QUỐC HỘI KHÓA XIV
ỦY BAN VĂN HÓA, GIÁO DỤC, THANH NIÊN, THIẾU NIÊN VÀ NHI ĐỒNG
HỘI THẢO GIÁO DỤC VIỆT NAM 2020
“Tự chủ trong giáo dục đại học - từ chính sách đến thực tiễn”
(Tài liệu phục vụ Hội thảo - Quyển 2)
Hà Nội, ngày 27 tháng 11 năm 2020
MỤC LỤC
STT
Bài tham luận
Tác giả/ Cơ quan thực hiện
Tr.
II
Phiên 1: Thể chế tự chủ trong giáo dục đại học
1.
Tự chủ đại học -các khoảng cách trong nhận
thức và sự không đồng bộ về thể chế
Lâm Quang Thiệp
Trường Đại học Thăng Long
1
2.
Cơ chế tự chủ đại học từ chính sách đến thực
tiễn - Vấn đề, nghiên cứu hệ thống và giải pháp
Phạm Huy Dũng
Trường Đại Học Thăng Long
5
3.
Hoàn thiện hệ thống văn bản nội bộ làm cơ sở
cho việc thực hiện tự chủ của cơ sở giáo dục
đại học
Nguyễn Huy Bằng
Chi hội luật gia Bộ GD&ĐT
11
4.
Một số vấn đề cần được làm rõ và hướng dẫn
khi thực hiện quyền tự chủ trong giáo dục đại
học theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật giáo dục đại học
Lê Văn Học
Ủy ban VHGDTNTN&NĐ
17
5.
Giáo dục đại học tư – những đóng góp trong
lĩnh vực giáo dục đại học sau khi “Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục
đại học” có hiệu lực
Nguyễn Kim Hồng
Trường Đại học Văn Hiến
23
6.
Chính sách tự chủ giáo dục- Động lực lớn cho
sự phát triển giáo dục đại học công lập ở Việt
Nam
Đinh Văn Trọng
Lê Thị Tuyết Ba
Trường ĐH Kinh tế Đà Nẵng
35
7.
Chính sách tự chủ đại học của nhà nước và
năng lực thực tế của hệ thống các trường đại
học công lập địa phương của Việt Nam hiện
nay
Nguyễn Mậu Hùng
Nguyễn Thị Hạnh
Trường Đại học Khoa học,
Đại học Huế
41
8.
Tự chủ trong giáo dục đại học
ở các trường ngồi cơng lập – Thực trạng và
giải pháp
65
9.
Thiết chế Hội đồng trường gắn với tự chủ đại
học
10.
Bàn về trách nhiệm giải trình
Trương Thị Lê Hồng
Trường Đại học Ngoại ngữ Tin học TP.HCM
Lê Anh Tuấn
Lê Minh Thắng
Trường Đại học Bách khoa
Hà Nội
Nguyễn Hội Nghĩa
Đại học Quốc gia TP. HCM
11.
Phương thức thực hiện phân quyền tự chủ và
trách nhiệm giải trình đến đơn vị và cá nhân ở
Trường Đại học Tiền Giang
87
12.
Hồn thiện chính sách pháp luật về hội đồng
trường góp phần tăng cường hoạt động tự chủ
trong các cơ sở giáo dục đại học công lập ở
Việt Nam
Nguyễn Viết Thịnh
Nguyễn Thanh Bình
Trường Đại học Tiền Giang
Nguyễn Xuân Thủy
Học viện Cảnh sát Nhân dân
75
81
91
13.
Vai trò của Hội đồng trường trong quản trị đại
học ở các cơ sở giáo dục đại học công lập thí
điểm thực hiện cơ chế tự chủ -tự chịu trách
nhiệm theo Nghị quyết số 77/NQ-CP
14.
109
Xây dựng nền quản trị đại học tiên tiến gắn
liền với công tác kiểm định chất lượng giáo
dục Việt Nam
Lê Trung Thành
Nguyễn Bá Nhẫm
Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân
Bành Tiến Long
Trường Đại học Bách khoa
Hà Nội
15.
Đề xuất mô hình phát triển đội ngũ giảng viên
theo hướng tăng quyền tự chủ, trách nhiệm xã
hội của cơ sở giáo dục đại học công lập
Ngô Thị Hiếu
Nguyễn Thanh Hưng
Trường Đại học Tây Nguyên
139
16.
Bàn về tự do học thuật trong cơ chế tự chủ
của giáo dục đại học tại Việt Nam hiện nay
153
17.
Tự chủ đại học gắn với kiểm định chất lượng
– xu thế tất yếu của đổi mới giáo dục đào tạo
đại học
Nguyễn Hồng Nga
Trường Đại học Kinh tế Luật, ĐHQG HCM
Trần Thị Thanh Tú
Nguyễn Thị Minh Phượng
Trường ĐH Kinh tế,
ĐHQGHN
18.
Đặc thù của quản trị đại học và những bất cập
trong cơ cấu tổ chức, quản lý hệ thống ở Việt
Nam hiện nay
169
19.
Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải
trình trong quản trị nhà nước về giáo dục
Phạm Đức Chính
Trường Đại học Kinh tế-Luật,
ĐHQG HCM
Chu Hồng Thanh
Đại học Quốc gia Hà Nội
20.
Nội dung cơ bản của quản trị đại học và đặc
thù quản trị đại học luật – góc nhìn kinh tế và
pháp lý
Nguyễn Văn Cừ
Bộ GD&ĐT
Phạm Thị Giang Thu
Trường Đại học Luật Hà Nội
207
21.
Kinh nghiệm tự chủ về quản lý và phát triển
cán bộ tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Nguyễn Yến Chi
Vũ Văn Yêm
Trần Ngọc Khiêm
Huỳnh Quyết Thắng
Trường ĐH Bách khoa Hà Nội
221
22.
Đổi mới quản trị đại học trước yêu cầu
chuyển đổi số trong giáo dục đại học
235
23.
Tìm hiểu cặp khái niệm “Quyền tự chủ Trách nhiệm giải trình” trong quản trị đại học
công lập trên thế giới và đối chiếu quá trình
đổi mới giáo dục đại học ở Việt Nam
Mô hình quản lý công mới (NPM) trong tự
chủ đại học tại Việt Nam: nghiên cứu về
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh
Phạm Đỗ Nhật Tiến
Bộ GD&ĐT
Mai Văn Tỉnh
Hiệp hội các trường ĐH,CĐ
Việt Nam
Nguyễn Thị Ngọc Liên
Vũ Minh Hà
Trần Mai Đông
Lý Thị Minh Châu
Trường ĐH Kinh tế TP.HCM
269
24.
123
163
197
249
25.
Tự chủ đại học và trách nhiệm xã hội của các
trường đại học Việt Nam trong đào tạo mở và
từ xa nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực trong thời đại hội nhập
Nguyễn Thị Thuý Hồng
Trường Đại học Mở Hà Nội
285
26.
Một số bất cập trong xây dựng cơ chế chính
sách để đáp ứng quyền tự chủ về quản lý nhân
sự của trường đại học thành viên thuộc đại
học vùng ở Việt Nam
Trương Tuấn Linh
Nguyễn Phương Thảo
Trường Đại học Công nghệ
Thông tin và Truyền thông,
Đại học Thái Nguyên
291
27.
Chủ động hợp tác với doanh nghiệp, doanh
nhân “Kết nối để thành công” trong bối cảnh
tự chủ
299
28.
Quản trị đại học trong bối cảnh tự chủ đại học
tại Việt Nam
Trần Đình Lý
Đặng Kiên Cường
Trường Đại học Nông Lâm
TP.HCM
Nguyễn Quang Giải
Nguyễn Hải Linh
Phú Thị Tuyết Nga
Trường Đại học Thủ Dầu Một
29.
Cơ chế quản trị đại học tự chủ và tiến trình
hoàn thiện pháp luật tự chủ đại học ở Việt
Nam
Quyền tự do học thuật trong giáo dục đại học:
Kinh nghiệm thế giới và bài học cho Việt
Nam
Đỗ Đức Minh
Khoa Luật, ĐHQGHN
319
Bùi Tiến Đạt
Khoa Luật, ĐHQGHN
339
31.
Tự chủ của giảng viên: cơ sở và ứng dụng
trong hệ thống giáo dục đại học tại Việt Nam
Trần Thùy Nhung
Lê Thị Xuân Thu
Trường ĐH Luật TP.HCM
347
32.
Mô hình quản trị đại học tự chủ cùng với
trách nhiệm giải trình xã hội và mục tiêu nâng
cao vị thế của các trường đại học Việt Nam
Tự chủ về nhân sự trong các trường đại học
công lập ở Việt Nam hiện nay
Nguyễn Minh Huyền Trang
Đại học Quốc gia TP.HCM
359
Lê Đức Thọ
Trường Cao đẳng Nghề Đà
Nẵng
377
30.
33.
309
III
Phiên 2: Tự chủ tài chính trong giáo dục đại học
34.
Tài chính đại học cơng lập trên thế giới, cơ
Nguyễn Thị Cành
chế tài chính đại học cơng lập tại Việt Nam và Đoàn Thị Phương Diệp
các kiến nghị
Trường ĐH Kinh tế-Luật,
ĐHQG HCM
385
35.
Thực trạng tài chính và triển khai tự chủ tài
chính trong các trường đại học công lập
401
36.
Mai Thanh Phong
Trường Đại học Bách Khoa,
ĐHQG HCM
Tự chủ tài chính - chìa khóa vàng trong tự chủ Nguyễn Trọng Cơ
đại học
Học viện Tài chính
405
Tự chủ tài chính giáo dục đại học, thực tiễn tại Trần Mai Ước
Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh Trường Đại học Ngân hàng
TP.HCM
Giáo dục đại học Việt Nam: những trải
Đặng Văn Định
nghiệm về tự chủ tài chính trong thời kỳ đổi
Hiệp hội các trường ĐH, CĐ
mới
Việt Nam
411
39.
Thực tiễn thực hiện tự chủ tài chính tại các cơ
sở giáo dục đại học công lập hiện nay ở nước
ta – một số giải pháp gợi ý trong thời gian tới
Lê Thị Thúy Hà
Học viện Ngân hàng
431
40.
Tự chủ tài chính và đổi mới đầu tư
ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học
Nguyễn Hóa
Trường Đại học Thương mại
441
41.
Hồn thiện cơ chế, chính sách nhằm bảo đảm
nguồn tài chính bền vững cho các cơ sở giáo
dục đại học công lập trong điều kiện tự chủ
Nguyễn Đình Hưng
Đại học quốc gia TP.HCM
Phí Thị Hồng Linh
Trường Đại học Kinh tế quốc
dân
457
42.
Tự chủ tài chính tại các cơ sở giáo dục đại học Nguyễn Thị Phúc Hậu
công lập Việt Nam
Học viện Ngân hàng – Phân
viện Phú Yên
475
43.
Tự chủ tài chính tại các cơ sở giáo dục đại học Trần Thị Ái Diễm
- kinh nghiệm ở các nước và bài học cho Việt Học viện Ngân hàng – Phân
Nam
viện Phú Yên
483
44.
Các yếu tố ảnh hưởng đến tự chủ tài chính ở
các trường đại học công lập
Phạm Thúy Quỳnh Nga
Đại học Nội vụ Hà Nội
489
45.
Tự chủ tài chính tại trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh
Nguyễn Đức Tuấn
Trường Đại học KHXH&NV,
ĐHQG HCM
495
46.
Đổi mới chính sách học phí và học bổng tại
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội trong thực
hiện tự chủ
Nguyễn Phong Điền
Nguyễn Đắc Trung
Huỳnh Quyết Thắng
Trường Đại học Bách khoa
Hà Nội
511
47.
Tính giá dịch vụ đào tạo tại các trường đại
học công lập tự chủ: thực trạng và giải pháp
Hồng Thị Bích Ngọc
Nguyễn Thị Minh Giang
Trường Đại học thương mại
517
48.
Các hình thức sở hữu, chủ sở hữu , đại diện
Lê Viết Khuyến
chủ sở hữu, cơ cấu hội đồng trường và lộ trình Hiệp hội các trường ĐH,CĐ
chuyển qua tự chủ của các cơ sở giáo dục đại Việt Nam
học tại Việt Nam
529
37.
38.
419
TỰ CHỦ ĐẠI HỌC - CÁC KHOẢNG CÁCH TRONG NHẬN THỨC
VÀ SỰ KHÔNG ĐỒNG BỘ VỀ THỂ CHẾ
Lâm Quang Thiệp
Trường Đại học Thăng Long
Tự chủ đại học là một chủ đề có lẽ được đề cập đến nhiều nhất trong cộng đồng
giáo dục đại học (GDĐH) vào những năm gần đây. Bài viết này sẽ giới thiệu qua về sự
phát triển của chủ đề này trên thế giới và ở Việt Nam, và phân tích một số cản trở của
việc triển khai chính sách tự chủ đại học vào thực tiễn GDĐH nước ta.
1. Tự chủ đại học – thế giới và Việt Nam
Tự chủ đại học là một chủ đề khơng hề mới, nó được nói đến rất nhiều trên thế
giới và ở nước ta, và chắc sẽ còn được bàn cãi tiếp tục và mãi mãi, khi nào trên đời
này còn tồn tại trường đại học.
Các loại nhà trường, phần lớn liên quan đến nhà nước và tôn giáo đã ra đời trên
thế giới cách đây khoảng ba nghìn năm. Tuy nhiên, khi xác định thời điểm ra đời của
trường đại học, các nhà nghiên cứu lịch sử GDĐH phương Tây đã thống nhất với nhau
rằng khi nào xuất hiện loại nhà trường có quyền tự chủ (đối với nhà nước và tôn giáo),
thì xem như bắt đầu có trường đại học [The History of Higher Education, 1997]. Ở
châu Âu đó là vào khoảng thế kỷ thứ 12, với trường Bologna ở Ý và một số trường
khác ở Anh, Pháp. Sau đó khái niệm tự chủ đại học được nhắc đến nhiều nhất với sự
ra đời của đại học kiểu Humboldt vào đầu thế kỷ 19 ở Đức, với các tiêu chí: tự chủ, tự
do học thuật và gắn kết giữa giảng dạy với nghiên cứu [Lâm Quang Thiệp, 2018].
Vận dụng kinh nghiệm quốc tế, trong thập niên đầu đổi mới sau năm 1986 ở
nước ta, khái niệm quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của trường đại học đã được
đưa vào Luật Giáo dục đầu tiên năm 1998. Để đảm bảo thực thi các khái niệm đó
trong các cơ sở GDĐH, thực thể Hội đồng trường được đưa vào Điều lệ trường đại
học đầu tiên năm 2003. Sau đó, trong các Luật Giáo dục và Luật GDĐH luôn luôn
nhắc lại và ngày càng làm rõ thể chế tự chủ đại học. Tuy nhiên cho đến nay thể chế tự
chủ đại học vẫn không thâm nhập suôn sẽ vào thực tiễn GDĐH vì rất nhiều lý do.
Dưới đây chúng ta thử phân tích một vài lý do chủ yếu cản trở việc hiện thực
thể chế tự chủ đaị học.
2. Khoảng cách trong nhận thức về tự chủ đại học
Mặc dù chính sách tự chủ đại học đã được các cấp lãnh đạo cao của Đảng và
Nhà nước đề xuất và đưa vào hệ thống luật lệ về giáo dục, nhưng nhận thức về chính
sách này vẫn cịn khoảng cách giữa cấp đề xuất và cấp áp dụng chính sách, cũng như
giữa các cấp khác nhau thực thi chính sách trong thực tiễn.
Liên quan đến tự chủ đại học, từ năm 2005, Nghị quyết 14/2005/NQ-CP ngày
2/11/2005 về đổi mới GDĐH của Chính phủ đã quy định “Xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản,
xây dựng cơ chế đại diện sở hữu nhà nước đối với các cơ sở GDĐH công lập”. Theo
quy định này, khi đã đưa vào hội đồng trường (HĐT) đại diện của bộ chủ quản thì sự
quản trị của bộ chủ quản không được thực hiện trực tiếp nữa mà thơng qua đại diện
này. Sau đó, Nghị quyết 89/NQ-CP ngày 10/10/2016 của Chính phủ lại nói rõ: “giảm
1
mạnh sự can thiệp hành chính của các cơ quan chủ quản đối với hoạt động của các
trường đại học, tiến tới xóa bỏ cơ chế chủ quản; đổi mới mơ hình quản trị đại học theo
hướng chuyển từ chế độ thủ trưởng (hiệu trưởng) sang chế độ tập thể lãnh đạo
(HĐT)”. Tiếp đến, Nghị quyết 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương
Đảng lần thứ 6 về tổ chức và quản lý các đơn vị sự nghiệp công lập cũng chỉ đạo cần
“nâng cao hiệu lực, hiệu quả cơ chế HĐT trong các trường đại học theo hướng HĐT là
cơ quan thực quyền cao nhất của trường đại học”, và quy định cụ thể “bí thư đảng uỷ
kiêm chủ tịch HĐT”. Như vậy từ các cấp chỉ đạo, nhận thức về tự chủ đại học ngày
càng rõ ràng và mạnh mẽ.
Tuy nhiên, khi nhận thức không theo kịp sự phát triển của chính sách, cấp áp
dụng chính sách bên dưới thường có xu hướng bám theo các quy định cũ, thậm chí ban
hành các văn bản vi phạm các văn bản chỉ đạo của cấp trên và các luật lệ đã được cải
tiến. Điều đó thể hiện rất rõ ở trường hợp của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, cơ
quan bên trên trường Đại học Tôn Đức Thắng, trong các sự kiện mâu thuẫn xảy ra vừa
qua. Nhiều chuyên gia cho rằng Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam đã ban hành
Quyết định số 1584/QĐ-TLĐ với nhiều quy định trái với Nghị quyết số 19-NQ/TW
cũng như Luật số GDĐH năm 2018 về tự chủ đại học [Trần Đình Thiên, 2020]. Liên
quan với tình hình này, Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam đã kiến nghị
Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội cùng
Ủy ban Pháp luật của Quốc hội tổ chức kiểm tra, kịp thời chấn chỉnh những sai phạm
trong việc ban hành các văn bản dưới luật của các tổ chức cấp dưới [Hiệp hội
…,2020].
Hãy lấy thêm một ví dụ liên quan đến Nghị định 99/2019/NĐ-CP của Chính
phủ hướng dẫn thi hành Luật GDĐH năm 2018 vừa mới ban hành ngày 30/12/2019.
Ở Điều 7 của Nghị định nói trên vẫn quy định cơ quan chủ quản (tuy gọi chệch là cơ
quan quản lý trực tiếp) có nhiều quyền quyết định bên trên HĐT chứ không phải chỉ
cử đại diện tham gia HĐT. Ví dụ này chứng tỏ những người soạn thảo Nghị định, do
những lý do khác nhau, không thật thấm nhuần chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về việc
đảm bảo cho “HĐT là cơ quan có thực quyền cao nhất của trường đại học” như đã nêu
trên đây.
Khoảng cách trong nhận thức được nói ở đây không chỉ phụ thuộc vào trình độ
nhận thức, mà đơi khi cịn liên quan đến lợi ích nhóm. “Khi đó, lợi ích của “nhóm
đang giữ quyền” trở thành thế lực cản trở mạnh mẽ hoạt động tự chủ”. [Trần Đình
Thiên, 2020].
3. Sự không đồng bộ về thể chế trong tự chủ đại học
Một trong những khó khăn trong việc thực thi chính sách tự chủ đại học, đặc
biệt ở cấp cơ sở, là sự không đồng bộ về thể chế.
- Xin nêu một ví dụ. Một trong các quyền quan trọng về tự chủ đại học của
HĐT là lựa chọn hiệu trưởng. Các chuyên gia quốc tế cũng lưu ý đến quyền này, khi
nói “HĐT chỉ có một người thừa hành duy nhất là hiệu trưởng” [John Carver, 2006].
Do đó khi quyền này thuộc về Bộ chủ quản thì thực tế HĐT đã bị vơ hiệu hóa. Cho
nên Luật GDĐH năm 2018 quy định: “Hiệu trưởng cơ sở giáo dục đại học công lập do
HĐT quyết định và được cơ quan quản lý có thẩm quyền cơng nhận”.
Tuy nhiên theo quy định của Bộ GD&ĐT, thể hiện ở Quyết định 7939/QDBGĐT ngày 20/11/2008, quyền đề cử hiệu trưởng các trường đại học trực thuộc Bộ là
2
chức năng của Vụ Tổ chức và Cán bộ của Bộ chứ không thuộc chức năng của HĐT
(chúng tôi không rõ quyết định này hiện có cịn hiệu lực khơng). Như vậy, có sự khơng
đồng bộ về thể chế, sự không đồng bộ này là một trong những lý do vơ hiệu hóa tác
dụng của HĐT, cản trở việc thực hiện quyền tự chủ của trường đại học.
Một ví dụ khác là Luật đầu tư công được áp dụng đối với các đối tượng “có liên
quan đến hoạt động đầu tư công, quản lý và sử dụng vốn đầu tư cơng” [Luật đầu tư
cơng, 2019], trong đó có các trường đại học công lập. Khi được tự chủ, trường đại học
cơng lập có phải tn thủ Luật đầu tư cơng hay khơng? Nếu khơng có quy định rõ,
trường đại học cơng lập tự chủ sẽ gặp khó khăn trong hoạt động. Trong trường hợp
trường Đại học Tôn Đức Thắng, tuy là trường cơng lập thuộc Tổng Liên Đồn Lao
động nhưng khơng nhận ngân sách Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ đã có Văn bản số
3995/VPCP-KGVX ngày 18/6/2008 quy định “Trường được tự quyết định mức thu
học phí và thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật như một
trường ngồi cơng lập”. Đó là một cách xử lý tốt của Chính phủ trong một trường hợp
cụ thể, hỗ trợ nhà trường ứng phó với sự khơng đồng bộ về thể chế nói trên.
- Đối với các trường đại học ngồi cơng lập, quyền tự chủ đại học cũng gặp
nhiều vấn đề. Chính sách coi trọng GDĐH ngồi cơng lập đã được Nhà nước lưu ý
ngay từ lúc loại hình trường này ra đời vào đầu thập niên 1990. Xu hướng đó thể hiện
rõ nhất trong Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005 về đổi mới GDĐH, đưa
ra chỉ tiêu vào năm 2010 có “khoảng 40% tổng số sinh viên thuộc các cơ sở giáo dục
đại học ngoài công lập”. Trong thực tiễn chỉ tiêu này đã không đạt được, sau đó nó
phải bị điều chỉnh nhiều lần, và cho đến nay, năm 2020, con số đạt được cũng chỉ mới
khoảng 14%. Vì sao GDĐH ngồi cơng lập phát triển chậm như vậy? Ngoài các
nguyên nhân khác, sự thiếu đồng bộ về thể chế cũng là một lý do quan trọng. Chẳng
hạn, một vấn đề tồn tại từ lâu, và vẫn được thể hiện trong Luật GDĐH năm 2018, là
quy định về “tài sản chung không chia” của các trường đại học ngồi cơng lập. Chính
quy định này ngăn trở phần lớn các trường đại học dân lập chuyển đổi thành trường
đại học tư thục tư thục theo Quyết định 122/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
vào tháng 5 nam 2006. Sự phân tâm của các trường đại học ngồi cơng lập càng tăng
khi được nghe một vị lãnh đạo có trách nhiệm giải thích mục đích của việc bảo tồn tài
sản chung khơng chia là làm tăng dần tỷ lệ phần tài sản chung đó so với tài sản tư để
giảm dần tính chất tư nhân của trường đại học ngồi cơng lập. Như vậy, rõ ràng cả
khoảng cách về nhận thức và sự thiếu đồng bộ trong thể chế về tự chủ đại học đối với
trường ngoài công lập đã cản trở sự phát triển của loại hình đại học này
♦ Trên đây chỉ bàn về một vài cản trở trong việc áp dụng chính sách tự chủ đại
học vào thực tiễn. Quá trình thực hiện tự chủ đại học sẽ tiếp tục làm nảy sinh nhiều
khó khăn khác. Nguyên nhân sâu xa của tình trạng này ở chỗ đây là chính sách tạo nên
sự di chuyển về quyền lực, các bộ phận đã và đang giữ quyền lực khơng muốn mất nó.
Q trình này khơng xảy ra đơn giản, vì thực chất là một quá trình đấu tranh để khẳng
định quyền lực. Tuy nhiên, quá trình đấu tranh đó sẽ làm cho hệ thống GDĐH nước ta
ngày càng trưởng thành và mạnh mẽ hơn.
3
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
The History of Higher Education, 1997. ASHE Reader Series, Simon &
Schuster Custom Publishing.
2.
Lâm Quang Thiệp, 2018. “Humboldt, Hoa Kỳ và Giáo dục đại học Việt Nam”,
trong “Nghiệp vụ sư phạm đại học”, NXB Giáo dục. Có thể xem ở:
/>
3.
Trần Đình Thiên, 2020. “Thủ tướng nên ban hành một Nghị định cho riêng
Trường Đại học Tôn Đức Thắng.” />
4.
Hiệp hội các trường đại học và Cao đẳng Việt Nam, 2020 “Đề nghị giám sát văn
bản dưới luật do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam ban hành”.
/>
5.
Luật đàu tư công, 2019. />
6.
John Carver, Miriam Carver, 2006. Reinventing Your Board. Jossey-Bass
Publishers.
4
CƠ CHẾ TỰ CHỦ ĐẠI HỌC TỪ CHÍNH SÁCH ĐẾN THỰC TIỄN
VẤN ĐỀ, NGHIÊN CỨU HỆ THỐNG VÀ GIẢI PHÁP
Phạm Huy Dũng
Trường Đại Học Thăng Long
1. Vấn đề
Cơ chế tự chủ đại học là cách thức để thực hiện tự chủ. Và, cách thức để thực
hiện tự chủ gắn với định nghĩa về tự chủ đại học. Nhiều người có đưa ra định nghĩa về
tự chủ đại học. Song, tác giả Keiko Yokoyama1 nhận xét rằng các quốc gia khác nhau
có thể có định nghĩa khác nhau về tự chủ đại học; thí dụ so sánh trường hợp Anh Quốc
và Nhật Bản. Trường hợp Anh Quốc coi tự chủ đại học như lý tưởng của đại học, bảo
vệ các trường đại học khỏi bị áp lực từ bên ngoài. Trường hợp Nhật Bản hiểu tự chủ
đại học trong quan hệ điều phối của Bộ Giáo dục và các bộ liên đới. Xu thế của chính
sách thị trường hóa tại 2 quốc gia này đã làm thay đổi ý nghĩa của tự chủ đại học tại
quốc gia của họ thành tự chủ theo hợp đồng (contractual autonomy) tại Anh Quốc, và
tự chủ của cơ sở đào tạo (institutional autonomy) tại Nhật Bản. Câu hỏi ở đây là:
“Định nghĩa tự chủ đại học tại Việt Nam là gì? Luật đại học sửa đổi số 34/ 2018/
QH14 năm 20182 đã định nghĩa như sau: “Quyền tự chủ là quyền của cơ sở giáo dục
đại học được tự xác định mục tiêu và lựa chọn cách thức thực hiện mục tiêu; tự quyết
định và có trách nhiệm giải trình về hoạt động chun mơn, học thuật, tổ chức, nhân
sự, tài chính, tài sản và hoạt động khác trên cơ sở quy định của pháp luật và năng lực
của cơ sở giáo dục đại học. Trách nhiệm giải trình là việc cơ sở giáo dục đại học có
trách nhiệm báo cáo, minh bạch thơng tin đối với người học, xã hội, cơ quan quản lý
có thẩm quyền, chủ sở hữu và các bên liên quan về việc tuân thủ quy định của pháp
luật và thực hiện đúng quy định, cam kết của cơ sở giáo dục đại học”. Như vậy, có thể
hiểu tự chủ đại học ở Việt Nam là tự chủ của cơ sở đào tạo , và cơ sở đào tạo có trách
nhiệm giải trình xã hội về các hoạt động theo hướng tự chủ của mình. Như vậy, cũng
có thể hiểu cơ chế tự chủ bao gồm các điều kiện để thực hiện tự chủ như: -Có hội đồng
trường, hội đồng đại học; -Có quy chế tổ chức và hoạt động, quy chế tài chính; -Có
quy chế, quy trình, quy định quản lý nội bộ khác; -Có chính sách bảo đảm chất lượng
đáp ứng tiêu chuẩn do Nhà nước quy định.
Chính sách tự chủ đại học Việt Nam bắt đầu từ 20053. với một nghị quyết chính
phủ do Thủ tưởng Phan Văn Khải ký. Từ năm học 2006 – 2007, Bộ Giáo dục và Đào
tạo chủ trương “cởi trói” cho các trường đại học về tuyển sinh,tổ chức nhân sự, cấp
phát văn bằng, mở ngành nghề, chương trình đào tạo, liên thông, học phí, tự chủ tài
chính, hợp tác quốc tế. Song, khái niệm này, chưa có một nội hàm cụ thể thế nào là
tự chủ, tự chủ thì sẽ được làm gì, và khơng được làm gì. Luật Giáo dục Đại học 2012
quy đinh về quyền tự chủ cho các trường đại học tại điều 32 của luật do Chủ tịch Quốc
1
2
3
Keiko Yokoyama, 2007). Changing Definitions of University Autonomy: The Cases of England and
Japan, Higher Education in Europe, 32:4, 399-409, DOI: 10.1080/03797720802066294
Chủ tịch Quốc hội Ngyễn Thị Kim Ngân 2018. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật giáo dục đại hcj só
34/2018/QH14 ký và ban hành ngày 19 tháng 11 năm 2018 và có hiệu lực ngày 01 tháng 07nnawm 2019
Thủ tướng Phan Văn Khải 2005. Nghị quyết chính phủ về đổi mới cơ bản và tồn diện giáo dục đại học Việt
Nam giai đoạn 2200- 2020, số 14/2005/NQ-CP, ký và ban hành ngày 02 tháng 11 năm 2005
5
hội Nguyễn Sinh Hùng ký năm 20124. Năm 2013 có nghị quyết Trung ương 29NQ/TW đổi mới căn bản và tồn diện giáo dục và đào tạo do Tổng Bí Thư Nguyễn
Phú Trọng ký và ban hành ngày 4 tháng 11 năm 20135. Trong tinh thần đó, năm 2014,
lại có nghị quyết Chính phủ về thí điẻm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở
giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014 – 2017, số 77/NQ-CP do Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng ký và ban hành ngày 24 tháng 10 năm 20146. Do đó, việc triển khai tự chủ
đại học đã được thực hiện thí điểm giai đoạn 2014 – 2017 ở 4 trường đại học trực
thuộc Bộ như: Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, Đại học
Ngoại thương, Đại học Hà Nội và về sau mở rộng thêm ở các trường như : Đại học
Mở TP. Hồ Chí Minh, Viện Đại học Mở Hà Nội, Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học
Tài chính – Marketting…có thể xem là những bước đi đầu tiên trong việc thực hiện tự
chủ đại học. Trong giai đoạn này có nhiều chồng chéo về quyền hạn, chức năng, và
nhiệm vụ giữa ban giám hiệu và hội đồng trường. Năm 2018, luật giáo dục đại học
số 34/2018/QH147 sửa đổi đã làm rõ những vấn đề này. Như vậy, cơ chế thực hiện tự
chủ đại học đã ngày càng rõ ràng và có hiệu quả.
Nhưng, vẫn cịn rất nhiều tác động trái chiều từ nhiều phía như trường hợp
trường Đại học Tôn Đức Thắng, trường Đại học Kinh tế Công Nghệ, trường Đại học
Hoa Sen, … Tự chủ đại học đang có một số rối loạn phải quan tâm; Vietnam Net
20188 nêu: “Về tự chủ giáo dục đại học, đồng tình với các ý kiến cho rằng đang được
triển khai rất tốt, Thủ tướng (Nguyễn Xuân Phúc) lưu ý, bước đi, cách làm phải hết
sức chặt chẽ, tốt hơn để không gây rối loạn”. Vấn đề đặt ra là có biện pháp nào, có cơ
chế nào, cần có điều chỉnh nào để thực thi tự chủ đại học có hiệu quả và giải quyết
được rối loan nói trên.
2. Vấn đề cơ chế _ Hướng giải quyết hệ thống
Báo cáo này không đi vào từng trường hợp cụ thể, và phân tích vấn đề theo
nghiên cứu hệ thống (giáo dục), tìm ngun nhân từ phân tích hệ thống để ứng dụng
cho trường hợp cụ thể. Nghiên cứu cho báo cáo này sử dụng mô tả hệ thống của Clark
Burton 19839. Theo khung mô tả này, hệ thống giáo dục đại học gồm: (1) các cơ sở
giáo dục đại học được phân theo loại ngang (chỉ có các cơ sở cơng; có cả cơ sở cơng
và cơ sở tư), và được phân loại dọc, trên dưới theo cấp độ (trường đại học cộng đồng
chỉ đào tạo cử nhân, trường đại học có đào tạo thạc sĩ, và trường đại học nghiên cứu
đào tạo tiến sĩ); phân loại các cơ sở đào tạo theo UNESCO, chiều dọc gồm 10 cấp độ
và chiều ngang theo chức năng; (2) Các chủ thể (bên trong trường _ thí dụ cổ đơng và
bên ngồi trường _ thí dụ cơ quan chủ quản) trong hệ thống có tác động quyền lực
4
5
6
7
8
9
6
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng 2013. Luật giáo dục đại học số 08/2012/QH13 được Quốc Hội thông
qua ngày 18 tháng 6 năm 2012. và ban hành ngày 01 tháng 01 năm 2013.
Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng 2013. Nghị quyết Hội nghị Trung Ương 8 Khóa XI về đỏi mới căn bản,tồn
diện giáo dục và đào tạo, số 29-NQ/TW ký và ban hành ngày 4 tháng 11 năm 2013.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng 2014
Nghị quyết Chính phủ về thí điẻm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai
đoạn 2014 – 2017, số 77/NQ-CP ký và ban hành ngày 24 tháng 10 năm 2014.
Chủ tịch Quốc hội Ngyễn Thị Kim Ngân 2018. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật giáo dục đại hcj só
34/2018/QH14 ký và ban hành ngày 19 tháng 11 năm 2018 và có hiệu lực ngày 01 tháng 07nnawm 2019
Vietnamnet 12/09/2020 15:53:05 (GMT +7). Thủ tướng: Không để tự chủ đại học "gây rối loạn".
29/05/2018 22:05 GMT+7
Clark, Burton R. 1998. Creating entrepreneurial universities: Organizational pathways of transformation,
issues in higher education. New York: Pergamon
(sức ép) đến cơ sở đại học; (3) Và, quản lý Nhà nước (governance) trực tiếp tham gia
quyết định hay giám sát thanh tra gián tiếp trên cơ sở quy định luật pháp và điều lệ.
Tìm cơ chế hay chỉnh sửa cơ chế giải quyết những vấn đề nẩy sinh trong quá
trình thực hiện tự chủ đại học dựa trên quan niệm cho rằng thực hiện tự chủ đại học
luôn là một q trình từ khi có trường đại học đến nay. Tự chủ đại học luôn được thực
hiện trong một bối cảnh nhất định; nói một cách khác trong một hệ thống giáo dục đại
học nhất định vào một thời điểm nhất định với các mối quan hệ giữa hệ thống đại học
quốc gia và xu thế quốc tế.Và, bất kể vấn đề nào của tự chủ đại học, cần xem đó là vấn
đề của cơ sở hay vấn đề của hệ thống. Nói chung vấn đề nào cơ sở khơng giải quyết
được, vậy đó là vấn đề của hệ thống.
Tự chủ đại học ở Việt Nam đã có luật quy định, đã có hướng dẫn của chính phủ
để thực hiện. Các trường đại học của Việt Nam (theo phân loại ngang) có trường cơng
lập (tự chủ và chưa tự chủ),trường đại học tư thục tự chủ và chưa tự chủ, trường đại
học dân lập (đã chuyển đổi sang tư thục và chưa chuyển đổi sang tư thục), trường đại
học cơng lập (có bộ hoặc ban ngành chủ quản và khơng có bộ hoặc ban ngành chủ
quản chỉ trực thuộc bộ Giáo dục và Đào tạo). Việc phân loại theo chiều dọc, tuy có
đưa vào luật và hướng dẫn thực hiện luât song chưa chính thức phân trường nào thuộc
loại nào mà vẫn còn để các trường tự nhận mình thuộc loại nào; hơn nữa các tiêu chí
cụ thể để một trường thuốc loại nào, cũng chưa quy định pháp lý trường nào là trường
đại học nghiên cứu, trường nào là trường đại học ứng dụng, và trường nào là trường
đại học thực hành. Việc xác định cơ sở đại học nào thuộc loại trường nào quan trọng ở
chỗ loại trường đó phải có tiêu chí gì, và làm thế nào để đạt được tiêu chí đó, cơ chế
nào cho trường này hoạt động. Việt Nam cũng có quy định luật thành lập hội đồng
tường, hội đồng đại học, ban giám hiệu. Mối quan hệ và quyền hạn của các chủ thể
(trong trường như cổ đơng, hay ngồi trường như bộ hoặc ban ngành chủ quản) trong
quy định thành lập (bầu) hội đồng trường cũng như sự kiểm soát của các chủ thể đối
với hoạt đồng trường là yếu tố quan trọng để tránh rối loạn. Quyền hạn của quản lý
Nhà nước là một yếu tố rất quan trọng. Quyền hạn này không phải bao giờ cũng là yếu
tố đối lập với tự chủ đại học, mà đôi khi lại là yếu tố giúp cho tự chủ đại học tại cơ sở
đỡ bị rối loạn, thí dụ quyền hạn này giúp điều hòa các chủ thể ảnh hưởng bên trong và
bên ngoài cơ sở trường đại học.
Đưa vấn đề cản trở hay rối loạn trong tự chủ đại học vào khung phân tích trên
và tìm xem những vấn đề này thuộc khu vực nào. Phân tích chủ yếu dựa trên thảo luận
meta chuyên đề nhóm chuyên gia và phân tích Delphi khi có những ý kiến khác nhau.
Cao hơn nữa là ứng dụng thử nghiệm so sánh khi từ phân tích chuyên gia cho ra một
đáp án cụ thể có thể thử nghiệm để đánh giá. Báo cáo này mới chỉ ở mức độ lấy ý kiến
phân tích chuyên gia.
3. Thảo luận chuyên đề meta và phân tích Delphi
Báo cáo này trên cơ sở tập hợp một số vấn đề liên quan hệ thống và cơ chế
đang xẩy ra tại một số trường đại học công lập và đại học tư thục, có và khơng có bộ
ngành hay cơ quan chủ quản, như trường hợp trường đại học Hoa Sen, trường đại học
Kinh Tế và Công Nghệ, trường hợp trường đại học Tôn Đức Thắng, v.v. Báo cáo này
không nghiên cứu và phân tích trường hợp của một trường đại học cụ thể, mà đưa
những trường hợp này thành một vấn đề chung mang tính hệ thống để phân tích. Thảo
luận meta chun đề nhóm chun gia nêu lên một số vấn đề sau đây trong nghiên cứu
của báo cáo này:
7
- Các chủ thể quyền lực trong và ngoài cơ sở đại học tác động đến cơ chế thực
hiện tự chủ đại học
- Quản lý Nhà nước (Governance) đối với tác động của các chủ thể nói trên
chưa rõ ràng
Hai vấn đề được nêu trên tách rời nhau bởi thuộc hai nội dung khác biệt trong
mô tả hệ thống của Clark Burton 1983, song hai vấn đề này có chung một mối liên lệ
với nội dung tự chủ đại học. Bốn lần thảo luận meta chuyên đề nhóm chuyên gia đều
thống nhất cho rằng vấn đề xẩy ra tại trường đại học Hoa Sen, trường đại học Kinh tế
Công Nghệ, hay trường đại học Tôn Đức Thằng đều thuộc 2 vấn đề được xác đinh
trên. Phân tích cho rằng có trường hợp vấn đề được xác định chủ yếu thuộc bên trong
trường đại học (thí dụ từ các cổ đơng), có vấn đề đề được xác định chủ yếu thuộc bên
ngồi trường đại học (thí dụ từ bộ, ban ngành đoàn thể chủ quản).
Song, dù vấn đề xuất phát từ bên trong hay bên ngồi trường đại học đều có vai
trò và trách nhiệm của quản lý Nhà nước. Mối quan hệ giữa quản lý Nhà nước và quản
lý trường đại học không chỉ xẩy ra một chiều là quản lý Nhà nước giảm thì quản lý
trường đại học tự chủ hơn và ngược lại. Vấn đề còn ở chỗ quản lý Nhà nước quản lý
các chủ thể tác động đến thực hiện tự chủ đại học cho sự phát triển giáo dục đại học tốt
hơn. Bốn lần thảo luận meta chuyên đề nhóm chuyên gia cho rằng cơ chế chủ yếu để
thực hiện tự chủ đại học hiện nay là tổ chức hội đồng trường, hội đồng đại học và quan
hệ của tổ chức này với các chủ thể trong trường (các đoàn thể) và ngoài trường (các cơ
quan chủ quản). Ý kiến về cơ chế tự chủ với sự hình thành hội đồng trường, hội đồng
đại học trong quản lý Nhà nước đối với các cơ sở giáo dục đại học tự chủ chia thành 5
nhóm y kiến có cơ chế tự chủ điều chỉnh khác nhau; trong mỗi nhóm ý kiến lại có một
số bình luận, tham gia như sau:
(1) Nhóm thứ nhất giữ ý kiến truyền thống cơ chế quản lý Nhà nước trực tiếp là
cơ chế thích hợp; trong đó, cái gì Nhà nước làm, cái gì cơ sở giáo dục đào tạo làm
trong quản lý Nhà nước. Nhóm này cho rằng cơ chế truyền thống vẫn có hiệu quả và
khơng gây hỗn loạn. Thường vẫn có. một hai ý kiến trong mỗi lần thảo luận.
(2) Nhóm thứ hai cho rằng giảm bớt sự kiểm sốt của Nhà nước tại các cơ sở
giáo dục cơng, đồng thời tăng mức độ tự chủ cho các cơ sở này là hướng thích hợp, và
đã có luật và hướng dẫn luật để thực hiện tự chủ đại học. Trong nhóm này, có ý kiến
cho rằng tự chủ học thuật là tự chủ quan trọng nhất của các trường đại học. Song, để tự
chủ được học thuật, các có sở giáo dục đại học cấn có năng lực để thực hiện tự chủ
này. Kiểm đinh Nhà nước các cơ sở giáo dục và các chương trình giáo dục đào tạo
hiện nay đã đủ chưa, quy định về tự chủ tài chính và quyền được tự chủ thu học phí
(thí dụ tự thực hiện được chi thường xuyên sẽ được tự chủ về thu học phí) đã đủ chưa
là những vấn đề cần được nghiên cứu để có quyết định thích hợp. Nhóm này có một số
người đề nghị nghiên cứu nêu rõ cái được do tự chủ đại học mà có được, trên cơ sở đó
mới hồn chỉnh được cơ chế cho tự chủ đại học
(3) Nhóm thứ ba cho rằng cơ chế thực hiện tự chủ đại học đòi hỏi sự tham gia
của quản lý Nhà nước cho tự chủ đại học. Nói một cách khác là quản lý nhà nước
khơng những giảm bớt sự kiểm sốt trực tiếp của Nhà nước, trao quyền tự chủ cho cơ
sở đại học, mà cịn giúp điều chỉnh thơng qua pháp luật các chủ thể bên trong và bên
ngoài trường ảnh hưởng trái chiều với lợi ích của giáo dục.
8
(4) Nhóm thứ tư cho rằng việc trao quyền tự chủ cho cơ sở giáo dục cịn có thể
là một điều kiện để các cơ sở giáo dục này thực hiện một số hoạt động ngược chiều
với lợi ích của giáo dục. Nhóm này cho rằng khi mở cho tự chủ giáo dục đại học cần
xem xét những khả năng từ sự việc mở này có thể dẫn đến những hậu quả ngược chiều
giáo dục là những hậu quả gì và điều chỉnh cơ chế tự chủ thích hợp.
(5) Nhóm thứ năm cho rằng tự chủ đại học là một quá trình, phụ thuộc vào bối
cảnh nhận thức hay thực tế từng trường hợp. Có trường hợp mở rộng dân chủ trong
thành lập hội đồng trường dẫn đến hỗn loạn và bầu ra thành phần hội đồng không chấp
nhận được. Có trường hợp tập trung quyền lực trong bầu hội đồng trường, trong bổ
nhiệm hiệu trưởng dẫn đến những quyết định gây tranh cãi. Có trường hợp tập trung
quyền lực dẫn đến quyết định cuối cùng là bán trường cho quyền lợi của một số người,
không rõ tác động thế nào đến giáo dục. Trường hợp này đòi hỏi nghiên cứu tìm giải
pháp từ sự hài hịa ảnh hưởng tác động của các chủ thể, và vai trò tác động của quản lý
nhà nước dựa trên luật, các quyết định dưới luật. Luật và điều chỉnh luật chính là cơ
chế quan trọng để thực hiện tự chủ đại học và điều chỉnh những vấn đề ngược chiều
với giáo dục trong thưc hiện tự chủ đại học.
Với 5 nhóm ý kiến nói trên có thể tổng hợp vấn đề thuộc cơ chế thực hiện tự
chủ giáo dục đại học như sau: “ Cơ chế thực hiện tự chủ đại học có thể hiểu là tổ chức
hội đồng trường, hội đồng đại học trong sự cân đối tác động ảnh hưởng của các chủ
thể bên trong và bên ngoài cơ sở đại học, trong phạm vi quản lý Nhà nước đối với các
cơ sở đại học tự chủ. Một số vấn đề đang xẩy ra tại một số trường đại học tự chủ công
và tư liên quan tới: (1) Các chủ thể quyền lực trong và ngoài cơ sở đại học tác động
đến cơ chế thực hiện tự chủ đại học (2) Và, quản lý Nhà nước (Governance) đối với
tác động của các chủ thể nói trên. Bốn lần thảo luận meta chuyên đề nhóm chuyên gia
cho rằng cần điều chỉnh cơ chế thực hiện tự chủ đại học tăng cường quản lý Nhà nước
dựa trên luật pháp hỗ trợ cho thực hiện tự chủ đại học hạn chế tác đông trái chiều giáo
dục từ tác động của các chủ thể bên trong và bên ngoài cơ sở giáo dục đào tạo, cũng
như tác động trái chiều giáo dục từ bản thân quản lý (hội đồng trường, ban giám hiệu)
của cơ sở giáo dục đào tạo.
4. Kết luận và đề nghị
Nghiên cứu này điểm lại quá trình thực hiện tự chủ đại học tại Việt Nam từ
2005 đến nay và nhận thấy việc tự chủ đại học này đã ngày càng được nhận thức rõ
hơn và được chấp nhận nhiều hơn, góp phần tháo gỡ nhiều khó khăn cho các cơ sở
giáo dục đào tạo. Tuy nhiên cho đến nay, mặc dầu đã có quy định luật và hướng dẫn
luật thực hiện tự chủ đại học, vẫn còn một số trắc trở và hỗn loạn.
Một nghiên cứu dựa trên thảo luận meta chuyên đề lấy ý kiến chuyên gia nhằm
xác định vấn đề của tự chủ đại học (thí dụ vấn đề từ trường đại học Kinh tế Công
Nghệ, trường đại học Hoa Sen, trường đại học Tôn Đức Thắng, v.v.), nguyên nhân của
vấn đề và biện pháp giải quyết. Kết quả của nghiên cứu cho rằng nguyên nhân của vấn
đề tự chủ đại học đang xẩy ra ở một số trường đại học hiên nay là việc tất yếu xẩy ra
không có gì là lạ lẫm, vì đó chính là các mối quan hệ giữa các chủ thể (trong và ngoài)
ảnh hưởng trái chiều giáo dục đến cơ sở giáo dục đào tạo, vì đó là quản lý nhà nước
mới chỉ đưa ra cơ chế thực hiện tự chủ đại học, chưa quan tâm đến cơ chế điều phối
các chủ thể trong ngoài cơ sở giáo dục đào tạo tác động trái chiều giáo dục đến các cơ
sở này (tác động khơng thích hợp vào tổ chức trường ảnh hưởng đến hoạt động bình
thường của trường), cũng chưa quan tâm đến bản thân tổ chức của cở giáo dục đào tạo
9
(Hội đồng quản trị, Ban giám hiệu) có thể thực hiên những hoạt động gì trái chiều giáo
dục (bầu phiếu không chất lượng, bán trường). Những điều chỉnh này hết sức phúc tạp
cần phân tích hệ thống. Có những quyết định có thể giúp ích cho một phía này, song
lại có hại cho một phía khác; thí dụ mở rộng quyền dân chủ có thể hạn chế một số sai
phạm của quản lý, nhưng cũng có thể tạo nên sự hỗn loạn trong sự lựa chọn nhân sự
quản lý. Báo cáo của nghiên cứu này khuyến nghị phát triển nghiên cứu hệ thống giáo
dục để xây dựng chính sách, chiến lược và xây dựng luật. Trong nghiên cứu hệ thống
phát hiện vấn đề và tìm giải pháp ln phải trả lời câu hỏi là nghiên cứu đang theo
định nghĩa nào về tự chủ đại học như đã trình bầy ngay phần đàu của báo cáo này
10
HOÀN THIỆN HỆ THỐNG VĂN BẢN NỘI BỘ LÀM CƠ SỞ
CHO VIỆC THỰC HIỆN TỰ CHỦ CỦA CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
Nguyễn Huy Bằng
Chi hội Luật gia Bộ Giáo dục và Đào tạo
ĐẶT VẤN ĐỀ
Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (Luật SĐBSMSĐ)
thể hiện một bước tiến quan trọng về tư duy quản lý, tạo cơ sở cho việc đẩy mạnh tự
chủ của các cơ sở giáo dục đại học (CSGDĐH). Thực hiện tự chủ là quá trình cần
được triển khai bài bản với cơ chế khoa học chứ không thể chỉ bằng kinh nghiệm và
quyết tâm.
Trên cơ sở Hội nghị triển khai Luật và Hội nghị triển khai Nghị định số
99/2019/NĐ-CP, các CSGDĐH đã bắt tay vào việc hoàn thiện Quy chế tổ chức hoạt
động mới và các văn bản cần thiết khác. Tuy nhiên, việc triển khai ở nhiều nơi còn
lúng túng dẫn đến tốc độ và kết quả triển khai Luật còn khiêm tốn. Bên cạnh nguyên
nhân ảnh hưởng của covit19 thì một số trường chưa có nhận thức đầy đủ vấn đề này,
từ đó chưa tổ chức việc soạn thảo một cách căn cơ, quyết liệt.
Tham luận này đề cập một số vấn đề cơ bản về hệ thống văn bản quy phạm nội
bộ và gợi ý cách tổ chức hoàn thiện hệ thống văn bản nội bộ của CSGDĐH (hệ thống
VBNB) trong quá trình thực hiện tự chủ theo quy định của Luật SĐBSMSĐ.
NỘI DUNG
I/ Hoàn thiện hệ thống VBNB là yêu cầu bắt buộc để thực hiện tự chủ
1. Chúng ta đang trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Theo
đó, các quan hệ xã hội cơ bản đều cần được điều chỉnh bằng pháp luật. Các cơ quan
nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Các tổ chức, cá nhân (trong đó có các
CSGDĐH) hoạt động theo pháp luật. Với sự ra đời của Luật SĐBSMSĐ , Nghị định
số 99/2019/NĐ-CP, quyền tự chủ của CSGDĐH được mở rộng khá nhiều. Tự chủ là
việc các CSGDĐH được tự xác định mục tiêu phát triển và cách thức thực hiện mục
tiêu của mình nhằm đáp ứng mục tiêu chung của đất nước theo định hướng của Đảng
và Nhà nước. Nhiều việc trước đây nhà nước trực tiếp làm hoặc trực tiếp kiểm tra
trước khi cho làm thì với cơ chế tự chủ, nhà nước chỉ đặt ra yêu cầu, giám sát việc làm
đối với cơ sở. Nhà nước chuyển từ cơ chế kiểm soát, tiền kiềm sang cơ chế giám sát,
hậu kiểm. CSGDĐH là một tổ chức của nhiều người thì khơng thể hoạt động tùy hứng
mà phải thiết lập được mục tiêu, tổ chức, “lối chơi” một cách khoa học, thiết thực bằng
một cơ chế nội bộ phù hợp quy định của Nhà nước và thực tiễn của mình. Mọi chủ thể
trong CSGDĐH (từ lãnh đạo cao nhất đến mỗi nhân viên) phải có thói quen tự hỏi
“quy định thế nào?” mỗi khi bắt tay vào làm một việc gì đó, tránh làm việc cảm tính
hoặc thấy người ta làm mình cũng làm mà không biết thế là đúng hay sai dẫn đến rủi
ro đáng tiếc. Tổ chức và cơ chế hoạt động của CSGDĐH trong bối cảnh tăng cường tự
chủ chỉ có thể có được dựa trên cơ sở các quy định nội bộ được xây dựng một cách có
hệ thống.
2. Theo quy định của Luật SĐBSMSĐ thì một trong các điều kiện để
CSGDĐH được tự chủ là “ Đã ban hành và tổ chức thực hiện Quy chế tổ chức và hoạt
11
động; Quy chế tài chính; Quy chế, quy trình, quy định quản lý nội bộ khác…” ( Điểm
b, Khoản 2 Điều 32). Luật còn quy định cụ thể nhiệm vụ của Hội đồng trường và Hiệu
trưởng trong việc ban hành văn bản nội bộ như sau:
- Hội đồng trường “ Ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động, Quy chế tài
chính, Quy chế dân chủ ở cơ sở” ( Điểm b, Khoản 2, Điều 16) và một số vấn đề khác
về tổ chức, nhân sự, tài chính, tài sản…
- Hiệu trưởng “ Trình văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của Hội đồng
trường, hội đồng đại học sau khi tổ chức lấy ý kiến của tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên
quan trong CSGDDH; ban hành quy định khác của cơ sở giáo dục đại học…” ( Điểm
c, Khoản 2, Điều 20)
Trên cơ sở Luật SĐBSMSĐ , Nghị định số 99/2019/NĐ-CP đã có quy định cụ
thể hơn việc ban hành văn bản nội bộ khi đề cập đến quyền tự chủ của CSGDDH tại
Điều 13. Cụ thể:
- Điểm a, Khoản 1 Điều 13 quy định quyền tự chủ về học thuật và hoạt động
chuyên môn quy định rõ: “ Được quyền ban hành và tổ chức thực hiện các quy định
nội bộ về hoạt động tuyển sinh, đào tạo, khoa học công nghệ, hợp tác trong nước và
quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật”.
- Điểm c, Khoản 2 Điều 13 quy định tự chủ về tổ chức bộ máy và nhân sự
quy định: “Các CSGDDH phải ban hành và tổ chức thực hiện quy định nội bộ về tổ
chức bộ máy và nhân sự”.
- Điểm c, Khoản 3, Điều 13 quy định : “ Các CSGDĐH phải ban hành, tổ
chức thực hiện quy định nội bộ về tài chính, tài sản…”.
3. Nghị quyết 19 - NQ/TW ngày 25/10/2017 của BCHTW Đảng đã đề ra
nhiều chủ trương, biện pháp quan trọng đối với việc đổi mới quản trị đơn vị sự nghiệp
cơng lập nói chung, cơ sở giáo dục đại học nói riêng. Theo đó, pháp luật chuyên ngành
không quy định việc thành lập tổ chức bộ máy các đơn vị sự nghiệp công lập. Như
vậy, việc này phải được quy định trong các văn bản nội bộ của CSGDĐH. Bên cạnh
đó, Nghị quyết cũng nêu ra nhiều vấn đề cụ thể như: “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả cơ
chế hội đồng trường trong các trường đại học theo hướng Hội đồng trường là cơ quan
thực quyền cao nhất của trường đại học. Bí thư Đảng ủy kiêm Chủ tịch Hội đồng
trường” và nhiều chủ trương, biện pháp khác mà các trường phải nghiên cứu, thể chế
hóa để vận dụng thống nhất.
II/ Mợt số vấn đề cơ bản về hệ thống VBNB
1.
Quan niệm về hệ thống VBNB
Quy phạm nội bộ của một CSGDĐH có thể được hiểu là quy tắc xử sự chung
do CSGDĐH ban hành trên cơ sở quy định của pháp luật, điều chỉnh các quan hệ tổ
chức và hoạt động trên các lĩnh vực của CSGDĐH mà mọi chủ thể trong CSGDĐH
buộc phải tuân theo. Việc tổ chức và hoạt động của CSGDĐH rất đa dạng với nhiều
hành vi của nhiều chủ thể khác nhau. Vì vậy, các quy phạm này cũng rất nhiều. Để bảo
đảm mọi quan hệ quan trọng trong CSGDĐH đều được điều chỉnh và việc sử dụng các
quy phạm này thuận lợi thì các quy phạm này phải được xây dựng có hệ thống.
Hệ thống VBNB bao gồm tổng thể các quy phạm nội bộ điều chỉnh các quan hệ
trong CSGDĐH được thể hiện trong các quy chế, quy trình, quy định do CSGDDH
ban hành trên cơ sở quy định của pháp luật, phù hợp với mục tiêu phát triển nhằm hình
12
thành cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động, tiêu chuẩn chuyên môn, các điều kiện bảo đảm
chất lượng và điều chỉnh các quan hệ khác của CSGDDH.
Theo quy định thì các VBNB của CSGDĐH chủ yếu do Hội đồng trường và
Hiệu trưởng ban hành. Tuy nhiên, đối với trường tư thục thì Quy chế tài chính lại do
nhà đầu tư ban hành. Đối với các trường có đơn vị trực thuộc (có tư cách pháp nhân,
có con dấu, tài khoản riêng) thì các đơn vị này cũng có thể ban hành VBNB điều chỉnh
trong phạm vi đơn vị đó. Vì vậy, cần quy định về thứ bậc của hệ thống VBNB trong
CSGDDH. Thứ bậc đó có thể là:
- Văn bản của nhà đầu tư.
- Văn bản của Hội đồng trường.
- Văn bản của Thường trực Hội đồng trường.
- Văn bản của Hiệu trưởng.
- Văn bản của người đứng đầu đơn vị trực thuộc.
Khi đó, giá trị của các văn bản này cần được áp dụng tương tự như việc việc áp
dụng văn bản pháp luật của Nhà nước.
2. Vai trò của hệ thống VBNB
- Là điều kiện để được tự chủ
- Là phương tiện thống nhất mọi hoạt động, phát huy dân chủ, bảo đảm sự ổn
định, nâng cao hiệu quả quản trị của CSGDĐH
- Là thước đo để giám sát, đánh giá, xử lý đối với các tổ chức, cá nhân trong
CSGDĐH
- Đáp ứng yêu cầu giải trình theo quy định và phản ánh “hình ảnh” của
CSGDĐH.
3. Yêu cầu của hệ thống VBNB
a) Yêu cầu của hệ thống: cần đảm bảo
- Tính tồn diện: tất cả các lĩnh vực hoạt động của CSGDĐH đều phải có quy
phạm điều chỉnh.
- Tính đồng bộ: có quy định về nội dung thì phải có quy định về trình tự, thủ
tục; có quy định giao nhiệm vụ thì phải có quy định về điều kiện thực hiện nhiệm vụ…
- Tính phù hợp: không được trái quy định của pháp luật và phải phù hợp với
thực tiễn của CSGDĐH.
- Kỹ thuật pháp lý: phải có sự thống nhất nội tại cao, được sắp xếp logic, dễ
tìm, dễ sử dụng.
b) Yêu cầu đối với từng văn bản:
- Có căn cứ pháp lý, căn cứ đó đang cịn hiệu lực;
- Mỗi văn bản phải giải quyết trọn vẹn một hoặc một số vấn đề quản lý của
CSGDĐH.
- Nội dung phù hợp quy định của pháp luật; phù hợp thực tiễn của CSGDDH có
tính đến hướng phát triển theo mục tiêu.
13
- Ban hành đúng trình tự, thủ tục, thể thức và kỹ thuật trình bày ( có thể áp dụng
theo quy định về thể thức và kỹ thuật trình bày của văn bản QPPL)
4. Các văn bản cần ban hành
- Quy chế tổ chức và hoạt động
- Quy chế tài chính
- Quy chế dân chủ
- Các văn bản về chuyên môn
- Các văn bản về tổ chức, nhân sự
- Các văn bản về tài chính, tài sản
- Các văn bản khác
III/ Tổ chức hoàn thiện hệ thống VBNB
1. Nâng cao nhận thức
Thực tế cho thấy, trong quá trình xây dựng và phát triển, các CSGDĐH đều đã
tổ chức soạn thảo, ban hành các văn bản quy định nhiều lĩnh vực hoạt động ở mức độ
khác nhau. Tuy nhiên, các văn bản này thường rời rạc, không được cập nhật, nhiều văn
bản hình thức, thậm chí khơng phù hợp với quy định của pháp luật ( cả về nội dung và
hình thức). Vì vậy, trong điều hành phải ra nhiều mệnh lệnh cụ thể, lãnh đạo phải “ra
tay” phân xử trực tiếp thường xuyên, tính thống nhất trong việc thực hiện các cơng
việc có tính lặp lại khơng cao, tính chủ động của cấp dưới bị hạn chế. Đối với các
CSGDĐH đã thành lập Hội đồng trường rồi thì quan hệ hoạt động giữa Hội đồng
trường và Hiệu trưởng không rõ ràng, không tạo được cơ chế bổ sung, phát huy vai trò
của nhau.
Trong bối cảnh tăng cường tự chủ hiện nay, các CSGDĐH phải thay đổi nhận
thức về việc xây dựng và thực hiện các quy định nội bộ của mình. Cần xác định rõ vai
trị của hệ thống VBQPNB, sự cần thiết sớm hoàn thiện cả hệ thống và trách nhiệm
tham gia hoàn thiện của từng chủ thể. Việc hoàn thiện này cần chung tay một cách căn
cơ, khoa học chứ không chỉ giao cho bộ phận pháp chế hoặc một vài chuyên viên soạn
thảo trình lãnh đạo ký. Cũng cần nhận thức rằng, việc tăng cường tự chủ, đổi mới quản
trị là quá trình nên việc ban hành văn bản này cũng cần “ vừa chạy vừa xếp hàng”, có
thứ tự ưu tiên.
2. Cơng việc cần làm
- Xây dựng kế hoạch chung để hoàn thiện hệ thống VBNB. Kế hoạch này nên
tập trung thời gian khoảng 01 năm.
- Thành lập Ban chỉ đạo và Tổ thư ký hoàn thiện hệ thống VBNB do Hiệu
trưởng đứng đầu. Kiện toàn bộ phận làm công tác pháp chế giúp Ban chỉ đạo với vai
trị thường trực.
- Tổ chức rà sốt các văn bản hiện có, xây dựng kế hoạch soạn thảo đối với
từng văn bản theo thứ tự ưu tiên
- Tổ chức soạn thảo, thẩm định, thông qua, ban hành
- Tập hợp hóa thành “bộ luật” của CSGDĐH.
14
3. Tổ chức rà sốt các văn bản hiện có
- Ban chỉ đạo tổ chức tập huấn cho các đơn vị trong CSGDĐH để thống nhất
cách thức rà soát. Trường hợp cần thiết thì nên mời chuyên gia giúp cho việc tập huấn.
- Các đơn vị chủ động tập hợp các văn bản đang được sử dụng cho chuyên
môn của mình; sắp xếp theo mảng việc và thứ tự thời gian ban hành
- Từ thực tiễn công việc đang tiến hành và yêu cầu của quy định mới để đề
xuất: (i) Cần bổ sung thêm VB nào (ii) Cần sửa đổi, bổ sung văn bản nào ( cần ghép
văn bản nào (iv) Cần loại bỏ văn bản nào
Mỗi đề xuất cần nêu rõ căn cứ pháp lý, căn cứ thực tiễn, nội dung chính cần bổ
sung/sửa đổi, thời gian và điều kiện thực hiện
- Bộ phận pháp chế/ Tổ thư ký giúp việc Ban chỉ đạo chủ trì tập hợp, xây dựng
kế hoạch soạn thảo trong đó phân cơng các đơn vị trong CSGDĐH chủ trì soạn thảo
một số văn bản.
4. Tổ chức soạn thảo
a) Hiệu trưởng thành lập Ban soạn thảo Quy chế tổ chức và hoạt động. Hiệu
trưởng hoặc trưởng đơn vị được giao chủ trì soạn thảo văn bản thành lập ban soạn thảo
văn bản quan trọng khác. Đối với văn bản thơng thường thì giao cho cán bộ chủ trì
soạn thảo
b) Ban soạn thảo/ cán bộ chủ trì soạn thảo có trách nhiệm triển khai soạn thảo
như sau:
-
Xây dựng kế hoạch soạn thảo văn bản được giao
- Nghiên cứu các văn bản của cấp trên, đánh giá văn bản hiện hành và thực
tiễn của CSGDĐH liên quan nội dung văn bản cần soạn thảo
-
Xác định phạm vi điều chỉnh và các nội dung cơ bản cần đưa vào văn bản
-
Xây dựng đề cương, xây dựng các dự thảo
-
Lấy ý kiến góp ý, hồn thiện hồ sơ chuyển thẩm định
c) Thẩm định, ban hành
- Bộ phận pháp chế tiến hành thẩm định. Trường hợp cần thiết thì thành lập
hội đồng thẩm định
-
Ban soạn thảo tiếp thu thẩm định, hồn thiện văn bản trình ký ban hành
5. Gợi ý cụ thể về một số văn bản
a)
Quy chế tổ chức và hoạt động của trường
Là văn bản nội bộ quan trọng nhất có tính bao qt như “Hiến pháp của
Trường”. Cần tập trung ban hành trước làm cơ sở để ban hành các văn khác.
- Phạm vi điều chỉnh: Quy định về tổ chức và hoạt động của trường bao gồm:
tổ chức và quản lý; hoạt động đào tạo và bảo đảm chất lượng; hoạt động khoa học,
công nghệ và hợp tác quốc tế; giảng viên, cán bộ quản lý, người lao động, người học;
tài chính và tài sản; các mối quan hệ; công tác truyền thông, giám sát, thanh tra, kiểm
tra, khen thưởng, xử lý vi phạm và một số quy định nội bộ khác
15
- Cần cụ thể hóa các vấn đề mà Luật SĐBSMSĐ và Nghị định 99 giao
(Khoảng 30 vấn đề trong Luật và 10 vấn đề trong Nghị định 99). Không chép lại
Quyết định 70/2014/QĐ-TTg mà nên lựa chọn nội dung phù hợp để dùng.
b) Quy chế làm việc của Hội đồng trường: Quy định nguyên tắc làm việc của
Hội đồng trường, Thường trực hội đồng trường; trách nhiệm, phạm vi giải quyết cơng
việc của Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Thư ký, các thành viên khác, bộ phận giúp việc, các
ban ( nếu có); cách thức giám sát và triển khai các công việc của Hội đồng; điều kiện
làm việc và các mối quan hệ của Hội đồng trường.
c) Quy chế tài chính:
- Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng: quy định việc tạo lập, sử dụng và
quản lý tất cả các nguồn lực tài chính phát sinh trong hoạt động của Trường; áp dụng
với Hội đồng trường; Hiệu trưởng; các đơn vị thuộc và trực thuộc Trường; các tổ chức
và cá nhân có liên quan.
- Mục đích: Thực hiện thống nhất quản lý về tài chính, kế tốn của Trường,
đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật; Khai thác và mở rộng, phát triển nguồn
thu nhằm tăng cường nguồn lực đáp ứng yêu cầu hoạt động và đầu tư phát triển
Trường; Sử dụng và quản lý có hiệu quả, tiết kiệm các nguồn lực tài chính nhằm góp
phần từng bước tăng thu nhập cho người lao động, gắn chất lượng và hiệu quả lao
động với việc phân phối thu nhập; Bảo đảm quyền tự chủ đi đôi với trách nhiệm giải
trình theo quy định; bảo đảm công khai, minh bạch trong việc quản lý và sử dụng tài
chính, tài sản; Tăng cường cơng tác tự kiểm tra, giám sát nội bộ.
6. Mợt số khó khăn hiện tại
- Một số nghị định, thông tư hướng dẫn Luật chưa được ban hành.
- Mối quan hệ giữa các quy định của Đảng, Luật GDĐH, pháp luật khác có liên
quan chưa rõ.
- Nhận thức về những điểm mới của Luật chưa sâu sắc, về vai trò của hệ thống
VBNB ở nhiều trường chưa đúng mức.
- Kinh nghiệm và năng lực thực sự của hội đồng trường còn hạn chế.
- Một số hiệu trưởng chưa thật sẵn sàng với cách quản trị mới.
- Bộ phận pháp chế của các trường còn yếu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Luật Giáo dục đại học ngày 18 tháng 6 năm 2012.
2.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học ngày 19 tháng 11
năm 2018.
3.
Nghị quyết 19 - NQ/TW ngày 25/10/2017 của BCHTW Đảng
4.
Nghị định số 99/2019/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2019 của của Chính phủ
Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Giáo dục đại học.
5.
Nghị định số 30/2020/NĐ-CP ngày 5 tháng 3 năm 2020 của Chính phủ Về cơng
tác văn thư.
6.
Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật . NXBCTQG - 2014
16
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN ĐƯỢC LÀM RÕ VÀ HƯỚNG DẪN KHI THỰC HIỆN
QUYỀN TỰ CHỦ TRONG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THEO LUẬT SỬA ĐỔI,
BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
Lê Văn Học
Ủy ban VHGDTNTN&NĐ
Giáo dục đại học Việt Nam gồm hệ thống các trường đại học và một số cơ sở
nghiên cứu có tham gia đào tạo trình độ sau và trên đại học, đã trải qua quá trình hình
thành, phát triển đến nay đã hơn 75 năm (tính từ khi thành lập nước Việt nam dân chủ
cộng hòa, 1945). Hiện nay, mạng lưới các trường đại học và cao đẳng đã phủ khắp các
tỉnh thành trong cả nước, tập trung nhiều nhất tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và
một số trung tâm Thái Nguyên, Huế, Đà Nẵng và Cần Thơ.
Điều đáng mừng nhất của nhân dân là sau khi tốt nghiệp xong học phổ thơng
con em của họ đều có thể trở thành sinh viên đại học – cao đẳng, đây là niềm mơ ước
của học sinh phổ thông trong những năm trước 2000. Đến năm 2020 số lượng tuyển
sinh vào đại học và cao đẳng là gần bằng với số lượng học sinh dự thi tốt nghiệp trung
học phổ thông.
Các trường đại học đã đào tạo hầu như được tất cả các ngành nghề mà nền kinh
tế quốc dân nước ta cần, một số ngành đào tạo được đội ngũ cử nhân, kỹ sư, bac sĩ …
có chất lượng tốt đáp ứng phát triển kinh tế xã hội và không thua kém các trường đại
học tiên tiến của nước ngoài.
Các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) của nước ta, trước những năm 2000, được
tổ chức và hoạt động chủ yếu dựa vào Luật giáo dục, tới năm 2012 mới có Luật giáo
dục đại học. Cơ quan quản lý nhà nước về GDĐH là Bộ Giáo dục và Đào tạo
(GD&ĐT), nhưng cơ quan chủ quản của các trường đại học ngoài Bộ GD&ĐT (chỉ
quản lý khoảng 15% số cơ sở GDĐH) còn rất nhiều các bộ, ngành ở trung ương và
UBND cấp tỉnh.
Đảng bộ các cơ sở GDĐH sinh hoạt theo địa phương, chịu sự chỉ đạo của Ban
cán sự đảng của các bộ, ngành chủ quản, …; cấp ủy đảng với nhiều đầu mối như vậy
tạo nên sự thiếu đồng bộ, thống nhất đối với các cơ sở GDĐH trong cả nước. Đây là
một trong những nguyên nhân làm hạn chế sự phát triển, tính chủ động của các trường
đại học trong những năm vừa qua.
Về cơ bản cơ sở GDĐH cơng lập trước năm 2000 chưa có khái niệm tự chủ đại
học vì nguồn ngân sách nhà nước cấp và học phí thu từ sinh viên theo quy định của
Chính phủ, mức học phí rất thấp. Hoạt động đào tạo từ tuyển sinh đầu vào, mở ngành
nghề đào tạo đều phải xin phép; hoạt động nghiên cứu khoa học cũng chủ yếu dựa vào
kinh phí khoa học do Nhà nước cấp, số lượng đề tài cấp bộ, cấp nhà nước cũng rất hạn
chế vì kinh phí rất eo hẹp. Để tuyển dụng được một giảng viên cũng phải trải qua quy
trình rất phức tạp nhưng lại khơng thực chất.
Các cơ sở GDĐH được các cơ quan chủ quản trực tiếp và cơ quan quản lý nhà
nước (Bộ GD&ĐT) quản lý chặt chẽ từ đội ngũ, công tác đào tạo, nghiên cứu khoa
học, xây dựng cơ sở vật chất, chi tiêu tài chính …, có thể gọi là giai đoạn các cơ sở
GDĐH làm bất cứ việc gì cùng phải xin phép.
17
Vào đầu những năm 2000, khi Điều lệ trường đại học lần đầu tiên được Thủ
tướng Chính phủ ban hành mới bắt đầu giai đoạn bắt đầu của tự chủ đại học Việt Nam.
Thực hiện Luật giáo dục và Điều lệ trường đại học, năm 2005 đã có một số
trường đại học thành lập hội đồng trường, nhưng hoạt động của các hội đồng chưa
hiệu quả, chưa thực chất và rất hình thức. Cơ cấu tổ chức, nguyên tắc thành lập, tiêu
chuẩn các thành viên của hội đồng trường cũng chưa được quy định cụ thể. Việc giám
sát, kiểm tra của các cơ quan quản lý và chủ quản về việc thực hiện Luật giáo dục và
Điều lệ trường đại học chưa đầy đủ và chưa thường xuyên.
Để thực hiện cơ chế tự chủ đại học thì cần phải có hội đồng trường, đây là tổ
chức đại diện cho quyền sở hữu nhà nước tại nhà trường. Việc một số trường thành lập
hội đồng trường, mặc dù hoạt động chưa hiệu quả nhưng đó là giai đoạn ban đầu rất có
ý nghĩa để tự chủ trong GDĐH đi vào thực tiễn.
Sau khi có Luật giáo dục đại học năm 2012, tự chủ đại học đã được làm rõ, tất
cả các cơ sở GDĐH đều có quyền tự chủ nhưng được tự chủ đến đâu phụ thuộc vào
các điều kiện mà cơ sở GDĐH đó có được.
Quyền tự chủ của cơ sở GDĐH bao gồm quyền tự chủ trong học thuật, mở
ngành, tuyển sinh, đào tạo, hoạt động khoa học công nghệ, hợp tác trong nước và quốc
tế; quyền tự chủ trong tổ chức và nhân sự, tuyển dụng, sử dụng đối với giảng viên,
viên chức và người lao động; quyền tự chủ trong tài chính và tài sản, quản lý và sử
dụng nguồn tài chính tài sản, chính sách học phí và học bổng cho sinh viên.
Đi kèm với quyền tự chủ là trách nhiệm giải trình và cơng khai tất cả mọi hoạt
động của nhà trường với người học, xã hội, với chủ sở hữu và cơ quan quản lý nhà
nước có liên quan.
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, vấn đề quyền tự chủ trong GDĐH, quyền tự
chủ của các cơ sở GDĐH đã dần đi vào cuộc sống, phù hợp với xu thế phát triển và
hội nhập của GDĐH. Qua đây cũng cho thấy tự chủ đại học phải có q trình, từ chính
sách đến thực tiễn không phải chỉ một vài năm mà phải hàng chục năm, thậm chí vài
chục năm mới có thể đạt được tự chủ đúng nghĩa như tự chủ của các cơ sở GDĐH của
các nước có nền giáo dục phát triển và chất lượng cao.
Sau hơn 20 năm, GDĐH của nước ta từ khi bắt đầu thực hiện quyền tự chủ, đến
nay nhìn lại cho thấy quá trình này diễn ra chậm, khơng như mong muốn vì những
ngun nhân sau đây:
- Kinh tế xã hội của nước ta phát triển thấp, thu nhập bình quân đầu người dân
thấp, chi từ ngân sách nhà nước cho GDĐH cũng rất thấp, mức đầu tư cho một sinh
viên từ ngân sách nhà nước và học phí nhỏ khơng bù đắp đủ kinh phí đào tạo để có
chất lượng đào tạo tốt. Cơ sở GDĐH chưa thể thoát ra ngay khỏi cơ chế xin – cho thời
bao cấp.
- Trong một số năm từ 2005-2012 các cơ sở GDĐH được thành lập quá nhiều,
cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên rất hạn chế, nguồn lực cho phát triển nhà trường
chưa đáp ứng với mục tiêu thành lập trường và chất lượng đào tạo thấp, tuyển sinh
vượt quá năng lực thực tế hiện có.
- Các văn bản quy phạm pháp luật (Luật, Nghị định, thông tư) về GDĐH chưa
đầy đủ, không nhất quán, tổ chức quản lý các cơ sở GDĐH còn nhiều hạn chế, một số
điều khoản trong văn bản quy phạm pháp luật có tính lý thuyết khó thực hiện trong
thực tiễn.
18
- Các cơ quan quản lý nhà nước về GDĐH và cơ quan chủ quản các cơ sở
GDĐH chưa thể và chưa muốn bỏ cơ chế quan liêu tập trung bao cấp đối với trường
đại học, cơ chế xin – cho vẫn tồn tại chưa thể xóa bỏ.
- Một số cơ sở GDĐH và lãnh đạo cơ sở GDĐH tiếp cận với tự chủ đại học một
các nóng vội, mong muốn được tự chủ toàn diện khi điều kiện tự chủ chưa đầy đủ,
chưa đảm bảo. Thậm chí, một số đã mong muốn các cơ sở GDĐH không cần cơ quan
chủ quản, bỏ cơ quan chủ quản.
- Chế tài xử lý khi cơ sở GDĐH vi phạm các quy định của pháp luật về giáo
dục đào tạo, giáo dục đại học, không thực hiện đầy đủ các quy định của cơ quan quản
lý nhà nước cịn rất nhẹ, thậm chí không bị xử lý. Cơ quan thanh tra không đủ khả
năng để thanh tra thường xuyên các cơ sở GDĐH.
- Việc học tập, quán triệt Luật giáo dục, Luật giáo dục đại học, các nghị định
hướng dẫn thi hành luật từng giảng viên, viên chức và người lao động trong các cơ sở
GDĐH chưa được thực hiện. Đội ngũ làm công tác quản lý trực tiếp trong các cơ sở
GDĐH chưa hiểu quyền tự chủ giáo dục đại học là gì? Điều kiện để cơ sở GDĐH
được quyền tự chủ hoàn toàn, tự chủ một phần; quyền lợi và nghĩa vụ của họ khi
trường đại học mình đang làm việc được quyền tự chủ.
- Việc tổng kết, rút kinh nghiệm từ các cơ sở GDĐH được thí điểm tự chủ hồn
tồn kinh phí chi thường xun, tự chủ một phần, chưa được thực hiện để làm cơ sở
cho việc hoàn thiện cơ chế chính sách và bước đi tiếp theo của quá trình tự chủ đại học
Việt Nam.
- Về chủ quan của cơ sở GDĐH trong vài năm qua cho thấy nhiều trường đại
học tuyển sinh đầu vào của tất cả các loại hình và các hệ đào tạo gặp nhiều khó khăn
và có thể cịn phải đối đầu với tình trạng này trong những năm tới, do đó các trường
chưa thiết tha với cơ chế tự chủ đại học, nhất là tự chủ một phần kinh phí chi thường
xuyên và kèm theo đó là việc hồn thiện cơ cấu tổ chức nhà trường theo Luật giáo dục
đại học sửa đổi (Luật 34/2018-QH14) diễn ra rất chậm.
Để thực hiện nghiêm chỉnh, có kết quả Nghị quyết của BCH Trung ương Đảng,
của Quốc hội, Chính phủ về đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục Việt Nam, trong đó
có giáo dục đào tạo; Để tự chủ trong giáo dục đại học thực sự đi vào cuộc sống, cần có
những giải pháp cụ thể thiết thực, tháo gỡ khó khăn cho các cơ sở GDĐH nhất là cơ sở
GDĐH công lập.
- Quán triệt sâu sắc Luật 34 tới từng giảng viên, viên chức, người lao động,
người học trong cơ sở GDĐH để mọi người hiểu rõ nhất là về trách nhiệm, nghĩa vụ,
quyền lợi và từ đó họ sẽ là người giám sát việc thi hành Luật ngay trong cơ sở GDĐH
mà mình đang là thành viên.
- Các cơ quan quản lý nhà nước về GDĐT cũng cần quán triệt tới đội ngũ lãnh
đạo của các cơ sở GDĐH về cơ chế tự chủ và về quyền tự chủ đại học, trách nhiệm
giải trình của cơ sở GDĐH theo Luật 34. Trong thời gian gần đây, sau khi Luật có hiệu
lực và có Nghị định 99/2019 của chính phủ hướng dẫn thi hành Luật, các cơ sở GDĐH
rất lúng túng khi thực hiện một số điều khoản, nhất là về cơ cấu tổ chức của trường đại
học theo Luật mới.
- Phải thống nhất toàn bộ hệ thống GDĐH về cách tổ chức thực hiện luật, điều
lệ trường đại học trong tất cả các cơ sở GDĐH trong cả nước, bất kể là cơ sở đó do bộ,
ngành hay UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nào là cơ quan chủ quản.
19