Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Pháp luật về giá cước khuyễn mại đảm bảo cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông ở việt nam thực trạng và kiến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.95 MB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
PHÁP LUẬT VỀ GIÁ CƯỚC, KHUYẾN MẠI ĐẢM BẢO CẠNH
TRANH TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ

HỒ HỒNG HẢI


Hà Nội - 2016

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ GIÁ CƯỚC, KHUYẾN MẠI ĐẢM BẢO CẠNH
TRANH TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ

HỒ HỒNG HẢI
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


TS. ĐỒNG NGỌC BA

HÀ NỘI - 2016



LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi và
được sự hướng dẫn khoa học của Tiến sỹ Đồng Ngọc Ba. Các nội dung
nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa cơng bố dưới bất kỳ
hình thức nào trước đây. Những số liệu trong các ví dụ phục vụ cho việc phân
tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có
ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá
cũng như số liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn
và chú thích nguồn gốc. Trường hợp phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào, tơi
xin hồn tồn chịu trách nhiệm về nội dung luận văn của mình. Viện Đại Học
Mở Hà Nội khơng liên quan đến những vi phạm tác quyền, bản quyền do tôi
đưa ra trong nội dung nghiên cứu khoa học này (nếu có).
Hà Nội, ngày 10 tháng 8 năm 2016
Tác giả

Hồ Hồng Hải


LỜI CẢM ƠN

Qua 2 năm học tập và rèn luyện sau đại học tại Viện Đại học mở Hà
Nội, được sự chỉ bảo và giảng dạy nhiệt tình của Quý thầy cô, đặc biệt là các
thầy cô làm việc tại Khoa Sau Đại học, chuyên ngành Luật Kinh tế đã truyền
đạt cho tôi nhiều kiến thức cả về lý thuyết lẫn thực tiễn trong suốt quá trình
học tập ở trường. Cùng với sự nỗ lực của bản thân, tôi đã hồn thành luận văn
tốt nghiệp của mình.
Từ những kết quả đạt được này, tôi xin chân thành cám ơn: Quý thầy

cô giáo Viện Đại học mở Hà Nội, thầy cô giáo Khoa Sau đại học, ngành Luật
Kinh tế của Viện Đại học mở Hà Nội và Trường Đại học Luật Hà Nội. Đặc
biệt, Tiến sỹ Đồng Ngọc Ba đã tận tình hướng dẫn tơi hồn thành tốt Khóa
luận tốt nghiệp này. Sau cùng, cho phép tơi cảm ơn gia đình, bạn bè, anh chị
em đã giúp đỡ, ủng hộ tôi rất nhiều trong tồn bộ q trình học tập cũng như
nghiên cứu hồn thành luận văn này.
Do kiến thức cịn hạn hẹp nên khơng tránh khỏi những thiếu sót
trong cách hiểu, lỗi trình bày. Tơi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của
Q thầy cơ và Ban lãnh đạo, để báo cáo tốt nghiệp đạt được kết quả tốt hơn.
Hà Nội, ngày 10 tháng 8 năm 2016
Tác giả

Hồ Hồng Hải


DANH MỤC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

WTO

:

World Trade Organization, Tổ chức Thương mại Quốc tế

TPP

:


Trans-Pacific Partnership Agreement, Hiệp định đối tác
xuyên Thái bình dương

VMS-MobiFone

Vietnam Mobile Telecom Services Company, Công ty
Thông tin Di động Việt Nam

3G

:

Third-generation technology, Công nghệ truyền thông thế hệ
thứ ba

4G

:

Fourth-generation, Công nghệ truyền thông không dây thứ tư

VNPT

:

Vietnam Posts and Telecommunications Group, Tập đồn
Bưu chính Viễn thơng Việt Nam

VNPT-Vinaphone :


Tổng cơng ty dịch vụ viễn thơng

Viettel

:

Tập đồn Viễn thơng Qn đội

Gtel Mobie

:

Cơng ty Cổ phần Viễn Thơng Di Động Tồn Cầu

FPT

:

Cơng ty Cổ phần FPT


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ CẠNH TRANH VÀ PHÁP LUẬT VỀ CẠNH
TRANH .................................................................................................................. 5
1.1 Khái niệm cạnh tranh và pháp luật về cạnh tranh ........................................ 5
1.1.1. Khái quát chung về cạnh tranh ...................................................................... 5

1.1.2. Pháp luật và thực hiện pháp luật về cạnh tranh ............................................. 8
1.1.3. Quan điểm, cách nhìn nhận về cạnh tranh và độc quyền ở Việt Nam ........... 11
1.2. Thực trạng cạnh tranh và pháp luật về cạnh tranh hiện nay ở Việt Nam . 12
1.2.1. Thực trạng về cạnh tranh ở Việt Nam .......................................................... 12
1.2.2. Thực trạng điều chỉnh pháp luật có liên quan đến cạnh tranh ...................... 17
1.2.3. Thực trạng cạnh tranh của các doanh nghiệp viễn thông tại Việt Nam ........ 26
CHƯƠNG 2 TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VÀ CÁC QUY
ĐỊNH VỀ GIÁ, CƯỚC, KHUYẾN MẠI CỦA VIỆT NAM .............................. 29
2.1. Đánh giá thị trường viễn thông Việt Nam ................................................... 29
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của các doanh nghiệp viễn thông........... 29
2.1.2. Môi trường pháp lý. ..................................................................................... 31
2.1.3. Quy định hiện hành về quản lý giá cước viễn thông tại Việt Nam ................ 34
2.1.4. Quy định về quản lý giá cước viễn thông tại Luật Viễn thông....................... 37
2.1.5. Quy định về quản lý giá cước viễn thông tại Nghị định 25/2011/NĐ-CP ...... 39
2.1.6. Quy định về quản lý giá cước tại Luật Giá ................................................... 43
2.1.7. Quy định về xử phạt các hành vi vi phạm quy định về giá cước viễn thông tại
Nghị định 174/2013/NĐ-CP .................................................................................. 45
2.1.8. Quy định về quản lý giá cước dịch vụ viễn thông tại Quyết định 39/2007/QĐ-TTg ... 47


2.1.9. Phân tích tổng hợp ....................................................................................... 50
2.2. Thực trạng quản lý khuyến mại dịch vụ viễn thông tại Việt Nam. ............ 52
2.2.1. Nội dung quản lý khuyến mại viễn thông tại Việt Nam ................................. 52
2.2.2. Các hình thức khuyến mại ........................................................................... 53
2.2.3. Ảnh hưởng của khuyến mại dịch vụ.............................................................. 57
2.3. Đánh giá hành vi cạnh tranh bằng giá cước, khuyến mại của các doanh
nghiệp viễn thông Việt Nam ................................................................................ 60
CHƯƠNG 3 NGHIÊN CỨU KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ QUẢN LÝ GIÁ,
CƯỚC VÀ KHUYẾN MẠI TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG ................... 65
3.1. Kinh nghiệm về quản lý cạnh tranh viễn thông của Nhật Bản ................... 65

3.2. Kinh nghiệm về quản lý cạnh tranh viễn thông của Mỹ ............................. 67
3.3. Kinh nghiệm quản lý giá cước viễn thông của Trung Quốc ....................... 68
3.4. Kinh nghiệm quản lý giá cước viễn thông của Australia ............................ 70
CHƯƠNG 4 ĐỀ XUẤT QUẢN LÝ GIÁ CƯỚC, KHUYẾN MẠI ĐẢM BẢO
CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG ...................................... 76
4.1. Quản lý về nội dung ...................................................................................... 76
4.2. Các biện pháp quản lý cạnh tranh của Nhà nước đối với các doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ di động nước ngồi.................................................................. 79
4.3. Đề xuất các hình thức đăng ký, thơng báo chương trình khuyến mại bắt
buộc với các doanh nghiệp viễn thơng ................................................................ 82
4.3.1 Thực hiện đăng ký chương trình khuyến mại: ............................................... 82
4.3.2 Thực hiện thơng báo chương trình khuyến mại: ............................................ 83
4.5. Đề xuất các cơ sở quản lý hoạt động khuyến mại ....................................... 84
4.5.1. Về nhãn hiệu dịch vụ viễn thông cố định mặt đất phân biệt theo từng tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương .......................................................................... 85
4.5.2. Về nhãn hiệu dịch vụ thông tin di động mặt đất tồn quốc, nhãn hiệu hàng
hố chun dùng thơng tin di động mặt đất toàn quốc ........................................... 85
4.5.3. Về tổng thời gian thực hiện chương trình khuyến mại .................................. 87
4.6. Đề xuất quản lý khách hàng thường xuyên trong khuyến mại viễn thông 88


4.7. Phân biệt giữa khuyến mại viễn thông với tài trợ, các hoạt động từ thiện 90
4.8. Đề xuất phối hợp với Bộ Tài chính để đưa ra các biện pháp xử lý các
chương trình khuyến mại vi phạm nhằm phát triển bền vững thị trường viễn
thông Việt Nam .................................................................................................... 91
4.9. Điều chỉnh quy định của Nghị định 25/2011/NĐ-CP và tăng các hạn mức
xử phạt tại Nghị định 174/2013/NĐ-CP .............................................................. 94
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 97



LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong những năm qua, với chủ trương đi thẳng vào công nghệ hiện đại và với
chiến lược tăng tốc hết sức mạnh dạn, ngành viễn thơng Việt Nam đã có những
bước tiến vượt bậc. Các dịch vụ viễn thông không chỉ được phổ cập rộng rãi tới
khắp mọi miền đất nước, mà còn thực sự tạo điều kiện cho các ngành khác phát
triển hơn. Tuy nhiên, cũng như hầu hết các doanh nghiệp khác ở nước ta, mức độ
sẵn sàng tham gia cạnh tranh và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới của các doanh
nghiệp viễn thơng cịn thấp.
Hiện nay, ngoài 2 doanh nghiệp lớn trên thị trường là Tập đồn Bưu chính
Viễn thơng Việt Nam (VNPT), Tập đồn viễn thơng Qn đội (Viettel) thì trên thị
trường dịch vụ viễn thông đã và đang cạnh tranh rất mạnh bởi sự tham gia của nhiều
nhà khai thác viễn thông khác như: Gtel, Vishipel Telecom, Hanoi Telecom... Chính
sách tự do hóa thị trường dịch vụ viễn thơng đang đặt ra cho các doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ viễn thông Việt Nam những thách thức to lớn - đó là cạnh tranh để tồn
tại và phát triển. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của viễn thông và tin học cho
phép các doanh nghiệp áp dụng công nghệ mới vào khai thác nhằm đáp ứng tốt hơn
nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Điều đó làm cho yếu tố cạnh tranh trên thị
trường dịch vụ viễn thông càng thêm sôi động. Vấn đề cạnh tranh cần được các
doanh nghiệp cùng tham gia cung cấp dịch vụ viễn thông coi trọng và hiểu rõ trong
chiến lược phát triển của mình.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển nhanh, mạnh mẽ của lĩnh vực viễn
thông, các quy định pháp lý của Nhà nước sẽ phải liên tục điều chỉnh, cập nhật cho
phù hợp để hạn chế sự chồng chéo, mâu thuẫn với nhau, sự lạc hậu với tiến trình
pháp triển, đảm bảo được sự bình đẳng trong kinh doanh, sự cạnh tranh lành mạnh
và chống độc quyền trong lĩnh vực viễn thông.

1



Đó là lý do tác giả lựa chọn đề tài "Pháp luật về giá cước, khuyến mại đảm
bảo cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông ở Việt Nam - Thực trạng và kiến nghị ”
làm luận văn thạc sỹ của mình. Thơng qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn
muốn đi sâu phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật, từ đó đề xuất các giải
pháp góp phần hồn thiện pháp luật về giá cước khuyến mại đảm bảo cạnh tranh
trong lĩnh vực viễn thông ở Việt Nam trong gia đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hiện pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông không phải là vấn
đề quá mới mẻ ở Việt Nam. Đã có nhiều bài báo cũng như những cơng trình nghiên
cứu về vấn đề này nhưng chủ yếu đề cập đến việc thực hiện pháp luật cạnh tranh nói
chung, hoặc đề cập đến từng vấn đề về cạnh tranh, độc quyền trong kinh doanh dịch
vụ viễn thông, nhiều bài viết về một số hiện tượng, hành vi hạn chế cạnh tranh trong
lĩnh vực viễn thông nhưng chưa có một cơng trình nghiên cứu khoa học chun sâu
về nội dung cụ thể trong việc cạnh tranh của các doanh nghiệp thông qua giá cước,
khuyến mại dịch vụ thể hiện thực tại cạnh tranh trong pháp luật Việt Nam lĩnh vực
viễn thông.
Cho đến nay, đây là đề tài thạc sĩ đầu tiên nghiên cứu " Pháp luật về giá
cước, khuyến mại đảm bảo cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thơng ở Việt Nam -Thực
trạng và kiến nghị”. Để hồn thành đề tài này, tôi đã sưu tầm nhiều sách, bài báo
của nước ngồi cũng như trong nước, các thơng tin trên mạng Internet.
2.1. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là phân tích các quy định pháp luật hiện
tại và dự báo xu hướng vận động của các quy định pháp luật về giá cước, khuyến
mại đảm bảo cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thơng, từ đó đề xuất các kiến nghị và
giải pháp nhằm thúc đẩy và bảo vệ cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực viễn thông
ở Việt Nam. Việc phân tích, dự báo xu hướng vận động các quy định pháp luật về
cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông và các đề xuất kiến nghị phải đảm bảo yêu cầu
trung thực, khách quan và toàn diện và phù hợp với các quy định của pháp luật.

2



Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: Với mục đích trên, luận văn thực hiện một
số nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến cạnh tranh trong lĩnh vực
viễn thông ở Việt Nam để làm cơ sở nghiên cứu các phần tiếp theo của luận văn. Để
thực hiện được nhiệm vụ này, luận văn đã xây dựng các khái niệm khoa học về
cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hành vi hạn chế cạnh tranh (kiểm
sốt độc quyền). Qua đó phân tích những đặc điểm và tìm ra mối liên hệ giữa chúng
với chính sách quy định liên quan đến giá cước, khuyến mại các dịch vụ viễn thông.
- Nghiên cứu thực trạng việc thực hiện pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực
viễn thông ở Việt Nam và các quy định của pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực
viễn thông và chủ yếu tập trong đến khía cạnh giá cước, khuyến mại có ảnh hưởng
rất lớn đến chính sách phát triển, cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động cung cấp
dịch vụ viễn thơng. Với nhiệm vụ này, luận văn phân tích các quy định của Luật
Cạnh tranh, Luật Viễn thông, Luật Công nghệ thơng tin, phân tích và đánh giá
những ví dụ cụ thể trong thực tiễn, trên cơ sở đó tìm ra những điểm bất cập, hạn chế
đồng thời đưa ra những phương hướng hoàn thiện những quy định về giá cước
khuyến mại ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường cạnh tranh lĩnh vực viễn thông.
- Dự báo về sự thay đổi của thị trường viễn thông Việt Nam trong thời gian
tới và đưa ra một số kiến nghị nhằm thúc đẩy và bảo vệ cạnh tranh lành mạnh trong
lĩnh vực viễn thơng để phần nào đó giúp ích cho việc hồn thiện hơn pháp luật về
cạnh tranh nói chung và cạnh tranh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ viễn thơng nói
riêng.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung phân tích các quy định của pháp
luật về cạnh tranh, quy định về giá cước, khuyến mại đảm bảo việc cạnh tranh lành
mạnh, bình đẳng, theo pháp luật trong hoạt động cung cấp dịch vụ viễn thông ở
Việt Nam.
2.2. Phương pháp nghiên cứu


3


Cơ sở lý luận nền tảng của thực tiễn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Mọi vấn đề nghiên cứu luôn phải xem xét trong trạng thái vận
động biến đổi không ngừng, luôn đặt trong quan hệ tổng thể tác động qua lại giữa
hiện tượng nghiên cứu với các hiện tượng khác. Các hiện tượng ln được xem xét
trong cả q trình từ sự hình thành đến sự phát triển qua các giai đoạn khác nhau.
Một số phương pháp tiếp cận cụ thể được áp dụng như: phương pháp tổng hợp,
phương pháp phân tích và phương pháp so sánh.
2.4. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về cạnh tranh và pháp luật về cạnh tranh.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực viễn
thông ở Việt Nam
Chương 3: Một số kinh nghiệm quốc tế về quản lý giá cước, khuyến mại
trong lĩnh vực viễn thông
Chương 4: Đề xuất quản lý giá cước, khuyến mại đảm bảo cạnh trnh trong
lĩnh vực viễn thông

4


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CẠNH TRANH VÀ PHÁP LUẬT
VỀ CẠNH TRANH
1.1 Khái niệm cạnh tranh và pháp luật về cạnh tranh
1.1.1. Khái quát chung về cạnh tranh

a/ Khái niệm cạnh tranh
Nền kinh tế Việt Nam đang trong cơ chế thị trường, là nền kinh tế có sự tồn
tại của nhiều hình thức sở hữu được pháp luật thừa nhận và bảo hộ, cùng với nó là
sự tự do hóa thương mại, quyền tự do khế ước, quyền tự do định đoạt của các chủ
thể và cạnh tranh xuất hiện - đó là quy luật của kinh tế thị trường.
Cạnh tranh là lực lượng điều tiết trong hệ thống thị trường (đảm bảo cả người
sản xuất và người tiêu dùng không thể bị lợi dụng ưu thế của nhau trên thị trường).
Tuy nhiên, cạnh tranh chỉ xuất hiện với tính cách là động lực phát triển nội tại của
nền kinh tế, động lực thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển. Hơn nữa, cạnh tranh cũng
chỉ xuất hiện thực sự với tính cách là một cuộc đua tranh của một ngành, một lĩnh
vực kinh tế nào đó khi có sự tham gia của các chủ thể kinh doanh có lợi ích cơ bản
mâu thuẫn nhau.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về cạnh tranh và cạnh tranh là một khái niệm
được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Adam Smith - nhà kinh tế học theo
trường phái cổ điển Anh là người đầu tiên đưa ra lý thuyết tương đối hoàn chỉnh về
cạnh tranh trên cơ sở những tiếp thu và bổ sung những lý luận về giá trị tự nhiên
của trường phái này, ơng địi hỏi sự đảm bảo tự do hành động cho mọi doanh
nghiệp và hộ gia đình, nghĩa là đảm bảo sự tự do cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
cũng như sự lựa chọn tiêu dùng của các hộ gia đình. Theo ơng, cạnh tranh là một
q trình bao gồm các hành vi và phản ứng tạo ra cho mỗi thành viên tham gia thị
trường tự do có giới hạn.
Theo từ điển tiếng Việt thì cạnh tranh được hiểu là "sự tranh đua giữa những
cá nhân, tập thể có chức năng như nhau nhằm giành phần hơn, phần thắng về
5


mình". Ngày nay, cạnh tranh được hiểu là sự chạy đua hay ganh đua giữa các thành
viên của một thị trường hàng hóa, sản phẩm cụ thể nhằm mục đích lơi kéo về phía
mình ngày càng nhiều khách hàng, thị trường và thị phần của một thị trường. Như
vậy, về phương diện kinh tế, cạnh tranh được tồn tại trên cơ sở tiền đề là sự hiện

diện của các thành viên trên thương trường có chạy đua vì mục tiêu kinh tế giữa các
thành viên và chúng đều diễn ra trên một thương trường hàng hóa cụ thể.
Tuy nhiên, để đơn giản hóa có thể hiểu cạnh tranh là sự ganh đua giữa một
nhóm người mà sự nâng cao vị thế của người này sẽ làm giảm vị thế của những
người còn lại và điều kiện cho sự cạnh tranh trên thị trường là phải có ít nhất hai
chủ thể quan hệ khách hàng và có sự tương ứng giữa sự cống hiến và phần được
hưởng của mỗi thành viên trên thị trường.
Có thể kết luận rằng, cạnh tranh chỉ xuất hiện trong điều kiện của nền kinh tế
thị trường, nơi mà cung - cầu là cốt vật chất, giá cả là diện mạo và cạnh tranh là linh
hồn sống của thị trường.
b/ Nhận dạng cạnh tranh
Ở mỗi một hình thái khác nhau, cạnh tranh lại có tính chất và mức độ biểu
hiện khác nhau. Để đánh giá tính chất và mức độ biểu hiện cạnh tranh theo từng
hình thái thì việc nhận dạng và xác lập các tiêu chí phân loại hình thái thị trường là
hết sức quan trọng. Căn cứ vào tính chất và mức độ can thiệp của công quyền vào
đời sống kinh tế, người ta phân chia thị trường thành hai hình thái: cạnh tranh tự do
và cạnh tranh có sự điều tiết của nhà nước.
Cạnh tranh tự do là một hình thái thị trường thốt khỏi mọi sự can thiệp của
nhà nước. Đây là một hiện tượng khơng thể có trong thế giới hiện đại vì kinh tế thị
trường hiện đại ln có nhu cầu được điều tiết và nhà nước nào cũng phải có chính
sách kinh tế riêng, vì thế ln tìm cách hướng các hoạt động kinh tế vào mục tiêu
kinh tế của mình.
Cạnh tranh có sự điều tiết của nhà nước là hình thái thị trường của các nền
kinh tế thị trường hiện đại (tự do cạnh tranh trong hình thái thị trường này được bảo
vệ, nuôi dưỡng và giới hạn bởi thể chế, chính sách và pháp luật của nhà nước).

6


Cạnh tranh lành mạnh là hình thức cạnh tranh bằng khả năng vốn có của

doanh nghiệp. Đó là những hoạt động nhằm thu hút khách hàng mà pháp luật không
cấm, phù hợp với tập quán thương mại và đạo đức kinh doanh truyền thống như
đăng ký nhãn hiệu thương phẩm, hạ giá bán hàng hóa trên cơ sở đổi mới cơng nghệ,
giảm chi phí sản xuất, chi phí lưu thơng, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng,
liên tục đổi mới phương thức giao tiếp với khách hàng.
Cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cụ thể của một chủ thể kinh
doanh, nhằm mục đích cạnh tranh ln thể hiện tính khơng lành mạnh (chứ khơng
phải là trái pháp luật) và vơ tình hay cố ý gây thiệt hại cho một đối thủ cạnh tranh
hay bạn hàng cụ thể.
Tuy nhiên, vì được bảo hộ bởi các nguyên tắc về quyền tự do kinh doanh, tự
do khế ước và tự do lập hội và sự hấp dẫn của lợi nhuận nên thực trạng trên thương
trường luôn diễn ra theo hướng khơng lành mạnh. Đây là một trong những tính tất
yếu để pháp luật cạnh tranh ra đời.
Vai trò, ý nghĩa của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Như ta đã biết, cạnh tranh là tất yếu của một nền kinh tế thị trường. Ngay từ
khi xuất hiện, cạnh tranh đã có vai trị và ý nghĩa lớn đối với sự phát triển kinh tế. Ở
thế kỷ XVIII, A.Smith (nhà kinh tế học cổ điển Anh) trong tác phẩm "Của cải của
các dân tộc" (1776) đã thuyết minh vai trò quan trọng của cạnh tranh tự do trong
bối cảnh nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đang ở giai đoạn hình thành bị rất
nhiều ràng buộc bởi những thiết chế phi tự do của Nhà nước phong kiến. Ơng đưa
ra thuyết "bàn tay vơ hình", với ơng trật tự thị trường theo ngun tắc "bàn tay vơ
hình" sẽ điều hòa các hoạt động kinh tế một cách hiệu quả.
Hãy thử hình dung một nền kinh tế thị trường sẽ ra sao nếu khơng có cạnh
tranh. Ở trạng thái của cạnh tranh hoàn hảo, nền kinh tế sẽ đạt mức độ hiệu quả cấp
phát lý tưởng, tức là nếu khơng có cạnh tranh thì nền kinh tế sẽ nằm ở giới hạn
đường giới hạn tiềm năng sản xuất. Như vậy, một bộ phận nguồn lực sẽ không được
huy động vào sản xuất và gây ra sự lãng phí xét trên bình diện tổng thể nền kinh tế
xã hội. Một doanh nghiệp rất khó trở thành doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh

7



nếu không được dung dưỡng lâu năm trong một môi trường khơng có cạnh tranh.
Do đó, trong khn khổ của nền kinh tế thị trường, ý nghĩa kinh tế của cạnh tranh
là:
- Thông qua quy luật cung cầu, cạnh tranh có khả năng nhanh nhạy trong
việc phát hiện và đáp ứng mọi nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Bên cạnh
đó, bằng phương thức cạnh tranh kinh điển là cạnh tranh qua giá mà nhờ đó giá cả
của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ được cải thiện theo hướng có lợi cho khách hàng
và người tiêu dùng.
- Cạnh tranh còn là nguồn gốc, động lực để phát triển khoa học kỹ thuật và
công nghệ cao do cạnh tranh ln có mục tiêu lâu dài là thu hút về mình ngày càng
nhiều khách hàng nên nó buộc các nhà sản xuất công nghiệp và dịch vụ phải tạo ra
những sản phẩm có chất lượng ngày càng cao với giá thành ngày càng hạ. Vì vậy,
cạnh tranh cũng là cơ hội buộc các nhà doanh nghiệp phải áp dụng công nghệ mới,
tiến bộ khoa học kỹ thuật.
- Trong điều kiện của cơ chế thị trường có sự cạnh tranh, nghĩa là mức độ
của cạnh tranh đã tác động đến doanh nghiệp thì vì sự tồn tại của mình ln phải
toan tính để vượt lên trên các đối thủ của mình. Điều đó có nghĩa là cạnh tranh có
khả năng tạo sức ép để chống trì trệ, khắc phục suy thối và buộc doanh nghiệp phải
kinh doanh có hiệu quả.
Mơi trường cạnh tranh là mơi trường mà ở đó các doanh nghiệp luôn phải
vận động, đổi mới, cải tiến không chỉ công nghệ mà cả chủng loại, kiểu dáng,
phương thức kinh doanh. Theo đó, cạnh tranh tạo ra sự đổi mới liên tục và động lực
phát triển liên tục. Với tất cả những vai trò và ý nghĩa trên đây của cạnh tranh, một
nhà nước văn minh của một nền kinh tế thị trường hiện đại cần phải có nhiệm vụ,
chức năng phát hiện, thừa nhận và bảo vệ, khuyến khích những khả năng và thuộc
tính tốt đẹp đó của cạnh tranh.
1.1.2. Pháp luật và thực hiện pháp luật về cạnh tranh
- Nền kinh tế thị trường không những chỉ bảo vệ và khuyến khích những

thuộc tính tốt đẹp của cạnh tranh mà còn phải khắc phục những mặt tiêu cực, những

8


khuyết tật của thị trường qua cạnh tranh và độc quyền. Ở các quốc gia đều có chính
sách về cạnh tranh và từ đó điều tiết mơi trường cạnh tranh của thị trường. Chính
sách của cạnh tranh phải bao gồm việc sử dụng một số công cụ điều tiết cạnh tranh
như: Chính sách thuế; Kiểm sốt giá cả; Điều chỉnh, kiểm sốt độc quyền; Quốc
hữu hóa; Ban hành pháp luật về cạnh tranh.
- Trong các cơng cụ nói trên, pháp luật có vai trị quan trọng thể hiện là cơng
cụ có hiệu quả nhất vì nó là phương thức để đưa và bảo đảm cho các công cụ điều
tiết cạnh tranh khác được thực thi trên thực tế của thương trường. Theo thông lệ,
pháp luật cạnh tranh ở các nước được chia thành hai lĩnh vực khác biệt: đó là pháp
luật về chống cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật về chống hạn chế cạnh
tranh. Sự phân biệt này căn cứ vào tính chất mức độ nguy hại đối với thị trường và
theo đó là phương thức và tính cương quyết trong việc trừng trị của pháp luật đối
với hai nhóm hành vi: cạnh tranh khơng lành mạnh và hạn chế cạnh tranh (độc
quyền hóa) là rất khác nhau mặc dù chúng đều làm hại đến sự vận động bình thường
và lành mạnh của thị trường.
- Theo kinh nghiệm của các nước, thể hiện qua nội dung của pháp luật cạnh
tranh không lành mạnh, những hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh được chia làm
5 nhóm:
Thâu tóm khách hàng: bao gồm những phương pháp cạnh tranh trái với tập
quán để tác động lên khách hàng và bạn hàng. Tính trái với tập quán ở đây thể hiện
ở chỗ nó gây ảnh hưởng đến sự tự do trong quyết định của bạn hàng hay khách
hàng. Nó biểu hiện trong những dạng cụ thể: Dối trá, đưa thông tin sai về quan hệ
mua bán; Bán cưỡng bức như bán kèm;Gạ gẫm, quấy rầy.
Ngăn cản: được thực hiện để chống đối thủ cạnh tranh về giá, tẩy chay nói
xấu hay phân biệt đối xử.

Bóc lột: loại hành vi này cũng có mục đích chống lại đối thủ song chủ yếu lại
khơng nhằm vào sản phẩm của đối thủ. Thực ra vấn đề này được giải quyết chủ yếu
trong pháp luật về sở hữu cơng nghiệp. Song tính khơng lành mạnh ở đây thể hiện
sự lợi dụng trái với tập quán những sản phẩm của người khác. Chẳng hạn như bắt

9


chước kiểu dáng công nghiệp, man trá về nguồn gốc của sản phẩm hay dựa dẫm vào
uy tín của sản phẩm khác (đặt tên giống với sản phẩm của người khác) hoặc lôi kéo
khách hàng hoặc người làm công của đối thủ.
Vi phạm pháp luật: những vi phạm loại này thường diễn ra trong lĩnh vực luật
kinh tế hay luật thuế song chỉ bị coi là không lành mạnh khi hành vi vi phạm có chủ
ý can thiệp trái phép đến đối thủ cạnh tranh. Ngoài ra vi phạm pháp luật khác cũng
có thể đồng thời bị coi là cạnh tranh khơng lành mạnh. Những vi phạm hợp đồng
cũng có thể đồng thời vi phạm pháp luật cạnh tranh nếu nó gắn liền với việc phá vỡ
niềm tin cạnh tranh hoặc lạm dụng lòng tin của bạn hàng.
Gây rối thị trường: loại hành vi này không nhằm vào một đối thủ cạnh tranh
nào, song nó có tác động chung gây rối thị trường. Chẳng hạn, doanh nghiệp lớn hạ
giá sản phẩm làm ảnh hưởng đến những doanh nghiệp nhỏ, hay một doanh nghiệp
quảng cáo giật gân gây tâm lý hoảng sợ.
- Trong khi pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh nhằm vào từng hành
vi, từng quan hệ thì pháp luật chống hạn chế cạnh tranh nhằm vào hiện tượng có
tính chất độc quyền (độc quyền hành chính, độc quyền tự nhiên, độc quyền hay độc
quyền nhóm), là pháp luật bảo vệ cơ cấu và tương quan thị trường. Bao gồm ba nội
dung: Cấm Cartel (thỏa thuận hạn chế cạnh tranh), Kiểm soát sáp nhập, Xác định và
xử lý các hành vi lạm dụng quyền lực thị trường của các doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh thị trường. Như vậy, khi áp dụng pháp luật chống hạn chế cạnh tranh,
điều cần thiết phải xác định thị trường theo ba dấu hiệu về thị trường liên quan: Đối
tượng của thị trường (loại hàng hóa), Giới hạn khơng gian của thị trường (khu vực,

quốc gia, quốc tế), Giới hạn về thời gian của thị trường.
- Cùng với sự phân biệt hai lĩnh vực pháp luật đó pháp luật của các nước có
những quy định về xem xét, kiểm tra, xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
hay hạn chế cạnh tranh. Bên cạnh đó, quản lý Nhà nước về cạnh tranh cũng là một
vấn đề lớn thuộc pháp luật cạnh tranh mà theo đó pháp luật thiệt lập cơ quan cạnh
tranh và xác lập địa vị pháp lý của chúng. Pháp luật cạnh tranh là công cụ điều tiết

10


thị trường tiến bộ, văn minh và mạnh mẽ hơn cả. Là lĩnh vực trụ cột của luật kinh tế
truyền thống, nó có khả năng:
+ Bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, trung thực, công bằng.
+ Điều tiết cạnh tranh theo mức độ của thị trường nội địa và quốc tế.
+ Bảo vệ lợi ích của người sản xuất, tiêu dùng, Nhà nước và xã hội.
+ Tạo thế cạnh tranh trên trường quốc tế.
+ Tạo động lực phát triển kinh tế.
+ Chống cạnh tranh khơng lành mạnh và kiểm sốt độc quyền, góp phần điều
tiết nền kinh tế theo chính sách kinh tế của Nhà nước.
+ Định hướng chuẩn mực. Giữ gìn đạo đức và tập quán trong kinh doanh đã
được thừa nhận.
- Với tất cả các đặc điểm của pháp luật cạnh tranh đó, việc xây dựng pháp
luật cạnh tranh ở Việt Nam cần phải luôn xem xét trên cơ sở chính sách cạnh tranh
trong cơ chế thị trường nước ta hiện nay. Khác với pháp luật cạnh tranh của nhiều
quốc gia khác, pháp luật cạnh tranh ở nước ta chắc là phải đối mặt với dạng độc
quyền Nhà nước và bên cạnh đó cần bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Pháp luật cạnh tranh của Việt Nam cần đề cập đến hai khía cạnh của hành vi
cạnh tranh: chống cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh (kiểm soát
độc quyền).
1.1.3. Quan điểm, cách nhìn nhận về cạnh tranh và độc quyền ở Việt Nam

Cạnh tranh và độc quyền là hai vấn đề ngày càng được nhắc đến nhiều hơn
khi xem xét nền kinh tế của Việt Nam. Với mỗi vấn đề được đề cập bao giờ ta cũng
có những cách nhìn nhận, quan điểm khác nhau. Theo quy luật chung, cạnh tranh
ln có xu hướng dẫn đến độc quyền. Xu hướng này một mặt do sự tác động của
quy luật hiệu quả kinh tế theo quy mô, mặt khác độc quyền là trạng thái đem lại cho
cá nhân các nhà cung cấp lợi nhuận siêu ngạch. Do đó cạnh tranh kinh tế ln có sự
ganh đua quyết liệt để giành lấy vị thế độc quyền. Có thể coi đây là một khía cạnh
khơng hồn hảo mang tính đạo đức mà cạnh tranh đáng bị lên án. Tuy vậy, trong
thực tế, người ta cố gắng hạn chế những nhân tố gây ra mức độ khơng hồn hảo của

11


thị trường càng nhiều càng tốt. Xét về phương diện kinh tế, độc quyền (cạnh tranh
bằng phương thức độc quyền) có những tác hại:
- Nền kinh tế nằm ở dưới tiềm năng sản xuất, một bộ phận nguồn lực phát
triển kinh tế bị bỏ phí.
- Tạo ra sự khan hiếm giả tạo để nâng giá thành sản phẩm, dịch vụ. Do đó,
người tiêu dùng đã phải trả thêm một khoản tiền không đáng mà chất lượng chưa
chắc đã tăng, thậm chí có phần giảm sút.
- Khơng có cạnh tranh, người sản xuất khơng có nhu cầu sáng tạo, đổi mới
cơng nghệ, hạn chế áp dụng khoa học kỹ thuật vì vậy mà chất lượng hàng hóa, năng
suất khơng được cải thiện.
Từ đó cho thấy, độc quyền là vật cản sự tiến bộ kinh tế. Độc quyền kiểu kinh
tế kế hoạch hóa tập trung dẫn đến những kết cục là khủng hoảng kinh tế mang tính
hệ thống buộc phải được thay thế bằng cơ chế thị trường có sự cạnh tranh. Ở Việt
Nam do chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường,
nên khác với nền kinh tế thị trường truyền thống, xu hướng độc quyền xuất phát từ
bản thân các lực lượng thị trường trong quá trình cạnh tranh, độc quyền ở Việt Nam
nằm ngay trong cơ chế quản lý Nhà nước. Vì vậy, nền kinh tế Việt Nam hiện nay có

mức độ cạnh tranh thấp. Những yếu tố độc quyền (từ cơ chế) vẫn cịn cản trở tính
cạnh tranh của nền kinh tế. Với quan điểm và cách nhìn nhận đó, nhiệm vụ tạo lập
một mơi trường kinh tế có tính cạnh tranh, kiểm sốt độc quyền là chức năng riêng
có của Nhà nước. Đối với nền kinh tế thị trường phát triển, vấn đề kiểm sốt độc
quyền (đảm bảo tính cạnh tranh của nền kinh tế) phải được đặc biệt chú ý.
1.2. Thực trạng cạnh tranh và pháp luật về cạnh tranh hiện nay ở Việt Nam
1.2.1. Thực trạng về cạnh tranh ở Việt Nam
- Cạnh tranh được xem như là yếu tố tất yếu, là thuộc tính vốn có của nền
kinh tế thị trường. Nhất là từ khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện công cuộc đổi mới,
chuyển nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường có định hướng
xã hội chủ nghĩa, cạnh tranh đã từng bước được tiếp cận như một nguyên tắc cơ bản
trong tổ chức, quản lý và điều hành nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, nền kinh tế

12


Việt Nam nhập cuộc cạnh tranh từ một nền tảng công nghệ, kỹ thuật thấp kém,
thiếu vốn và kinh nghiệp quản lý trong cơ chế thị trường, kinh tế còn dựa chủ yếu
vào nông nghiệp và các yếu tố tự nhiên nên sức cạnh tranh thấp. Nhất là dấu ấn của
nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp vẫn cịn tồn tại, đó là tình trạng độc quyền
doanh nghiệp nhà nước. Hầu hết các doanh nghiệp này được hình thành khơng phải
do kết quả của q trình tích tụ, tập trung vốn và yếu tố sản xuất như ở các nước tư
bản mà là sản phẩm của cơ chế kinh tế tập trung của nhà nước. Trước đây, các
doanh nghiệp kinh doanh độc quyền nhằm vào các rào cản hành chính khơng cho
phép bất kỳ doanh nghiệp nào khác được cùng kinh doanh, hạn chế thương quyền
thông qua giấy phép kinh doanh hay các chế định giá (như giá điện, giá cước viễn
thông, giá vé máy bay...) và các hành vi của các quan chức nhà nước cao cấp (trong
xét chọn thầu, cấp hạn ngạch.). Chính những điều đó đã làm giảm tính cạnh tranh ở
thị trường Việt Nam và nguy hiểm hơn là sự kéo dài của cơ chế độc quyền đã không
đi cùng nhịp với xu thế tự do hóa đang phát triển trên khắp thế giới.

- Bắt đầu từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Nhà nước ta chủ trương phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đã khởi đầu cho hoạt động cạnh tranh
được công khai và mở rộng trong nền kinh tế nước ta. Nhưng cạnh tranh thực sự
diễn ra gay gắt khi Nhà nước cho thi hành hàng loạt các chính sách về chống lạm
phát, xóa bỏ bao cấp qua giá và một phần qua vốn chủ yếu đối với khu vực kinh tế
quốc doanh. Sự cạnh tranh diễn ra ngay giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành,
trong cùng một Bộ hay trong một địa phương, trong cùng một hình thức sở hữu;
cạnh tranh giữa hàng nội và hàng ngoại... Cùng với việc ban hành các chính sách
đổi mới quản lý kinh tế đã giảm dần những ưu đãi về đầu tư, về tín dụng và thực
hiện bình đẳng nghĩa vụ nộp thuế giữa các doanh nghiệp nhà nước và các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự phát triển
của nền kinh tế quốc dân. Cạnh tranh trên thị trường thực sự đã đem lại nhiều kết
quả tích cực. Nền kinh tế Việt Nam đã có những khởi sắc đáng mừng, hàng hóa trên
thị trường dồi dào và phong phú, người bán, người mua được tự do lựa chọn hàng
hóa và thỏa thuận giá cả trong trao đổi hàng hóa. Các doanh nghiệp đã tự vươn lên

13


đổi mới cơng nghệ, nâng cao trình độ quản lý, cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng
hàng hóa cho phù hợp với nhu cầu để đứng vững trong cạnh tranh. Hơn nữa, cơ cấu
kinh tế ở nước ta cho phép các doanh nghiệp thành lập nhiều trong một số ngành
cơng nghiệp nhẹ, giải trí, dịch vụ khiến cho sự cạnh tranh giữa các đối thủ ngày
càng trở nên gay go và quyết liệt. Cạnh tranh bắt đầu đem lại một sức sống mới cho
nền kinh tế xã hội. "Sức nóng" của thị trường cạnh tranh Việt Nam đã làm cho đời sống
kinh tế nước ta sôi động hẳn lên, mức sống của nhân dân ngày càng được cải thiện.
- Song, những khuyết tật vốn có của thị trường khơng thể không bộc lộ trong
thực tiễn. Bên cạnh những kết quả tích cực của thị trường hàng hóa đang diễn ra
một cuộc cạnh tranh sôi động không cân sức và khơng bình đẳng. Cùng với thời
gian và cùng với sự phát triển của nền kinh tế, những thủ đoạn cạnh tranh ngày càng

trở nên tinh vi và nguy hiểm gây ra hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng sâu sắc tới sự
ổn định của nền kinh tế Việt Nam cũng như sự sống cịn của một số ngành nội địa.
Có thể nhận thấy các thủ pháp kiểm soát độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh
sau đã trở nên phổ biến:
+ Hạn chế cạnh tranh (kiểm soát chống độc quyền): Hiện nay, một số doanh
nghiệp lạm dụng vị thế độc quyền hay vị thế thống lĩnh thị trường của mình để chèn
ép các doanh nghiệp khác, hạn chế các doanh nghiệp khác tham gia vào thị trường,
mặt khác có những trường hợp các doanh nghiệp này cùng nhau thỏa thuận với
nhau để cùng tăng giá. Trường hợp 11 doanh nghiệp đầu mối xăng dầu trong nước
(đều là doanh nghiệp quốc doanh), trong đó có Petrolimex chiếm 65% thị phần đột
ngột và đồng loạt tăng giá xăng dầu gần đây đã gây ra những phản ứng bức xúc
trong xã hội. Đây là mặt hàng từ lâu nay nhà nước quản lý và trực tiếp điều chỉnh
giá, tùy theo biên độ giá của thị trường thế giới. Nhưng sau khi nhà nước tuyên bố
trao quyền tự quyết giá cả cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, thì bức xúc
mới thực sự xảy ra. Bởi trước đó, khi Nhà nước quản lý giá xăng dầu bao giờ cũng
phải nghĩ đến lợi ích của xã hội, lợi ích vĩ mơ của nền kinh tế trong tương quan với
giá xăng dầu, trước khi nghĩ đến lợi ích các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu. Vì,
nói cho cùng, những doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, dù là doanh nghiệp nhà

14


nước, thì cũng khơng thể quan trọng hơn biết bao doanh nghiệp nhà nước khác cộng
với toàn xã hội sử dụng xăng dầu. Nếu trao quyền định giá cho doanh nghiệp kinh
doanh xăng dầu để giá cả trở nên cạnh tranh hơn, có lợi hơn cho người tiêu dùng .
Nhưng nếu trao quyền tự định giá xăng dầu trong lúc các doanh nghiệp nhà nước
này vẫn kinh doanh xăng dầu theo kiểu cũ, cung cách của kẻ độc quyền có sự bảo
hộ của Nhà nước mà khơng hề có một kế hoạch hay lộ trình kinh doanh thực sự thị
trường, nghĩa là chấp nhận cạnh tranh, vươn lên trong cạnh tranh. Nếu bây giờ, mặt
hàng kinh doanh xăng dầu không nằm trong danh mục "mặt hàng cấm kinh doanh

tự do" thì lẽ ra, để có một mặt bằng kinh doanh kinh doanh cạnh tranh lành mạnh,
một "sân chơi thị trường xăng dầu" đúng nghĩa thì Nhà nước phải cho phép các
thành phần kinh tế, kể cả tư nhân, được quyền nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu.
+ Cạnh tranh bằng giá cả: Bán phá giá là việc cung cấp hàng hóa hoặc dịch
vụ dưới giá trị bình thường của hàng hóa/ dịch vụ đó nhằm chiếm lĩnh thị phần và
dần đẩy đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường tiêu thụ. Trong cơ chế thị trường, nơi
mà quyền tự do kinh doanh được xác lập và bảo vệ thì nguyên tắc về việc tự do hình
thành và xác định giá hàng hóa, sản phẩm là điều đương nhiên và đó cũng là nguồn
sống của cơ chế thị trường. Trong giai đoạn đầu mới mở cửa thị trường, phương
thức cạnh tranh không lành mạnh bằng cách bán phá giá trở thành một cơng cụ hữu
hiệu của các hãng nước ngồi sử dụng để thâu tóm thị phần của các đối thủ cạnh
tranh Việt Nam. Các doanh nghiệp nước ngoài nhờ ưu thế về tài chính, kinh nghiệm
nên họ có thể tiến hành được những cuộc phá giá ngoạn mục và giành thắng lợi
vang dội trước sự bất lực của các doanh nghiệp trong nước mà Cocacola là một ví
dụ điển hình.
+ Cạnh tranh bằng khuyến mại quá lố:Lạm dụng thế mạnh tài chính, bên
cạnh việc bán phá giá, các doanh nghiệp nhiều vốn đang thi nhau tiến hành các
chiến dịch khuyến mãi với quy mô và giá trị ngày càng lớn, bỏ lại phía sau đường
đua là các doanh nghiệp có vốn ít đang lắc đầu chịu thua và mệt nhồi vì trượt dốc.
+ Cạnh tranh khơng lành mạnh qua hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn:Cạnh
tranh không lành mạnh thông qua phương thức này chủ yếu là việc làm nhái tên sản

15


phẩm chính hãng đang có trên thị trường. Từ khi Việt Nam tiến hành chính sách mở
cửa, hàng giả danh bắt đầu phát triển rầm rộ trên thị trường. Đầu tiên là các loại mỹ
phẩm với sản phẩm nhái Camay, Palmolive, Zest... Sau đó là các sản phẩm bắt
chước kiểu dáng của Cocacola, Pepsi. Có nhiều cách giả danh: nhái tên cơ sở sản
xuất, nhái tên sản phẩm, nhái mẫu mã bao bì. Trên thị trường trong nước đã xuất

hiện gần 30 dạng sản phẩm "nhái" theo kiểu dáng công nghiệp của công ty Lavie.
Một số cơ sở làm đề can giả đã phá vỡ hình tượng của lavie bằng cách đặt tên cho
hàng giả nhưng tên lai quen tai như Covie, La Lavie, Bavi, Lavierge. Việc này
không chỉ là mối hiểm họa đến nguồn doanh thu của công ty Lavie mà còn là mối
đe dọa đến sức khỏe của khách hàng. Việc nhái các nhãn hiệu nổi tiếng là một hành
vi ngày càng phổ biến trên thị trường. Nhãn hiệu nổi tiếng là một lợi thế cạnh tranh
vô cùng to lớn của các hãng sản xuất bởi khi nói đến tên nhãn hiệu này, người tiêu
dùng sẽ cảm nhận được ngay, phân biệt được tiềm lực, chất lượng, phương thức
phục vụ của sản phẩm này so với sản phẩm cùng loại mang nhãn hiệu khác.
+ Cạnh tranh không lành mạnh qua các hình thức khác: Có thể nói rằng,
trong điều kiện hiện nay, khi mà sự cạnh tranh trên tất cả các lĩnh vực ngày càng
mạnh mẽ và gay gắt hơn thì hình thức cạnh tranh qua giá hay qua khuyến mại
khơng cịn là phương thức cạnh tranh chiếm ưu thế nữa mà các công ty, doanh
nghiệp thường sử dụng các thủ pháp cạnh tranh không lành mạnh qua nhiều hình
thức khác tinh vi hơn.
Trong thời gian gần đây, dư luận khá ồn ào về chuyện nước tương có chứa
chất 3-MCPD có thể gây ưng thư cho người tiêu dùng. Việc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền kiểm tra một loạt các doanh nghiệp sản xuất nước tương và công bố
rộng rãi trên thông tin đại chúng tên các sản phẩm nước tương không đủ chất lượng
là nhằm đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng. Tuy nhiên, trường hợp công ty
Masan (chủ sản phẩm nước tương Chinsu) copy, trình bày lại và phân phát các bài
báo về 17 doanh nghiệp có sản phẩm chứa độc tố 3-MCPD gửi đi các nơi được xem
là một hành vi "cạnh tranh khơng lành mạnh". Trong mỗi phong bì của Cơng ty
Masan có một bức thư ngỏ gửi khách hàng của Masan giới thiệu về chất lượng của

16


×