Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tiểu luận cao học Tư tưởng hồ chí minh về xây dựng đảng về tổ chức và sự vận dụng của đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.46 KB, 28 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN : HỌC THUYẾT MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
XÂY DỰNG ĐẢNG
Đề tài :
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng về tổ chức và sự vận dụng của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về
tổ chức hiện nay


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ TỔ
CHỨC..................................................................................................................
1.1. Những luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng.................4
1.2. Sự cần thiết phải xây dựng Đảng...............................................................8
1.3. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng về tổ chức..............10
1.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch
vững mạnh.......................................................................................................11
Chương 2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG
ĐẢNG VỀ TỔ CHỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG XÂY
DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH VỀ TỔ CHỨC HIỆN NAY
.........................................................................................................................14
2.1. Quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản Việt nam
về xây dựng đảng về tổ chức...........................................................................14
2.2. Một số giải pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam trong xây dựng Đảng về
tổ chức.............................................................................................................16
KẾT LUẬN....................................................................................................23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................24


MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng
Cộng sản Việt Nam. Cuộc đời hoạt động cách mạng của Người gắn bó chặt
chẽ với sự nghiệp cách mạng của Đảng và toàn thể dân tộc Việt Nam. Trong
suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người đã để lại cho chúng ta
một kho tàng lý luận vô cùng quý báu, tiêu biểu như: tư tưởng về đại đoàn kết
dân tộc; tư tưởng về đạo đức nhân văn, văn hóa; tư tưởng về chủ nghĩa xã hội
và tư tưởng về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch vững mạnh.
Đối với Hồ Chí Minh cơng tác xây dựng Đảng về tổ chức luôn là nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, sự nghiệp đấu
tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc trước đây, cũng như trong công cuộc
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay. Vì vậy, địi hỏi
Đảng phải trong sạch vững mạnh, có tầm cao trí tuệ, sức chiến đấu, đủ năng
lực lãnh đạo để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.
Sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 90 năm qua dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng Đảng ta đã đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác. Có được những thành tựu đó là nhờ Đảng ta đặc biệt chú trọng đến
công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là công tác xây dựng Đảng về tổ chức.
Đúng như Hồ Chí Minh khẳng định: “Ðảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi
đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần
kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Ðảng ta thật trong sạch, phải
xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Vì vậy mà tôi quyết định chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng Đảng về tổ chức và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về tổ chức hiện nay” làm tiểu luận cho
mơn học của mình.
1



2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng nói
chung và xây dựng Đảng về tổ chức nói riêng để tìm hiểu về sự vận dụng tư
tưởng của Người về xây dựng đảng về tổ chức trong xây dựng Đảng Cộng sản
Việt Nam trong sạch, vững mạnh về tổ chức hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài có trách nhiệm làm rõ cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng Đảng về tổ chức.
Tìm hiểu sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh về tổ chức hiện nay để đưa ra những giải pháp
góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về tổ chức
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam và sự
vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài khơng đề cập đến tồn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
Đảng mà chỉ giới hạn ở tư tưởng xây dựng Đảng về tổ chức của Người và và
sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh về tổ chức hiện nay
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Để nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác
xây dựng Đảng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu chuyên ngành lịch sử, ngành
chính trị học, đồng thời có sự kết hợp các phương pháp nghiên cứu cơ bản cụ
2



thể như: phân tích - tổng hợp, so sánh, nghiên cứu tài liệu để giải quyết các
vấn đề của đề tài đặt ra.
5. kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo tiểu luận
bao gồm 2 chương và 6 tiết.

3


Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ TỔ CHỨC
1.1. Những luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
Là người sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xây dựng
và rèn luyện Đảng Cộng sản thành một đảng cách mạng chân chính, bộ tham
mưu sáng suốt và kiên cường của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, để
lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước và đưa cả nước đi lên Chủ nghĩa xã hội. Trong những di
sản tư tưởng mà Người để lại, những luận điểm của Người về Đảng cộng sản,
về xây dựng Đảng, đặc biệt trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, là
một phần cực kỳ quan trọng. Quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng của
Người nhằm chỉnh đốn và đổi mới Đảng, làm cho Đảng thực sự trong sạch
vững mạnh, xứng đáng là lực lượng chính trị lãnh đạo tồn xã hội, là một
trong những nhiệm vụ chủ yếu nhất của toàn Đảng, toàn dân ta. Đây thực sự
là vấn đề then chốt đảm bảo thắng lợi cho công cuộc đổi mới đang được triển
khai rộng khắp trên cả nước ta hiện nay.
Những luận điểm chủ yếu của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt
Nam là: Đảng cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu để đưa cách mạng
Việt Nam đến thắng lợi; Đảng Cộng sản Việt nam là sản phẩm của sự kết hợp

chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước;
Đảng Cộng sản Việt nam - “Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng
của dân tộc Việt Nam”; Đảng Cộng sản Việt nam phải lấy chủ nghĩa MácLênin “làm cốt”; Đảng Cộng sản Việt nam phải được xây dựng theo những
nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản; Đảng vừa là người lãnh
đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Đảng lãnh đạo, dân làm chủ.
Phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân;
và Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới.

4


Đảng Cộng sản Việt nam phải được xây dựng theo những nguyên tắc
của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản là một trong những luận điểm chủ yếu
của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt nam. Đây chính là những nguyên
tắc mà Lênin đã đề ra, để phân biệt với những đảng cơ hội của Quốc tế II,
những đảng đó đã biến thành tơi tớ của giai cấp tư sản, phản bội chủ nghĩa
Mác và quyền lợi của giai cấp vô sản. Nếu khái quát những luận điểm của Hồ
Chí Minh, có thể thấy Người đã đề cập những nguyên tắc xây dựng Đảng sau:
- Tập trung dân chủ: Đây là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng Đảng
Cộng sản thành một tổ chức chiến đấu chặt chẽ, vừa phát huy sức mạnh của
mỗi người, vừa phát huy sức mạnh của tất cả những ai đã tự nguyện gắn bó
với nhau trong một tổ chức. Vì vậy, Hồ Chí Minh gọi tập trung dân chủ là
nguyên tắc tổ chức của Đảng. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ và tập trung là hai
mặt có quan hệ gắn bó và thống nhất với nhau trong một nguyên tắc. Dân chủ
để đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung, chứ không phải là dân chủ theo
kiểu phân tán, tùy tiện, vô tổ chức. Tập trung là tập trung trên cơ sở dân
chủ,chứ không phải tập trung quan liêu theo kiểu độc đoán, chuyên quyền.
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách: Theo Hồ Chí Minh, đây là nguyên tắc
lãnh đạo của Đảng. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Người đã phân tích
rất rõ về nguyên tắc này: một người dù tài giỏi đến mấy cũng không thể thấy

hết mọi mặt của một vấn đề, càng không thể thấy hết được mọi việc, hiểu hết
được mọi chuyện. Vì vậy, cần phải có nhiều người cùng tham gia lãnh đạo.
Nhiều người thì nhiều kiến thức, người thấy mặt này, người thấy mặt kia, do
đó hiều được mọi mặt, mọi vấn đề. Về cá nhân phụ trách, Người đã chỉ rõ
việc gì đã được tập thể bàn bạc kỹ lưỡng, kế hoạch đã được định rõ thì cần
giao cho một người phụ trách, nếu giao cho một nhóm người thì cũng cần có
một người phụ trách chính. Như thế cơng việc mới chạy, như thế mới tránh
được thói dựa dẫm, người này ỷ vào người kia, ỷ vào tập thể. Khơng xác định
rõ cá nhân phụ trách, thì giống như “ nhiều sãi khơng ai đóng cửa chùa”. Tập

5


thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn đi đôi với nhau. Tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung.
- Tự phê bình và phê bình: Hồ Chí Minh rất coi trọng nguyên tắc này.
Người coi đây là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là luật phát triển của Đảng.
Mỗi đảng viên trước hết tự mình phải thấy rõ mình, để phát huy ưu điểm,
khắc phục khuyết điểm. Hơn nữa, nếu biết tự phê bình tốt thì mới phê bình
người khác tốt được. Tự phê bình và phê bình là nhiệm vụ thường xuyên chứ
không phải là giải pháp nhất thời, là vũ khí để rèn luyện đảng viên, nhằm làm
cho mỗi người tốt hơn, tiến bộ hơn và tăng cường đoàn kết nội bộ. Đó cũng
chính là vũ khí để nâng cao trình độ lãnh đạo của Đảng, để Đảng làm tròn sứ
mệnh lãnh đạo cách mạng, làm tròn trách nhiệm trước giai cấp và dân tộc.
Thực hiện tự phê bình và phê bình thật đúng đắn, nghiêm túc khơng phải là
việc dễ dàng. Tự phê bình và phê bình khơng những là một vấn đề của khoa
học cách mạng, mà còn là nghệ thuật của cách mạng; cán bộ càng cao, trách
nhiệm càng lớn, càng phải gương mẫu tự phê bình và phê bình . Muốn thực
hiện tốt nguyên tắc này, đòi hỏi mỗi người phải trung thực, chân thành với
bản thân mình cũng như với người khác. Phải phê phán những thái độ lệch

lạc, sai trái thường xảy ra trong phê bình và tự phê bình như thiếu trung thực,
che dấu khuyết điểm của bản thân, sợ phê bình, khơng dám phê bình, nể nang
né tránh, dĩ hịa vi q, hoặc ngược lại lợi dụng phê bình để nói xấu, bêu nhọ,
vùi dập, đả kích người khác...
- Kỷ luật nghiêm minh và tự giác: Cùng với nguyên tắc tập trung dân
chủ, nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác làm cho Đảng thực sự là một
tổ chức chiến đấu chặt chẽ để giành thắng lợi cho sự nghiệp độc lập dân tộc
và CNXH. Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng một kỷ luật nghiêm minh
và tự giác trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng: Sức mạnh vô
địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm minh của
cán bộ, đảng viên. Nghiêm minh là thuộc về tổ chức Đảng, vì đó là kỷ luật đối
với mọi cán bộ, đảng viên, không phân biệt cán bộ lãnh đạo cao hay thấp, là
6


cán bộ lãnh đạo hay đảng viên thường, mọi cán bộ, đảng viên đều bình đẳng
trước kỷ luật của Đảng. Tự giác là thuộc về mỗi cán bộ, đảng viên đối với
Đảng, một tổ chức của những người tự nguyện đứng trong một hàng ngũ để
cùng chiến đấu cho độc lập dân tộc và CNXH. nếu việc vào Đảng không phải
là việc ép buộc đối với bất cứ đảng viên nào, thì việc tuân thủ kỷ luật của
Đảng cũng như vậy. Yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng là chấp hành các chủ
trương, nghị quyết của Đảng và tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và
sinh hoạt Đảng, các nguyên tắc xây dựng Đảng. Có như vậy, Đảng mới là một
khối thống nhất về tư tưởng và hành động. nếu khơng có kỷ luật, khơng thống
nhất về tư tưởng và hành động, “Đảng sẽ kỷ luật lỏng lẻo, công việc bế tắc”.
Từ việc tuân thủ kỷ luật của Đảng, mỗi đảng viên dù ở cương vị nào, mỗi cấp
ủy dù ở cấp bộ nào cũng phải nghiêm túc chấp hành kỷ luật củaa các đoàn
thể, pháp luật của Nhà nước, tuyệt đối không ai được cho phép mình coi
thường, thậm chí đứng trên tất cả. Ý thức kỷ luật đó là ý thức của giai cấp
cơng nhân, ý thức của Đảng của giai cấp công nhân. Việc đề cao ý thức kỷ

luật đó đối với mọi cán bộ, đảng viên từ trên xuống dưới chỉ làm tăng thêm uy
tín của Đảng; ngược lại, ý thức kỷ luật đó càng thấp, nếu cán bộ, đ/viên càng
có nhiều vi phạm kỷ cương phép nước, tự cho mìnhlà người lãnh đạo, coi
thường kỷ luật của các đoàn thể nhân dân, thì uy tín của Đảng càng giảm
thấp, càng đưa đến những nguy cơ cho Đảng.
- Đoàn kết thống nhất trong Đảng: Trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu
dài và gian khổ, toàn đảng phải đoàn kết thành một khối vững chắc, tồn
Đảng phải thống nhất ý chí và hành động, mọi đảng viên phải bảo vệ sự đoàn
kết thống nhất của Đảng như bảo vệ con ngươi của mắt mình-Đây là một
nguyên tắc quan trong của Đảng kiếu mới của Lênin. Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm đến việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng cũng như
khối đại đoàn kết toàn dân. Phải xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng
để làm nòng cốt cho việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong nhân dân. Tư
tưởng đoàn kết toàn Đảng, toàn dân là một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh.
7


Quán triệt tư tưởng này trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng và
nhân dân ta đã xây dựng nên khối đoàn kết vững chắc, đảm bảo cho việc
giành được những thắng lợi ngày càng to lớn hơn. Cơ sở để xây dựng sự đoàn
kết thống nhất trong Đảng chính là đường lối, quan điểm của Đảng và Điều lệ
Đảng. Đây là cơ sở để tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, về tổ chức, từ đó có
sự thống nhất về hành động của toàn Đảng, nhằm đưa đường lối, quan điểm
của Đảng vào cuộc sống, biến các chủ trương của Đảng thành hành động cách
mạng của quần chúng nhân dân. Sự đoàn kết thống nhất thật sự, lành mạnh,
chân chính trong Đảng chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở này. Tình hình
càng phát triển, nhiệm vụ càng nặng nề, càng đòi hỏi phải củng cố và tăng
cường sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, nhất là đối với cán bộ lãnh
đạo; bởi lẽ sự đồn kết thống nhất của cán bộ lãnh đạo có ảnh hưởng lớn đến
sự đoàn kết thống nhất của nhiều cán bộ, đảng viên, đến tồn Đảng. Tư tưởng

Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản là tư tưởng chỉ đạo cho việc xây dựng Đảng
Cộng sản Việt nam thực sự là một đảng mácxít-lêninnít chân chính, là Đảng
của Hồ Chí Minh để làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang và trách nhiệm nặng nề
trước dân tộc, đồng thời có những đóng góp tích cực vào phong trào cách
mạng thế giới. Trong nhiều thời kỳ, tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản
đã được quán triệt trên cả 03 mặt xây dựng Đảng: chính trị, tư tưởng và tổ
chức, làm cho Đảng trở thành bộ tham mưu sáng suốt lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng. Từ đó Đảng lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân
tộc giành thắng lợi ngày càng to lớn hơn cho độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã
hội.1.2 Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
1.2. Sự cần thiết phải xây dựng Đảng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong
sạch vững mạnh chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong tồn bộ di sản của
Người, Người ln đề cập đến vấn đề xây dựng chỉnh đốn Đảng và hình
thành một hệ thống các luận điểm mang tính nhất quán. Những luận điểm của
Người đã nói lên sự cần thiết phải xây dựng Đảng.
8


Lịch sử vận động và phát triển của giai cấp cơng nhân hiện đại đã
chứng minh rằng, khơng có chính đảng của giai cấp mình thì giai cấp vơ sản
khơng thể tiến hành cuộc cách mạng vô sản. C.Mác và Ph.Ăngghen là những
người tiên phong đầu tiên trong công tác xây dựng Đảng bởi hai ông thấy
rằng sự ra đời của Đảng là một tất yếu lịch sử do sự vận động thông qua đấu
tranh giai cấp, sự phát triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, Đảng
Cộng sản là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân, là tập hợp đội ngũ trung
kiên nhất, kiên quyết cách mạng nhất, nhằm mục đích hướng tới xóa bỏ chế
độ tư hữu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa. Lênin là người kế thừa và
phát triển cả về mặt lý luận và thực tiễn tư tưởng về xây dựng Đảng của
C.Mác và Ph.Ăngghen, ông cũng thấy rằng sự ra đời của Đảng là tất yếu lịch

sử do đòi hỏi của thực tiễn cách mạng vô sản, Lênin cũng khẳng định rằng
xây dựng Đảng là một quá trình thống nhất của ba yếu tố chính trị, tư tưởng
và tổ chức. Đảng lấy chủ nghĩa Mác làm hạt nhân lý luận, lấy phục vụ nhân
dân làm mục đích cách mạng, lấy kỷ luật nghiêm minh tự giác làm sức mạnh
để thống nhất trong Đảng. Đảng và nhân dân luôn gắn kết với nhau. Trong
q trình đó Đảng cũng giữ nghiêm kỷ luật, đề cao dân chủ tạo ra sự thống
nhất biện chứng trong mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân, trở
thành một nội dung quan trọng trong quy luật phát triển Đảng. Đảng là tổ
chức cầm quyền nên phải không ngừng rèn luyện tu dưỡng chống lại những
biểu hiện quan liêu, hách dịch, tham nhũng, xa rời quần chúng…
Kế thừa những tư tưởng quý báu của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác Lênin, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào điều kiện lịch sử cụ thể của
Việt Nam để xây dựng một Đảng kiểu mới, Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng
của giai cấp công nhân của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.
Hồ Chí Minh xem cơng tác xây dựng Đảng là một yếu tố hết sức cần thiết
“Công tác xây dựng Đảng trước hết phải nhằm bảo đảm hoàn thành thắng lợi
những nhiệm vụ chính trị của Đảng. Nói một cách khác phải phục vụ việc
hoàn thành tốt đẹp nhất, xuất sắc nhất những nhiệm vụ chính trị của Đảng, coi
9


đó là mục tiêu quan trọng hàng đầu phải đạt tới của công tác xây dựng Đảng,
và cũng là tạo điều kiện thuận lợi cho sự củng cố, phát triển lực lượng và sức
chiến đấu của Đảng, sự gắn bó của Đảng với quần chúng”.[15;8 - 9]
Hồ Chí Minh quan tâm đến vấn đề xây dựng Đảng không phải là khi
trong Đảng có vấn đề mới cần có giải pháp, mà Người xem xây dựng Đảng là
một nhiệm vụ tất yếu thường xun của Đảng hồn thành vai trị chiến sĩ tiên
phong trước giai cấp, dân tộc và nhân dân.
Quy luật phát triển của lịch sử đã đặt ra yêu cầu đối với xây dựng Đảng
là phải luôn chỉnh đốn Đảng, đổi mới Đảng để đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Trong bất kì giai đoạn nào của cách mạng thì xây dựng Đảng nhằm đáp ứng

mục tiêu đặt ra luôn luôn là một xu thế tất yếu, một quy luật khách quan.
“Ngày 18/01/1949, nói chuyện tại hội nghị cán bộ lần thứ VI của Đảng, Hồ
Chí Minh đã nêu lên nhiệm vụ: phải chấn chỉnh bộ máy từ dưới lên trên, bắt
đầu từ xã; dưới làm lên trên, trên làm xuống dưới, tự nhiên mọi việc sẽ thành;
phải chỉnh đốn các đoàn thể quần chúng và muốn làm được những việc trên
trước hết phải chỉnh đốn nội bộ Đảng, bởi lẽ, Đảng ví như cái máy phát điện,
các cơng việc trên ví như những ngọn đèn, máy mạnh thì đèn sáng. Theo Hồ
Chí Minh chỉnh đốn Đảng tác động mạnh mẽ đến tồn bộ hệ thống chính trị
và thể hiện rõ ràng vai trò lãnh đạo tiên phong của Đảng”.[1;90]
1.3. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng về tổ chức
Xây dựng Đảng về tổ chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải theo
nguyên tắc bảo đảm tính hệ thống, sự vận hành hiệu quả của hệ thống tổ
chức; sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, phát huy vai trị của các tổ chức trong
hệ thống chính trị, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Mọi hoạt động của
các tổ chức trong hệ thống chính trị phải thực hiện nghiêm nguyên tắc tập
trung dân chủ… Vì thế, để bộ máy hoạt động có hiệu quả, Người yêu cầu phải
xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức và mỗi vị trí cơng tác của
cán bộ và đó chính là cơ sở để mỗi tổ chức, cán bộ thực hiện đúng chức năng,
nhiệm vụ được giao; đồng thời, yêu cầu mỗi cấp ủy, cơ quan tổ chức cán bộ
10


phải bố trí đúng người, đúng việc, đúng năng lực, sở trường: “Tổ chức phải
gọn gàng. Nhiệm vụ của mỗi bộ phận, mỗi người phải quy định rõ ràng. Các
cấp và cán bộ lãnh đạo phải giúp đỡ và đôn đốc thường xuyên, phải kiểm tra
chặt chẽ”…
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng phải ln là một khối đồn kết,
thống nhất về mọi mặt; trong đó sức mạnh của Đảng chính là sức mạnh của tổ
chức chặt chẽ, có tính kỷ luật cao từ Trung ương đến cơ sở, từ các cơ quan
nhà nước đến các đồn thể chính trị - xã hội. Do đó, xây dựng Đảng về tổ

chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh là nhằm tạo ra sự khoa học, đồng bộ, thống
nhất trong hệ thống chính trị, bảo đảm tổ chức bộ máy phải tinh gọn, hiệu
quả, luôn đổi mới, chỉnh đốn cho phù hợp thực tiễn: “Chính quyền và đồn
thể (Đảng) cũng cần thường xun rửa các bộ máy của mình, để tẩy trừ những
phần tử bất chính, đầu cơ và chỉnh đốn lại cách làm việc cho gọn gàng, mau
chóng”. Trong đó, Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm
chủ. Đảng không bao biện, làm thay Nhà nước; mỗi tổ chức trong hệ thống
chính trị phải phát huy một cách tự giác, đầy đủ nhất vai trị của mình. Vì thế,
cơng tác xây dựng Đảng về tổ chức có mối liên hệ gắn bó, khơng thể tách rời
với hệ thống chính trị, với việc nâng cao chất lượng của các tổ chức trong hệ
thống chính trị; trong đó, có các tổ chức quần chúng như Đoàn thanh niên,
Hội phụ nữ…
1.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
trong sạch vững mạnh.
Tư tưỏng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong
sạch vững mạnh chiếm một vị trí đặc biệt trong tồn bộ di sản của Người.
Người liên tục đề cập vấn đề xây dựng, chỉnh đốn đảng và hình thành một hệ
thống các luận điểm mang tính nhất quán.
Hồ Chí Minh bàn về xây dựng Đảng không phải là khi trong Đảng có
gì đột biến hay trong Đảng “có vấn đề nổi cộm” mới cần đến một giải pháp
tình thế. Với Người xây dựng Đảng là một nhiệm vụ tất yếu, thường xuyên
11


của Đảng hồn thành vai trị chiến sĩ tiên phong trước giai cấp, dân tộc và
nhân dân. Xây dựng Đảng được Hồ Chí Minh đặt ra như một nhiệm vụ vừa
cấp bách vừa lâu dài. Khi cách mạng gặp khó khăn xây dựng Đảng để cán bộ,
đảng viên củng cố lập trường quan điểm bình tĩnh, sáng suốt, khơng tỏ ra bị
động, lúng túng, bi quan.
Trong quan điểm Hồ Chí Minh, xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn liền với

sự tồn tại của Đảng. Còn Đảng còn hoạt động, còn cần tổ chức xây dựng và
chỉnh đốn Đảng.
Tính tất yếu khách quan của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được
Hồ Chí Minh lý giải hết sức thuyết phục theo các căn cứ sau đây:
Xây dựng chỉnh đốn Đảng bị chế định bởi quá trình phát triển liên tục
cuả sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Đảng lãnh đạo giai cấp và nhân
dân đánh đổ đế quốc, phong kiến, xây dựng chế độ mới, tạo điều kiện tiến dần
lên chủ nghĩa xã hội nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng con người. Trong suy nghĩ và nhận thức của Hồ Chí Minh Đảng ta lớn
lên, trưởng thành gắn liền với sự phát triển của đất nước và của dân tộc, Đảng
thực sự là “một cơ thể sống” ln tự hồn thiện và vươn lên.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn
luyện giáo dục và tu dưỡng tốt hơn, hoàn thành các nhiệm vụ mà Đảng và
nhân dân giao phó, đặc biệt giữ các phẩm chất, đạo đức cách mạng tiêu biểu.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là làm cho mỗi cán bộ, đảng viên hiểu rõ,
hiểu đúng và thực hành tốt các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng.
Xây dựng chỉnh đốn Đảng không thể buông lỏng việc thắt chặt công tác
kiểm tra, quản lý của cán bộ đảng viên. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng nếu không
đặt đúng vị trí, ngang tầm mà lại bng lỏng kiểm sốt, quản lý thì rất dễ làm
cho bộ phận cán bộ, đảng viên bị thoái hoá, biến chất về đạo đức và lối sống,
dẫn đến tha hố về chính trị.
Trong điều kiện khi Đảng đã trở thành đảng cầm quyền, việc xây dựng,
chỉnh đốn Đảng lại được Hồ Chí Minh coi là công việc càng phải được tiến
12


hành thường xuyên hơn của Đảng. Đảng phải quan tâm tới việc chỉnh đốn và
đối mới để hạn chế, ngăn chặn đẩy lùi và tẩy trừ mọi tệ nạn do thái hoá, biến
chất gây ra trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền nhà nước.
Nhìn một cách tổng qt, theo Hồ Chí Minh, xây dựng, chỉnh đốn

Đảng mang tính quy luật và nhu cầu tồn tại phát triển của bản thân Đảng.
Chỉnh đốn và đối mới Đảng là nhằm làm cho Đảng thật sự trong sạch vững
mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên
không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước những yêu cầu, đòi hỏi
ngày càng cao, càng phức tạp nhiệm vụ cách mạng. Đối mới chỉnh đốn Đảng
sẽ làm cho toàn Đảng trở thành một khối thống nhất về nhận thức và tư tưởng,
làm cơ sở cho sự thống nhất về hành động, đủ sức lái con thuyền cách mạng
Việt Nam tiến về phía trước, vượt qua những khúc quanh đầy thử thách.

13


Chương 2
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ
TỔ CHỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG XÂY DỰNG
ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH VỀ TỔ CHỨC HIỆN NAY
2.1. Q trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản
Việt nam về xây dựng đảng về tổ chức
Trong hơn 90 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng Cộng sản Việt
Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã luôn coi trọng nội
dung xây dựng Đảng về tổ chức. Đó chính là xây dựng hệ thống tổ chức, bộ
máy của Đảng, Nhà nước, Mặt trận, các đồn thể chính trị - xã hội từ Trung
ương đến cơ sở một cách khoa học, đồng bộ, tinh gọn và hiệu quả; là xây
dựng mỗi tổ chức cơ sở Đảng - chi bộ trong sạch, vững mạnh đủ năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu, đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ cách
mạng giao phó; là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa hồng vừa chuyên,
xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Trong những năm kháng chiến chống Pháp, để bộ máy vận hành có
hiệu quả, khơng có sự chồng lấn về nhiệm vụ, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
yêu cầu phải “chấn chỉnh bộ máy chính quyền từ dưới lên trên, bắt đầu từ xã;

dưới làm lên trên, trên làm xuống dưới, tự nhiên mọi việc sẽ thành… Chỉnh
đốn các đoàn thể quần chúng… Muốn làm được những việc trên, trước hết
phải chỉnh đốn nội bộ Đảng. Phải nêu ra những việc chính, nắm lấy đó mà
làm”. Khi miền Bắc đang thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, nói về tình
trạng tổ chức bộ máy cồng kềnh, tại Hội nghị ngày 11-1-1962, Người chỉ rõ:
“Từ các bộ, ngành và các địa phương, bộ máy đều quá cồng kềnh và ngày
càng phình ra. Vì vậy, sinh ra quan liêu, lãng phí. Một nhược điểm nữa là từ
các cơ quan trung ương đến các địa phương chưa thật nhất trí, trên dưới chưa
thật thơng suốt, đang cịn khuynh hướng cục bộ, bản vị” và yêu cầu phải triển

14


khai việc tinh gọn bộ máy, sửa đổi lối làm việc trong thực thi công vụ, nâng
cao chất lượng vận hành bộ máy…
Những năm sau đó, nội dung xây dựng Đảng về tổ chức đều được
khẳng định trong văn kiện mỗi nhiệm kỳ Đại hội Đảng. Thời kỳ đổi mới,
đứng trước yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ cách mạng, địi hỏi cả hệ thống
chính trị cần phải đổi mới hoạt động của Đảng theo hướng bảo đảm bộ máy
tinh gọn, có hiệu lực, hiệu quả gắn với việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng với xây dựng
hệ thống chính trị ở cơ sở. Văn kiện Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh yêu
cầu: “Tiếp tục đổi mới bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng
tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành… Thực
hiện chủ trương quản lý biên chế thống nhất trong toàn bộ hệ thống chính
trị… Cơ bản thực hiện mơ hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch HĐND các
cấp”…
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, công tác xây dựng Đảng về tổ
chức được triển khai sâu rộng ở tất cả các cấp; trong đó, việc triển khai Nghị
quyết số 18-NQ/TƯ ngày 25-10-2017 của Hội nghị Trung ương lần thứ sáu

(khóa XII) về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của
hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” đạt được nhiều kết
quả quan trọng. Theo Ban Tổ chức Trung ương, tính đến hết năm 2019, tồn
hệ thống chính trị đã giảm 4 đầu mối trực thuộc Trung ương, 61 đầu mối trực
thuộc cấp tỉnh, 485 đầu mối trực thuộc cấp huyện; 7 tổng cục và tương
đương; 87 cục, vụ, 73 đơn vị sự nghiệp thuộc ban, bộ, ngành trung ương; gần
2.500 phòng và tương đương; hơn 2.100 đội thuộc chi cục; giảm hơn 4.100
đơn vị sự nghiệp công lập, giảm hơn 2.200 đầu mối trong các đơn vị sự
nghiệp công lập; giảm gần 15.200 cấp trưởng, cấp phó.
Cùng với đó, việc thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TƯ ngày 17-4-2015
của Bộ Chính trị “Về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức” cũng giảm được khoảng 97.900 cán bộ, công chức tại các cơ
15


quan, đơn vị, địa phương. Nổi bật là việc thí điểm hợp nhất một số ban Đảng
với cơ quan chính quyền có tương đồng về nhiệm vụ ở cấp huyện đã phát huy
hiệu quả bước đầu.
Trong nhiệm kỳ Đại hội XIII, Đảng khẳng định tiếp tục thực hiện
nhiệm vụ cơ cấu lại đội ngũ cán bộ theo vị trí việc làm, mục đích cuối cùng là
nâng cao hiệu lực hiệu quả bộ máy. Hoàn thiện thể chế và đảm bảo tính liên
thơng giữa các quy định của Đảng với quy định của Nhà nước, liên thông ở
các cấp, các ngành, các tổ chức trong hệ thống chính trị; sơ kết, tổng kết, nhân
rộng các mơ hình thí điểm có hiệu quả; thí điểm nào hiệu quả thì tiếp tục nhân
rộng, khơng có hiệu quả, thì gói lại, tìm cách làm khác.
Đặc biệt, Đại hội lần này có đưa ra giải pháp để khắc phục tư tưởng trì
trệ, sợ sệt, lo lắng không dám làm. Văn kiện nêu rõ, là phải giữ vững kỷ luật,
kỷ cương trong thực thi công vụ đồng thời có cơ chế khuyến khích, bảo vệ
những cán bộ đảng viên dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm,
dám đương đầu với khó khăn, thách thức, quyết liệt trong hành động, dám đổi

mới sáng tạo vì lợi ích chung.
2.2. Một số giải pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam trong xây dựng
Đảng về tổ chức
Thiết thực vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và tiếp tục thực hiện thắng
lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng trong xây dựng Đảng về tổ chức, thời
gian tới cần tập trung vào một số giải pháp sau:
Một là, tiếp tục gắn thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về
“Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ” với Chỉ thị 05-CT/TƯ của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, thiết
thực xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Nghị quyết đã chỉ rõ mối quan hệ giữa suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức lối sống và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cũng như hậu quả của nó
16


cũng những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Trong đó, nguy hiểm nhất
là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường xã hội chủ
nghĩa, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin; nói trái, làm trái quan điểm, đường lối
của Đảng; sa sút ý chí chiến đấu; khơng cịn ý thức hết lịng vì nước, vì dân,
khơng làm trịn bổn phận, chức trách được giao; không thực hiện đúng các
nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng; sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi,
hám danh, tham nhũng, ham quyền lực, bè phái cục bộ, mất đoàn kết; quan
liêu, xa dân, vơ cảm trước khó khăn, bức xúc của nhân dân
Từ suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống tất yếu dẫn tới “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Q trình này diễn ra nhanh chóng, Nghị quyết
đã chỉ rõ chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khơn lường, có
thể dẫn tới tiếp tay hoặc kết cấu với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý

tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có quan hệ chặt chẽ với “diễn biến hịa
bình”. “Diễn biến hịa bình” thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đến
lượt nó “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thúc đẩy “diễn biến hịa bình”, trong
đó “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là nhân tố bên trong quan trọng nhất
Những suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hiện nay làm giảm sút vai trò lãnh đạo
của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối
với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ
Hai là, đánh giá đúng thực trạng, những ưu điểm và hạn chế từ mơ hình
tổ chức đến phương thức hoạt động để tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ
máy của Đảng và hệ thống chính trị trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm
vụ, mơ hình tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ
chức cơ sở Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở.
Trong báo cáo tổng kết công tác xây dựng đảng và thi hành điều lệ
đảng nhiệm kỳ đại hội XII của Đảng đã đánh giá: việc hồn thiện mơ hình tổ
17


chức tổng thể của hệ thống chính trị cho phù hợp với tình hình thực tiễn cịn
chậm, chưa đáp ứng yêu cầu. Việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy ở một số
nơi thiếu kiên quyết, đồng bộ và chưa đạt mục tiêu đề ra; cá biệt có nơi cịn
nóng vội, chưa có bước đi vững chắc. Tinh giản biên chế mới tập trung giảm
số lượng, chưa thật sự gắn với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức, từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động.
Xây dựng vị trí việc làm còn lúng túng, tiến độ triển khai còn chậm so với
mục tiêu đề ra.
Chính vì vậy, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành, chỉ đạo thực
hiện 2 nghị quyết về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị [4]; Bộ Chính trị ban hành kế hoạch và các nghị quyết, kết luận để

thực hiện [5]; Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ đã lãnh đạo,
chỉ đạo thể chế hoá bằng các văn bản pháp luật, là cơ sở chính trị, pháp lý để
các cấp thực hiện có hiệu quả. Các cấp uỷ, tổ chức đảng đã chủ động cụ thể
hoá và xây dựng văn bản, kế hoạch, đề án phù hợp với tình hình thực tế và
triển khai thực hiện nghiêm túc với nhiều cách làm sáng tạo, bước đầu tạo
chuyển biến tích cực trên nhiều lĩnh vực.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của các tổ chức
trong hệ thống chính trị được rà sốt, bổ sung, từng bước được hồn thiện,
khắc phục sự trùng lắp, chồng chéo. Trên cơ sở đó, bổ sung, hoàn thiện quy
chế làm việc theo nguyên tắc một tổ chức, một người có thể đảm nhiệm nhiều
việc, nhưng một việc chỉ do một tổ chức, một người chủ trì và chịu trách
nhiệm chính.
Ba là, thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng; tiếp tục đổi
mới công tác cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài. Nâng
cao chất lượng sinh hoạt chi bộ gắn với đổi mới phong cách công tác của mỗi
cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu trong mọi mặt cơng tác…trong đó
cần chú trọng những mục tiêu sau:

18



×