Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

tiểu luận kinh tế quốc tế tổ chức thương mại quốc tế WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.98 KB, 23 trang )

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Kể từ khi thành lập năm 1995, Tổ chức Thương mại Thế giới WTO luôn đóng vai
trò then chốt trong việc đảm bảo cho thương mại quốc tế phát triển lành mạnh. Có thể
khẳng định rằng WTO là tổ chức điều chỉnh thương mại toàn cầu cuối cùng và ở nấc
cao nhất, ảnh hưởng rõ nhất của tính chất này là mong muốn xin gia nhập của các
quốc gia trên thế giới cũng như việc giải quyết tranh chấp thương mại của WTO.
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đang là thách thức đối với Việt Nam trên
con đường đổi mới. Sau 11 năm đàm phán căng thẳng trong một loạt vấn đề về chính
sách có liên quan sâu rộng đến nhiều lĩnh vực kinh tế và xã hội, ngày 11 tháng 01 năm
2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức này.
Như vậy, tham gia vào WTO cũng có nghĩa là Việt Nam sẽ được bảo vệ và hưởng
những lợi ích to lớn mà WTO mang đến cho các nước thành viên. Là một nền kinh tế
nhỏ bé và phụ thuộc việc các thị trường lớn nhất thế giới phải mở cửa cho hàng hoá
xuất khẩu của Việt Nam sẽ tạo ra một cơ hội phát triển lớn cho chúng ta mặc dù trong
quá trình này đổi lại Việt Nam cũng sẽ phải chịu nhiều tổn thất lớn.
Tuy vậy, gia nhập WTO và tham gia sâu hơn vào quá trình toàn cầu hoá sẽ chỉ làm
lợi về toàn cục cho Việt Nam. Vậy tại sao Việt Nam quyết tâm gia nhập WTO, dù cái
giá phải trả trong con mắt nhiều người là không hề nhỏ. Chính vì lý do trên, chúng em
chọn đề tài “Tổ chức Thương mại Thế giới WTO” để hiểu rõ bản chất và hoạt động
của tổ chức này.





II. TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO
1/ Tổng quan về Tổ chức Thương mại Thế giới WTO
Tổ chức Thương mại
Thế giới (tên tiếng
Anh: World Trade
Organization), là một


tổ chức quốc tế lớn
nhất hành tinh đặt trụ
sở ở Genève, Thụy
Sĩ, là sân chơi chung
cho thị trường toàn
cầu, mang tính chất
tương đối tự do, công
bằng và tuân thủ
những luật lệ rõ ràng.
Có chức năng giám
sát các hiệp định
thương mại giữa các
nước thành viên với
nhau theo các quy tắc
thương mại. Hoạt
động của WTO nhằm
mục đích loại bỏ hay
giảm thiểu các rào
cản thương mại để
tiến tới tự do thương
mại.Trong thập niên
1990 WTO là mục



Thành viên sáng lập (tháng 1, 1995)
Thành viên gia nhập sau
Ngày thành lập
Tháng 1, 1995
Trụ sở

Centre William Rappard, Geneva,
Thụy Sỹ
Thành viên
Đến ngày 01 tháng 01 năm 2010,
WTO có 153 thành viên.
Ngôn ngữ chính
thức
Tiếng Anh, Tiếng Pháp, Tiếng Tây
Ban Nha


Ngân sách
189 triệu franc Thụy Sỹ (khoảng 182
triệu USD) vào năm 2009.
Nhân viên
635
Trang chủ
www.wto.int
tiêu chính của phong trào chống toàn cầu hóa. WTO hiện chiếm 97% giao dịch
thương mại thế giới.
2/ Sự ra đời của Tố chức Thương mại Thế giới WTO
Kết thúc Hội nghị Brettonwood năm 1945 tại Hoa Kỳ, 44 nước tham gia Hôị nghị
đã quyết định thành lập Quỹ Tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới. Song Nghị quyết
tại Lahabana Cu Ba về việc thành lập Tổ chức thương mại Quốc tế (International
Trade Organization – ITO), với quyền phủ quyết của mình, Mỹ đã khiến tổ chức
này không thể ra đời. Không đồng tình với cách xử sự đó, tại Geneve Thuỵ Sĩ,
một nhóm 23 quốc gia đã tổ chức đàm phán riêng rẽ về vấn đề ưu đãi thuế quan
đối với nhau và đã đạt được sự thống nhất về một số vấn đề. Kết thúc đàm phán
năm 1947 các nước này đã kí với nhau Bản Hiệp định chung về Thuế quan và
thương mại (General Agreement on Tarrif and Trade, gọi tắt là GATT). Hiệp

định GATT có hiệu lực từ ngày 01/01/1948 với tư cách là một thoả thuận đa phương.
Mục tiêu của GATT là tổ chức các vòng đàm phán để cắt giảm thuế đánh vào hàng
nhập khẩu giữa các nước thành viên, tạo ra tự do hoá thương mại để các thành viên có
thời cơ nhập khẩu hàng hoá, vật tư giá thành rẻ.
Trong lịch sử gần 48 năm tồn tại của mình (1947-1994), GATT đã tổ chức được 8
vòng đàm phán đa phương về thương mại:
STT
Tên vòng
đàm
phán
Năm
Chủ đề đàm phán
Thành
viên tham
gia
1
Geneva
1947
Thuế quan
23
2
Ancecy
1949
Thuế quan
13
3
Torquay
1951
Thuế quan
38

4
Geneva
1956
Thuế quan
26
5
Dillon
1960-1961
Thuế quan
26
6
Kennedy
1964-1967
Thuế quan và các biện pháp
chống bán phá giá
62
7
Tokyo
1973-1979
Thuế quan, các biện pháp phi
thuế quan, các hiệp định
khung
102
8
Uruquay
1986-1994
Thuế quan, các biện pháp phi
thuế quan, dịch vụ, sở hữu trí
tuệ, giải quyết tranh chấp,
123

nông nghiệp, hàng dệt may

Sau khi kết thúc vòng đàm phán Uruguay, ngày 15/4/1944 tại Marrakesh
Marốc 117 quốc gia tham gia vòng đàm phán Uruguay đã ký Hiệp định thành
lập WTO. Thông qua Hiệp định này, các nước thành viên thoả thuận chuyển
GATT thành WTO từ ngày 01/01/1995 trên cơ sở chấp thuận việc kế thừa toàn
bộ các văn kiện pháp lý mà GATT đã đạt được tại vòng đàm phán Uruguay.
3/ Mục tiêu
Các quốc gia ký kết Hiệp định thành lập WTO hướng tới những mục tiêu rõ ràng
về kinh tế, chính trị và xã hội, đó là:
 Về kinh tế:
 Thúc đẩy tiến trình tự do hóa thương mại hàng hóa và dịch vụ;
 Thúc đẩy sự phát triển của thể chế thị trường;
 Loại bỏ rào cản thương mại;
 Mở cửa thị trường, duy trì cạnh tranh lành mạnh trong thương mại toàn cầu;
 Nâng cao nhận thức, hiểu biết của Chính phủ, các tổ chức, cá nhân về các quy
định điều chỉnh quan hệ thương mại quốc tế;
 Xây dựng môi trường pháp lý thông thoáng, rõ ràng;
 Tạo điều kiện kinh doanh lành mạnh, công bằng giữa các chủ thể.
 Về chính trị:
 Giải quyết bất đồng tranh chấp thương mại giữa các nước trong khuôn khổ hệ
thống thương mại đa phương phù hợp nguyên tác cơ bản của Công pháp quốc tế
và luật lệ của WTO;
 Lập cơ chế kiểm soát đối với các nước thành viên;
 Bảo đảm cho các quốc gia đang phát triển và quốc gia nghèo được hưởng lợi ích
từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế.
 Về xã hội:
 Phát triển bền vững và bảo vệ môi trường;
 Nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm cho các nước thành viên;
 Làm trung tâm hội nghị và các thương thảo về tiếp cận thị trường.

4/ Chức năng
5/ Cơ cấu
Hội nghị Bộ trưởng: Bao gồm các Bộ trưởng Thương mại – kinh tế đại diện
cho tất cả các nước thành viên; Họp 2 năm 1 lần để quyết định các vấn đề quan trọng
của WTO.
Đại hội đồng: Bao gồm đại diện tất cả các nước thành viên; thực hiện chức
năng của Hội nghị Bộ trưởng trong khoảng giữa 2 kì hội nghị của cơ quan này; Đại
hội đồng cũng đóng vai trò là Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) và Cơ quan rà soát
các chính sách thương mại.
Các Hội đồng Thương mại Hàng hoá, Thương mại dịch vụ, Các vấn đề Sở hữu
trí tuệ liên quan đến Thương mại; Các Uỷ ban, Nhóm công tác: Là các cơ quan được
thành lập để hỗ trợ hoạt động của Đại hội đồng trong từng lĩnh vực tất cả các thành
viên WTO đều có thể cử đại diện tham gia các cơ quan này.
Ban Thư ký: Ban Thư ký bao gồm Tổng giám đốc WTO, 03 Phó Tổng Giám
đốc và các Vụ, Ban giúp việc với khoảng 500 nhân viên, làm việc độc lập không phụ
thuộc vào bất kỳ chính phủ nào.
6/ Nguyên tắc hoạt động
Tổ chức thương mại thế giới được xây dựng dựa trên bốn nguyên tắc pháp lý
nền tảng là: tối huệ quốc; đãi ngộ quốc gia; mở cửa thị trường và cạnh tranh công
bằng và nguyên tắc minh bạch.
 Nguyên tắc tối huệ quốc MFN (Most favoured nation):
Theo nguyên tắc này, các thành viên WTO dành cho nhau với sự đối xử
với tư cách là nước được hưởng ưu đãi nhất, theo đó nếu một nước dành cho một
nước thành viên khác các ưu đãi về thương mại, thì các nước còn lại mặc nhiên
được hưởng quyền lợi như vậy. Nội dung quan trọng nhất của nguyên tắc này là
các quốc gia thành viên WTO dành cho nhau được hưởng quy chế về thuế nhập
khẩu tối huệ quốc (mức thuế thấp hơn nhiều so với thuế phổ thông).
Tuy nhiên nguyên tắc này cũng có những ngoai lệ dành cho các nước đang
và kém phát triển, theo đó các nước này được hưởng đối xử khác và đặc biệt như:
- Được cắt giảm thuế nhập khẩu ở mức thấp hơn so với các nước phát triển;

- Được duy trì một số biện pháp chống tính chất phân biệt đối xử;
- Được thực hiện thỏa thuận tay đôi ngoài khuôn khổ quy định của WTO.
 Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (National Treatment – NT)
Nguyên tắc NT được hiểu là hàng hoá nhập khẩu, dịch vụ và quyền sở
hữu trí tuệ nước ngoài phải được đối xử không kém thuận lợi hơn so với hàng
hoá cùng loại trong nước. Tuy nhiên, cũng giống như nguyên tắc MFN, nguyên tắc
này cũng dành cho các nước đang và kém phát triển sự đối xử khác như:
- Được hưởng thời gian chuyển đổi dài hơn;
- Được duy trì một số biện pháp để bảo vệ lợi ích quốc gia vơí thời gian dài
hơn so với các nước phát triển;
- Được thực hiện thỏa thuận tay đôi ngoài khuôn khổ quy định của WTO.
 Nguyên tắc mở cửa thị trường (market access)
Nguyên tắc ''mở cửa thị trường'' hay còn gọi một cách hoa mỹ là tiếp
cận thị trường (market access) thực chất là mở cửa thị trường cho hàng hoá, dịch
vụ và đầu tư nước ngoài. Trong một hệ thống thương mại đa phương, khi tất cả
các bên tham gia đều chấp nhận mở cửa thị trường của mình thì điều đó đồng
nghĩa với việc tạo ra một hệ thống thương mại toàn cầu mở cửa.
Về mặt chính trị, ''tiếp cận thị trường'' thể hiện nguyên tắc tự do hoá thương
mại của WTO. Về mặt pháp lý “tiếp cận thị trường” thể hiện nghĩa vụ có tính chất
ràng buộc thực hiện những cam kết về mở cửa thị trường mà nước này đã chấp thuận
khi đàm phán gia nhập WTO.
 Nguyên tắc cạnh tranh công bằng (fair competition)
Nguyên tắc này quy định các nước không được sử dụng các chính sách
thương mại bị WTO cấm nhằm bảo đảm cho hàng hóa, dịch vụ lưu thông trên thị
trường cuả nhau theo quy luật cung cầu và giá cả thị trường được người tiêu dùng
chấp nhận. Mặt khác, tất cả các biện pháp trợ cấp nhằm bóp méo thương mại như trợ
cấp theo tỉ lệ nội địa hóa, theo tỉ lệ xuất khẩu trong đầu tư, đều không được áp
dụng.
 Nguyên tắc minh bạch ( transparency)
Nhằm minh bạch hóa, các nước thành viên WTO đều có nghĩa vụ công bố

công khai các quy định và các hướng dẫn hành chính của nước mình liên quan
đến xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ, đầu tư theo Hiệp định TRIMS và
cơ chế bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với Hiệp định TRIPs, bảo đảm dễ
tiếp cận và áp dụng trên toàn lãnh thổ.
Các thành viên còn có trách nhiệm thành lập những cơ quan giải quyết khiếu
kiện với thủ tục tố tụng rõ ràng để các công ty các nước có thể khởi kiện tại đó.Đồng
thời các nước thành viên cũng phải dành cơ hội thỏa đáng cho các bên liên quan được
góp ý trong quá trình lập quy. Minh bạch về tiếp cận thị trường yêu cầu các thành viên
nổ lực ràng buộc mức trần cho thuế nhập khẩu và đưa ra cam kết rõ ràng về mở cửa
thị trường, giúp các doanh nghiệp có thể dự báo và hoạch định chiến lược kinh doanh.
III. VIỆT NAM TRONG WTO
1/ Quá trình gia nhập Tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam
1-1995: Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO. Ban Công tác xem xét việc gia nhập
của Việt Nam được thành lập với Chủ tịch là ông Eirik Glenne, Đại sứ Na Uy tại
WTO (riêng từ 1998–2004, Chủ tịch là ông Seung Ho, Hàn Quốc)
8-1996: Việt Nam nộp “Bị vong lục về chính sách thương mại”
o 1996: Bắt đầu đàm phán Hiệp định Thương mại song phương với Hoa kỳ (BTA)
1998 - 2000: Tiến hành 4 phiên họp đa phương với Ban Công tác về Minh bạch hóa
các chính sách thương mại vào tháng 7-1998, 12-1998, 7-1999, và 11-2000. Kết thúc
4 phiên họp, Ban công tác của WTO đã công nhận Việt Nam cơ bản kết thúc quá trình
minh bạch hóa chính sách và chuyển sang giai đoạn đàm phán mở cửa thị trường.
o 7-2000: ký kết chính thức BTA với Hoa Kỳ
o 12-2001: BTA có hiệu lực
4-2002: Tiến hành phiên họp đa phương thứ 5 với Ban Công tác. Việt Nam đưa ra
Bản chào đầu tiên về hàng hóa và dịch vụ. Bắt đầu tiến hành đàm phán song phương.
2002 – 2006: Đàm phán song phương với một số thành viên có yêu cầu đàm
phán, với 2 mốc quan trọng:
o 10-2004: Kết thúc đàm phán song phương với EU - đối tác lớn nhất
o 5-2006: Kết thúc đàm phán song phương với Hoa Kỳ - đối tác cuối cùng trong
28 đối tác có yêu cầu đàm phán song phương.

26-10-2006: Kết thúc phiên đàm phán đa phương cuối cùng, Ban Công tác chính
thức thông qua toàn bộ hồ sơ gia nhập WTO của Việt Nam. Tổng cộng đã có 14
phiên họp đa phương từ tháng 7-1998 đến tháng 10-2006.
7-11-2006: WTO triệu tập phiên họp đặc biệt của Đại Hội đồng tại Geneva để
chính thức kết nạp Việt Nam vào WTO.
2/ Cơ hội
Việc được công nhận là thành viên chính thức của WTO đã khẳng định được quyết
tâm hội nhập của ta trên sân chơi quốc tế. Gia nhập WTO, chúng ta đứng trước những
cơ hội rất lớn để đất nước có được vị thế trên trường quốc tế.
 Đối với tăng trưởng kinh tế:
Hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt gia nhập WTO, nhìn tổng thể, đã có tác động tích
cực đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong hơn 3 năm qua kể từ ngày Việt Nam
là thành viên chính thức của WTO. Dấu hiệu đầu tiên có thể nhận thấy là các rào cản
kỹ thuật thương mại từ các nước nhập khẩu sản phẩm của Việt Nam thuyên
giảm đáng kể, đặc biệt là các nước thành viên WTO bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu
và dành cho hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam được hưởng thuế MNF và sự đối
xử quốc gia, nhờ đó kim ngạch xuất khẩu tăng của nước ta tăng nhanh, kích
thích sản xuất trong nước phát triển góp phần tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam được hưởng lợi từ nhiều yếu tố tích cực từ bên trong
cũng như ngoài nền kinh tế gắn liền với hội nhập kinh tế quốc tế.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn năm 2006-2010(%)
Dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, tốc độ tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam giai đoạn 2008-2010 bị chững lại, tuy nhiên đây vẫn là tốc độ tăng
trưởng cao và khả quan so với các nước khác.
 Tiếp nhận vốn đầu tư và công nghệ:
Thực tiễn cho thấy, kể từ ngày gia nhập WTO, Việt Nam đã trở thành một
trong những quốc gia dẫn đầu thế giới về thu hút đầu tư nước ngoài bởi sự ổn
định chính trị, tiềm lực con người, tài nguyên và vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế ngày càng được nâng cao, các chính sách minh bạch hóa, thông thoáng

tạo điều kiện cho nhà đầu tư có môi trường thuận lợi nhất, thực sự đã tạo nên
niềm tin khá vững chắc cho các nhà đầu tư. Đây là cơ hội có ý nghĩa nhất, là yếu tố
quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, thúc đẩy tập trung
kinh tế với tốc độ cao.
Nếu trong thời kỳ 2001-2006 tổng vốn đầu tư xã hội tăng 13,3% bình quân/năm,
năm 2007 tăng 27%, trong đó khu vực đầu tư FDI tăng kỷ lục là 93,4%, khu vực dân
doanh là 26,9% và đầu tư khu vực nhà nước tăng 34,6%. Năm 2008-2009 do tác động
của khủng hoảng nên mức tăng chậm lại. Hầu hết các ngành đều tăng trưởng vốn đầu
tư cao, mạnh nhất là kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn 263%, tài chính và tính dụng
87,4%, thông tin liên lạc 29,5%. Riêng giáo dục là ngành có đầu tư thấp nhất.
Bên cạnh việc thu hút vốn Việt Nam còn tranh thủ được công nghệ, kiến thức
và kinh nghiệm quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hóa theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần thực hiện mục tiêu
dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
0
2
4
6
8
10
2006
2007
2008
2009
2010
 Mở rộng thị trường hàng hóa và dịch vụ trên cơ sở bình đẳng và công bằng
hơn.
Thực tiễn trong những năm qua chúng minh rằng: tham gia vào hội nhập kinh tế
quốc tế, doanh nghiệp nước ta sẽ được hưởng sự đối xử bình đẳng hơn hẳn khi tiếp
cận thị trường của tất cả các nước, đặc biệt là các thành viên WTO, vì ta được đối xử

bình đẳng theo các chuẩn mực của WTO. Hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu của các
doanh nghiệp nước ta sẽ hạn chế được việc bị các nước sử dụng các biện pháp
phân biệt đối xử.
Doanh nghiệp Việt Nam được hưởng mức thuế tối huệ quốc đối với nhiều mặt
hàng, giá thành xuất khẩu giảm nên nâng cao sức cạnh tranh, tăng khả năng
thâm nhập thị trường thế giới cả về số lượng và chủng loại hàng hóa.
Mặt khác, ta cũng đã nhận được cơ hội sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp
của WTO để đấu tranh bình đẳng với các đối tác thương mại lớn, nhất là khi lợi
ích kinh tế nước ta bị cạnh tranh trái với “luật chơi chung”.Việc Việt Nam chính
thức kiện lại Hoa Kỳ tại WTO và đã được nhận đơn về việc nước này áp thuế chống
bán phá giá một cách vô lý đối với sản phẩm tôm của ta xuất vào thị trường nước họ là
bằng chứng bước đầu về cơ hội trên.
Thị trường xuất khẩu của Việt Nam hiện nay đã lên đến trên 150 quốc gia,
trong đó các thị trường trọng yếu như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc,Nhật Bản vẫn
có mức thâm nhập tốt.
Mặt hàng xuất khẩu về cơ bản vẫn đứng vững trên thị trường cũ, đồng thời
mở thêm nhiều thị trường mới như Trung Đông, Châu Mỹ Latinh, Châu Phi.
Nền nông nghiệp chuyển theo hướng đa canh, tỷ suất ngày càng cao, nhất là
xuất khẩu, đời sống của nhân dân, nhất là nông dân được cải thiện mặc dù chưa
thực sự bền vững.
Hàng nông sản xuất khẩu từ Việt Nam không những tăng khối lượng mà mức độ
vệ sinh an toàn thực phẩm ngày càng được bảo đảm hơn.
Doanh nghiệp và nông, ngư dân đã ý thức rõ hơn, tư duy sản xuất nông nghiệp
sạch bước đầu hình thành, thay cho tư duy năng suất cao, sản lượng nhiều bằng mọi
giá.
Đối với dịch vụ, hệ thống phân phối hàng hóa dịch vụ ngày càng được mở
rộng. Theo khảo sát của Sở Công Thương thành phố Hồ Chí Minh đối với dịch
vụ phân phối cho thấy:
 Ở nhiều điạ phương, nhất là thành phố Hồ Chí Minh, số lượng siêu thị và trung
tâm thương mại tăng cả về số lượng lẫn quy mô.

 Hệ thống cơ sở hạ tầng các siêu thị, chợ, đặc biệt ở các thành phố lớn được
nâng cấp.
 Mạng lưới chợ tiếp tục phát triển phù hợp truyền thống tiêu dùng của công
chúng.
 Tạo ra hệ thống pháp luật, chính sách minh bạch.
Sức ép của việc bảo đảm các điều kiện để thực hiện các cam kết quốc tế cũng
như đối với WTO buộc nước ta phải tiếp tục ban hành và điều chỉnh, bổ sung,
sửa đổi khá nhiều luật và các văn bản dưới luật, làm cho môi trường pháp lý
nước ta rõ ràng, minh bạch hơn.
Hoạt động này tạo điều kiện cho doanh nghiệp nước ta được hoạt động trong môi
trường pháp lý minh bạch, rõ ràng, dễ dự báo hơn và tránh dần đi đến xóa bỏ cơ chế
“xin, cho” “cửa trước, cửa sau”, góp phần chống tham nhũng có hiệu quả. Việc giảm
30% thủ tục hành chính mà Việt Nam đang làm một phần cũng nhờ sức ép của hội
nhập.

3/ Thách thức
Trải qua 25 năm hội nhập và phát triển, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập WTO
chúng ta càng có thêm nhiều cơ hội và điều kiện để phát triển. Tuy nhiên song song
với những cơ hội, thách thức cũng phát sinh ra ngày một nhiều hơn, cam go hơn trên
tất cả các lĩnh vực. Dưới đây là những thách thức cơ bản nhất mà nếu ta không kịp
thời giải quyết thì chắc chắn chúng sẽ biến thành những khó khăn lâu dài.
1/ Đối với cải cách cơ cấu kinh tế
Chúng ta được xếp vào nhóm các quốc gia đang phát triển, tốc độ tăng trưởng bình
quân hằng năm của chúng ta giai đoạn 2005-2010 là 6,9% (ở khu vực châu Á chỉ đứng
sau Trung Quốc), tuy nhiên những số liệu ấy hoàn toàn không nói lên rằng chúng ta
đang giàu mạnh bởi 1% tăng trưởng của ta có tương đương với 1% tăng trưởng của
Trung Quốc?
- Cơ cấu kinh tế theo khu vực (%):

Năm 2006

Năm 2007
Năm 2009
Khu vực I
20,4
20,19
20,7
Khu vực II
41,52
41,58
42,3
Khu vực III
38,08
38,13
39,0
Từ các số liệu trên có thể thấy cơ cấu kinh tế của nước ta đang chuyển dịch theo
hướng tích cực, tuy nhiên tốc độ chuyển dịch vẫn còn chậm, chưa đáp ứng kịp yêu cầu
hội nhập, nếu tình trạng trên không được cải thiện, chúng ta sẽ tự đánh mất đi những
lợi thế của chính mình.
- Cơ cấu theo thành phần kinh tế còn bất hợp lí, kinh tế nhà nước vẫn chiếm
tỉ trọng cao nhưng chưa phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc
dân. Kinh tế doanh nhân chủ yếu ở quy mô vừa và nhỏ, chưa thể là động lực
phát triển kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh nhưng hiệu quả
chuyển giao công nghệ và nâng cao năng lực công nghệ và kinh nghiệm quản lí
vào nước ta còn nhiều hạn chế.
-Kinh tế vùng ngành chưa hình thành được sự kết nối hữu cơ giữa các bộ,
ngành và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương dựa trên lợi thế cạnh tranh
của ngành, vùng nói chung và của từng ngành nói riêng.
-Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, hiệu quả giải ngân vốn chưa cao, nguồn vốn đầu
tư cho các ngành mũi nhọn, chiến lược chưa thỏa đáng.
2/ Cải cách thủ tục hành chính và hoàn thiện thể chế- cơ chế quản lí kinh tế

Thách thức của nền hành chính quốc gia là phải thay đổi nền hành chính theo
hướng công khai hơn, minh bạch hơn và hiệu quả hơn, tạo sự thông thoáng trong
các thủ tục để phát huy mọi nguồn lực trong nước, thu hút đầu tư nước ngoài,
thúc đẩy tính năng động và khả năng thích ứng nhanh cho những yếu tố quan
trọng quyết định sự thành bại của hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong những năm qua, tuy chúng ta đã có nhiều tiến bộ trong cải cách thủ tục hành
chính, tuy nhiên vẫn còn không ít vướng mắc gây phiến hà, tốn kém không cần thiết
cho doanh nghiệp, là trở lực cho sự năng động của doanh nghiệp.
3/ Phát triển nguồn nhân lực
Trong một nghiên cứu do Ngân hàng thế giới nghiên cứu do Ngân hàng thế giới
công bố gần đây, một quốc gia dù nguồn tài nguyên giàu tới đâu cũng chỉ đem lại 60%
GDP, 40% còn lại chỉ có thể được tạo ra nhờ kết quả đào tạo và sử dụng nguồn nhân
lực.
Hiện nay, dân số trong độ tuổi lao động ở nước ta khoảng 46 triệu người,
trong đó lao động trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm 53,9%; trong lĩnh vực công
nghiệp là 20,3%; dịch vụ là 25,8%. Tuy nhiên trên thực tế, theo chính đánh giá của
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, lực lượng lao động của VIệt Nam có tới
65,3% là lao động giản đơn, không qua bất kỳ trường lớp đào tạo nào. Do vậy,
lực lượng lao động Việt Nam vẫn được xem như là “vừa thừa vừa thiếu”.
Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn - thành thị còn rất chậm. Các dự án
đầu tư phần lớn tập trung vào khu vực có nhiều vốn (thành thị) trong khi đó
nguồn nhân lực lại chủ yếu ở nông thôn. Về phân bố lao động, chúng ta tiếp tục tạo
đà cho tăng trưởng, tập trung nhiều hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất, đặc
biệt ở phía Nam như Bình Dương, Đồng Nai… nhưng lại có sự bất cập giữa mục
tiêu phát triển kinh tế theo quy mô với khả năng đáp ứng của thị trường lao
động.
Không những thiếu lao động qua đào tạo kĩ thuật, chúng ta còn thiếu cả
những cán bộ có trình độ, kinh nghiệm quản lý. Rất nhiều doanh gia Việt Nam
không am tường luật lệ và thủ tục (mới) của WTO. Những luật lệ và thủ tục hiện hành
của WTO còn thay đổi nhiều. Trong bước đầu hội nhập WTO, giới kinh doanh Việt

Nam gặp phải những cạnh tranh rất gay gắt vì vậy giới quản lý cũng như nhân viên
phải cấp kỳ lãnh hội cách làm ăn mới để thích hợp với thương trường WTO. Nhiều
nguy cơ thua đậm trong những vụ tranh chấp pháp lý.
4/ Môi trường và năng lực cạnh tranh
Cùng với hội nhập, chúng ta nhận thức được rằng cạnh tranh sẽ trở nên khốc
liệt hơn. Câu hỏi được đăt ra là làm sao để doanh nghiệp trong nước có thể đứng
vững, chiếm lĩnh được thị trường nội địa và họ có tận dụng được những thuận lợi để
đạt được thành công trên sân chơi quốc tế.
Thực tế cho thấy năng lực canh tranh của doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung
vẫn còn yếu. Qua 4 năm gia nhập WTO, các khó khăn yếu kém đã được bộc lộ
khá rõ:
 Doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là vừa và nhỏ, doanh nghiệp lớn nhất cũng
chỉ có quy mô bằng cỡ vừa ở các nước phát triển. Nhiều công ty Việt Nam có
khả năng bị công ty ngoại quốc nuốt chửng.
 Doanh nghiệp lớn và nhỏ ở Việt Nam có khoảng cách chênh lệch lớn về quy
mô.
 Hầu hết các doanh nghiệp ở nước ta còn thiếu nhiều tiêu chí theo tính toán
của các chuyên gia kinh tế thế giới.(vốn, nhân lực, trình độ quản trị, công
nghệ…)
+ Thiếu vốn và kinh nghiệm quản lí, khai thác vốn;
+ Thiếu nguồn nhân lực có trình độ;
+ Trình độ quản trị doanh nghiệp thấp;
+ Công nghệ lạc hậu;
+ Thiếu vật tư, nguyên vật liệu phục vụ cho nhiều ngành công nghiệp
xuất khẩu;
+ Trình độ marketing, quảng bá sản phẩm yếu.
 Chiến lược phát triển và liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp còn
yếu.Các Hiệp hội chưa thực sự là cầu nối giữa Nhà nước và doanh nghiệp,
giữa doanh nghiệp với người dân.
 Nguy cơ bị kiện bán phá giá luôn thường trực trong hoạt động xuất khẩu

của các doanh nghiệp nước ta do nước ta chưa được công nhận nền kinh tế thị
trường.
 Quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm từ các nước đối với hàng nông
sản và thủy sản Việt Nam ngày càng nghiêm ngặt và khắc khe hơn.
 Xuất khẩu tăng nhưng hiệu quả không cao bởi hàm lượng nhập trong sản
phẩm xuất khẩu của ta còn cao, sản phẩm tạo ra chủ yếu vẫn là gia công, lắp
ráp, công nghiệp hỗ trợ cho phát triển.
 Khả năng phản ứng, thích nghi, phân tích biến động thị trường của các
doanh nghiệp Việt Nam còn chậm, dễ bị tổn thương.
Khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2009 đã tác động rất lớn đến các doanh nghiệp
xuất khẩu nước ta khi mà các nước thắt chặt chi tiêu, hạn chế nhập khẩu, thực hiện các
biện pháp tinh vi để bảo hộ sản xuất trong nước … và việc phục hồi lại thị trường gặp
không ít khó khăn, trở ngại.
Đối với thị trường trong nước, nguy cơ thua tại sân nhà là rất lớn. Nguyên
nhân là do hệ thống phân phối trong nước cònnhiều yếu kém, khả năng thu hút, phục
vụ khách hàng của doanh nghiệp chưa thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nước
ngoài có lợi thế về vốn. Mặt khác, chất lượng nhiều mặt hàng trong nước không thể so
sánh với hàng ngoại nhập chưa kể tâm lý người Việt ưa chuộng sử dụng hàng hóa
nước ngoài dù có lúc phải chi tiền nhiều hơn.
Theo Báo cáo của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung cho rằng sau 3 năm gia
nhập WTO, đối tượng chịu tác động nặng nề và thiệt thòi nhất là nông dân. Người
nông dân vốn quen sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, thiếu thông tin thị trường, trình độ
hiểu biết và áp dụng khoa học kĩ thuật còn rất hạn chế trong khi đó chính sách “3 nhà”
vẫn còn nhiều vướng mắc.
Đối với lĩnh vực đầu tư, bao gồm cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài,
khó khăn và thách thức vẫn tồn tại:
+Cơ sở hạ tầng yếu kém, nhất là hệ thống giao thông, kho bãi, phương tiện bốc dỡ.
+Tốc độ giải ngân còn chậm, nhiều dự án đăng kí để giữ chỗ
+Công tác giải phóng mặt bằng chậm.
+Thủ tục hành chính liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận, giấy phép đầu tư,

vẫn còn nhiều phiền hà, phức tạp.
+Cơ cấu đầu tư bất hợp lí, đầu tư chủ yếu tập trung vào gia công, lắp ráp, giá trị
gia tăng thấp.
+Nhiều dự án không khả thi, hiệu quả kinh tế thấp nhưng thiếu cán bộ thẩm duyệt
dự án gây lãng phí tiềm lực kinh tế, kéo dài thời gian.
+Trình trạng đầu tư tràn lang, ồ ạt làm phá vỡ quy hoạch và quỹ đất nông nghiệp ở
nhiều địa phương.
+Khả năng đầu tư ra bên ngoài của ta còn hạn chế do thiếu vốn, việc nghiên cứu,
tìm hiểu thị trường nước ngoài còn nhiều vướng mắc.
Trong những năm gần đây, song song với tăng trưởng kinh tế, tỉ lệ lạm phát tăng
cao, gây tâm lí e ngại cho các nhà đầu tư…
5/ Môi trường kinh doanh
Trước khi gia nhập WTO, Việt Nam đã tham gia các liên minh kinh tế và khu vực,
cho nên các doanh nghiệp trong nước cũng đã có thời gian khá dài để thích ứng với
điều kiện hội nhập. Tuy nhiên, do phần lớn doanh nghiệp Việt Nam là vừa và nhỏ,
số lượng doanh nghiệp có điều kiện trực tiếp tham gia xuất nhập khẩu hàng hóa,
dịch vụ và các lĩnh vực thương mại đầu tư còn non nớt kinh nghiệm.
Trong môi trường kinh doanh mới, điều kiện tiên quyết cho việc tiếp cân thị
trường là nắm bắt luật pháp, thông lệ quốc tế, luật quốc gia và tập quán thị
trường ở nước mà doanh nghiệp tiếp cận. Trong khi đó tồn tại một thực tế là:
+Đối với hệ thống luật pháp trong nước, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa nắm hết,
cho dù luật cũ đã thay đổi và có nhiều luật mới được ban hành.
+Vấn đề nắm bắt luật quốc tế và luật pháp của nước đối tác lại còn có nhiều bất
cập hơn. Nhiều doanh nghiệp không nắm được cơ chế điều chỉnh của hệ thống
luật lệ quốc tế và của các nước, trong khi vẫn giao kết và thực hiện hợp đồng,
đến khi tranh chấp phát sinh thì lúng túng, bị động và không bảo vệ được lợi
ích hợp pháp của mình.
6/ Sự thay đổi quá nhanh của nền kinh tế sẽ tiếp tục làm môi trường bị xuống cấp
- Hàng hóa ngoại nhập vào Việt Nam có khả năng mang theo dịch bệnh nếu
không có đội ngũ kiểm dịch đầu đủ, rõ ràng, công khai thì dịch bệnh sẽ thâm nhập, lây

lan rất nhanh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế và sức khỏe người dân.
- Môi trường, tài nguyên…bị lạm dụng để đáp ứng nhu cầu sản xuất. Việc lạm
dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật làm môi sinh bị phá hoại.
- Một bộ phân lao động không đáp ứng được yêu cầu hội nhập sẽ bị đào thải,
việc các doanh nghiệp không đủ sức mạnh cạnh tranh bị phá sản… làm gia tăng
áp lực lên các vấn đề xã hội như tệ nạn, trợ cấp thất nghiệp… ngày càng thêm
nan giải.
- Khoảng cách xã hội, phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn hơn.
4/ Biện pháp
4.1. Giải pháp phát triển thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập
4.1.1. Đối với Nhà nước
4.1.1.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế
Ngay sau khi trở thành thành viên chính thức của WTO, khi ban hành Nghị
quyết 16/NQ-CP, một trong những nội dung quan trọng mà của Chính phủ đã nhấn
mạnh trong Nghị quyết là: phải “xác định các nội dung cam kết cần phải nội luật hoá
để xây dựng chương trình sửa đổi các luật, pháp lệnh và các văn bản dưới luật liên
quan”. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật phải được coi là điều kiện tiền đề cho
việc thực hiện các cam kết của nước ta đối với WTO, theo đó:
 Chính phủ đề xuất chương trình sửa đổi, bổ sung luật, pháp lệnh để trình
Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn;
 Rà soát, xem xét để loại bỏ sự chồng chéo, những quy định không phù hợp
với cam kết, không đảm bảo tự do kinh doanh hanhg hoá và dịch cụ cho các
chủ thể tham gia thị trường;
 Xây dựng pháp luật, thể chế, theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
mà các Bộ đã đăng kí với Chính phủ, trong đó khẩn trương xây dựng và ban
hành luật và pháp lệnh đối với một số lĩnh vực nông nghiệp, tài chính- ngân
hàng, lao động- xã hội,văn hóa,…
4.1.1.2. Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công cuộc cải cách thủ tục hành chính,
chống quan liêu và tham nhũng
Đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính, chống quan liêu và tham nhũng

không chỉ là đòi hỏi cấp bách của việc thực hiện mục tiêu hội nhập.
Yêu cầu cao về minh bạch hóa và công khai hoá của WTO sẽ đặt ra thách thức
lớn cho nền hành chính quốc gia. Nền hành chính quốc gia sẽ phải thay đổi theo
hướng công khai hơn, minh bạch hơn và hiệu quả hơn. Đó phải là một nền hành
chính vì quyền lợi chính đáng của mọi công dân và doanh nghiệp, lấy công dân và
doanh nghiệp làm trọng tâm phục vụ, khắc phục toàn bộ các biểu hiện trì trệ, thờ ơ và
vô trách nhiệm. Nếu không tạo ra được một nền hành chính như vậy, sẽ không thể tận
dụng được các cơ hội do hội nhập kinh tế nói chung và việc gia nhập WTO nói riêng
đem lại.
Vì vậy, cải cách hành chính phải tập trung vào nội dung:
 Rà soạt lại các thủ tục hành chính, loại bỏ các loại giấy tờ, thủ tục không cần
thiết (đặc biệt là các giấy phép con) theo hướng đơn giản tối đa các thủ tục
hành chính;
 Thực hiện minh bạch, công khai các thủ tục hành chính, Chương trình cải cách
thủ tục hải quan và xây dựng lộ trình thực hiện hải quan điện tử và các thủ tục
khác theo phương pháp hiện đại;
 Hoàn thiện hệ thống quản lí hành chính nhà nước từ trung ương đến địa
phương, theo đó xác định rõ mức độ phân cấp và phân công trách nhiệm rõ
ràng cho các cơ quan được phân cấp thực hiện quản lí;
 Xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lí hành chính nhà nước theo chuẩn mực
quốc tế, đáp ứng tiêu chuẩn ISO;
 Công khai tài chính, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, quy chế thanh tra, giám
sát kiểm sát, bảo đảm sự giám sát của nhân dân, tạo điều kiện cho nhân ân thực
hiện quyền khiếu nại tố cáo được quy định bởi pháp luật.
4.1.1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực (giảm tỉ
trọng nông – lâm – ngư nghiệp, tăng tỉ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ).
Phát huy lợi thế mà Việt Nam có được và đầu tư mạnh để phát triển các sản
phẩm xuất khẩu, trong đó có đề án, quy hoạch đầu tư sản xuất những mặt hàng trọng
điểm, những mặt hàng cần nâng cao giá trị gia tăng và chú ý đặc biệt đối với đề án,

quy hoạch phát triển nhóm mặt hàng mới để xuất khẩu. Có nhiều phương án cụ thể
để tham gia tích cực và có chiều sâu vào phân công lao động quốc tế.
Mở rộng và tăng cường các loại hình dịch vụ trên những khung pháp lí thông
thoáng hơn, đồng thời nghiên cứu triển khai các biện pháp quản lí cụ thể, có hiệu quả,
tránh tình trạng đang tồn tại trên thực tế là “không quản được thì cấm”. Nghiên cứu
các quy định, quy trình sản xuất sản phẩm an toàn, không chỉ an toàn vệ sinh
thực phẩm mà còn phải an toàn cho người tiêu dùng, bảo đảm sự bảo vệ tối đa
người tiêu dùng, đồng thời sớm áp dụng luật Bảo vệ người tiêu dùng để nâng cao
trách nhiệm của nhà sản xuất, tạo lòng tin cho khách hàng trong và ngoài nước, từ đó
góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, tạo nguồn tài chính cho việc tiếp tục chuyển đổi cơ cấu
kinh tế trong những năm tới.
4.1.1.4. Hoàn thiện các Hiệp hội đã có và thành lập các Hiệp hội mới
Hiện tại, Việt Nam đã có nhiều Hiệp hội ngành hàng, tuy nhiên chúng ta chưa
có những Hiệp hội quan trọng như ở các nước, trong đó đặc biệt là Hiệp hội
Marketing, Hiệp hội các nhà phân phối. Vì vậy, trước mắt cũng như lâu dài, cần
thành lập tiếp cũng như củng cố phát huy các Hiệp hội ngành hàng.
Chính phủ cần xây dựng khung pháp lí để các Hiệp hội hoạt động theo
hướng, bảo đảm cho các Hiệp hội đủ sức mạnh trong điều hành, trong tuyên
truyền pháp luật, hoạt động xây dựng và quảng bá thương hiệu, ứng dụng công nghệ
và phương thức kinh doanh hiện đại, giúp đỡ có hiệu quả các doanh nghiệp trong kinh
doanh thương mại trên cả thị trường trong và ngoài nước cũng như bảo vệ quyền lợi
của các doanh nghiệp trong hiệp hội.
4.1.1.5. Phát triển mô hình tổ chức thị trường nội địa văn minh và hiệu quả
Chính phủ cũng cần tiếp tục và khẩn trương hơn trong triển khai
 Chương trình khuyến khích các Tổng công ty mạnh và phát triển các tập
đoàn siêu thị;
 Phát triển kho bán buôn, sàn giao dịch, chợ đầu mối thành các công ty bán
buôn chuyên nghiệp, hiện đại;
 Khuyến khích các hộ bán lẻ tham gia trung tâm thương mại, khu mua sắm
tập trung;

 Tạo thành các khu bán lẻ khép kín, thuận lợi thông qua việc thành lập và
phát triển mạnh mô hình Hợp tác xã chợ và HTX nông thôn, góp phần cung
ứng vật tư tại chỗ cho sản xuất nông nghiệp và tiêu thụ tại chỗ sản phẩm nông
sản cho nông dân và ngư dân;
 Hình thành các tổng công ty thưong mại đa ngành, hoạt động theo phương
thức hiện đại, chuyên nghiệp;
 Phát triển mạnh thương mại điện tử, đưa thương mại điện tử vào hoạt động
quản lí và ứng dụng có hiệu quả vào chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
4.1.1.6. Phát triển thương mại dịch vụ
Trong chiến lược phát triển các ngành dịch vụ, ngoài các dịch vụ truyền
thống như du lịch, xuất khẩu lao động, ngành dịch vụ hỗ trợ được coi là ngành
Việt Nam còn rất yếu. Vì vậy, Chính phủ cần khẩn trương hơn trong xây dựng
Chương trình và thực hiện chương trình phát triển loại hình dịch vụ này. Có như
vậy mới góp phần phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm và tăng thu cho nền kinh
tế, đồng thời tạo môi trường hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong thực hiện mục tiêu
nội địa hoá, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao sức mạnh cạnh tranh.
4.1.1.7. Chiến lược đào tạo nguồn nhân lực
Để đáp ứng nhu cầu Hội nhập, chúng ta cần có số lượng lớn chuyên gia,
cán bộ, nhân viên có trình độ chuyên môn, do vậy chúng ta phải tiếp tục đẩy
mạnh việc đào tạo nhân lực, đặc biệt là nhân lực thuộc các ngành tài chính, ngân
hàng, thuế quan,…
4.2. Các giải pháp đối với cộng đồng doanh nghiệp
Thành công hay thất bại trong sự nghiệp hội nhập kinh tế quốc tế, không chỉ phụ
thuộc vào đường lối, chủ trương, chính sách và cơ chế quản lý và điều hành của Nhà
nước. Sự thành bại còn phần lớn phụ thuộc vào cách ứng xử và hành động thực tế của
cộng đồng doanh nghiệp.
Vì vậy, cũng như Chính phủ, doanh nghiệp phải có giải pháp và phải thực hiện giải
pháp bằng việc thông qua các giải pháp năng động, sáng tạo và thực tiễn trong quá
trình triển khai các giải pháp. Nếu giải pháp của Nhà nước chỉ mang tính định hướng
vĩ mô, thì giải pháp của cộng đồng doanh nghiệp phải là những giải pháp vi mô, cụ thể

và chi tiết, được xây dựng trên cơ sở khả năng thực tế và khả năng ứng xử của doanh
nghiệp. Dưới đây là những giải pháp chung đối với doanh nghiệp đã được thảo luận
và thống nhất tại nhiều cuộc hội thảo sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
4.2.1. Thích ứng với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đồng nghĩa với việc chấp nhận
cùng “chơi” trên một “sân chơi chung” và “luật chơi chung”. Doanh nghiệp Việt Nam
chỉ được hưởng những ngoại lệ trong vài ba năm đầu khi Việt Nam mới vào WTO.
Nhưng ưu đãi và những hạn chế mà nước ta được sử dụng nhằm bảo hộ các doanh
nghiệp trong nước sẽ phải bãi bỏ dần. Điều này cũng có nghĩa là môi trường và điều
kiện để các quốc gia thành viên các Liên kết kinh tế, đặc biệt là WTO sẽ dần được nới
lỏng và họ sẽ có nhiều hơn những cơ hội thuận lợi để tiếp cận thị trường Việt Nam,
đặc biệt là thị trường phân phối hàng hóa và thị trường dịch vụ.
- Các doanh nghiệp cần coi trọng việc chủ động phòng ngừa các vụ kiện là yêu
cầu hàng đầu;
- Cần nắm vững và vận dụng nhuần nhuyễn các quy định của luật pháp quốc
tế cũng như pháp luật các nước liên quan và pháp luật nước ta;
- Nắm vững và thực thi nghiêm chỉnh các quy định, thủ tục pháp lý quốc tế và
của các nước nhập khẩu để phòng tránh việc nảy sinh các vụ kiện thương mại;
- Bảo đảm tính pháp lý của các hợp đồng kinh tế - thương mại ký với nước
ngoài;
- Đa dạng hóa thị trường, có cơ cấu xuất khẩu hợp lý trên từng thị trường,
theo dõi sát sao động tháithị trường để có biện pháp phòng ngừa;
- Tuyệt đối không được gian lận trong việc sử dụng giấy chứng nhận xuất xứ
(C/O).
Để thực hiện giải pháp trên, doanh nghiệp cần đẩu tư kinh phí đào tạo hoặc nên
tuyển dụng các chuyên gia pháp lý để trợ giúp giám đốc trong việc cung cấp thông tin,
nắm và vận hành luật pháp váo hoạt động kinh doanh, nhất là kinh doanh quốc tế theo
tinh thần Thủ tướng đã chỉ thị.
4.2.2. Nâng cao khả năng và năng lực cạnh tranh
Chú trọng xây dựng và tăng cường năng lực cạnh tranh cho các công ty trong

nước khi tham gia sân chơi quốc tế. Cụ thể:
- Hoàn thiện cơ cấu tổ chức, nhân sự và trang thiết bị, phương tiện bảo đảm
thực hiện tốt các hoạt động kinh doanh trong điều kiện hội nhập, đặc biệt là hoạt động
quản trị;
- Tạo sự cạnh tranh có hiệu quả thông qua việc thực hiện chiến lược đầu tư, đổi
mới công nghệ cao, hiện đại nhằm giảm giá thành sản phẩm hàng hóa và dịch vụ,
đồng thời phải khẩn trương nghiên cứu, áp dụng rộng rãi hệ thống quản lý chất lượng
theo tiêu chuẩn quốc tế, cải tiến mẫu mã, chủng loại, áp dụng hệ thống quản lý chất
lượng ISO;
- Chuyển các tổ chức doanh nghiệp, ngành hàng theo hướng liên kết kinh tế -
kỹ thuật, và liên kết vốn giữa doanh nghiệp và các ngân hàng, hạn chế vay ngắn
hạn và trung hạn vì khó khăn trong thu hồi và hoàn vốn. Phát triển mô hình liên kết
bốn nhà theo chủ trương của Chính phủ nhằm hạn chế tối đa các rủi ro trong kinh
doanh;
- Ứng dụng khoa học công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, hiện đại vào các quy
trình sản xuất, tạo ra hang hòa đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế tạo “giấy thông hành” để
thâm nhập thị trường các quốc gia, nhất là các nước phát triển;
- Có kế hoạch, chương trình cụ thể, thực tiễn để đào tạo đội ngũ cán bộ
chuyên môn có trình độ quản lý và thực hiện tiêu chuẩn quốc tế;
- Mặc khác, cần bảo đảm hài hòa giữa quy mô và tốc độ trong đầu tư, tạo
nguồn xuất khẩu;
- Xây dựng chiến lược tự túc nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất, xuất
khẩu phải được coi là biện pháp đặc biệt quan trọng trong chiến lược giảm giá thành
sản phẩm của doanh nghiệp;
- Đảm bảo thời gian giao hàng xuất khẩu trong các hợp đồng thương mại
quốc tế. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, các doanh nghiệp nước ta thường quan tâm
đến yếu tố giá cả, chất lượng, mẫu mã nhiều hơn. Đây cũng là sai lầm dễ làm mất
khách hàng, mất thị trường.
4.2.3. Thiết lập kênh phân phối
Là vấn đề sống còn của doanh nghiệp khi tham gia hội nhập ngày càng sâu vào

quá trình phân công lao động quốc tế, trong đó có sự gia nhập WTO. Mục tiêu tiêu thụ
sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện thông qua các
kênh và hệ thống mạng lưới phân phối. Do vậy, để thiết lập kênh và mạng lưới phân
phối, doanh nghiệp cần sử dụng đồng bộ các biện pháp:
- Đẩy mạnh xúc tiến thương mại và quảng bá sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của
doanh nghiệp trên thương trương quốc tế cũng như các nước thành viên
WTO;
- Tiếp cận với các quy chế đăng ký bảo hộ tài sản quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt
là thương hiệu, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý để sản phẩm hang hóa, dịch vụ của doanh
nghiệp được bảo hộ theo đúng chuẩn mực pháp lý;
- Quan tâm đúng mức việc khai thác nguồn lực của người Việt Nam ở nước
ngoài trong việc thiết lập hệ thống mạng lưới phân phối.
- Quan tâm mở rộng, đầu tư, nâng cấp hệ thống phân phối trong nước, tạo
được thị trường nội địa vững chắc.

IV. KẾT LUẬN
Hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới mang lại
cho Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nhiều
cơ hội nhưng cũng làm nảy sinh không ít khó khăn, thách thức. Tận dụng cơ hội
và sử dụng các biện pháp linh hoạt, sáng tạo và thực tiễn để thực hiện các giải
pháp vĩ mô và vi mô, chính vì vậy sẽ là phương tiện hữu hiệu đảm bảo cho Việt
Nam thành công trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội trong môi trường
toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

×