Tải bản đầy đủ (.pdf) (328 trang)

Nghiên cứu, sắp xếp lại hệ thống các tổ chức nghiên cứu và đào tạo về khoa học xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.49 MB, 328 trang )

BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
VIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
ĐỀ ÁN 928/NHIỆM VỤ KHUNG SỐ 3




BÁO CÁO TỔNG HỢP
NGHIÊN CỨU, SẮP XẾP LẠI HỆ THỐNG CÁC TỔ CHỨC
NGHIÊN CỨU VÀ ĐÀO TẠO VỀ KHOA HỌC XÃ HỘI


Chủ nhiệm Nhiệm vụ: TS. Nguyễn Quân
Cơ quan chủ trì thực hiện: Viện Chiến lược và Chính sách
Khoa học và Công nghệ






9149


Hà Nội, tháng 12 năm 2011


2
DANH SÁCH CÁN BỘ THAM GIA THỰC HIỆN
Chủ nhiệm Nhiệm vụ: TS. Nguyễn Quân (Bộ Khoa học và Công nghệ)
Thư ký Nhiệm vụ: TS. Bạch Tân Sinh (Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN)


1. PGS. TS. Vũ Hoàng Công (Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh)
2. TS. Nguyễn Anh Dũng (Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam)
3. TS. Trần Xuân Định (Bộ Khoa học và Công nghệ)
4. CVCC. Phạm Văn Định (Ban Tổ chức Trung ương)
5. TS. Hồ Ngọc Luật (Bộ Khoa học và Công nghệ)
6. TS. Mai Hà (Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ)
7. Ths. Nguyễn Thị Minh Hạnh (Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ)
8. Ths. Trịnh Thị Anh Hoa (Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam)
9. TS. Nguyễn Văn Học (Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ)
10. TS. Lê Huy Hoàng (Viện Khoa học Xã hội Việt Nam)
11. CN. Võ Diệu Huyền (Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ)
12. Ths. Vũ Hải Nam (Bộ Nội vụ)
13. TS. Trần Hậu Ngọc (Bộ Khoa học và Công nghệ)
14. TS. Vũ Văn Thái (Bộ Nội vụ)
15. TS. Trần Anh Tuấn (Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước)
16. Ths. Trần Văn Tùng (Bộ Khoa học và Công nghệ)
17. PGS. TS. Lê Kim Việt (Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh)








3
CÁC TỪ VIẾT TẮT

KHXH Khoa học xã hội
KH&CN Khoa học và Công nghệ

NC&ĐT Nghiên cứu và đào tạo
NC&PT Nghiên cứu và phát triển
KT - XH Kinh tế - xã hội
CT - XH Chính trị - xã hội
XHCN Xã hội chủ nghĩa
CNXH Chủ nghĩa xã hội
UBND Ủy ban nhân dân


4
MỤC LỤC

Số TT Nội dung Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1 Sự cần thiết của Nhiệm vụ nghiên cứu 6
2 Mục tiêu nghiên cứu 9
3 Tiếp cận nghiên cứu 10
4 Cấu trúc Báo cáo tổng hợp 13

Chương 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG VIỆC HÌNH THÀNH VÀ
PHÁT TRIỂN CÁC TỔ CHỨC NC&ĐT VỀ KHXH

I MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN 14
1 Khoa học xã hội 14
2 Nghiên cứu khoa học xã hội 16
3 Đặc điểm của lao động nghiên cứu khoa học 22
4 Tổ chức nghiên cứu khoa học xã hội 27
5 Tổ chức đào tạo khoa học xã hội 27
II PHÂN ĐỊNH LẠI CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC NC&ĐT VỀ KHXH

THỜI GIAN TỚI
23
1 Mục tiêu, yêu cầu đối với phân định chức năng, nhiệm vụ 28
2 Một số yêu tố cơ bản khi thực hiện phân định chức năng, nhiệm vụ của tổ chức 28
3 Định hướng phân định chức năng, nhiệm vụ theo từng hệ thống 30
III PHỐI HỢP TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC NC&ĐT TRONG LĨNH
VỰC KHXH

1 Một số yêu cầu trong công tác phối hợp 31
2 Cách thức thực hiện phối hợp 31
3 Nội dung công tác phối hợp 32
4 Trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước 33
5 Trách nhiệm của các tổ chức NC&ĐT về KHXH 38
IV LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG TỔ CHỨC NC&ĐT VỀ KHXH
CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI

4.1 Lịch sử hình thành và phát triển hệ thống tổ chức NC&ĐT về KHXH của Hoa Kỳ 40
4.2
Lịch sử hình thành và phát triển hệ thống tổ chức NC&ĐT về KHXH của Vương quốc Anh
43
4.3
Lịch sử hình thành và phát triển hệ thống tổ chức NC&ĐT về KHXH của Nga
46
4.4
Lịch sử hình thành và phát triển hệ thống tổ chức NC&ĐT về KHXH của Trung Quốc
54
V KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 60
Chương 2.
HIỆN TRẠNG CỦA HỆ THỐNG CÁC TỔ CHỨC NC&ĐT VỀ KHXH Ở VIỆT NAM


A HIỆN TRẠNG HỆ THỐNG CÁC TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU VỀ KHXH Ở VIỆT NAM 63
I HIỆN TRẠNG TỔ CHỨC NC&PT KHXH QUỐC GIA
63
II HIỆN TRẠNG TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU VỀ KHXH THUỘC BỘ NGÀNH QUẢN LÝ
76
III HIỆN TRẠNG TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU VỀ KHXH DO ĐỊA PHƯƠNG QUẢN LÝ
88
IV HIỆN TRẠNG TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU VỀ KHXH THUỘC CÁC BAN CỦA ĐẢNG QUẢN LÝ
100
V HIỆN TRẠNG TỔ CHỨC NC&ĐT VỀ KHXH THUỘC CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
QUẢN LÝ
112
VI HIỆN TRẠNG TỔ CHỨC NC&ĐT VỀ KHXH THUỘC LIÊN HIỆP HỘI QUẢN LÝ 119
VII ĐÁNH GIÁ TỔ CHỨC HỆ THỐNG NGHIÊN CỨU VỀ KHXH Ở VIỆT NAM
1 Những mặt được 126
2 Những mặt chưa được 130
3 Khuyến nghị đổi mới tổ chức hệ thống nghiên cứu về KHXH ở Việt Nam 134
B HIỆN TRẠNG CỦA HỆ THỐNG CÁC TỔ CHỨC ĐÀO TẠO VỀ KHXH Ở VIỆT NAM



5
I LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG CÁC TRƯỜNG ĐÀO TẠO VỀ KHXH
139
II HIỆN TRẠNG TỔ CHỨC ĐÀO TẠO VỀ KHXH THUỘC BỘ, NGÀNH QUẢN LÝ
157
III HIỆN TRẠNG TỔ CHỨC ĐÀO TẠO VỀ KHXH THUỘC CÁC BAN CỦA ĐẢNG QUẢN LÝ
164
IV HIỆN TRẠNG TỔ CHỨC ĐÀO TẠO VỀ KHXH DO ĐỊA PHƯƠNG QUẢN LÝ
176

V ĐÁNH GIÁ TỔ CHỨC HỆ THỐNG ĐÀO TẠO VỀ KHXH Ở VIỆT NAM

1 Những mặt được 189
2 Những mặt chưa được 191
3 Khuyến nghị đổi mới tổ chức hệ thống đào tạo về KHXH ở Việt Nam 197
VI KẾT LUẬN CỦA CHƯƠNG 2 201
Chương 3
GIẢI PHÁP SẮP XẾP LẠI HỆ THỐNG CÁC TỔ CHỨC NC&ĐT VỀ KHXH

1
Sự cần thiết sắp xếp
204
2
Nguyên tắc sắp xếp
204
3
Yêu cầu sắp xếp
204
4 Quan điểm sắp xếp 206
5 Tiêu chí sắp xếp 208
6 Một số phương án sắp xếp 208

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
212

CÁC PHỤ LỤC
215




6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của Nhiệm vụ nghiên cứu
Thực tiễn phát triển KT - XH của nhiều quốc gia trên thế giới trong những năm qua cho
thấy KHXH đóng một vai trò quan trọng không chỉ trong việc đáp ứng các nhu cầu về đời sống
tinh thần của người dân, mà còn trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo quốc phòng và
an ninh quốc gia thông qua việc cung cấ
p các luận cứ khoa học cho các quyết sách của Nhà nước
nhằm đạt đến sự phát triển bền vững. Ở những quốc gia có nền KHXH phát triển đồng thời cũng
là những quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Một nền KHXH phát triển sẽ giúp phát triển
nhân cách, năng lực của con người, tìm ra các cơ chế khuyến khích nhân tài cũng như tìm ra
những cơ chế đảm bảo sự hòa h
ợp về lợi ích giữa các giai tầng trong xã hội. Tuy nhiên, để có một
nền KHXH tiên tiến Nhà nước cần phải có các chính sách và cơ chế quản lý phù hợp với đặc
điểm về hoạt động của các tổ chức NC&ĐT về KHXH nhằm khuyến khích sự tự do sáng tạo.
Tại Việt Nam trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã dành cho hoạt động nghiên
cứu KHXH những sự quan tâm đáng kể. Tuy nhiên, trong cơ ch
ế và chính sách quản lý hoạt động
nghiên cứu KHXH hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều bất cập như thiếu những biện pháp chính sách
đảm bảo cho các nhà khoa học có thể đóng góp một cách tốt nhất vai trò phản biện xã hội, còn
thiếu vắng các cơ chế khuyến khích người tài, thúc đẩy sáng tạo trong nghiên cứu, nên chất lượng
các công trình nghiên cứu còn chưa cao. Chính vì vậy, việc đổi mới cơ chế và chính sách quản lý
hoạt động NC&ĐT về KHXH nhằm phát huy được vai trò cung cấp luận cứ cho các quyết sách
phát triển xã hội và phản biện xã hội có ý nghĩa rất thiết thực.
Đại hội lần thứ VI của Đảng đã xác định KH&CN là một động lực mạnh mẽ của sự
nghiệp đổi mới, góp phần ổn định và phát triển KT - XH, đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và phát triển nền kinh tế tri thứ
c theo định hướng XHCN. Từ đó đến nay, Đảng và
Nhà nước đã tiếp tục ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị và chính sách liên quan đến KH&CN.
Trong đó có đề cập đến những giải pháp nhằm phát triển KH&CN, như việc ban hành các văn

bản pháp luật, tạo lập thị trường công nghệ, khuyến khích thành lập các tổ chức KH&CN ngoài
khu vực nhà nước, phát huy vai trò của các hội trí thức, Nhờ đó, hoạt động KH&CN nói chung
và KHXH nói riêng tiế
p tục được phát triển, ngày càng gắn bó với KT - XH và đào tạo nhân lực,
góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. KHXH ở nước ta đã và đang tập
trung nghiên cứu những vấn đề quan trọng, cơ bản của đất nước như:
(1) Xu hướng phát triển của khu vực và thế giới, những tác động của quá trình toàn cầu
hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; s
ự phát triển KH&CN, nền kinh tế tri thức và ảnh hưởng của


7
chúng đến sự phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Nghiên cứu, điều tra,
phân tích và dự báo tình hình KT - XH phục vụ nhu cầu phát triển đất nước, phát triển ngành,
vùng kinh tế trọng điểm của đất nước.
(2) Những vấn đề về dân tộc, tôn giáo, lịch sử, văn hoá, quân sự, ngoại giao nhằm phát
huy sức mạnh toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
(3) Những vấn đề về phát triển toàn diện con người Việt Nam mang đậm tính nhân văn,
phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
(4) Những vấn đề về đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị; nâng cao năng lực cầm
quyền và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam; từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam; góp ý và phản biện các
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, chương trình và dự án phát triển KT - XH quan trọng
của đất nước.
Hệ thống nghiên cứu, giảng dạy ở các tổ chức nghiên cứu thuộc Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam, các trường đại học về KHXH, các viện nghiên cứu thuộc các bộ, ngành và địa phương
đã và đang đảm nhiệm những chương trình, đề tài nghiên cứu quan trọng cùng với các tổ chức, cá
nhân khác ngoài nhà nước có nhiều đóng góp phong phú, sâu sắc và đa dạng vào các hoạt động
KHXH.

Hệ thống quản lý KH&CN nói chung cũng như quản lý KHXH nói riêng được hình thành
từ trung ương đến địa phương bước đầu đã phát huy tích cực trong việc định hướng, điều phối
các hoạt động khoa học trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, KH&CN nước ta còn phát triển chậm,
chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có, chưa đáp ứng được những yêu cầu phát triển trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, còn thua kém nhiều nước trong khu vực. Một trong những yếu
kém mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (số 02-
NQ/HNTW ngày 24-12-1996) đã chỉ ra là ''Hệ thống tổ chức các cơ quan nghiên cứu và triển
khai tuy đ
ã được sắp xếp một bước, nhưng vẫn còn trùng lắp, chưa đồng bộ, thiếu sự phối hợp
chặt chẽ giữa nghiên cứu, giảng dạy với thực tiễn sản xuất kinh doanh và với quốc phòng - an
ninh; giữa các ngành khoa học, giữa khoa học tự nhiên và công nghệ với khoa học xã hội và
nhân văn. Tinh thần hợp tác giữa các nhà khoa học, giữa các cơ quan nghiên cứu khoa học còn
yếu.''
Để thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII thì
cùng với việc tiếp tục nghiên cứu sắp xếp lại hệ thống các tổ chức NC&ĐT về KH&CN nói
chung, việc nghiên cứu sắp xếp lại hệ thống các tổ chức NC&ĐT về KHXH nói riêng là một đòi


8
hỏi cấp bách và cần thiết trong thời kỳ hiện nay, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
KHXH đã và đang góp phần quan trọng trong việc cung cấp những luận cứ khoa học trong
hoạch định đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng XHCN, trước hết là đổi mới tư
duy lý luận trên tất cả các lĩnh vực c
ơ bản của sự phát triển, đặc biệt là đổi mới tư duy kinh tế,
đồng thời trực tiếp đề xuất, kiến nghị và tham gia xây dựng nhiều chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước. Cùng với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, chất lượng nghiên cứu KHXH
đã được nâng cao thêm một bước. Nhiều tri thức KHXH hiện đại được vận dụng vào công tác
quản lý KT - XH cũng như các lĩnh vực khác của quản lý xã hội, hạn chế đáng kể lối tư duy siêu
hình, duy ý chí, góp phần mở rộng tầm nhìn, giáo dục lòng yêu nước, đạo đức, lối sống của người

Việt Nam.
Bên cạnh thành tựu nêu trên, hoạt động NC&ĐT về KHXH còn một số hạn chế cần khắc
phục
1
, cụ thể: (1) Công tác tổ chức và triển khai nghiên cứu KHXH chưa thực sự khoa học và có
hiệu quả. Sự phân công, phân nhiệm giữa các tổ chức NC&ĐT thuộc các ban của Đảng và Nhà
nước chưa thật rõ ràng, vẫn còn tình trạng chồng chéo trong nghiên cứu giữa các tổ chức. Thêm
vào đó, sự phối hợp trong nghiên cứu giữa các tổ chức đó còn mang nặng tính hình thức. Cơ chế
tổ chức hoạt động nghiên cứu, đánh giá kết quả và cấp phát tài chính cho khoa học dù đã được
cải tiến, song vẫn còn nhiều điểm chưa hợp lý, chưa hiệu quả. Cơ sở vật chất - kỹ thuật, điều kiện
làm việc ở nhiều tổ chức NC&ĐT về KHXH còn yếu kém. Hệ thống thông tin - thư viện lạc hậu,
thiếu hụt, ngay cả khi so sánh với một số quốc gia trong khu vực.
(2) Chưa có cơ chế hữu hiệu gắn kết hoạt động NC&ĐTvề KHXH với thực tiễn sống
động của đời sống KT - XH, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh. Sự hội nhập của
NC&ĐT về KHXH trong nước với thế giới bên ngoài còn rất hạn chế.
(3) Đội ngũ những người làm công tác KHXH còn thiếu, đặc biệt là thiếu các chuyên gia
đầu ngành, thiếu các nhà khoa h
ọc có uy tín cả ở trong nước lẫn ở nước ngoài. Cơ chế tuyển dụng
và sử dụng người có năng lực còn nhiều hạn chế. Trình độ cán bộ không đồng đều, chưa theo kịp
và đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn. Cơ chế khuyến khích người có tài trong KHXH còn chưa
hợp lý.

1
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2010), Đề án Xây dựng Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt
Nam giai đoạn 2011 - 2020 (phần Khoa học xã hội)


9
Hệ quả là nghiên cứu KHXH chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của thực tiễn do
nghiên cứu ứng dụng chưa dựa trên một nền tảng nghiên cứu cơ bản vững chắc. Trình độ nghiên

cứu tổng hợp, liên ngành còn thấp.
Trong bối cảnh hiện nay, khi mà Nhà nước không có khả năng cấp kinh phí cho mọi tổ
chức NC&ĐT về KHXH, nên chăng chỉ tập trung phần kinh phí này cho một số tổ chức được
thành lập để thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước. Bên cạnh đó, những nhiệm vụ về KHXH hình
thành do nhu cầu của thị trường, của xã hội có thể được giải quyết trên cơ sở các nguồn vốn
ngoài ngân sách. Với loại nhiệm vụ này, Nhà nước sẽ cần có chính sách và cơ chế để các tổ chức
NC&ĐT về KHXH tự vận
động trên cơ sở phát huy cao nhất tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Đây là lý do hình thành Nhiệm vụ nghiên cứu khung số 3 "Nghiên cứu, sắp xếp lại hệ thống các
tổ chức nghiên cứu và đào tạo về khoa học xã hội" thuộc Chương trình trọng điểm cấp Nhà
nước về "Nghiên cứu khoa học xã hội, tổng kết thực tiễn, xây dựng luận cứ khoa học cho các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa" (Viết tắt là Đề án 928/06-10).
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Xây dựng cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn cho việc sắp xếp lại hệ thống các tổ chức
NC&ĐT về KHXH
2.2. Mục tiêu cụ thể
• Làm rõ các đặc trưng của KHXH và hoạt động nghiên cứu, đào tạo về KHXH từ đó
xác định những yêu cầu đối với việc tổ chức và sắp xếp lại hệ thống các tổ chức
NC&ĐT về KHXH;
• Trên cơ sở khảo sát, đánh giá thực trạng tổ chức hoạt động NC&ĐT về KHXH trong
những năm qua tại các cơ sở NC&ĐT về KHXH ở Việt Nam, xác định những ưu
điểm, nhược điểm, những yêu cầu đặt ra (về mặt thực tiễn) đối với quá trình tổ chức
và triển khai các hoạt động này.
• Tổng kết các bài học kinh nghiệm rút ra từ hoạt động xây dựng (sắp xếp lại) hệ thống
tổ chức NC&ĐT về KHXH ở một số quốc gia rút ra bài học kinh nghiệm gợi suy cho
Việt Nam.
• Đề xuất một số quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc, phương án và lộ trình cho việc sắp



10
xếp lại hệ thống các tổ chức NC&ĐT về KHXH ở Việt Nam.
3. Tiếp cận nghiên cứu
3.1. Tổng quan hiện trạng tổ chức và hoạt động NC&ĐT về KHXH trong các trường đại học,
học viện, viện nghiên cứu theo các mặt cắt sau:
• Hệ thống các tổ chức NC&ĐT về KHXH do Nhà nước quản lý
• Hệ thống các tổ chức NC&ĐT về KHXH thuộc các cơ quan Đảng quản lý
• Hệ thống các tổ chức NC&ĐT về KHXH thuộc các hội, liên hiệp hội, các tổ chức đoàn
thể quản lý
• Hệ thống các tổ chức NC&ĐT về KHXH do tư nhân thành lập
• Hệ thống các tổ chức NC&ĐT về KHXH do trung ương quản lý
• Hệ thống các tổ chức NC&ĐT về KHXH do địa phương qu
ản lý
• Hệ thống các tổ chức NC&ĐT về KHXH trong các trường đại học
• Hệ thống các tổ chức NC&ĐT về KHXH trong các học viện, viện nghiên cứu
• Hệ thống các tổ chức NC&ĐT về KHXH đơn ngành
• Hệ thống các tổ chức NC&ĐT về KHXH đa ngành
Yêu cầu đặt ra đối với hoạt động nghiên cứu này là dựng được một bức tranh "toàn cảnh"
về hệ thống các tổ chức NC&ĐT về KHXH của Việt Nam hiện nay.
3.2. Nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia được lựa chọn về quá trình hình thành và
phát triển các tổ chức NC&ĐT về KHXH
Một số quốc gia được nhóm nghiên cứu lựa chọn gồm:
• Mỹ và Anh: là những quốc gia có nền KHXH phát triển lâu đời với những đóng góp
to lớn cho phát triển KT - XH không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn có ảnh hưởng
ở phạm vi toàn cầu
• Nga là quốc gia có nền KHXH ảnh hưởng sâu sắc đến mô hình tổ chức và hoạt động
NC&ĐT KH&CN nói chung cũng như KHXH nói riêng ở Việt Nam trong một thời
gian dài
• Trung Quốc là quốc gia có bối cảnh phát triển kinh tế - chính trị - xã hội tương đồng



11
với Việt Nam và hiện đang có triển vọng trở thành cường quốc kinh tế của thế giới
Trong quá trình thực hiện Đề tài, nhóm nghiên cứu đã tổ chức Đoàn khảo sát kinh nghiệm
tổ chức và hoạt động KHXH ở Cộng hòa dân chủ Đức và Hà Lan. Báo cáo của đoàn khảo sát
cũng đã được xử lý và đưa vào phần phụ lục của Đề tài.
Yêu cầu của phần nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế trong khuôn khổ Đề tài là nhằm làm rõ
một số nội dung cơ bản sau:
• Vai trò của KHXH trong phát triển của quốc gia
• Quá trình hình thành và phát triển hệ thống tổ chức NC&ĐT về KHXH của quốc gia
• Mức độ đảm bảo tính dân chủ, tự do trong nghiên cứu và công bố kết quả nghiên cứu
về KHXH
• Một số định hướng ưu tiên trong lĩnh v
ực KHXH của quốc gia
3.3. Khảo sát thực tế tổ chức và hoạt động nghiên cứu và triển khai về KHXH tại một số tổ
chức NC&ĐT về KHXH mang tính đại diện
Trong quá trình thực hiện Đề tài, nhóm nghiên cứu đã tổ chức Đoàn khảo sát tới trao đổi
trực tiếp với 30 học viện, viện nghiên cứu, trường đại học trong lĩnh vực KHXH ở cả 3 miền
Bắc, Trung và Nam. Danh sách các học viện, viện nghiên cứu và trường đại học này xin được
xem ở phần Phụ lục của Báo cáo.
Để buổi trao đổi khoa học trực tiếp với đại diện các viện nghiên cứu và trường đại học đạt
hiệu quả, đối với nhóm 30 tổ chức NC&ĐT về KHXH, nhóm nghiên cứu đã xây dựng: Phiếu
điều tra năng lực và kết quả hoạt động của một số tổ chức nghiên cứu và đào tạo về
khoa học xã hội (Xem phần Phụ lục). Phiếu này đã được chuyển tới các viện và trường 2
tuần trước khi tiến hành buổi tọa đàm trực tiếp. Mục đích buổi trao đổi nhằm tìm hiểu:
• Vai trò, vị trí của Tổ chức trong hệ thống NC&ĐT về KHXH của quốc gia
• Những thuận lợi, khó khăn và thách thức trong quá trình thực hiện chức năng và
nhiệm vụ NC&ĐT của Tổ chức
• Đặc điểm về nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, các nguồn lực khác phục vụ cho hoạt

động NC&ĐT của Tổ chức
• Đặc thù trong kết hợp hoạt động NC&ĐT về KHXH trong Tổ chức
• Mối liên hệ với các tổ chức NC&ĐT về KHXH trong cùng hệ thống và khác hệ thống


12
(tổ chức thuộc các Ban của Đảng quản lý, các tổ chức NC&ĐT tư nhân)
• Những thuận lợi khó khăn từ chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước trong quá trình
hoạt động của Tổ chức
• Những đề xuất (khuyến nghị) của Tổ chức về chính sách quản lý của Nhà nước đối
với hoạt động NC&ĐT về KHXH
• Dự báo xu th
ế phát triển một số mô hình tổ chức NC&ĐT về KHXH trong tương lai
Bên cạnh các cuộc trao đổi trực tiếp được tổ chức tại trụ sở các học viện, viện nghiên cứu
và trường đại học thuộc đối tượng khảo sát của Nhiệm vụ nghiên cứu, đối với cá nhân các
nhà quản lý, các nhà nghiên cứu, các giảng viên hoạt động trong lĩnh vực KHXH, nhóm
nghiên cứu đã xây dựng Phiếu xin ý kiến chuyên gia về tổ chức và hoạt động, một số
phương án sắp xếp các tổ chức nghiên cứu và đào tạo về khoa học xã hội (Xem phần Phụ
lục). Phiếu này được nhóm nghiên cứu gửi trực tiếp tới các đối tượng nêu trên tại 2 buổi hội
thảo vùng được tổ chức tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Mục đích của hoạt động này nhằm tìm hiểu ý kiến cá nhân của các nhà quản lý, nhà
nghiên cứu, giảng viên về các vấn đề sau:
• Số lượng các tổ chức NC&ĐT về KHXH ở Việt Nam hiện nay
• Nhận định về năng lực tổ chức các hoạt động NC&ĐT
• Khả năng đáp ứng nhu cầu của thực tiễn phát triển KT - XH
• Chế độ cấp phát kinh phí
• Một số ph
ương án sắp xếp hệ thống tổ chức NC&ĐT về KHXH thời gian tới.
Danh sách các nhà khoa học, nhà quản lý, các giảng viên tham gia vào cuộc khảo sát nêu
trên được nêu trong phần Phụ lục của Báo cáo tổng hợp.

3.4. Tổ chức các buổi tọa đàm, hội thảo khoa học xin ý kiến chuyên gia
Trong khuôn khổ hoạt động của Nhiệm vụ nghiên cứu, ngoài 30 buổi tọa đàm trao đổi
trực tiếp với các học viện, các vi
ện nghiên cứu, trường đại học thuộc đối tượng khảo sát của
Nhiệm vụ. Nhóm nghiên cứu cũng đã tổ chức 02 hội thảo vùng tại Hà Nội (ngày 22/7/2010)
và thành phố Hồ Chí Minh (ngày 12/08/2010) với đại diện là các nhà khoa học, các nhà quản
lý, các giảng viên trong lĩnh vực KHXH.
Bên cạnh đó còn có hàng chục buổi thảo luận nhóm chuyên gia theo từng chủ đề nghiên


13
cứu hẹp đã được tổ chức trong thời gian 2 năm thực hiện Nhiệm vụ nghiên cứu này.
4. Cấu trúc của Báo cáo tổng hợp
Nội dung Báo cáo tổng hợp của Nhiệm vụ nghiên cứu bao gồm các phần sau:
Phần mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế trong việc hình thành và phát triển các tổ
chức NC&ĐT về KHXH
Chương 2. Hiện tr
ạng của hệ thống các tổ chức NC&ĐT về KHXH ở Việt Nam
Chương 3. Giải pháp sắp xếp lại hệ thống các tổ chức NC&ĐT về KHXH ở Việt Nam
Danh mục tài liệu tham khảo và Các phụ lục
























14
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG VIỆC
HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC TỔ CHỨC NC&ĐT VỀ KHXH
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
Để nhận dạng được thế nào là một tổ chức đào tạo về KHXH hay tổ chức nghiên cứu về
KHXH, trước hết cần thống nhất một số khái niệm đó là KHXH là gì, nghiên cứu về KHXH nên
hiểu như thế nào cho đúng nghĩa, liệu có thể phân chia các giai đoạn trong nghiên cứu KHXH
như trong nghiên cứu khoa học tự nhiên hay khoa học công nghệ không?. Lĩnh vực KHXH là
một lĩnh vực còn khá mới
đối với Việt Nam. Các khái niệm liên quan đến KHXH chưa thực sự
phổ cập, dẫn đến mỗi người hiểu mỗi cách khác nhau, vì vậy việc hiểu thống nhất các khái niệm
nêu trên là việc cần thiết.
1. Khoa học xã hội
Trong một thời gian dài nói đến "khoa học" là người ta lập tức đồng nhất nó với khoa học
tự nhiên. Trường Đại học Khoa học Tự nhiên ở Sài Gòn trước năm 1975 ch

ỉ gọi đơn giản là
"Trường Đại học Khoa học". Vào đầu thế kỷ 20, trong các trường đại học phương Tây, KHXH
còn chiếm một vị trí cực kỳ khiêm tốn. Chúng chỉ được thừa nhận và khẳng định rộng rãi trong
hơn một nửa sau của thế kỷ 20, song về tính "khoa học" thì có thể nói là thường luôn bị xem là
thua kém so với khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ. Theo A. Kazancigil &D.Makinson
"Trong tâm trí đa số công chúng, thuật ngữ khoa học thường gắn liền với các khoa học về tự
nhiên. Từ đó, nảy sinh nhiều câu hỏi lặp đi lặp lại về ý nghĩa của KHXH và muốn biết rõ phải
chăng các nhà KHXH cũng có thể chiếm một vị trí khoa học"
2
.
Để so sánh với khoa học tự nhiên, có thể thấy KHXH có 5 đặc trưng sau:
Bảng số 1. Các đặc trưng của KHXH trong so sánh với khoa học tự nhiên và công nghệ
3

Tiêu chí Khoa học tự nhiên và
công nghệ
KHXH
1. Khả năng xác định đối tượng
nghiên cứu
Tính xác định Tính phiếm định
2. Khả năng tiếp cận đối tượng Tính toàn vẹn Tính tủn mủn

2
PGS.TS. Trần Ngọc Thêm (2007), Nghiên cứu cơ bản trong Khoa học xã hội và nhân văn (trường hợp Việt
Nam), Báo cáo trình bầy tại Hội thảo bàn về Nghiên cứu cơ bản trong Khoa học xã hội và Nhân văn do hai Đại học
Quốc gia tổ chức vào tháng 6/2007
3
PGS.TS. Trần Ngọc Thêm (2007), Sđd




15
nghiên cứu
3. Quan hệ ngoài của đối tượng và
khoa học
Tính độc lập và phân
ngành
Tính lệ thuộc và liên ngành
4. Nội dung nghiên cứu Tính phổ quát Tính đặc thù
5. Phạm vi sử dụng nghiên cứu Tính chuyên sâu Tính phổ biến

Hoạt động nghiên cứu trong lĩnh vực KHXH, trong khuôn khổ nghiên cứu này, được hiểu
là những hoạt động có tính hệ thống và sáng tạo nhằm nâng cao và bổ sung những tri thức mới về
con người, văn hoá và xã hội và nhằm sử dụng những tri thức này để giải quyết các vấn đề xã hội
và con người.
Các ngành thuộc lĩnh vực KHXH, bao gồm: Nhân chủng học (xã hội và văn hoá) và dân
tộc học, dân số học, kinh tế học, giáo dục và đào tạo, địa lý học (con người, kinh tế và xã hội),
luật, ngôn ngữ học (loại trừ nghiên cứu về ngôn ngữ dựa trên các nguyên bản sẵn có, công tác
này có thể xếp vào nhóm dưới đây “người cổ đại, ngôn ngữ và văn học hiện đại”), quản lý học,
khoa học chính trị, tâm lý học, xã hội học, tổ chức và phương pháp luận, KHXH đa ngành, các
hoạt động KH&CN về lịch sử và phương pháp luận liên quan đến các đề mục của nhóm này.
Nhân chủng học tự nhiên, địa lý học và sinh lý, tâm lý học tự nhiên phải được phân vào nhóm các
khoa học tự nhiên.
Các ngành thuộc lĩnh vực khoa học nhân văn, bao gồm: nghệ thuật (lịch sử nghệ thuật và
phê phán nghệ thuật, trừ nghiên cứu nghệ thuật), ngôn ngữ (người cổ đại và ngôn ngữ và văn học
hiện đại), triết học (kể cả lịch sử khoa học và công nghệ), tiền sử và lịch sử, khảo cổ học, khoa
học nghiên cứu về tiền đúc, chữ cổ, tôn giáo học,
Theo Quyết định số 12/2008/QĐ-BKHCN, ngày 4/9/2008 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và
Công nghệ về ban hành Bảng phân loại lĩnh vực nghiên cứu KH&CN, nghiên cứu khoa học xã
hội và nhân văn bao gồm các lĩnh vực sau:

Bảng 2. Phân loại lĩ
nh vực nghiên cứu KH&CN
1 501 Tâm lý học
2 502 Kinh tế và kinh doanh
3 503 Khoa học giáo dục
4 504 Xã hội học
5 505 Pháp luật
6 506 Khoa học chính trị


16
7 507 Địa lý kinh tế và xã hội
8 508 Thông tin đại chúng và truyền thông
9 599 Khoa học xã hội khác
10 601 Lịch sử và khảo cổ học
11 602 Ngôn ngữ học và văn học
12 603 Triết học, đạo đức học và tôn giáo
13 604 Nghệ thuật
14 699 Khoa học nhân văn khác.

Trong nghiên cứu này thuật ngữ KHXH được bao hàm cả khoa học xã hội và khoa học
nhân văn.
2. Nghiên cứu KHXH
Các hoạt động KH&CN phân theo tính chất, có thể chia làm 3 nhóm chính:
• Nhóm 1: Công tác nghiên cứu khoa học và triển khai thực nghiệm
• Nhóm 2: Công tác giáo dục và đào tạo từ bậc thứ 3 (theo phân loại ngành giáo dục quốc tế)
• Nhóm 3: Các dịch vụ khoa học và công nghệ.
2.1. Nghiên cứu khoa học và triển khai thực nghiệm
Hoạt động nghiên cứu khoa học và triển khai thực nghiệm (gọi tắt là hoạt động NC&TK)
là những hoạt động có tính hệ thống và sáng tạo nhằm nâng cao tri thức khoa học, kể cả những tri

thức về con người, văn hoá và xã hội và áp dụng những tri thức này vào đời sống thực tế.
Định nghĩa này chỉ rõ phần tử chủ yếu trong việc xác định phạm trù NC&TK là sự có mặt
của tính sáng tạo và đổi mới. Tính chất chung này là đúng cho cả nghiên cứu khoa học và triển
khai thực nghiệm. Để phân biệt khái niệm nghiên cứu khoa học với khái niệm triển khai thực
nghiệm, người ta đưa ra 4 tiêu chí để phân biệt, đó là:
(1) Tính sáng tạo
(2) Tính mới
(3) Tính có phương pháp khoa học
(4) Tạo ra tri thức mới.
Nếu một hoạt động hội đủ cả 4 chỉ tiêu trên có thể gọi là hoạt động nghiên cứu khoa
học. Để nhận rõ hơn vấn đề này, có thể xem xét ví dụ là công việc vẽ một bức tranh. Công việc
này có (1) tính sáng tạo, do tạo ra được bức tranh mới (2). Nhưng hoạt động này không phải là
nghiên cứu khoa học, vì nó không dẫn đến việc (4) tạo thêm tri thức mới và cũng không sử dụng,
không tiếp cận các phương pháp khoa học để hoàn thành hoạt động “vẽ tranh” (3).


17
Hoạt động nghiên cứu khoa học và triển khai thực nghiệm bao gồm hai loại hoạt động
chính là “hoạt động nghiên cứu khoa học” (trong đó có nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng
dụng) và “hoạt động triển khai thực nghiệm”.
a) Hoạt động nghiên cứu khoa học
Là những hoạt động nghiên cứu có tính hệ thống và sáng tạo nhằm nâng cao tri thức khoa
học và áp dụng những tri thức này vào đời sống th
ực tế.
Đây là một định nghĩa rất tổng quát, tôn trọng triệt để bản chất tự nhiên của các lĩnh vực
khoa học và tương xứng với hai định nghĩa bổ sung:
• Hoạt động nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa
học nông nghiệp và khoa học y dược là những hoạt động có tính hệ thống và sáng tạo nhằm
giải thích các hiện tượng, các đặc tính tự nhiên, các định luật và các quan hệ bên trong cuả
các hiện tượng này và nhằm áp dụng những tri thức này vào đời sống thực tế.

• Hoạt động nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực KHXH là những hoạt động có tính hệ thống
và sáng tạo nhằm nâng cao hoặc bổ sung những tri thức về con người, văn hoá - xã hội và
nhằm sử dụng những tri thức này để giải quyết các vấn đề về xã hội và con người.
Cần lưu ý rằng, hai định nghĩa trên có cùng một nội dung khái niệm: là điều tra nghiên
cứu khoa học nhằm hiểu được các hiện tượng và nhằm giải quyết các vấn đề. Sự khác nhau nằm
trong các phạm vi liên quan. Trong trường hợp thứ nhất, phạm vi là toàn bộ hình ảnh của các hiện
tượng tự nhiên. Trong khi trường hợp định nghĩa thứ hai được thiết kế để gắn các vấn đề có liên
quan đến con người và môi trường xã hội của họ.
Trong đa số các lĩnh vực khoa học, hoạt động nghiên cứu có thể phân ra thành nghiên cứu
cơ bản hay nghiên cứu ứng dụng:
• Nghiên cứu cơ bản: Là những hoạt động nghiên cứu lý thuyết hay thực nghiệm
nhằm mục đích thu được những tri thức mới, trước mắt không nhằm mục đích
ứng
dụng thực tế hoặc áp dụng cụ thể vào một lĩnh vực nào đó, về các quy luật cơ bản
của thế giới quanh ta và thực tế quan sát được. Nghiên cứu cơ bản được đặc trưng
bởi một mức độ tự do cao ở khía cạnh là nhà khoa học thường có thể tự chịu trách
nhiệm quyết định vấn đề nghiên cứu và tự tổ chứ
c lấy công việc nghiên cứu của
họ. Các kết quả của hoạt động này thường tác động vào diện rộng của khoa học và
có giá trị phổ biến; chúng thường có dạng nguyên lý chung, các học thuyết, quy
luật và có thể được công bố công khai.
• Nghiên cứu ứng dụng: Là những hoạt động nghiên cứu ban đầu nhằm đạt được
những tri thức mới. Nhưng những nghiên cứu này trước hết nhằm trực tiếp giải


18
quyết một mục tiêu hoặc một mục đích thực tế cụ thể. Đặc điểm quyết định cho
phép xác định nghiên cứu ứng dụng là hoạt động này có nhằm mục đích ứng dụng
riêng biệt, cụ thể hay không. Nếu quá trình thu được kiến thức mới có mục đích
ứng dụng cụ thể, nó là nghiên cứu ứng dụng, trong khi đó nếu việc nghiên cứ

u
không có sự ứng dụng đặc biệt, cụ thể thì nó được coi là nghiên cứu cơ bản.
Nghiên cứu ứng dụng được triển khai hoặc để phát triển các kết quả của nghiên
cứu cơ bản với quan điểm về áp dụng thực tế của chúng hoặc để xác định những
phương thức hay phương pháp mới nhằm đạt được một số mục đích thực tế riêng
biệt.
Có thể xem xét Bảng ví dụ dưới đây để phân biệt các giai đoạn trong một nghiên cứu
thuộc lĩnh vực KHXH.
Bảng 3: Bảng ví dụ của UNESCO để phân biệt nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng
và triển khai
4

Nghiên cứu cơ bản Nghiên cứu ứng dụng Triển khai
Nghiên cứu mối quan hệ nhân
quả giữa các điều kiện kinh tế
và tiến bộ xã hội
Nghiên cứu các nguyên nhân
kinh tế và xã hội của sự di dân
từ nông thôn ra thành phố,
nhằm xây dựng một chương
trình hạn chế di dân, để giúp
đỡ nông nghiệp và ngăn ngừa
xung đột xã hội trong các vùng
công nghiệp
Đưa vào và thử nghiệm một
chương trình tài trợ nhằm ngăn
chặn sự di dân từ nông thôn
đến các thành phố lớn
Khác với lĩnh vực khoa học tự nhiên hay khoa học công nghệ, việc xác định nội hàm
nghiên cứu cơ bản trong KHXH, cũng như ranh giới giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng

trong KHXH là vấn đề không đơn giản?
5
Trong một nghiên cứu của Dương Bá Phượng (2008)
6

đã khẳng định KHXH có 2 đặc thù: Một là, KHXH vừa bao hàm nghiên cứu cơ bản, vừa nghiên
cứu ứng dụng. KHXH nghiên cứu mối liên hệ phổ biến, phát triển của những mối quan hệ con
người trong đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội. Đích cuối cùng của hoạt động nghiên

4
Vũ Cao Đàm, Khoa học cơ bản và Nghiên cứu cơ bản, Tạp chí Hoạt động Khoa học số tháng 7/2007
5
Tháng 7 năm 2009, Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội đã tổ
chức một cuộc hội thảo với chủ đề "Nghiên cứu cơ bản trong khoa học xã hội và nhân văn", tại buổi hội thảo một số
ý kiến cho rằng hiện Việt Nam không có nghiên cứu cơ bản về KHXH theo đúng nghĩa của thuật ngữ này.
6
Dương Bá Phượng, Một số ý kiến về đánh giá hiệu quả khoa học xã hội, Tạp chí Khoa học xã hội (2008)


19
cứu KHXH là giúp cho con người và xã hội được phát triển một cách toàn diện, thích ứng với
mọi đổi thay của môi trường tự nhiên, xã hội và tư duy. Theo đó, KHXH nước ta có nhiệm vụ
nghiên cứu cơ bản, toàn diện về xã hội và con người Việt Nam, cung cấp luận cứ khoa học cho
việc hoạch định đường lối, chính sách xây dựng và phát triển đất nước, góp phần nâng cao trình
độ dân trí và phát triển nguồn nhân lực, thẩm
định các chương trình dự án phát triển KT- XH, xây
dựng và phát triển chính bản thân nền KHXH Việt Nam. Như vậy, KHXH vừa bao hàm cả
nghiên cứu cơ bản như lịch sử, văn học, triết học, kinh tế học, xã hội học, lẫn nghiên cứu ứng
dụng như điều tra, thẩm định, đánh giá các chương trình, dự án phát triển, Hai là, hoạt động
KHXH gắn rất chặt với hoạt động chính trị: Lợi ích của hoạt động KHXH gắn liền với lợi ích

chính trị và lợi ích giai cấp thông qua người sử dụng và mục đích sử dụng. KHXH có nhiệm vụ
cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách xây dựng và phát
triển đất nước, phục vụ trực tiếp những chủ trương, đường lối chính trị của Đảng. Các vấn đề lý
luận, lý thuyết, trong đó bao hàm các vấn đề lý luận chính trị cơ bản trực tiếp phục vụ quan điểm
chính trị, đường lối, chính sách của Đảng. Các vấn đề gắn với nhiệm vụ quản lý KT - XH, phục
vụ thực hiện chức năng của các ngành và các địa phương trong chỉ đạo và quản lý phát triển KT -
XH. Các tổng kết khoa học của từng lĩnh vực KHXH tạo nên những công trình khoa học có giá
trị. Nhiều nội dung nghiên cứu đó đều gắn chặt với yêu cầu chính trị và việc xác định phương
hướng, yêu cầu nghiên cứu cho các nội dung này cần được sự chỉ đạo chặt chẽ của Đảng.
Đồng tình với quan điểm trên đây, trong một nghiên cứu của tác giả Nguyễn Duy Quý
(2006) cho rằng: các công trình nghiên cứu KHXH đã cung cấp các luận cứ khoa học cho quá
trình soạn thảo và hoàn thiện đường lối, chiến lược phát triển KT - XH, xây dựng Đảng, xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân, vì dân, xây dựng hệ thống chính
trị, thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nói cách khác, KHXH đã cung cấp
những luận cứ khoa học nhằm đổi mới chính sách kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh quốc phòng
và cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội, bước đầu đã thu được những kết quả rất đáng khích
lệ. Những kết quả nghiên cứu của KHXH đã làm rõ các giá trị truyền thống, mối quan hệ truyền
thống - hiện đại trong sự lựa chọn mô hình phát triển, đồng thời huy động các giá trị văn hóa, văn
minh Việt Nam phục vụ sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, kiến nghị những giải pháp cơ
bản bảo đảm cho sự phát triển bền vững đất nước. Nhiều nghiên cứu về dân tộc, tôn giáo, quyền
con người, quan hệ quốc tế, … làm rõ chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước và góp phần
đấu tranh phê phán một cách sắc bén trước những âm mưu và hành động “diễn biến hòa bình”
của thế lực thù địch. Sự trưởng thành của KHXH nước ta trong 20 năm đổi mới là ở chỗ: chức


20
năng, nhiệm vụ của KHXH trong việc thuyết minh đường lối, chính sách được thực hiện ngày
càng tốt hơn. Bên cạnh đó, những hướng nghiên cứu nói chung và hệ thống các chương trình
KHXH các cấp nói riêng trong 20 năm qua chuyển hướng vào thực hiện chức năng nghiên cứu
cung cấp luận cứ khoa học để phục vụ cho công tác quản lý của Nhà nước nhằm hoạch định

đường lối, chính sách, đồng thời xây d
ựng và phát huy tiềm lực khoa học của nước nhà, chứ
không chỉ dừng lại ở việc thuyết minh đường lối chính sách như trước đây.
7
KHXH tất nhiên gắn
chặt với đời sống xã hội tức với chính trị, kinh tế, đạo đức, văn hóa nghệ thuật, … nên việc
nghiên cứu chịu những chi phối rõ ràng từ thể chế chính trị, ý thức hệ, quan điểm, chủ thuyết,
chính sách cụ thể mà thể chế đó phục vụ.
Nhằm khuyến khích và hỗ trợ các nghiên cứu cơ bản trong KHXH, ngày 4-12-2010, Quỹ
phát triển KH&CN Quốc gia (NAFOSTED) đã ra mắt các hội đồng khoa học tư vấn đánh giá, xét
chọn các đề tài nghiên cứu cơ bản trong KHXH&VN để tài trợ năm 2010
8
. Đây là lần đầu tiên
nghiên cứu cơ bản trong KHXH&NV được chính thức tài trợ thực hiện ở Việt Nam. Tính đến
tháng 8-2010, NAFOSTED nhận được 106 hồ sơ của các nhà nghiên cứu KHXH&NV trong cả
nước đề nghị tài trợ. Quỹ đã thành lập được 8 hội đồng khoa học tương ứng với 8 nhóm ngành
KHXH&NV. Qua đây, các nhà khoa học sẽ đóng góp vào việc hoạch định chính sách giúp đẩy
mạnh nghiên cứu khoa học cơ bản và đóng góp thiết thực cho phát triển đất nước. Nếu như năm
2009, NAFOSTED bắt đầu tài trợ cho nghiên cứu cơ bản trong khoa học tự nhiên thì việc đưa
nghiên cứu cơ bản trong KHXH&NV chính thức vào các hoạt động KH&CN là một dấu mốc
quan trọng đối với sự phát triển của KHXHNV nước ta trong năm 2010.
b) Hoạt động triển khai thực nghiệm:
Là những hoạt động nghiên cứu có tính hệ thống trên cơ
sở những tri thức đã có của công
tác nghiên cứu hoặc/và kinh nghiệm thực tế nhằm tạo ra các vật liệu mới, sản phẩm mới, linh
kiện mới, xây dựng các quy trình công nghệ mới, các giải pháp kỹ thuật mới và nhằm cải tiến
thường xuyên những sản phẩm, quy trình, giải pháp công nghệ đã có.
Tiêu chí để phân biệt triển khai thử nghiệm với nghiên cứu (cơ bản và ứng dụng) là: trong
nghiên cứu cơ bản và ứng dụng, mục tiêu trực tiếp là tăng kiến thức khoa học kỹ thuật, còn trong
triển khai thử nghiệm là nhằm giới thiệu những ứng dụng mới (ví dụ: các vật liệu mới hoặc công

nghệ mới).

7
GS.VS. Nguyễn Duy Quý (2006), Sđd
8
Danh mục các hướng nghiên cứu cơ bản trong khoa học xã hội và nhân văn được Quỹ phát triển KH&CN
quốc gia tài trợ năm 2010 được Ban hành kèm theo Quyết định 04/QĐ-HĐQLQ ngày 5/5/2010 của Hội đồng Quản
lý Quỹ phát triển KH&CN quốc gia


21
Vấn đề đặt ra ở đây là trong KHXH có loại hoạt động triển khai thực nghiệm không?
Trước hết về lý luận, phải khẳng định là cần thiết và có thể ứng dụng các đề tài KHXH vào thực
tiễn. Lấy ví dụ ở quy mô địa phương, KHXH không chỉ mang lại nhận thức mới, cung cấp luận
cứ khoa học cho các chủ trương chính sách phát triển mà còn cần thiết trong việc xây dựng các
mô hình, cung cấp nhiều giải pháp cụ thể cho việc giải quyết các yêu cầu của thực tiễn địa
phương.
Đối với các địa phương, một mặt cần cố gắng nâng cao chất lượng lý luận cho các đề tài
KHXH, nhưng mặt khác quan trọng hơn, phải coi tiêu chí ứng dụng thực tiễn là yêu cầu quan trọng
nhất; phải có một định hướng chỉ đạo xuyên suốt cả quá trình tổ chức nghiên cứu, từ việc lựa chọn đề
tài, vấn đề nghiên cứu; lựa chọn cá nhân chủ nhiệm và tổ chức chủ trì; xác định nội dung nghiên cứu;
tổ chức quá trình nghiên cứu, thực nghiệm; đánh giá nghiệm thu và triển khai ứng dụng…
9

2.2. Công tác giáo dục và đào tạo KH&CN chung ở bậc thứ 3
Công tác giáo dục và đào tạo KH&CN chung ở bậc thứ 3 (Theo phân loại chuẩn quốc tế
về giáo dục - ISCED (The International Standard Classification of Education, xem bảng dưới
đây), có thể định nghĩa là toàn bộ các hoạt động giáo dục và đào tạo chuyên môn bậc cao sau
trung học: giáo dục và đào tạo dẫn đến một văn bằng chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, đào tạo
sau đại học, đào tạo tại chức và các hình thức đào tạo lại, nâng cao trình độ ngắn hạn, dài hạn

cho các nhà khoa học và kỹ sư.
Bảng số 4: So sánh phân loại cấp, bậc học của ISCED:
Bậc Phân loại Gọi chung
0 Giáo dục trước bậc thứ I Trước tiểu học
I 1 Giáo dục ở bậc thứ I Tiểu học
II 2 Giáo dục ở bậc thứ II, cấp thứ nhất
3 Giáo dục ở bậc thứ II, cấp thứ hai Trung học
III 5 Giáo dục ở bậc thứ III, cấp thứ nhất, bằng cao đẳng, không
tương đường bằng đại học

6 Giáo dục ở bậc thứ III, cấp thứ nhất, bằng đại học và tương
đương
Sau trung học
7 Giáo dục ở bậc thứ III, cấp thứ hai, bằng sau đại học và
tương đương

9 Giáo dục không xác định cấp

9
Phạm Xuân Cần (2008), Tìm đường cho khoa học xã hội và nhân văn đi vào cuộc sống, Tạp chí Hoạt động
khoa học, số tháng 12, 2008


22
Công tác giáo dục và đào tạo hiện nay của Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ là một bộ phận (về
số lượng) của hoạt động giáo dục và đào tạo KH&CN. Ngoài hoạt động giáo dục và đào tạo
chính quy của Bộ Giáo dục và Đào tạo còn các hoạt động tương tự ở các cơ quan khác của các
Bộ, các đoàn thể, hiệp hội, các tổ chức không chuyên nghiệp c
ũng tiến hành nhằm mục đích nâng
cao tri thức khoa học của các thành viên trong cộng đồng. Các hoạt động này có thể mang lại kết

quả là được Nhà nước thừa nhận trình độ tương đương đại học, Những hoạt động này đều được
tính vào phạm trù giáo dục và đào tạo đại học và thống kê tiềm lực KH&CN có trách nhiệm thu
thập được thông tin về hiện trạng này.
3. Đặc điểm của lao động nghiên cứu KH&CN
Trước khi xét đến đặc điểm của lao động nghiên cứu KH&CN, cần xem lại những khái
niệm cơ bản về lao động và hoạt động nghiên cứu KH&CN.
3.1. Khái niệm về lao động
Theo Petit Larousse Illustré (2001), thì lao động là “hoạt động của con người vận dụng
vào sản xuất và sáng tạo hoặc vào việc bảo trì một cái gì đó”.
Về mặt triết học, lao động là “hoạt động của con người nhằm biến đổi thiên nhiên, làm
cho con người có quan hệ với nhau và hoạt động đó sinh ra giá trị”.
Từ các định nghĩa trên đây, ta thấy có những yếu tố cơ bản sau: lao động là hoạt động của
con người, hoạt động này là có mục đích và nhằm tạo ra giá trị cho xã hội, bao gồm giá trị vật
chất hoặc giá trị tinh thần.
Một cách tương đối, người ta có thể chia ra ba loại lao động: lao động chân tay, lao động
trí óc và lao động nghệ thuật.
- Lao động chân tay là những lao động tạo ra sản phẩm chủ yếu bằng kỹ năng của chân tay (cơ
bắp), công cụ, thiết bị. Trong lao động chân tay có lao động đơn giản và có lao động chân tay
phức tạp. Tham gia vào lao động này có: công nhân, nông dân, lao động làm các loại dịch vụ
đòi hỏi chủ yếu là kỹ năng chân tay,
- Lao động nghệ thuật là những lao động tạo ra nh
ững sản phẩm chủ yếu để đáp ứng những nhu
cầu về thẩm mỹ, tinh thần. Sản phẩm của lao động nghệ thuật được tạo ra chủ yếu bằng lao
động sáng tạo năng khiếu, năng khiếu đó được rèn luyện, học tập và hoàn thiện.
- Lao động trí óc là lao động tạo ra sản phẩm chủ yếu là tư duy trí tuệ, bằng kiến thức. Kiến
thức này có được chủ yếu là thông qua quá trình học hỏi, đào tạo.


23
3.2. Khái niệm về lao động nghiên cứu KH&CN

Lao động nghiên cứu KH&CN là những hoạt động có hệ thống của con người nhằm tạo
ra, hoàn thiện và ứng dụng những sản phẩm khoa học, sản phẩm công nghệ.
Một số diễn giải định nghĩa trên như sau:
a. Hoạt động có hệ thống của con người, chỉ có con người lao động một cách hệ thống và hệ
thống này h
ướng đích là sản xuất, truyền bá và ứng dụng các sản phẩm khoa học, công nghệ.
b. Sản phẩm khoa học, công nghệ có thể được bao gồm:
- Các phát minh;
- Các bài báo khoa học, chứng minh những phát hiện mới, quy luật mới, định lý mới, hoặc ở
trình độ cao hơn những cái đã tồn tại;
- Các bài báo tổng kết, tổng luận, các kết quả dự báo khoa học, các chiến lược hành động, các
bài báo phản chứng, các lập luận - phân tích khoa học,
- Các giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm hoặc không kèm công cụ, phương tiện dùng
để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm
10
.
c. Do tính chất đặc biệt của lao động KH&CN mà sản phẩm khoa học, công nghệ không phải lúc
nào cũng trở thành hàng hóa
11
. Nhưng về cơ bản thì sản phẩm khoa học, công nghệ phải có hai
yếu tố chính:
- Yếu tố mới và được tạo ra bằng phương pháp khoa học;
- Yếu tố hữu dụng đối với hoạt động xã hội.
3.3. Những đặc điểm của lao động nghiên cứu KH&CN
3.3.1. Lao động trí óc
Lao động trí óc là lao động không phải người nào cũng có, không phải lúc nào cũng phát
huy được lao động này với những cường độ làm việc và ra sản phẩm như nhau. Hiệu quả của lao
động trí óc phụ thuộc khá nhiều vào khả năng bộ não của người lao động, vào quá trình đào tạo,
vào tâm lý, sự hài lòng, thậm chí cả động cơ của chính người lao động.
Có thể xem xét yếu tố lao động trí óc trong ba lĩnh vực như sau:


10
Luật Chuyển giao công nghệ (2006)
11
Mai Hà, Vị trí xã hội của người tài trong giai đoạn phát triển hiện nay. Tạp chí Nghiên cứu con người, Số
1, 2010; và Mai Hà và các tác giả, Xây dựng, phát triển thị trường KH&CN trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, NXB Chính trị quốc gia, 2010


24
Lao động KH&CN: lao động trí óc dạng này có chịu ảnh hưởng của gen, của năng khiếu bẩm
sinh, song chủ yếu được hình thành và khẳng định sau khi đã trải qua quá trình đào tạo và làm
việc thực sự.
Lao động nghệ thuật (ví dụ, các nghệ sĩ tạo hình, sáng tác nhạc, điện ảnh, ): đây là dạng lao
động trí óc cũng phải trải qua đào tạo và thực hành, song phần quan trọng nhất vẫn là yếu tố tài
năng bẩm sinh của người lao động.
Lao động quản lý: là dạng lao động trí óc đòi hỏi người lao động vừa phải được đào tạo rất kỹ
lưỡng về quản lý, về kinh doanh, đồng thời đòi hỏi yếu tố tài năng bẩm sinh cũng như vậy. Quản
lý, đó vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Chính vì vậy, lao động quả
n lý kết hợp hài hòa hai yếu
tố: yếu tố của đào tạo chính thống và yếu tố của tài năng quản lý - giao tiếp như là một dạng của
lao động nghệ thuật.
Những đặc trưng của lao động trí óc như sau:
- Khả năng lao động trí óc không phải ai cũng có, không phải lúc nào cũng xuất hiện.
- Lao động trí óc không được sử dụng đúng lúc thì khả năng lao động trí óc sẽ giảm, thậm chí
mất đi.
- Những điều kiện cần cho lao động trí óc đó là: có năng khiếu, kiên trì lao động và sáng tạo,
được đào tạo đồng bộ, thoải mái về mặt tinh thần, tự do tư duy sáng tạo.
- Nói chung, hiệu quả của lao động trí óc phụ thuộc vào cả thể lực lẫn trí lực của người lao động
trí óc.

3.3.2. Lao động có tính sáng tạo
Lao động nghiên cứu KH&CN là lao động sáng tạo. Vậy thế nào là sáng tạo: sáng tạo là
hoạt động của con người nhằm tạo ra một sản phẩm mới được xã hội chấp nhận.
Yếu tố mới: đó là yếu tố đòi hỏi một sản phẩm sáng tạo phải có, đã gọi là sản phẩm sáng
tạo hay là sản phẩm KH&CN thì đó phải là sản phẩm mới, phươ
ng pháp mới: bài báo mới, ý
tưởng mới, định lý mới, mô hình mới, cách giải mới, phương pháp mới, cách sử dụng mới, lĩnh
vực ứng dụng mới, Mới, có nghĩa là trước nó chưa có, hoặc nếu có thì ở dạng không tiên tiến
bằng.
Yếu tố hữu dụng: đó là sự chấp nhận của thực tiễn. Thực tiễn ở đây được hiểu theo nghĩa
rộng: có thể là thị trường, xã hội, chương trình giảng dạy, ban biên tập của tạp chí, thậm chí là
hiệp hội hay một nhóm các nhà khoa học.


25
Yếu tố phương pháp nghiên cứu khoa học: đối với công việc sáng tạo nói chung thì chỉ
cần hai yếu tố kể trên là đủ, song đối với lao động KH&CN còn đòi hỏi phải là sản phẩm sáng tạo
sau khi ứng dụng một hoặc một số phương pháp nghiên cứu khoa học.
Thật vậy, sáng tạo trong nghệ thuật có thể bằng ngẫu hứng, bằng cảm xúc, sáng tạo trong
sản xuất có thể bằng kinh nghiệm lâu năm, còn sáng tạo trong KH&CN không thể không bằng
phương pháp nghiên cứu khoa học. Phương pháp nghiên cứu khoa học là tổ hợp các kiến thức
khoa học, kinh nghiệm nghiên cứu và các biện pháp kỹ thuật trong việc thu thập, xử lý thông tin
và các dữ kiện khoa học nhằm phát hiện, chứng minh tính đúng đắn khách quan của đối tượng
nghiên cứu. Chính yếu tố này là yếu tố để phân biệt lao động nghiên cứu KH&CN với các d
ạng
lao động sáng tạo khác.
3.3.3. Lao động mang tính mạo hiểm cao
Tính mạo hiểm là đặc trưng cho tất cả các loại hoạt động của con người mà khả năng
thành công của nó là không chắc chắn. Khả năng thành công càng không chắc chắn bao nhiêu thì
có nghĩa là độ mạo hiểm càng cao bấy nhiêu. Tính mạo hiểm càng tăng khi khả năng thành công

vẫn không chắc chắn, mà lượng đầu tư về vốn và thời gian lại lớn.
Điều này giải thích tại sao nhiều nước trên thế giới đầu tư phát triển tiềm lực KH&CN
vẫn phải chi những khoản kinh phí bao cấp lớn mà chưa chắc sẽ thu được kết quả với tất cả các
lĩnh vực, các đề tài. Chỉ có một điều chắc chắn là hiệu quả tổng thể do hoạt động KH&CN mang
lại cho nền kinh tế của nước nào cũng lớn hơn nhiều so với số tiền đầu tư cho phát triển tiềm lực
KH&CN.
Tính mạo hiểm ở đây còn nói lên một điều là nghiên cứu KH&CN là một dạng lao động
thường gặp khó khăn bất thường, rất khó lường trước. Đặc biệt đối với nghiên cứu công nghệ thì
tính mạo hiểm lại càng cao vì nó liên quan tới cả sự biến động thị trường, tới cả kiến thức và tài
năng quản lý công nghệ của người nghiên cứ
u.
3.3.4. Lao động mang tính độc lập cá thể cao
Tính độc lập cá thể ở đây được hiểu như vai trò quyết định của sự thành công là độc lập
của từng cá thể các nhà nghiên cứu. Nói chung, trong sáng tạo, vai trò sáng tạo của cá thể bao giờ
cũng ngự trị. Khác với lao động chân tay đơn giản, ví dụ đào con mương thì không thể nói là lao
động của cá nhân nào đó mang tính quyết định (có chăng là lao động tổ chức quản lý trong việc
đào mương, song đó không còn là lao động đơn giản nữa). Lao động phức tạp hơn là giảng dạy,

×