan về cộng đồng người Hoa
Quảng Đông ở thành phố Hồ Chí Minh qua các vấn đề: quá trình định cư và phân
bố dân cư, các đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội.
- Chương 2: Những nghi lễ chuyển đổi của người Hoa Quảng Đông:Mô
tả dân tộc học.
Chương này có 41 trang, trình bày những nghi lễ chuyển đổi của người
Hoa Quảng Đông ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay theo dạng mô tả dân tộc học
để chỉ rõ những nghi lễ nào là nghi lễ chuyển đổi, phân tích các dấu hiệu của sự
phân ly, ngưỡng và hội nhập trong các nghi lễ; Nêu lên sự chuyển đổi của mỗi cá
nhân và những người có liên quan sau mỗi giai đoạn chuyển đổi: lễ đầy tháng, lễ
khai học, lễ cưới, mừng thọ và lễ tang.
- Chương 3: Chức năng của nghi lễ chuyển đổi.
Chương này có 41 trang, phân tích chức năng của nghi lễ dưới cấp độ cá
nhân và cộng đồng bao gồm ba chức năng: chức năng tâm lý, chức năng xã hội và
chức năng văn hóa - giáo dục.
- Chương 4: Những yếu tố ảnh hưởng đến nghi lễ chuyển đổi và sự biến
đổi trong nghi lễ chuyển đổi.
Chương này gồm 52 trang, tìm ra những khác nhau về hình thức và nội
dung nghi lễ dưới góc độ giới, tuổi, điều kiện kinh tế, mạng lưới xã hội, niềm tin tôn
giáo. Phân tích những nguyên nhân dẫn đến những biến đổi và những biến đổi đó
trong của nghi lễ hiện nay so với nghi lễ diễn ra vào những thập niên 50, 60 của thế
kỷ XX.
9.
Thuận lợi: Địa bàn nghiên cứu cũng chính là địa bàn cư trú của tác giả nên
tác giả có điều kiện tham dự được nhiều nghi lễ của người Hoa, thu thập thông tin
phong phú về nghi lễ chuyển đổi. Vì có thời gian dài tham dự các nghi lễ cùng với
cộng đồng nên tác giả có cơ hội trải nghiệm, phỏng vấn sâu những người trong
cuộc.
Mặt khác, tác giả có mối quan hệ lâu dài và thân tình với nhóm người Hoa
Quảng Đông cũng chính là những nhà nghiên cứu của Ban công tác người Hoa
thành phố Hồ Chí Minh (nay là Ban Dân tộc thành phố Hồ Chí Minh), nên có thể
khai thác được rất nhiều thông tin về văn hóa người Hoa Quảng Đông. Tham dự
những nghi lễ chuyển đổi của chính những nhà nghiên cứu này, tác giả vừa thu thập
được tư liệu điền dã dân tộc học vừa có được nguồn thông tin dồi dào từ những
cuộc phỏng vấn sâu chính người trong cuộc. Điều này càng làm tăng thêm tính chân
xác của nguồn tư liệu luận án.
Văn hóa của người Hoa là vấn đề tác giả đã có thời gian nghiên cứu từ nhiều
năm nay (từ năm 2000 với đề tài luận văn thạc sĩ) nên đã có vốn kiến thức nhất định
về đề tài này.
Với sự phát triển của ngành Nhân học như hiện nay, tác giả có thể dễ dàng
tiếp cận được những lý thuyết nghiên cứu của phương Tây để hiểu và vận dụng vào
nghiên cứu này.
Bên cạnh những thuận lợi khách quan và chủ quan, tác giả còn một khó khăn
lớn nhất trong nghiên cứu này là tác giả không thông thạo tiếng Quảng Đông để
hiểu tường tận các ngữ cảnh của nghi lễ, còn hạn chế trong việc tiếp cận các tài liệu
viết về nghi lễ bằng tiếng Quảng Đông. Tuy nhiên, khó khăn này phần nào được
khắc phục nhờ cộng đồng người Hoa Quảng Đông ở thành phố Hồ Chí Minh sử
dụng tiếng Việt một cách phổ biến (trừ những người lớn tuổi, ít tiếp xúc với xã hội),
tác giả có thể giao tiếp với cộng đồng bằng tiếng Việt và tác giả có những người bạn
thông thạo tiếng Hoa đã dịch giúp tài liệu được viết bằng tiếng Hoa.
Vì hạn chế trên, nên luận án sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót, tác giả
luôn sẵn sàng đón nhận những đóng góp ý kiến của quý thầy cô, đồng nghiệp cũng
như những “người trong cuộc”.
KHUNG P
Arnold
van
Gennep
Brown,
Malinows
ki.
trong nghi
Victor
Turner
Tiến trình và cấu trúc nghi lễ
Chức năng của nghi lễ
Nghi lễ chuyển đổi của
những nhóm xã hội khác
nhau
1.1. Các khái niệm liên quan:
Để có tiền đề lý luận nghiên cứu cho đề tài “Nghi lễ chuyển đổi của người Hoa
Quảng Đông ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” chúng tôi trình bày một số khái
niệm chính yếu: Nghi lễ, nghi lễ chuyển đổi, mạng lưới xã hội, cấu trúc xã hội, giao
lưu văn hóa, biểu tượng, người Hoa Quảng Đông.
Nghi lễ [ritual]
Về mặt từ nguyên, từ “nghi lễ” bắt nguồn từ tiếng Latin là ritus - nghĩa là
hành vi có trật tự. Về mặt ý nghĩa của từ này các nhà nhân học đã đưa nhiều định
nghĩa khác nhau về nghi lễ.
Robert Smith (1889) giả thuyết rằng tôn giáo bao gồm niềm tin và nghi lễ,
như vậy nghi lễ theo ông là những thực hành tôn giáo [63: 177]. Trong khi
Durkheim (1912) cho rằng nghi lễ “là hoạt động chỉ ra những quy định (rule) con
người biết để tự điều chỉnh hành vi ứng xử của mình trước những đối tượng thiêng”
[63: 177]. Trong Golden Bough (1890), Frazer phân chia thế giới thành hai lĩnh
vực: thế tục và linh thiêng, nghi lễ thuộc lĩnh vực thiêng. Theo Jane Harrison (1912,
1913) nghi lễ là sự kịch tính hóa mang tính ma thuật những hoạt động thường nhật.
Để phân biệt những hành vi mang tính nghi lễ và không mang tính nghi lễ dựa vào
dấu chỉ có hay không có bối cảnh tôn giáo. Nghi lễ theo Tylor là phương tiện giao
tiếp với những thực thể linh hồn” là “cầu nguyện, hiến tế, nhịn ăn, định hướng và
tẩy uế” [15: 948]. Peter Winch cho rằng “nghi lễ thường bị chỉ trích là hành vi
không lý tính, không thực tế và không khoa học” [76: 4]. Nghi lễ là "hành vi trang
trọng và mang tính biểu tượng (Robert H. Winthrop) [86:124 ]. Theo Victor Turner,
nghi lễ (ritual) “là hành vi được quy định có tính chất nghi thức dành cho những
dịp, không liên quan đến công việc có tính chất kỹ thuật hàng ngày, mà có quan hệ
với các niềm tin vào đấng tối cao hay các sức mạnh thần bí” [96: 19].
Với những định nghĩa “nghi lễ” trên, có thể hiểu nghi lễ là những hành vi
được tổ chức vào những dịp nhất định có tính chất nghi thức, trang trọng và mang ý
nghĩa biểu tượng, được kiểu thức hóa, lặp đi lặp lại, diễn ra trong thời gian và
không gian được xác định.
Nghi lễ chuyển đổi [rite of passage]
Nghi lễ chuyển đổi là nghi lễ đánh dấu sự chuyển đổi của cá nhân trong suốt
vòng đời, từ tình trạng này sang tình trạng khác, từ vai trò, địa vị này sang vai trò,
địa vị khác, hợp nhất những kinh nghiệm của con người và kinh nghiệm văn hóa với
vận số sinh học: ra đời, sinh con, chết đi. Những nghi thức này tạo sự khác biệt cơ
bản, được tiến hành trong tất cả các nhóm, giữa già và trẻ, đàn ông và đàn bà, sống
và chết. Con người thuộc về cả tự nhiên và văn hóa, thông qua nghi lễ chuyển đổi
con người có thể suy ngẫm, thể hiện [formulate] và thể hiện lại [reformulate] phần
con và phần người của con người. [54: 380-387].
Khái niệm nghi lễ chuyển đổi của Arnold van Gennep được Victor Turner kế
thừa và phát triển. Victor Turner cho rằng hầu hết các nghi lễ có liên quan đến sự
chuyển đổi từ tình trạng này sang tình trạng khác. Trong The Ritual as process
(Tiến trình nghi lễ), Victor Turner nhấn mạnh đến vai trò chuyển tiếp của nghi lễ
trong các xã hội, quan trọng nhất là giai đoạn “ngưỡng”. Giai đoạn ngưỡng chứa
đựng những thành tố phổ quát và quan trọng. Turner quan sát những người đang ở
giai đoạn ngưỡng không thuộc những phân loại nhất định của hệ thống xã hội, cảm
nhận sự phụ thuộc lẫn nhau và tính duy nhất, mà Turner dùng thuật ngữ
“communitas” để chỉ những người cùng giống nhau ở trình trạng ngưỡng, có cùng
cấu trúc. Ở giai đoạn ngưỡng, tính người không phân biệt được [undifferentiated
humanness], ái nam ái nữ [androgyny], và địa vị thấp kém, thể hiện một cách biểu
tượng như một loại của tabula rasa, trinh nguyên, tình trạng chưa thể xác định
được. Ngay cả những thời kỳ lịch sử cũng có thể là thời kỳ ngưỡng, thời kỳ chuyển
tiếp, khi quá khứ mất đi mà tương lai chưa thể hiện rõ ràng. Tại những thời điểm
này, lối “giả định” [subjunctive] của văn hóa thịnh hành, và cách xử sự, sự tưởng
tượng, và sự phân đôi được khuyến khích. Người ở giai đoạn ngưỡng “thường bị