Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tiểu luận cao học vai trò của các yếu tố tạo nên thành công trong giao tiếp sư phạm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.61 KB, 15 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN : GIAO TIẾP SƯ PHẠM
Đề tài :

VAI TRỊ CỦA CÁC YẾU TỐ TẠO NÊN THÀNH CÔNG TRONG
GIAO TIẾP SƯ PHẠM


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................3
I. Một số vấn đề lý luận...................................................................................3
1.1. Khái niệm giao tiếp sư phạm...................................................................3
1.2. Các yếu tố trong giao tiếp sư phạm........................................................5
II. Vai trò của các yếu tố tạo nên thành công trong giao tiếp sư phạm......8
KẾT LUẬN....................................................................................................12
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................13


MỞ ĐẦU
Đội ngũ giảng viên ln là hình ảnh phản chiếu trực tiếp nhất đến
sinh viên. Giảng viên mẫu mực thì học trị học tập, giảng viên có hành vi
tiêu cực thì học trị cũng bắt chước theo. Chính vì vậy trong mối quan hệ
gắn kết này, giảng viên phải biết xây dựng khơng khí lớp học ln vui tươi,
phấn khởi.
Giảng viên khơng chỉ truyền thụ kiến thức mà cịn là người truyền
đam mê học hỏi, phát triển bản thân cho trò và là tấm gương về mặt đạo
đức lối sống cho các em, giúp sinh viên vừa có ý thức tự giác, hứng thú và
say mê trong việc tìm hiểu chân lý và lĩnh hội tri thức, vừa có được nhân
cách cao đẹp và chính trực cùng thái độ sống tích cực. Nhà giáo tuyệt đối


khơng được bộc lộ những thái độ, cảm xúc hay hành vi tiêu cực, thiếu kiềm
chế trên bục giảng.
Khi càng dạy học ở bậc cao thì vị trí thầy/ trị gần bằng nhau, nhiều
học trị thơng minh nhưng cũng khơng tránh được rất hồn nhiên. Nhiều khi
bình đẳng đã đến q trớn, có nhiều em lạm dụng sự bình đẳng, giao tiếp
của học trị cũng rất kém, người thầy sẽ dạy cả những giao tiếp
Sinh viên cần hiểu vấn đề. Đừng cố bắt bẻ và lý luận với học sinh,
không hiệu quả mà hãy nhẹ nhàng giải thích và chứng minh cho học sinh
hiểu.
Người giảng viên khơng nên bức xúc, khó chịu với người học khi họ
đã cố gắng hết sức. Cần động viên, tạo ra môi trường để họ phát huy hết
mức những sở trường và hạn chế những sở đoản của người học. Giảng viên
chỉ được dùng các biện pháp giáo dục bằng tình cảm để thuyết phục, vận
động (cảm hố) người học; khơng làm tổn thương người học dưới mọi hình
thức, coi trọng nhân cách người học.
Đặc biệt là trong hoạt động sư phạm, thì giao tiếp khơng thể thiếu
được. Bởi vì quá trình dạy học và giáo dục là quá trình giao tiếp giữa giáo
1


viên và sinh viên. Hiệu quả của quá trình này phụ thuộc vào nhiều yếu tố để
có thể tạo nên thành công trong giảng dạy như: yếu tố con người, nhằm
truyền đạt vốn sống, kinh nghiệm, những tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ
xảo, thói quen nghề nghiệp, xây dựng và phát triển nhân cách toàn diện ở
người học, yếu tố nội dung, yếu tố mục đích, kênh giao tiếp, phương tiện
giao tiếp…Trong đó yếu tố góp phần quan trọng vào sự thành cơng của
hoạt động sư phạm, đó chính là yếu tố con người,
Vì vậy, để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, người giáo viên tương
lai khơng chỉ tích cực rèn luyện để có chun mơn sâu, mà cịn phải tích
cực rèn luyện nghiệp vụ sư phạm để có khả năng giao tiếp tốt với sinh viên

khi bước vào nghề. Chính vì muốn hiểu biết thêm về vai trò của các yếu tố
trong giao tiếp sư phạm nên em đã chọn đề tài: “Vai trò của các yếu tố tạo
nên thành công trong giao tiếp sư phạm” để làm tiểu luận cho môn học
Giao tiếp sư phạm của mình

2


NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lý luận
Giao tiếp sư phạm là điều kiện tiên quyết để hình thành và phát triển
tâm lý, nhân cách người thầy giáo và sinh viên. Trong quá trình giao tiếp này
người thầy sẽ truyền thụ kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm của xã hội, bản
thân....để sinh viên tiếp thu và dần dần bồi dưỡng cho nhân cách phát triển
tích cực. Bản thân người giáo viên khi trao đổi, chia sẻ với trò sẽ tự rút ra
những phẩm chất cần bồi đắp thêm để hoàn thiện nhân cách, tâm lý cho chính
mình.
1.1. Khái niệm giao tiếp sư phạm
Đến nay vẫn chưa có sự thống nhất trong nội hàm khái niệm. Đã có
nhiều tác giả, trong nhiều cuốn sách đã được xuất bản, đưa ra các khái niệm
theo quan điểm riêng với nhiều điểm khác nhau và có phạm vi khác nhau.
Nhìn chung khi nghiên cứu về khái niệm giao tiếp sư phạm thì từ trước
tới nay có thể hệ thống theo hai xu hướng sau:
+ Xu hướng thứ nhất: các tác giả theo hướng này thường bó hẹp phạm
vi của giao tiếp sư phạm vào trong việc giảng dạy, truyền thụ tri thức sao cho
hoạt động này diễn ra có hiệu quả. Đồng thời hạn chế đối tượng chỉ là HS.
Hay nói cách khác, họ cho rằng giao tiếp sư phạm là phương tiện để thực hiện
hoạt động dạy - giáo dục của người giáo viên. Đại diện là N.D. Levitốp với
quan niệm: “Giao tiếp sư phạm là năng lực truyền đạt tri thức cho sinh viên
bằng cách trình bày rõ ràng, hấp dẫn”.

Ph.N. Gơnơbơlin thì cho rằng: “Giao tiếp sư phạm là năng lực truyền
đạt một cách dễ hiểu để các em sinh viên nắm vững và ghi nhớ tốt tài liệu”.
Hay A.I. Secbacov quan niệm: “Năng lực giao tiếp sư phạm giúp xác
lập nên mối quan hệ qua lại đúng đắn với trẻ, sự khéo léo đối xử sư phạm,
việc tính tốn tới đặc điểm cá nhân và lứa tuổi”.

3


Tác giả A.A.Lêônchiev lại cho rằng “Giao tiếp sư phạm đó là giao tiếp
nghề nghiệp của giáo viên với sinh viên trong và ngồi giờ học (trong q
trình giảng dạy và giáo dục), có những chức năng sư phạm nhất định (nếu
giao tiếp là trọn vẹn và tối ưu) nhằm tạo ra bầu khơng khí thuận lợi cũng như
sự tối ưu khác về tâm lý cho quá trình học tập, cho việc xây dựng mối quan hệ
giữa thầy và trò, cũng như trong nội bộ tập thể sinh viên”
Như vậy, nhìn chung các tác giả theo xu hướng này đều cho rằng giao
tiếp sư phạm là một nhân tố rất quan trọng trong việc thực hiện hoạt động
nghề nghiệp của người giáo viên. Tuy nhiên, các tác giả chỉ bó hẹp chủ thể
giao tiếp là người giáo viên. Trên thực tế, để dạy học và giáo dục cho sinh
viên nhằm hình thành, phát triển và hồn thiện nhân cách sinh viên thì địi hỏi
khi thực hiện hoạt động dạy học và giáo dục của mình thì người GV phải biết
kết hợp với các đồng nghiệp, với gia đình HS và các lực lượng xã hội khác,
tức các chủ thể giáo dục khác.
Như vậy, các định nghĩa theo hướng này đã làm hẹp nội hàm khái niệm
giao tiếp sư phạm.
+ Xu hướng thứ hai: các tác giả theo hướng này đã tiếp thu và khắc
phục những hạn chế của hướng trên và mở rộng phạm vi nghiên cứu giao tiếp
sư phạm và đã đưa ra được những định nghĩa bao quát hơn. Và đồng thời
cũng nhấn mạnh hơn đến bản chất và chức năng của giao tiếp sư phạm.
Tác giả Ngô Cơng Hồn quan niệm “Giao tiếp giữa con người với con

người trong hoạt động sư phạm được gọi là giao tiếp sư phạm”.
Theo tác giả Nguyễn Thị Thanh Bình trong luận án Phó tiến sĩ khoa
học đã đưa ra khái niệm: Giao tiếp sư phạm là quá trình tiếp xúc tâm lý, trong
đó diễn ra sự trao đổi thơng tin, cảm xúc, nhận thức và tác động, ảnh hưởng
qua lại lẫn nhau, nhằm thiết lập nên những mối quan hệ giáo dục giữa nhà
giáo dục với đối tượng giáo dục, giữa nhà giáo dục với các lực lượng giáo
dục, giữa các nhà giáo dục với nhau để thực hiện mục đích giáo dục”. Theo
tác giả, thì trong hoạt động giao tiếp sư phạm, nổi lên khơng chỉ có mối quan
4


hệ giữa giáo viên và sinh viên mà cịn có cả mối quan hệ giữa giáo viên và
các lực lượng giáo dục, giữa giáo viên và giáo viên. Như vậy, tác giả đã mở
rộng phạm vi chủ thể giao tiếp trong hoạt động sư phạm của mình.
Như vậy, các tác giả theo hướng này đã có quan niệm bao quát hơn về
giao tiếp sư phạm. Chủ thể giao tiếp sư phạm khơng cịn bó hẹp là giáo viên
mà là tất cả các lực lượng có liên quan đến việc giáo dục sinh viên. Đồng
thời, mục tiêu cuối cùng của giao tiếp sư phạm không phải chỉ là sự truyền đạt
tri thức một cách có hiệu quả mà cịn nhằm thiết lập các mối quan hệ sư phạm
và phát triển nhân cách sinh viên. Do đó, giao tiếp sư phạm cịn là q trình
trao đổi thơng tin, tiếp xúc tâm lý, tình cảm, nhận thức, tác động, ảnh hưởng
lẫn nhau giữa các chủ thể tham gia giao tiếp.
Khi tìm hiểu, em thấy rằng các khái niệm theo hướng thứ hai đã thể
hiện khá đầy đủ và bao quát về giao tiếp sư phạm. Do vậy, trong đề tài này,
em đưa ra khái niệm giao tiếp sư phạm là quá trình tiếp xúc tâm lý, trong đó
diễn ra sự trao đổi thơng tin, cảm xúc, nhận thức và tác động, ảnh hưởng qua
lại lẫn nhau, nhằm thiết lập nên những mối quan hệ giáo dục giữa các chủ thể
liên quan đến quá trình giáo dục và giữa chủ thể giáo dục với đối tượng giáo
dục để thực hiện mục đích giáo dục.
1.2. Các yếu tố trong giao tiếp sư phạm

Trên cơ sở lý luận về hoạt động sư phạm và lý luận về giao tiếp, có thể
thấy giao tiếp sư phạm có một số yếu tố cơ bản như sau:
Yếu tố con người
Đó là giảng viên và sinh viên. Ớ những vị trí khác nhau trong giao tiếp
họ ln thay đổi vị trí cho nhau. Cả giảng viên và sinh viên đều mang vào quá
trình giao tiếp những đặc điểm riêng vè sự hiểu biết, khả năng nhận thức,
quan điểm, cảm xúc...của bản thân. Những đặc điểm này chi phối rất nhiều
đến quá trình giao tiếp. Việc hiểu sinh viên trong quá trình giao tiếp là rất cần
thiết để giao tiếp thành cơng và hoạt động sư phạm đạt mục đích đã đặt ra.
Mục đích giao tiếp sư phạm
5


Mục đích giao tiếp sư phạm là để thực hiện các hoạt động sư phạm
nhàm giáo dục sinh viên hình thành tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và những phẩm
chất nhân cách đáp ứng yêu cầu của xã hội. Mục đích này chi phối các hành
động trong giao tiếp sư phạm.
Nội dung giao tiếp sư phạm
Là thông tin cần truyền đạt cho sinh viên mà giảng viên đã chuẩn bị.
Đó là các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cần thiết theo từng môn học, bài học;
những yêu cầu cần rèn luyện cho sinh viên về mặt đạo đức. Trong quá trình
dạy học, giảng viên phải làm cho sinh viên hểu đúng các nội dung đó bằng
cách tổ chức q trình giao tiếp sao cho sinh viên lĩnh hội được những nội
dung đỏ một cách hiệu quả nhất. Điều này yêu cầu giảng viên cần thiết phải
có kỹ năng truyền đạt và tiếp nhận. Cụ thể, giảng viên phải có kỹ năng dạy và
sinh viên phải có kỹ năng học tương ứng, phù hợp với yêu cầu của hoạt động
dạy.
Phương tiện giao tiếp
Là ngôn ngữ, điệu bộ, cử chỉ hay các phương tiện kỹ thuật thơng tin
nhằm thực hiện q trình giao tiếp sư phạm. Mỗi phương tiện có một đặc

điểm riêng và hiệu quả sử dụng khác nhau. Với giảng viên, phương tiện ngôn
ngữ rất quan trọng nhưng cũng không phủ nhận vai trị của phương tiện phi
ngơn ngữ.
- Giao tiếp bằng phương tiện ngôn ngữ: Đây là phương tiện chỉ riêng
có ở con người, là cơng cụ cơ bản của giảng viên nhằm tổ chức quá trình giao
tiếp với sinh viên. Hiệu quả tiếp nhận của sinh viên phụ thuộc rất nhiều vào
năng lực ngôn ngữ của giảng viên trong q trình truyền đạt. Đó là vốn từ, là
nghệ thuật sử dụng ngơn ngữ nói và viết của giảng viên. Giảng viên tùy theo
từng tình huống mà lựa chọn những loại ngơn ngữ sao cho phù hợp đế có hiệu
quả sư phạm.
- Giao tiếp bằng phương tiện phi ngôn ngữ: Phương tiện giao tiếp này
bao gồm nét mặt, ánh mắt, cử chỉ, tư thế, tác phong...Thông tin được truyền
6


đạt qua phương tiện này bao gồm: Thông tin về trạng thái xúc cảm, tình cảm
tức thời, thơng tin về tính cách cá nhân, thơng tin về thái độ của cá nhân,
thông tin về vị thế xã hội. Các phương tiện này có tác dụng hỗ trợ phương
tiện ngơn ngữ làm tăng hiệu quả của ngơn ngữ. Vì thế, giảng viên cần phối
hợp phương tiện này với phương tiện ngôn ngữ để hoạt động sư phạm đạt
hiệu quả cao hơn.
Hoàn cảnh giao tiếp
Bao gồm các yếu tố không gian, thời gian, môi trường sư phạm...Với
giao tiếp sư phạm, các yếu tố này đều đã được xác định theo thời khoá biểu và
kế hoạch hoạt động của nhà trường. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh đây là môi
trường sư phạm. Nếu môi trường sư phạm đảm bảo thì giao tiếp sư phạm sẽ
đạt hiệu quả tốt hơn. Một môi trường sư phạm thuận lợi là không gian yên
tĩnh, môi trường trong sạch khơng có các tác động xấu của xã hội...
Kênh giao tiếp
Là đường liên lạc dẫn và truyền thông tin trong giao tiếp. Trong giao

tiếp sư phạm giảng viên tác động đến sinh viên khơng chỉ bằng lời nói mà
bằng cả việc làm. Sức ảnh hưởng của giảng viên đến sinh viên phụ thuộc vào
kênh truyền thông tin. Nếu dạy học thơng qua các kênh truyền thơng như
truyền hình, phát thanh thì hiệu quả dạy học khơng thể bàng dạy học trực tiếp.
Bởi lẽ, giao tiếp trực tiếp, cả phương tiện giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ
hỗ trợ nhau, đặc biệt là sự tương tác trực tiếp được thực hiện đàm bảo tính kịp
thời với những phản hồi sẽ có ảnh hưởng trực tiếp mạnh mẽ đến sinh viên. Vì
thế, dù tài liệu có tốt và đầy đủ bao nhiêu, các phương tiện truyền tin có hiện
đại đến đâu cũng không thể thay thế người thầy bằng xương bằng thịt trên bục
giảng.
Quan hệ giao tiếp
Đó là tương tác về vai trị, vị trí, tuổi... giữa người giao tiếp. Trong giao
tiếp sư phạm giảng viên có vị thế cao hơn sinh viên nên quan hệ khổ có sự
bình đẳng. Nhưng nếu giảng viên tạo ra khơng khí thân mật, xố đi rào cản
7


khoảng cách thì giao tiếp sư phạm sẽ đạt hiệu quả tốt. Sự thoải mái trong giao
tiếp sẽ cho sinh viên bộc lộ dược những nhu cầu, mong muốn của mình, giúp
giảng viên hiểu sinh viên và điều khiển quá trình giao tiếp sư phạm có hiệu
quả hơn.
II. Vai trị của các yếu tố tạo nên thành công trong giao tiếp sư
phạm
Trong các yếu tố tạo nên thành công trong giao tiếp sư phạm thì đầu
tiên phải đề cập đến yếu tố con người. Hoạt động sư phạm là hoạt động có sự
tương tác qua lại giữa người dạy và người học.
Hai hoạt động này gắn bó chặt chẽ với nhau và phụ thuộc vào nhau. Cả
người dạy và người học là chủ thể của hai hoạt động và cũng là chủ thể của
quá trình tương tác qua lại giữa người dạy và người học. Sự tương tác ấy
được thực hiện bằng giao tiếp giữa người dạy và người học hay còn gọi là

giao tiếp sư phạm.
Giao tiếp sư phạm là sự tiếp xúc tâm lý giữa người dạy (giáo viên,
giảng viên) và người học (học sinh, sinh viên, học viên) diễn ra trong các hoạt
động sư phạm với mục đích hình thành nhân cách người học.
Giao tiếp sư phạm là một thành phần cơ bản của hoạt động sư phạm, là
hoạt động vơ cùng quan trọng góp phần tối ưu hóa quan hệ giữa người dạy và
người học. Để thành cơng trong hoạt động sư phạm thì một điều khơng thể
thiếu trong giao tiếp sư phạm đó chính lµ khía cạnh nhân văn trong giao tiếp
sư phạm. Khía cạnh nhân văn trong giao tiếp sư phạm được thể hiện ở những
đặc trưng cơ bản sau đây:
- Trong giao tiếp sư phạm, người dạy cần có nhân cách mẫu mực trong
giao tiếp (thể hiện tính mơ phạm trong giao tiếp). Hoạt động sư phạm có mục
đích giáo dục người học, hình thành ở họ những phẩm chất tâm lý, đạo đức
đáp ứng được với yêu cầu của xã hội. Do đó, tất cả các hoạt động giao tiếp sư
phạm đều nhằm vào mục đích giáo dục người học. Người dạy không chỉ giao
tiếp với người học qua nội dung các bài giảng, các nội dung tri thức khoa học
8


mà cịn ảnh hưởng đến người học bởi chính nhân cách của mình. Những
thơng tin mà người dạy trao đổi với người học không phải là thông tin duy
nhất người học tiếp thu mà người học còn tiếp thu cả những thông tin về
người dạy bộc lộ một cách thụ động khi tiếp xúc với người học. Do đó, người
dạy có thể tác động đến người học bằng nhân cách của chính mình. Sức ảnh
hưởng đó rất mạnh vì cường độ quan hệ giữa người dạy và người học là rất
lớn. Khi người học tin vào những tri thức mà họ tiếp thu được từ người dạy sẽ
làm tiền đề cho sự tin tưởng vào các tác động khác từ phía người dạy. Người
học sẽ lấy người dạy làm tấm gương để họ noi theo. Vì thế trong giao tiếp sư
phạm, người dạy phải là người mẫu mực. Tuy không phải là khn vàng
thước ngọc thì cũng phải là tấm gương sáng về sự tận tụy và trách nhiệm

trong công việc để người học noi theo. Người dạy cần có sự thống nhất trong
lời nói và việc làm, phải ln là tấm gương về mọi mặt khi tiếp xúc với người
học; luôn mẫu mực trước người học về trang phục, hành vi, cử chỉ, cách nói
năng… đáp ứng yêu cầu của hành vi giao tiếp có văn hố. Thái độ tơn trọng,
vui vẻ, hồ nhã, sử dụng ngơn ngữ phù hợp với tình huống thể hiện tế nhị,
sáng suốt…
- Trong giao tiếp sư phạm, người dạy cần có nhân cách trong giao tiếp.
Người dạy không chỉ lạnh lùng đưa ra các thông báo về tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo mà còn là một con người đầy nhiệt huyết với thế hệ trẻ. Người dạy không
phải dùng uy quyền của người thầy để áp đặt cho người học các yêu cầu của
mình mà bằng tình cảm chân thành để cảm hóa người học. Sự nhiệt huyết của
người dạy sẽ ảnh hưởng đến tính tự giác và hứng thú học tập của người học.
Trên nguyên tắc tôn trọng nhân cách người học, người dạy kích thích người
học tích cực, tự giác chứ khơng dùng các biện pháp hành chính bắt buộc
người học.
Tơn trọng nhân cách người học là tơn trọng sự bình đẳng về mọi mặt
với tư cách là một cá nhân, thể hiện ở việc: luôn biết lắng nghe người học,
khuyến khích người học thể hiện những gì muốn nói ra. Biết thể hiện sự biểu
9


cảm phù hợp qua thái độ, qua ngôn ngữ trước những vấn đề mà người học
trình bày.
- Trong giao tiếp sư phạm, người dạy cần có thiện ý và sự đồng cảm
với đối tượng. Giao tiếp sư phạm phải đảm bảo sự bình đẳng và có sự đồng
cảm sâu sắc với người học. Thực chất của vấn đề này là thái độ ân cần của
người dạy trên cơ sở thấy hiểu người học, tin cậy người học để đề ra yêu cầu
đúng đắn, vừa sức với người học. A.X. Macarenco cho rằng, sự khéo léo đối
xử về sư phạm là sự biểu hiện chân thành của lòng nhân đạo chân chính,
nhưng khơng phải của con người nói chung mà của nhà giáo dục lành nghề.

Cụ thể là, người dạy tạo điều kiện gần gũi để hiểu biết người học. Sự hiểu biết
đó khơng chỉ bề ngồi là phải từ trái tim mình. Vì nếu khơng có sự chân thành
của người dạy thì sẽ làm cho tâm hồ của người học chậm mở ra. Sự gần gũi
thực sự đối với người học trên cơ sở hiểu biết và biết đi sâu vào tâm trạng chủ
quan của họ, đoán trước được những phản ứng có thể xảy ra để có thể chủ
động giải quyết các tình huống nảy sinh trong những giờ lên lớp.
Sự khéo léo trong đối xử sư phạm sẽ giúp người dạy xây dựng được
quan hệ thân thiện với người học, sẽ giúp lĩnh hội các tri thức nhẹ nhàng và
hiệu quả, các tác động đến với người học tự nhiên và được tự giác chấp nhận.
Muốn vậy, người dạy cần có trách nhiệm với người học, thái độ ân cần chu
đáo và luôn gần gũi để hiểu người học. Điều quan trọng là người dạy luôn
chân thành, thẳng thắn với người học, gần gũi người học nhưng không bao
giờ để mất vị thế người dạy để đảm bảo cái uy của người thầy. Luôn đúng
mực trong quan hệ, có thiện chí trong giao tiếp, ln tin vào bản chất tốt đẹp
của người học, ln dành những tình cảm tốt đẹp và đem lại niềm vui cho
người học. Đồng cảm trong giao tiếp sư phạm, biết đặt mình vào vị trí của
người học, biết sống trong tâm trạng của người học, hiểu và thông cảm với
người học.
- Trong giao tiếp sư phạm có sự tơn trọng của Nhà nước và sự tôn vinh
của xã hội đối với nhà giáo. Nhà nước ta đã có nhiều điều luật khẳng định vị
10


thế nhà giáo. Các điều 72, 73 trong Luật Giáo dục đã khẳng định nhiệm vụ và
quyền hạn của nhà giáo. Các điều luật đó cùng với quy định về đạo đức nhà
giáo được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành cũng yêu cầu cao với nhà giáo.
Yêu cầu cao của Nhà nước chính là biểu hiện sự tơn trọng vị thế của nhà giáo
trong xã hội. Truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam cũng luôn tôn vinh
nhà giáo, yêu cầu người học và các bậc phụ huynh phải luôn tôn trọng nhà
giáo.

Sự tôn vinh của xã hội và Nhà nước đã cho người dạy một vị thế cao
hơn trong giao tiếp. Điều này giúp người dạy có thể tự tin, chủ động hơn
trong giao tiếp sư phạm và có khả năng ảnh hưởng nhiều hơn đến người học.
Nhưng đồng thời đó cũng chính là áp lực đối với người dạy. Sự tơn vinh cũng
có nghĩa là yêu cầu người thầy phải luôn gương mẫu, luôn bị soi xét nên chỉ
một sơ suất nhỏ cũng có thể bị nhắc nhở và mất đi sự tin tưởng. Đồng thời sự
tơn vinh người dạy làm cho người học có thể sợ người dạy. Sự sợ hãi có thể
làm cho việc tiếp xúc thiếu đi sự thoải mái hoặc làm cho người học khơng
dám bộc lộ hết chính kiến của mình. Do đó, khi tiếp xúc với người học, người
dạy phải tìm cách xóa bỏ hàng rào tâm lý ngăn cách giữa hai bên để giao tiếp
có hiệu quả, tạo được bầu khơng khí tâm lý thuận lợi cho hoạt động sư phạm
đạt hiệu quả.
Nói tóm lại, giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ người –
người, diễn ra thường xuyên liên tục trong đời sống xã hội. Giao tiếp sư phạm
là một trong những thành phần cơ bản, chủ yếu và hết sức quan trọng của hoạt
động sư phạm. Để giao tiếp sư phạm đạt được hiệu quả thì một điều khơng
thể thiếu đó chính là việc chú ý tới khía cạnh nhân văn trong giao tiếp.

11


KẾT LUẬN
Giao tiếp sư phạm là điều kiện tiên quyết để hình thành và phát triển
tâm lý, nhân cách người thầy giáo và học sinh. Trong quá trình giao tiếp này
người thầy sẽ truyền thụ kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm của xã hội, bản
thân....để học sinh tiếp thu và dần dần bồi dưỡng cho nhân cách phát triển tích
cực. Bản thân người giáo viên khi trao đổi, chia sẻ với trò sẽ tự rút ra những
phẩm chất cần bồi đắp thêm để hoàn thiện nhân cách, tâm lý cho chính mình.
Việc hiểu rõ vai trị của các yếu tố trong giao tiếp sư phạm từ yếu tố
con người cho đến yếu tố hồn cảnh giao tiếp; Từ mục đích giao tiếp cho đến

kênh giao tiếp; từ nội dung giao tiếp cho đến phương tiện giao tiếp … là cơ sở
để tạo nên thành công trong giao tiếp sư phạm. Điều đó địi hỏi mỗi người dạy
và người học phải nêu cao tính tích cực, tự giác trong học tập, giảng dạy, rèn
luyện có ý nghĩa quyết định trực tiếp trong việc nâng cao năng lực nói chung,
năng lực giao tiếp sư phạm nói riêng của cả giảng viên và sinh viên. Bởi lẽ,
nếu chủ thể không phát huy tinh thần tự giác, tích cực trong học tập, rèn luyện
nâng cao năng lực giao tiếp sư phạm thì quá trình bồi dưỡng, tác động từ các
yếu tố bên ngoài dù có mạnh đến mức nào thì việc hình thành, phát triển năng
lực giao tiếp sư phạm sẽ khơng có hiệu quả. Vì thế, đây là biện pháp quan
trọng có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến việc nâng cao năng lực giao tiếp sư
phạm cho giảng viên hiện nay.
Mỗi giảng viên phải xây dựng kế hoạch tự học tập, tự rèn luyện nâng
cao năng lực giao tiếp sư phạm cho bản thân mình. Xây dựng kế hoạch tự học
tập, tự rèn luyện phải bảo đảm tính khoa học, hướng vào việc hình thành, phát
triển năng lực giao tiếp sư phạm. Thực tiễn cho thấy trong bất kì hoạt động
nào của con người, nếu không xây dựng kế hoạch chặt chẽ, khoa học hoặc đã
có kế hoạch, mà khơng quyết tâm thực hiện thì hiệu quả hoạt động đó khơng
cao. Vì thế, xây dựng kế hoạch tự học, tự rèn luyện nâng cao giao tiếp ứng xử
sư phạm là một tất yếu, khách quan trong việc rèn luyện, nâng cao năng lực
giao tiếp sư phạm cho giảng viên hiện nay.
12


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Anh (1992), KNGT của sinh viên sư phạm. Luận án PTS Hà
Nội
3. Hoàng Anh (1992), Vấn đề giao tiếp sư phạm trong cấu trúc năng lực
sư phạm, Tạp chí nghiên cứu Giáo dục
4. Hồng Anh – Vũ Kim Thanh (1995), Giao tiếp sư phạm, Nhà xuất
bản Giáo dục, Hà Nội

5. Nguyễn Thanh Bình (1991), Về nhu cầu giao tiếp của sinh viên sư
phạm, Tạp chí nghiên cứu Giáo Dục
6. Nguyễn Thanh Bình (1994), Khả năng giao tiếp của sinh viên trong
thực tập tốt nghiệp, Tạp chí nghiên cứu Giáo Dục
7. Nguyễn Thanh Bình (1995), Một số trở ngại tâm lí của giáo sinh khi
giao tiếp trên lớp, Tạp chí nghiên cứu Giáo Dục
8. Lê Thị Bừng – Hải Vang (1997), Tâm lí học ứng xử, Nhà xuất bản
Giáo Dục
9. Lý Minh Hằng (2017), Giao tiếp sư phạm, Nxb, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền
10. Phạm Minh Hạc – Lê Khanh - Trần Trọng Thủy (1988), Tâm lí học,
Nhà xuất bản Giáo Dục
11. Phạm Minh Hạc – Phạm Hoàng Gia – Trần Trọng Thủy – Nguyễn
Quang Uẩn (1997), Tâm lí học, Nhà xuất bản Giáo Dục

13



×