Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Tiểu luận cao học tư tưởng hồ chí minh về nhà nước dân chủ và sự vận dụng của đcs việt nam trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.98 KB, 40 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài :
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ VÀ SỰ VẬN
DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA NHÂN DÂN,
DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN HIỆN NAY


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................4
Chương 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN.......................................................................4
1.1. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ. 4
1.2. Nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước dân chủ. 11
Chương 2. SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG VỀ NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ
CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM...............................................................................................................21
2.1. Quan điểm của đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam.....................................................................................21
2.2. Những thành tựu và hạn chế của việc xây dựng nhà nước Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay...................................................27
2.3. Một số giải pháp cơ bản xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam hiện nay..................33
KẾT LUẬN....................................................................................................36
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................37


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT



XHCN

Xã hội chủ nghĩa

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

KTXH

Kinh tế xã hội

KT

Kinh tế

XH

Xã hội


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, người
chiến sĩ cách mạng kiên cường của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào
cộng sản và cơng nhân quốc tế đã để lại cho Đảng và nhân dân ta những di
sản tư tưởng vô cùng to lớn. Tồn bộ hoạt động của Người là vì dân, vì nước,
vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Thành cơng của Người chính là sự vận dụng một cách sáng tạo những nguyên

lý, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện,hoàn cảnh lịch sử cụ
thể của cách mạng Việt Nam, đem lại độc lập,tự do cho dân tộc.
Trong suốt hơn 80 năm qua, tư tưởng của Người luôn dẫn đường chỉ lối
cho dân tộc ta vượt qua bao khó khăn, nguy hiểm, bao kẻ thù, đi từ thắng lợi
này tới thắng lợi khác, ngày càng khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường
Quốc tế. Một trong những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà
nước dân chủ là xây dựng một nhà nước kiểu mới - nhà nước của dân, do dân
và vì dân.
Tư tưởng của Người về nhà nước của dân, do dân, vì dân đã được hình
thành và phát triển trong suốt quá trình Người tham gia hoạt động cách mạng.
Người đã dành khơng ít tâm trí, sức lực để thiết kế, chỉ đạo, xây dựng bộ máy
nhà nước và hệ thống pháp luật từ những năm đầu của cách mạng, qua kháng
chiến chống Pháp, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh thống
nhất đất nước và ngày càng được hoàn thiện qua từng giai đoạn lịch sử.
Bước vào thế kỷ XXI, đất Việt Nam đang đứng trước những cơ hội và
thách thức chưa từng có. Xu thế tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế đang phát
triển sâu rộng với tốc độ nhanh chóng, sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ
thuật hiện đại và đang mở ra cơ hội cho các nước chậm phát triển có thể đuổi
kịp các nước phát triển. Trong tình hình đó, Việt Nam cần phải có một nhà
nước thực sự trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả, hiệu lực, tranh
1


thủ nắm lấy vận hội, đưa đất nước vượt qua nguy cơ, thách thức. Do vậy, hơn
lúc nào hết, những tư tưởng của Người, nhất là những tư tưởng về nhà nước
dân chủ, Nhà nước của dân, do dân và vì dân là bó đuốc tỏa sáng, soi đường
định hướng cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn qn ta, để
khơng ngừng hồn thiện nhà nước pháp quyền XHCN trong giai đoạn mới. Vì
vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, nhằm định hướng cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa ở nước Việt Nam hiện nay .
Chính vì thế em chọn nghiên cứu đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước dân chủ và sự vận dụng của ĐCS Việt Nam trong xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân hiện nay” để lảm tiểu luận cho mơn học của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước dân
chủ, của dân, do dân, vì dân để vận dụng vào xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu nguồn gốc, q trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước của dân, do dân, vì dân
- Nghiên cứu những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước của dân, do dân, vì dân
- Nghiên cứu tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân,
vì dân vào xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
dân chủ của dân, do dân, vì dân và việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
2


3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề lớn, phạm vi đề tài chỉ nghiên cứu:
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân; sự vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân do dân vì dân với việc tiếp
tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của đề tài là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản
Việt Nam
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như: phương
pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích tổng hợp, kết hợp
với việc thu thập và xử lý những tài liệu này giúp người nghiên cứu có cái
nhìn tổng qt và đúng đắn hơn về vấn đề nghiên cứu.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được kết cấu thành 2 chương và 5 tiết.

3


NỘI DUNG
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ - CỦA DÂN,
DO DÂN, VÌ DÂN
1.1. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ
Lịch sử dựng và giữ nước của dân tộc Việt Nam gắn liền với những
cuộc đấu tranh quyết liệt chống thù trong giặc ngoài và mỗi khi Tổ quốc bị
lâm nguy, thì non sơng đất nước lại sản sinh ra những anh hùng kiệt xuất, đáp
ứng được yêu cầu của lịch sử.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam,
ra đời do yêu cầu khách quan đáp ứng được những yêu cầu bức thiết do cách
mạng Việt Nam đặt ra: Vào giữa thế kỷ XIX (1858), thực dân pháp nổ súng
xâm lược nước Việt Nam, vua quan nhà Nguyễn đã quỳ gối đầu hàng, Việt

Nam trở thành thuộc địa của Pháp. Nhân dân ta căm hờn quyết đứng lên đấu
tranh, khởi nghĩa giành chính quyền, song vì chưa có đường lối đúng đắn nên
cách mạng bị dìm trong biển máu. Những chủ trương cứu nước của cụ Phan
Bội Châu, Phan Chu Trinh đều khơng thành, con đị cách mạng Việt Nam
dường như trong đêm tối khơng có đường ra, chưa rõ bến bờ.
Ngày 7 tháng 11 năm 1917, cách mạng tháng Mười Nga thành công,
thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga cùng sự ra đời của Nhà nước Xô
Viết đầu tiên, đã thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
thế giới.
Chính lúc đó Nguyễn Tất Thành xuất hiện, vượt lên những hạn chế của
các nhà yêu nước đương thời. Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
tiên tiến nhất của thời đại. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh trí tuệ của dân
tộc và thời đại, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Việc xác định
nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có ý nghĩa quan trọng
để hiểu bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh, mối quan hệ giữa tư tưởng Hồ Chí
Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin và các học thuyết chính trị - xã hội khác.
4


- Về cơ sở lý luận là dựa trên quan điểm của triết học mác - lênin về sự
ra đời của nhà nước. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc nhà
nước được trình bày chủ yếu trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình của chế
độ tư hữu và của nhà nước” (Ănghen). Được bổ sung và phát triển trong tác
phẩm “Nhà nước và cách mạng” (Lênin).
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin: Nhà nước là một
phạm trù lịch sử có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong. Nhà nước nảy
sinh trong đời sống xã hội, xuất hiện khi xã hội lồi người phát triển đến một
trình độ nhất định.
Học thuyết Mác - Lênin chỉ rõ: Chế độ công xã nguyên thủy là hình
thái KT - XH đầu tiên của XH lồi người, chưa có giai cấp, chưa có nhà

nước, nhưng q trình vận động và phát triển của nó đã làm xuất hiện
những tiền đề vật chất cho sự tan rã của tổ chức thị tộc, bộ lạc và sự ra đời
của nhà nước.
Những biến đổi về mặt kinh tế của XH công xã nguyên thủy làm cho
cộng đồng dân cư thuần nhất của thị tộc bộ lạc phân hoá thành các bộ phận
đối lập nhau về mặt lợi ích xã hội, hình thành hai giai cấp chính là giai cấp
bóc lột và giai cấp bị bóc lột. Điều kiện KTXH vốn là cơ sở cho sự tồn tại của
chế độ công xã nguyên thủy bị phá vỡ, quyền lực xã hội và hệ thống quản lý
do toàn thể các thành viên trong cộng đồng tổ chức ra để bảo vệ lợi ích của
các thành viên bình đẳng nay khơng cịn thích hợp với xã hội đã phân hố và
mâu thuẫn gay gắt về lợi ích.
Để duy trì trật tự và quản lý một xã hội đã có những thay đổi rất căn
bản địi hỏi phải có một tổ chức và quyền lực mới, tổ chức này do giai cấp
nắm ưu thế về kinh tế và chính trị lập ra - đó chính là nhà nước.
Như vậy, nhà nước là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp, xuất hiện
từ khi XH loài người bị phân chia thành những giai cấp đối kháng là bộ máy
do giai cấp nắm quyền thống trị về kinh tế, chính trị, xã hội lập ra để điều
hành toàn bộ hoạt động của xã hội trong một nước với mục đích là bảo vệ
quyền lợi của giai cấp thống trị.
5


- Về cơ sở thực tiễn, qua việc khảo sát mơ hình các kiểu nhà nước trong
lịch sử người đã thấy sự bất lực và lạc hậu của thể chế chính trị phong kiến và
mặt trái của thể chế chính trị tư sản, thể hiện sự bóc lột người dân lao động ở
chính quốc cũng như các nước thuộc địa, do đó Người khơng thể lựa chọn mơ
hình thể chế phong kiến và tư sản.
Trong quá trình hoạt động cách mạng và học tập những lý luận bên
ngồi, Hồ Chí Minh chú ý khảo cứu lựa chọn ra một kiểu nhà nước mới cho
Việt Nam để xây dựng sau khi cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường

cách mạng vơ sản thành cơng. Nhà nước đó phải đại biểu quyền lợi cho số
đơng người và Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng một Nhà nước công
nông binh thể hiện trong Chánh cương vắn tắt của Đảng khi thành lập Đảng
đầu năm 1930. Hồ Chí Minh đã từng có chủ trương xây dựng ở Việt Nam một
nhà nước Dân chủ Cộng hòa, một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ,
nhà nước của dân, do dân, vì dân. Ngồi ra phải kể đến những yếu tố khác đó
cũng là cơ sở để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
Một là, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
Dân tộc Việt Nam trong hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ
nước, đã kết tinh cho mình một bản sắc văn hóa riêng, phong phú và bền
vững, với những truyền thống tốt đẹp. Trong đó tinh thần yêu nước đã trở
thành đạo lý sống, niềm tự hào và là nhân tố đứng đầu trong bảng giá trị tinh
thần của con người Việt Nam. Lịng u nước nồng nàn, ý chí kiên cường
bất khuất, tinh thần tự lực, tự cường, được các thế hệ người Việt thể hiện
trong các cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó khơng chỉ là một tình
cảm, một phẩm chất, mà đã phát triển thành một chủ nghĩa yêu nước, chủ
nghĩa dân tộc chân chính, thành dòng tư tưởng chảy xuyên suốt lịch sử dân
tộc Việt Nam.
Truyền thống yêu nước ấy đã thôi thúc người thanh niên Nguyễn Tất
Thành ra đi tìm đường cứu nước. Trong khoảng 10 năm sau đó (từ 1911 đến
1920), Người đã vượt qua ba đại dương, bốn châu lục đặt chân đến gần 30
6


nước trên thế giới, làm nhiều nghề để sống và hoạt động: làm phụ bếp, đốt lị,
qt tuyết, phóng ảnh, viết báo,...và rồi Nguyễn Ái Quốc trở thành người
cộng sản Việt Nam đầu tiên, một chiến sĩ Quốc tế. Người viết: “Lúc đầu
chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải là chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi
tin theo Lênin, tin theo Quốc tế III” [2, tr.128].
Người tâm đắc một hồi bão: “Tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn

tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự
do, đồng bào ai cũng có cơm ăn , áo mặc, ai cũng được học hành”[15, tr.161]
Hai là, tinh hoa văn hóa nhân loại
Ngay từ thuở nhỏ, Nguyễn Tất Thành đã ham học hỏi, thích tìm hiểu
nghiên cứu. Trên bước đường cứu nước, Người đã tiếp thu, kế thừa có chọn
lọc và làm giàu vốn trí tuệ của mình bằng những tinh hoa triết học, văn hóa
Đơng - Tây - Kim cổ, như những dòng suối trong lành hợp thành dòng hải lưu
vĩ đại. Bày tỏ thái độ của mình về một số học thuyết và tôn giáo, Người viết:
“Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá
nhân. Tơn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lịng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa
Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tơn
Dật Tiên có ưu điểm của nó là chính sách của nó thích ứng với điều kiện nước
ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng những có điểm chung đó sao?
Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho lồi người, cho xã hội. Nếu hơm nay
họ còn sống trên đời này, nếu họ hợp lại một chỗ tôi tin rằng họ nhất định
chung sống với nhau rất hồn mỹ như những người bạn thân thiết. Tơi cố
gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy.”.
Những điều trên cho thấy, trong quá trình hình thành và phát triển tư
tưởng của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu và kế thừa có chọn lọc
những di sản quý báu của văn hóa nhân loại, đồng thời nâng nó lên một tầm
cao mới trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Ba là, chủ nghĩa Mác - Lênin và cách mạng tháng Mười Nga Cuối
năm 1917, Nguyễn Ái Quốc từ Anh trở về Pháp. Người vừa làm việc để
7


kiếm sống, vừa hoạt động chính trị nhưng người ln lạc quan say sưa học
tập và nghiên cứu. Năm 1918 Người tham gia Đảng Xã hội Pháp, một Đảng
tiến bộ lúc bấy giờ. Người sung sướng đọc bản “sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin. Qua việc đọc và tìm

hiểu tác phẩm Người đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc: “Con đường
cách mạng vơ sản”. Từ đó, Người tin và đi theo Quốc tế III, Người viết:
“Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin...”.[13,
tr.388] Chủ nghĩa Mác - Lênin chính là nguồn gốc lý luận hình thành nên tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Nhân tố chủ quan hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, đó chính là phẩm
chất, tư chất, đạo đức, nhân cách, bản lĩnh của Người. Vì độc lập tự do của Tổ
quốc, vì cơm ăn áo mặc của đồng bào đã thơi thúc Người tìm tịi, nghiên cứu
và đạt được mục tiêu, lý tưởng cách mạng đúng đắn. Và chính do sự vận dụng
của chủ nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo, phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh Việt Nam mà Người đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước được Người đúc rút kinh nghiệm
qua tìm tịi khảo nghiệm các cuộc cách mệnh mang ý nghĩa tự do - bình đẳng
- bác ái. Đánh giá về cuộc cách mạng Mỹ, Người chỉ rõ: “Tuy Tun ngơn
độc lập 1776 của Mỹ có câu rằng: “Giời sinh ra ai cũng có quyền tự do, quyền
giữ tính mệnh của mình, quyền làm ăn cho sung sướng.Hễ Chính phủ nào mà
có hại cho dân chúng thì dân chúng phải đạp đổ Chính phủ ấy đi và gây lên
Chính phủ khác”, “bây giờ chính phủ Mỹ lại khơng cho ai nói đến chuyện
cách mệnh, ai đụng đến chính phủ”[14, tr.270].
Do vậy, Người kết luận: Cách mạng tư sản rồi, mà công nông vẫn cứ
cực khổ.
Đến với cách mạng tư sản Pháp thế kỷ XVIII, Người đánh giá: “Nhà
nước tư sản Pháp ra đời là thành quả của cuộc cách mạng 1789 lật đổ chế độ
8


phong kiến với khẩu hiệu nổi tiếng. “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”. “Tư bản nó
dùng chữ tự do - bình đẳng - bác ái lừa dân, xui dân đánh đổ phong kiến. Khi

dân đánh đổ phong kiến rồi thì nó lại thay phong kiến mà áp bức dân”[11,
tr.270]
Người đi đến kết luận: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ,
nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh khơng đến nơi, tiếng là cộng hịa dân
chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc
địa”[14, tr.274]
Từ đó, Người khẳng định: Cách mạng Việt Nam không thể đi theo
khuynh hướng dân chủ tư sản, nhà nước Việt Nam sau khi giành được độc lập
khơng mang bản chất tư sản.
Người tìm thấy một mơ hình nhà nước kiểu mới: “Phát đất ruộng cho
dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền.ra sức tổ chức kinh tế mới, để thực
hành chủ nghĩa thế giới đại đồng”. [14, tr.238].
Mơ hình nhà nước đó đã gợi ý cho Hồ Chí Minh về một kiểu nhà nước
sẽ được xây dựng ở Việt Nam trong tương lai.
Đầu năm 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Trong Chánh cương
vắn tắt của Đảng, Người viết: “Đánh đổ bọn đế quốc phong kiến làm cho đất
nước hoàn toàn được độc lập và dựng ra chính phủ cơng nơng binh”. Từ ý
tưởng về nhà nước công nông binh của Người đã trở thành hiện thực với mơ
hình Xơ Viết được thiết lập ở Nghệ An - Hà Tĩnh trong cao trào cách mạng
1930 - 1931. Đó là kiểu nhà nước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định
chọn cho dân tộc ta, một kiểu nhà nước mới theo học thuyết của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân, của nhân dân
Việt Nam.
Và tất cả những điều đó đã được khẳng định bằng sự ra đời của nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa, mà đánh dấu là bản Tuyên ngôn độc lập đã được
Người long trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào tại quảng trường Ba Đình
ngày 2/9/1945: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật
9



đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất
cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc
lập ấy”[12, tr.557].
Ngày 6/1/1946, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, mọi công dân Việt
Nam không phân biệt già trẻ, trai gái, tôn giáo .nô nức đi bỏ phiếu, lựa chọn
những đại biểu của mình vào Quốc hội, để tạo ra bộ máy thực sự của dân , do
dân, vì dân. Sau cuộc Tổng tuyển cử thắng lợi, Quốc hội khóa I đã họp, Chính
phủ mới chính thức ra đời: “Chính phủ mới phải tỏ ra cái tinh thần đại đồn
kết khơng phân biệt đảng phái.Tơi có thể tun bố trước Quốc hội rằng:
Chính phủ này tỏ ra cái tinh thần quốc dân liên hiệp, là một Chính phủ chú
trọng thực tế và sẽ nỗ lực làm việc, để tranh thủ quyền độc lập và thống nhất
lãnh thổ, cùng xây dựng một nước Việt Nam mới, Chính phủ này là Chính
phủ tồn quốc, có đủ nhân tài Trung, Nam , Bắc tham gia”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với cương vị là người đứng đầu nhà nước, chính
phủ, ln chăm lo, xây dựng bộ máy nhà nước các cấp đủ mạnh để mang lại cho
dân ta cuộc sống ấm no hạnh phúc. Điều này được thể hiện nhất quán trong bản
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa năm 1946 và các bản
Hiến pháp tiếp sau. Theo Bác, cán bộ là “công bộc” , là “đầy tớ của nhân dân”.
Bác nói: “Cả đời tơi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và
hạnh phúc của quốc dân, những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, ra vào chốn tù
tội, xơng pha sự hiểm nghèo, là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đồn kết
tranh được chính quyền ủy thác cho tơi gánh việc Chính phủ, tơi lo lắng đêm
ngày nhẫn nhục cố gắng, cũng vì mục đích đó” [15, tr.240].
Tóm lại, q trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước gắn
liền với quá trình tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là kết quả
của sự thấm nhuần sâu sắc những tư tưởng về nhà nước ở phương Tây,
phương Đông, của những nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng một
cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, để thiết kế xây dựng một
nhà nước kiểu mới thực sự của dân, do dân, vì dân.
10



1.2. Nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước
dân chủ
Một trong những đóng góp lớn của Hồ Chí Minh chính là lý luận và
thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam.
Tư tưởng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân của Hồ Chí Minh là
sự kết tinh các giá trị tư tưởng, văn hóa chính trị của phương Đơng và phương
Tây trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin. Đây là một biểu hiện, là một thành
quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển của chủ nghĩa Mác -Lênin, của hệ
thống các quan điểm Mác-Lênin về nhà nước và điều kiện cụ thể của nước ta,
là một bộ phận cấu thành cơ sở lý luận của việc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đi sâu vào nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ, pháp
quyền cho thấy nội dung tư tưởng Người về nhà nước dân chủ là nhà nước của
dân, do dân và vì dân, chúng ta càng thấy rõ hơn sự vận dụng sáng tạo và phát
triển của tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước nói
chung và nhà nước dân chủ nói riêng.
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân
Trước hết, cần khẳng định rằng, tuy không sử dụng khái niệm “nhà
nước pháp quyền”, song ngay từ sớm và trong suốt cuộc đời cách mạng, Hồ
Chí Minh ln chủ trương xây dựng một nhà nước pháp quyền dân chủ.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra rằng nhà nước vô sản là vấn đề cơ bản
của cách mạng vơ sản, Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước là tìm con
đường cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh suy cho cùng đó là tư
tưởng về cách mạng Việt Nam trong hiện tại và tương lai. Đại hội Đảng cộng
sản Việt Nam lần thứ IX đã khẳng định:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, kế

thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại” [20, tr.9].
11


Ngay từ những năm đầu tiếp xúc với nền dân chủ tư sản Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nhận thức được vai trò quan trọng của Pháp luật trong quản lý và
điều hành xã hội.
Năm 1919, Người gửi bản yêu sách của nhân dân An Nam tới hội nghị
Véc xây đòi: “Ban cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo
về mặt pháp luật như người châu âu” [11, tr.435].
Năm 1922, Bản yêu sách được diễn ca thành “Việt Nam yêu cầu ca”,
trong đó có câu:
“Bảy xin hiến pháp ban hành
Trăm đều phải có thần linh pháp quyền” [12, tr.438]
Những điều nêu trong yêu sách, chứng minh chủ tịch Hồ Chí Minh đã
sớm có tư tưởng về một nền chính trị, một chế độ nhà nước mà trong đó, tinh
thần pháp quyền thấm sâu vào tất cả các mặt của đời sống xã hội. Người nói:
“Luật pháp cũ là ý chí của thực dân Pháp, khơng phải là ý chí chung của tồn thể
nhân dân ta.luật pháp ấy đặt ra trước hết để trừng trị, áp bức nhân dân lao động”,
còn “pháp luật của ta hiện nay bảo vệ quyền lợi của hàng triệu người lao động,
pháp luật của nhà nước ta thực sự là pháp luật dân chủ” [19, tr.154].
Người có nhận thức rõ về một chính quyền nhà nước của dân, do dân,
vì dân là một chính quyền “hợp pháp, hợp hiến”. Do vậy, ngay trước cách
mạng tháng Tám, chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương Đảng đề
ra chủ trương “Thành lập chính quyền cách mạng ở các căn cứ địa, các khu
giải phóng” [2, tr.209-291].
Tư tưởng xây dựng nhà nước ngày càng thể hiện rõ hơn trước khi cách
mạng tháng Tám nổ ra, đầu tháng 8/1945, mặc dù tình hình chiến tranh rất
khẩn trương, việc liên lạc trong cả nước gặp khó khăn. Người vẫn kiên quyết

triệu tập Đại hội quốc dân Tân Trào có đại biểu các vùng miền, các đảng phái
chính trị,các đồn thể cứu quốc, các dân tộc, tơn giáo tham gia, mang tính
chất của một phiên họp quốc hội, để quyết định những vấn đề lớn của cách
mạng, cử ra “Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam”, một tổ chức có tính chất
12


tiền Chính phủ được đại biểu nhân dân bầu ra để lãnh đạo nhân dân đấu tranh
giành độc lập.
Nhà nước của dân là một nhà nước mà ở đó: “Tất cả quyền bính trong
nước là của tồn thể nhân dân Việt Nam, việc nước là việc chung của mỗi
người con Rồng cháu Tiên, bất kỳ già trẻ, trai gái, giàu nghèo, nịi giống, tơn
giáo đều phải gánh một phần” [16, tr.698].
Người nhấn mạnh: “Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng
tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu... Để có một Chính phủ của dân và
do dân thành lập”, “Tổng tuyển cử là dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa
chọn người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc tổng
tuyển cử, hễ là người muốn lo việc nước nhà thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là
cơng dân đều có quyền đi bầu cử. Do tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc
hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ, Chính phủ đó thật sự là Chính phủ của toàn
dân” [15, tr.133].
Ngày 6/1/1946, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, mọi công dân Việt
Nam được đi bỏ phiếu lựa chọn những người có đức, có tài vào Quốc hội.
Đây không những là ngày hội lớn của dân tộc mà còn thể hiện sự nhất quán
trong tư tưởng của Người về nhà nước thực sự của nhân dân.
Việc thành lập bộ máy nhà nước do dân cử bằng phổ thông đầu phiếu là
sự kiện đầu tiên khẳng định nhà nước ta là nhà nước của dân: “Chính phủ ta là
Chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là ra sức phụng sự lợi ích của
nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đơn đốc, kiểm sốt và phê
bình để làm trịn nhiệm vụ của mình, là người đầy tớ trung thành và tận tụy

của nhân dân” [28, tr.430]
Để nhân dân thực hiện tốt việc kiểm tra, giám sát nhà nước, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã yêu cầu tất cả các cơ quan nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên
hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân.
Đó là sự địi hỏi một chính quyền mới phải thực sự gương mẫu, trong
sạch. Muốn vậy cả phía chính quyền và phía nhân dân đều phải thực hiện:
13


cần, kiệm, liêm chính. Như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh dã nói: “Từ ngày thành
lập Chính phủ, trong nhân viên cịn có khuyết điểm, có người làm quan cách
mạng chợ đen, chợ đổ, mưu vinh thân phì ra. Xin đồng bào hãy phê bình,
giám sát cơng việc của Chính phủ” [29, tr.61].
Nhân dân cũng có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân, nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm
của nhân dân. Người nói: “Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy,
nếu không làm được việc cho dân thì dân khơng cần đến nữa” [22, tr.41].
Nguyên tắc ấy đảm bảo quyền kiểm soát của dân đối với đại biểu của mình.
Quan điểm quyền lực chính trị thuộc về nhân dân và phục vụ cho lợi ích của
nhân dân là quan điểm cốt lõi và xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước.
Như đã nói ở trên, quan điểm quyền lực chính trị thuộc về nhân dân và
phục vụ cho lợi ích của nhân dân là quan điểm cốt lõi và xuyên suốt trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước. Khởi đầu từ Đường Kách Mệnh đến Hội
nghị BCH Trung ương lần thứ 8 (5/1941) - Hội nghị đánh dấu sự chuyển
hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam - do Hồ Chí Minh trực tiếp chủ trì
đã xác định:
“Sau lúc đánh đuổi được Pháp - Nhật sẽ thành lập một nước Việt Nam
dân chủ mới theo tinh thần tân dân chủ. Chính quyền cách mạng của nước dân
chủ mới ấy không phải thuộc quyền riêng của một giai cấp nào, mà là của chung

tồn thể dân tộc, chỉ trừ có bọn tay sai của đế quốc Pháp - Nhật và những bọn
phản quốc, những bọn thù, khơng được giữ chính quyền, cịn ai là người dân
sống trên dải đất Việt Nam thảy đều được một phần tham gia giữ chính quyền,
phải có một phần nhiệm vụ giữ lấy và bảo vệ chính quyền ấy” [3, tr.114].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân còn
thể hiện ở việc Người thường xuyên gắn cụm từ nhân dân với khái niệm nhà
nước, chính phủ, quốc hội, v.. v.. Ví dụ như trong giai đoạn 1945-1946, các
cụm từ “Nhà nước nhân dân”, “Chính phủ nhân dân” có tần số xuất hiện rất

14


cao trong các bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những cụm từ này
được Hồ Chí Minh sử dụng với đối tượng là các cán bộ nhà nước các cấp và
đặc biệt là với nhân dân. Đó là sự khẳng định tính nhân dân của nhà nước, là
sự khẳng định của một vị Chủ tịch nước và do vậy, với tất cả các giá trị thực
tiễn và tính phổ quát của một tuyên bố chính trị, đặc biệt trong một xã hội
mang đậm dấu ấn của xã hội Phương Đơng truyền thống như Việt Nam, nó có
sức cải tạo xã hội rất lớn. Sự khẳng định đó là sự nhắc nhở các cán bộ nhà
nước phải luôn ghi nhớ quyền hạn và trách nhiệm của mình cũng như giáo
dục cho nhân dân về một địa vị hoàn toàn mới của họ.
Từ sau khi Hiến pháp 1946 ra đời, và đặc biệt là gắn liền với thực tiễn xây
dựng nhà nước kiểu mới, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước tiếp tục có sự phát
triển hết sức phong phú, với nhiều chiều cạnh đạt tới trình độ lý luận và mang
tính thực tiễn hết sức sâu sắc. Trong các nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước giai đoạn từ sau 1946 đến lúc Người qua đời, tư tưởng về dân chủ - trên ý
nghĩa là bản chất của quyền lực nhà nước và phương thức tổ chức, triển khai
quyền lực nhà nước - là một đặc sắc trong tư tưởng của Người.
Dân chủ - theo Hồ Chí Minh - một cách chung nhất có nghĩa là quyền
lực chính trị thuộc về nhân dân: “ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do

nhân dân làm chủ”; “Nhân dân làm ơng chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu
ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ” [17,
tr.218-219]. Đây là sự khẳng định, hay chính xác hơn là sự kiên định, tinh
thần chỉ đạo đã được Hồ Chí Minh nêu ra ngay từ khi cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc vẫn cịn đang diễn ra.
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước do dân
Sự nghiệp cách mạng của quần chúng đã đạt được thắng lợi to lớn là
giành chính quyền về tay nhân dân lao động, nhưng giành được chính quyền
đã khó, giữ được chính quyền cịn khó hơn. Điều cần quan tâm là nhà nước do
ai bầu ra, quyền lực nhà nước là của ai, do ai nắm, nhân dân có được hưởng tự
do hạnh phúc hay khơng?

15


Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa
ra đời. Tại cuộc họp Chính phủ ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra
những nhiệm vụ cấp bách của chính quyền cịn non trẻ, trong đó: “Vấn đề thứ
ba, trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ
thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp, nhân
dân ta khơng được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến
pháp dân chủ, tơi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng
tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu” [15, tr.8]. Theo Người, một nhà
nước mạnh trước hết là một nhà nước thực sự đại diện cho quyền lợi của dân,
do dân lập ra, được nhân dân ủng hộ và chịu sự giám sát của dân.
Việc định ra pháp luật là rất quan trọng, nhưng vấn đề quan trọng hơn
là luật pháp ấy phải được toàn xã hội thi hành nghiêm túc, không trừ một ai.
Nhà nước xây dựng pháp luật, nhưng đồng thời nhà nước cũng phải tn thủ
theo pháp luật, khơng có ngoại lệ. Chính phủ phải đi đầu, làm gương trong
việc thi hành pháp luật và giữ gìn liên khiết. Người nói: “Về việc chính phủ

liêm khiết thì Chính phủ hiện thời đã cố gắng liêm khiết lắm. Nhưng trong
chính phủ từ Hồ Chí minh cho đến những người làm việc ở các ủy ban làng
đơng lắm và phức tạp lắm, dù sao chính phủ đã hết sức làm gương. Và nếu
làm gương không xong, thì sẽ dùng pháp luật mà trị. Những kẻ ăn hối lộ, đã
trị, đương trị và sẽ trị cho kỳ hết”[5, tr.98].
Người nghiêm khắc đòi hỏi mọi tổ chức Đảng, chính quyền, qn đội,
tồn thể nhân dân tn thủ pháp luật, khơng ai đứng trên hay đứng ngồi pháp
luật. Người dạy cán bộ tư pháp: “Cần phải nêu cao cái gương: phụng cơng,
thủ pháp, chí cơng vơ tư”. Đồng thời trừng trị nghiêm khắc những kẻ phạm
tội, những cán bộ chức trách cậy thế coi thường pháp luật. Người nói: “Họ
cậy mình là cơng thần cách mạng, rồi đâm ra ngang tàng, khơng giữ gìn kỷ
luật, khơng thi hành Nghị quyết của Đảng và Chính phủ. Thế là họ kiêu ngạo,
họ phá kỷ luật của Đảng, của Chính phủ”[16, tr.286].

16


Nhà nước của dân theo quan điểm của Người là lấy “dân làm gốc”.
“Nước lấy dân làm gốc Gốc có vững cây mới bền Xây lầu thắng lợi trên nền
nhân dân” [16, tr. 410].
Dân chính là gốc, là nền tảng của đất nước và “Trong bầu trời khơng gì
q bằng nhân dân” [18, tr.276]. Do vậy các cấp chính quyền cần nhân dân,
gần gũi dân, biết dựa vào nhân dân, luôn lắng nghe ý kiến của nhân dân. Chủ
tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Ta phải liên lạc mật thiết với dân chúng, không
được rời xa dân chúng. Rời xa dân là cơ độc. Cơ độc thì nhất định thất bại”
Người khẳng định:
“Dễ mười lần khơng dân cũng chịu Khó trăm lần dân liệu cũng xong”
[19, tr.292]
Người cịn nói: “Nếu khơng có nhân dân thì Chính phủ khơng đủ lực
lượng. Nếu khơng có Chính phủ thì nhân dân khơng ai dẫn đường”.

Chính phủ cộng hịa dân chủ: “Là đầy tớ chung của dân, từ chủ tịch
toàn quốc đến làng. Dân là chủ thì Chính phủ phải là đầy tớ. Nếu Chính phủ
làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ” [16, tr.60]. Nhà nước ta thực
hiện chế độ dân chủ đại diện, bầu ra cơ quan đại điện của nhân dân, thay mặt
nhân dân bàn bạc, quyết định những vấn đề quan trọng trong đối nội, đối
ngoại. Đồng thời thay mặt nhân dân bầu ra các cơ quan khác trong bộ máy
nhà nước và thực hiện việc kiểm tra, giám sát các cơ quan ấy, bãi nhiệm,
miễn nhiệm những thành viên không xứng đáng là đại biểu của nhân dân.
1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước vì dân
Nhà nước vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là nhà nước phục vụ
lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, khơng có đặc quyền đặc lợi, khơng đè
đầu cưỡi cổ dân. “Vì dân” khơng chỉ là mục tiêu hoạt động và tồn tại của
chính quyền mà cịn là phương thức, phong cách và phương pháp hành động
của chính quyền.
Người nói: “Tơi tuyệt nhiên khơng ham muốn cơng danh phú quý chút
nào. Bây giờ phải gánh vác chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tơi phải
17



×