Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo tại trường trung học thương mại twii

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.73 KB, 85 trang )

Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Hơn 17 năm chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường,
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đều phải đổi mới, trong đó có lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Đảng ta khẳng định vị trí, vai trị của giáo dục và đào tạo: "giáo dục và đào tạo cùng với
khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu" (1, tr. 85); "phát triển giáo dục và đào tạo là
một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là
điều kiện để phát huy nguồn nhân lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững" (1, tr. 86). Như vậy, giáo dục và đào tạo là một lĩnh vực
phải đổi mới, đồng thời nó lại là một nhân tố góp phần thúc đẩy quá trình đổi mới diễn ra
nhanh hơn, hiệu quả hơn.
Bước vào thế kỷ XXI, nền kinh tế thế giới chuyển sang kinh tế tri thức, đó là nền kinh tế
cơ bản dựa vào trí tuệ để phát triển. Động lực để phát triển kinh tế tri thức đó là giáo dục và
đào tạo. Đồng thời, với xu thế hội nhập quốc tế, Việt Nam phải nhanh chóng rút ngắn
khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực. Phát triển giáo dục và đào tạo sẽ góp
phần nhanh chóng rút ngắn khoảng cách đó.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục trung học chuyên nghiệp là một bộ phận rÊt
quan trọng, không thể thiếu trong hệ thống giáo dục quốc dân nhằm đào tạo nhân lực, tạo ra
những người thợ thực sự, góp phần đáp ứng nhu cầu nhân lực cho cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước.
Để phát triển giáo dục, ngoài yếu tố về số lượng thì chất lượng là nhân tố cơ bản. Vậy,
làm thế nào để nâng cao chất lượng đào tạo trong bối cảnh xã hội hố giáo dục? Đó là câu
hỏi lớn địi hỏi tồn xã hội phải tìm ra lời giải. Đề tài: M
" ột số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo tại Trường trung học Thương mại TWII"cũng là một hướng cụ thể để
đi tìm lời giải đó. Các giải pháp của đề tài có thể gợi ý hoặc vận dụng cho các trường trung
học chuyên nghiệp có cùng điều kiện hoặc những người quan tâm đến chất lượng đào tạo
trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng đào tạo trong các trường trung
học chuyên nghiệp nói chung và Trường trung học Thương mại TWII nói riêng nhằm tìm


kiếm những giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo trong giai đoạn hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng đào tạo trong các trường trung học
chuyên nghiệp nói chung và Trường trung học Thương mại TWII nói riêng.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài:


Các phương pháp được sử dụng để nghiên cứu đề tài là phương pháp thống kê, phương
pháp phân tích tổng hợp, phương pháp thực nghiệm...
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được kết cấu thành 3 chương sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng đào tạo.
Chương 2: Thực trạng chất lượng đào tạo tại Trường trung học Thương mại TWII.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng đào tạo tại Trường
trung học Thương mại TWII trong giai đoạn hiện nay.


Chương 1

mét số vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng đào tạo
1.1. Đặc điểm các yếu tố sáng tạo nên sản phẩm dịch vụ đào tạo
1.1.1. Đào tạo là một loại hình dịch vụ
Dịch vụ là khái niệm chỉ toàn bộ các hoạt động mà kết quả của chúng khơng tồn tại dưới
dạng hình thái vật thể. Hoạt động dịch vụ bao trùm lên tất cả các lĩnh vực với trình độ cao, chi
phối rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội, mơi trường của từng quốc gia, khu vực
nói riêng và tồn thế giới nói chung. Dịch vụ khơng chỉ bao gồm những lĩnh vực truyền thống
như: vận tải, du lịch, thương mại, ngân hàng, bưu điện, bảo hiểm, thông tin liên lạc mà dịch
vụ còn lan toả đến các khu vực rất mới như: bảo vệ mơi trường, văn hố, hành chính, tư vấn
pháp luật, tình cảm...
Dịch vụ là làm một cơng việc cho người khác hay cộng đồng, là một việc mà hiệu quả của

nó đáp ứng một nhu cầu nào đó của con người, như: vận chuyển, cung cấp nước, đón tiếp, sửa
chữa và bảo dưỡng các thiết bị máy móc hay cơng trình... (3, tr.7).
Một định nghĩa khác, dịch vụ là một hoạt động hay cung ứng nhằm để trao đổi, chủ yếu
là vơ hình và khơng dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu. Việc thực hiện dịch vụ có thể gắn
liền hoặc khơng gắn liền với sản phẩm vật chất (3, tr.7).
Như vậy, có thể định nghĩa dịch vụ một cách chung nhất: dịch vụ là những hoạt động lao
động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng hố khơng tồn tại dưới hình thái vật thể,
không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu nhằm thoả mãn kịp thời các nhu cầu sản xuất và
đời sống sinh hoạt của con người.
Giáo dục cũng là dịch vụ, người sử dụng dịch vụ phải trả chi phí (người học), họ có
quyền tìm trường tốt, thầy giỏi, chi phí hợp lý để học tập.
Đào tạo là một loại hình dịch vụ, bởi vì sản phẩm đào tạo có đầy đủ các đặc điểm của sản
phẩm dịch vụ nói chung.
Thứ nhất: sản phẩm đào tạo có tính vơ hình. Khi chưa được đào tạo, người học sẽ khơng
nhìn thấy được kết quả đào tạo, điều đó chỉ có thể nhận biết khi giáo viên giảng bài. Thậm
chí có thể đến khi làm việc thực tế mới đánh giá chính xác kết quả đào tạo.
Thứ hai: sản phẩm đào tạo mang tính đồng thời. Q trình dạy và học là ln gắn kết
chặt chẽ với nhau cả về thời gian và khơng gian. Mặc dù, ngày nay, người học có thể học
qua băng hình, qua Internet, nên có sự tách rời giữa giáo viên với người học. Tuy nhiên, khi
người học mở băng hình ra nghe giảng thì quá trình dạy và học lúc này lại gắn liền với
nhau.
Thứ ba: sản phẩm đào tạo có tính khơng ổn định và khó xác định chất lượng. Cũng
người thầy đó, nhưng ở các buổi giảng khác nhau thì có chất lượng giảng dạy khác nhau.


Chất lượng giảng dạy của người thầy khó đánh giá một cách chính xác, vì có khi thầy
giảng rất tốt nhưng trị lại khơng tiếp thu được và ngược lại. Cùng một thầy giảng mà có
học sinh tiếp thu tốt, có học sinh lại cho là thầy giảng dở, tuỳ thuộc vào khả năng tiếp thu
của học sinh. Điểm số là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá chất lượng đào tạo, nhưng việc
xác định điểm số một cách chính xác là rất khó khăn.

Thứ tư: sản phẩm đào tạo không lưu giữ được. Giữa dạy và học luôn gắn kết với nhau,
đã có q trình học có nghĩa đồng thời xuất hiện q trình dạy. Sẽ khơng xảy ra trường hợp
thầy dạy lúc này mà trò nghe lúc khác và ngược lại. Dẫu nghe giảng qua mạng chăng nữa
thì cũng đồng thời thầy giảng, trị nghe.
1.1.2. Đặc điểm của các yếu tố tạo nên dịch vụ đào tạo
Dịch vụ đào tạo cũng như chất lượng của nó, được hình thành từ 4 yếu tố cơ bản sau đây:
giáo viên, cơ sở vật chất, khách hàng (học sinh) và tổ chức quản lý quá trình đào tạo.
Đội ngũ giáo viên là yếu tố đầu tiên, có tính quyết định đến việc hình thành dịch vụ
đào tạo. Giáo viên hướng dẫn học sinh học tập, nghiên cứu khoa học, truyền thụ kiến thức,
đó chính là cơ sở chủ yếu tạo nên chất lượng dịch vụ. Do đối tượng tác động của người giáo
viên là học sinh, là những con người, nên khơng chỉ dạy cho họ kiến thức, ngồi dạy chữ thì
cịn phải dạy người. Nếu đã dạy người thì ngồi kiến thức chun mơn, giáo viên cịn phải
hiểu biết rất nhiều khoa học liên quan đến con người, như: tâm lý giao tiếp, xử lý tình
huống, nghệ thuật, văn hố, xã hội... Khơng chỉ phải hiểu biết, có những lĩnh vực giáo viên
phải rèn luyện mới có, như: đạo đức, tác phong, lối sống, phương pháp công tác... Những
vấn đề này tác động đến học sinh không phải qua giảng dạy, mà qua tấm gương làm việc và
sinh hoạt của người giáo viên. Giáo viên kiến thức chuyên môn tốt, nếu tư cách đạo đức xấu
thì khó có thể đào tạo những người học sinh giỏi toàn diện được. Khi giáo viên khơng được
học sinh tơn trọng thì tiếng nói của họ khơng có sức thuyết phục, hấp dẫn học sinh học tập
và rèn luyện. Ngoài học kiến thức chun mơn, họ cịn học cả tác phong, lối sống của giáo
viên, do đó, vị trí của giáo viên trong q trình hình thành chất lượng đào tạo là có tính
quyết định.
Cơ sở vật chất là yếu tố điều kiện để hình thành dịch vụ đào tạo. Cơ sở vật chất trong
đào tạo bao gồm: trường lớp, phòng thực hành, thư viện, hệ thống giáo trình, tài liệu tham
khảo... Cơ sở vật chất cịn bao gồm các yếu tố hình thành nên môi trường cho học sinh, như:
cảnh quan, môi trường, khơng gian vui chơi, giải trí... Qua đây, chúng ta nhận thấy cơ sở vật
chất tạo nên dịch vụ đào tạo rất đa dạng, phức tạp và nếu không đầy đủ hoặc khơng đồng bộ
thì rất khó hình thành dịch vụ đào tạo có chất lượng. Trong yếu tố cơ sở vật chất thì có
những yếu tố rất "động", như: giáo trình, tài liệu, hệ thống bài thực hành, bài tập. Các yếu tố
này thường xuyên thay đổi, đòi hỏi nhà trường phải không ngừng biên soạn, tu chỉnh, cập



nhật để đảm bảo tính chính xác, phù hợp của kiến thức theo thời gian. Đây là một việc làm
mất nhiều thời gian và chi phí của một nhà trường. Tuy nhiên, nếu khơng làm tốt thì sẽ ảnh
hưởng lớn đến chất lượng dịch vụ đào tạo. Trong chương trình mơn học, theo quy định của
Nhà nước thì có 30% số tiết "phần mềm" do trường xây dùng cho phù hợp với sự phát triển
kinh tế xã hội của từng vùng, nếu nhà trường làm tốt 30% này thì học sinh ra trường sẽ có
kiến thức phù hợp hơn với điều kiện kinh tế xã hội của khu vực đó.
Dịch vụ đào tạo không chỉ do bên cung ứng quyết định, mà còn phụ thuộc rất lớn vào
bên tiêu dùng (học sinh). Số lượng và chất lượng dịch vụ đào tạo phụ thuộc rất lớn vào
người tiếp nhận. Khả năng tiếp thu của học sinh ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo;
cùng một giáo viên giảng dạy, nhưng do khả năng tiếp thu khác nhau nên chất lượng học tập
của mỗi học sinh cũng khác nhau. Ngoài khả năng tiếp thu kiến thức, muốn đạt kết quả học
tập cao, người học phải say mê với việc học tập. Một học sinh khả năng tiếp thu tốt nhưng
anh ta khơng thích học thì làm sao kiến thức tự nó vào đầu anh ta được, càng không thể biến
kiến thức của giáo viên thành kiến thức thực sự của người học. Mặt khác, chất lượng đào
tạo phụ thuộc rất lớn vào quá trình tự học, tự nghiên cứu của học sinh. Khi một học sinh đã
xác định được động cơ học tập, họ sẽ xây dựng kế hoạch tự học tập, nghiên cứu; với nghị
lực và tính tự chủ, năng động của mình, họ sẽ góp phần rất lớn vào kết quả đào tạo. Đây là
nỗ lực chủ quan của học sinh, rất Ýt sự tác động của giáo viên. Với đối tượng là những
người đang công tác tại các cơ quan, doanh nghiệp, họ rất hiểu mình cần những kiến thức
gì, vì thế tính chủ động tự giác trong học tập của họ rất cao. Tuy là vừa học vừa làm nhưng
có những học sinh học tập rất tốt, thậm chí chất lượng cịn cao hơn cả học sinh chính quy.
Học sinh chính quy, vừa tốt nghiệp phổ thơng trung học, do đó nhận thức về xã hội nói
chung và nhận thức về nghề nghiệp nói riêng cịn rất hạn chế, nhiều học sinh chưa xác định
đúng động cơ và thái độ học tập, nên sự nỗ lực và kết quả học tập thấp. Khác với các dịch
vụ thông thường, người học sẽ nâng cao chất lượng dịch vụ đào tạo bằng q trình cơng tác
và do cơng nhu cầu hiểu biết. Lúc này, người lao động sẽ tự học tập, đây là một quá trình
nâng cao chất lượng dịch vụ đào tạo rất cơ bản và lâu dài. Nhà trường chỉ trang bị những
kiến thức cơ bản, quan trọng hơn đó là trang bị về phương pháp luận để người học tự học

tập. Đó chính là quan niệm học suốt đời.
Tổ chức quản lý quá trình đào tạo là một nhân tố hình thành nên dịch vụ đào tạo. Đây
là một yếu tố rất quan trọng, bởi vì yếu tố này là cơ sở, là cách để kết dính 03 yếu tố trên lại
với nhau. Khơng chỉ có thế, nó cịn kết hợp sao cho phát huy được sức mạnh của các yếu tố
đó một cách hiệu quả nhất, tức là tạo ra dịch vụ đào tạo có chất lượng cao nhất.
Tổ chức quản lý trong nhà trường đó chính là hình thành nên cơ cấu bộ máy bao gồm các
phịng, tổ; bố trí nhân viên ở các phòng, tổ và xác định nhiệm vụ cho họ; quy định mối quan


hệ dọc, ngang trong hệ thống tổ chức. Từ đó mỗi bộ phận, cá nhân sẽ xác định công việc
của mình qua bản mơ tả cơng việc. Cơng tác tổ chức quản lý càng khoa học, chặt chẽ thì
làm cho vận hành của nhà trường càng trơn tru, đều đặn, có trật tự, từ đó cơng việc được
giải quyết một cách nhanh nhất, tiết kiệm nhất và có kết quả cao nhất.
Xây dùng quy chế làm việc của các phòng, tổ; quy chế phối hợp giữa các phịng, tổ; trình
tự giải quyết cơng việc ở các phịng, tổ; xây dựng cơ chế "một cửa" chính là cụ thể hố cơng
tác tổ chức quản lý trong nhà trường, nhằm tạo ra sản phẩm dịch vụ đào tạo có chất lượng.
1.1.3. Đặc điểm của sản phẩm dịch vụ đào tạo
1.1.3.1. Tính vơ hình
C. Mác chỉ rõ: "Trong những trường hợp mà tiền được trực tiếp trao đổi lấy một lao động
không sản xuất ra tư bản, tức là trao đổi lấy lao động khơng sản xuất, thì lao động đó được
mua với tư cách là một sự phục vụ... lao động đó cung cấp nhưng sự phục vụ không phải
với tư cách là một đồ vật, mà với tư cách là một sự hoạt động" (3, trang 8)
Dịch vụ đào tạo cũng có tính vơ hình. Người học sinh khơng thể biết trước được nhận
thức của mình khi chưa vào giảng đường nghe giảng viên giảng bài; họ không thấy được
kiến thức trình bày và chất lượng giảng dạy của giáo viên. Người tiêu dùng dịch vụ (học
sinh) buộc phải tin vào người cung cấp dịch vụ - người mua buộc phải tin vào người bán.
Để giảm bớt sự không chắc chắn khi mua dịch vụ, người mua phải tìm kiếm các dấu hiệu
chứng tỏ chất lượng dịch vụ cung ứng đó như: thương hiệu, biểu tượng, giá cả. Về phía
người cung ứng dịch vụ, để củng cố niềm tin cho khách hàng đối với mình, có thể thi hành
một loạt các biện pháp cụ thể như:

- Có thể tăng tính hữu hình của dịch vụ.
- Có thể khơng chỉ mơ tả dịch vụ của mình mà cịn làm khách hàng chú ý đến lợi Ých có
liên quan đến dịch vụ đó.
- Có thể nghĩ ra tên gọi cho các dịch vụ của mình một cách gợi cảm.
- Có thể mời một người nổi tiếng nào đó tham gia tuyên truyền dịch vụ của mình để tăng
độ tin tưởng cho người tiêu dùng.
1.1.3.2. Tính đồng thời của sản xuất và tiêu dùng dịch vụ
Quá trình sản xuất và tiêu thụ dịch vụ diễn ra đồng thời. Khác với sản xuất vật chất, sản
xuất dịch vụ không thể sản xuất để sẵn vào kho, sau đó mới tiêu thụ. Dịch vụ khơng thể tách
rời khỏi nguồn gốc của nó, trong khi hàng hố vật chất tồn tại khơng phụ thuộc vào sự có
mặt hay vắng mặt nguồn gốc của nó. Đối với dịch vụ đào tạo, quá trình dạy và học diễn ra
đồng thời.
Do đặc điểm này, nhiều công ty cung ứng dịch vụ thường áp dụng một số chiến lược điều
hoà tốt nhất cung và cầu theo thời gian.


Những chiến lược liên quan đến cầu:
- Việc xác định giá dịch vụ cao thấp khác nhau có thể dịch chuyển một phần nhu cầu từ
giờ cao điểm sang giờ vắng khách. Ví dụ: vé xem biểu diễn ban ngày rẻ hơn vé xem buổi
tối; cước các dịch vụ viễn thông (kể cả Internet) được giảm giá vào các ngày lễ, thứ bảy,
chủ nhật.
- Có thể chủ động làm tăng nhu cầu vào thời kỳ suy giảm bằng cách giảm giá dịch vụ và
hoạt động vào thời gian rỗi của người lao động.
- Trong những thời gian nhu cầu đạt mức cực đại, nên bổ sung thêm dịch vụ khác để
những khách hàng đang chờ có thể sử dụng. Ví dụ: tổ chức các quầy giải khát, quầy bán báo
cho những khách hàng đang chờ đợi.
- Mét trong những phương thức quản lý nhu cầu có hiệu quả là áp dụng hệ thống đặt hàng
trước, như đặt vé máy bay, đặt phòng ở khách sạn...
Những chiến lược liên quan đến cung:
- Để phục vụ khách hàng vào giờ cao điểm có thể huy động tăng nhân viên từ các bộ

phận khác.
- Có thĨ quy định chế độ làm việc đặc biệt trong giê cao điểm. Vào những lúc này, các
nhân viên chỉ làm những nhiệm vụ cần thiết nhất.
- Có thể xây dựng chương trình phối hợp để cung ứng cho những khách hàng cùng mua
những dịch vụ giống nhau như trong trường hợp sinh viên cùng mua những bộ sách giống
nhau phục vụ cho học tập.
- Có thể thi hành những biện pháp nhằm tạo điều kiện tăng năng lực hiện có, như cơng
viên giải trí th những khu đất ở xung quanh để mở rộng thêm các hoạt động vui chơi giải
trí.
1.1.3.3. Tính khơng ổn định và khó xác định chất lượng
Chất lượng dịch vụ dao động trong một khoảng rất rộng, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh tạo ra
dịch vụ như: người cung ứng, thời gian, địa điểm cung ứng, tâm lý của người tiếp nhận
dịch vụ. Cùng một giáo viên, nhưng tuỳ theo tình trạng sức khoẻ, tâm lý mà có tiết giảng
rất hay và ngược lại; học vào buổi sáng thì chất lượng thường cao hơn buổi tối; phòng học,
bàn ghế, ánh sáng ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ đào tạo; tình trạng sức khoẻ, tâm lý
học sinh ảnh hưởng đến khả năng tiếp nhận của học sinh.
1.1.3.4. Tính khơng lưu giữ được
Dịch vụ khơng thể lưu giữ được. Quá trình dạy (cung cấp dịch vụ) và học (tiếp nhận
dịch vụ) diễn ra đồng thời. Tính khơng lưu giữ được của dịch vụ khơng phải là vấn đề lớn
nếu nhu cầu ổn định, được biết trước. Nhưng thực tiễn nhu cầu dịch vụ không ổn định, ln
dao động thì nhà cung ứng dịch vụ sẽ gặp những vấn đề trở ngại về mức độ sử dụng nhân


lực và cơ sở vật chất kỹ thuật. Khó khăn này đòi hỏi các tổ chức kinh doanh dịch vụ phải tổ
chức tốt công tác nghiên cứu nhu cầu, xây dựng kế hoạch hoạt động sát với tình hình thực
tế; đồng thời, phải chủ động san sẻ các nguồn lực giữa các bộ phận trong một hệ thống để
khai thác tiết kiệm các nguồn lực của tổ chức.
1.2. Quan điểm về chất lượng dịch vụ đào tạo và các chỉ tiêu đánh giá chất lượng
1.2.1. Quan điểm đánh giá chất lượng dịch vụ đào tạo
Do tính vơ hình nên chất lượng dịch vụ rất khó xác định. Vì dịch vụ không "biểu hiện"

như các sản phẩm vật chất nên không thể trưng bày, không thể chứng minh hay biểu hiện
cho người tiêu dùng thấy, nên người tiêu dùng rất khó đánh giá được chất lượng. Mặt khác,
quá trình tạo ra dịch vụ và tiêu dùng dịch vụ đồng thời nên người tiêu dùng dịch vụ cũng
tham gia vào quá trình tạo ra sản phẩm dịch vụ. Điều đó dẫn tới giá trị và chất lượng dịch vụ
không chỉ do người cung ứng dịch vụ quyết định mà còn chịu ảnh hưởng của người tiêu
dùng dịch vụ. Chất lượng dịch vụ do đó chỉ có thể đánh giá đầy đủ sau khi đã tiêu dùng sản
phẩm dịch vụ. Song việc mua sản phẩm dịch vụ lại diễn ra trước nên người tiêu dùng dịch
vụ thường dựa vào các thông tin về sản phẩm dịch vụ của người cung ứng dịch vụ, vào thâm
niên, tiếng tăm của người cung ứng, những mặt hữu hình và kinh nghiệm của bản thân
người tiêu dùng sản phẩm dịch vụ. Khách hàng đánh giá chất lượng dịch vụ đào tạo phải
căn cứ vào các yếu tố:
- Chất lượng dịch vụ cung cấp luôn ổn định, không có sai sót.
- Đảm bảo yêu cầu về khoa học, cập nhật, phù hợp với yêu cầu sử dụng của thực tiễn.
- Có đầy đủ cơ sở vật chất kỹ thuật, địa điểm thuận lợi, khang trang đẹp đẽ, trang thiết bị
hiện đại.
- Khả năng thành thạo và hiểu biết tốt của giáo viên trong chuyên môn, nghiệp vụ cũng
như khả năng giao tiếp, phong cách làm việc.
- Sẵn sàng đáp ứng kịp thời và đúng lúc các dịch vụ cho học sinh.
- Tính trung thực và uy tín của nhà trường đối với khách hàng.
- Từ đó quản điểm cơ bản để đánh giá chất lượng dịch vụ đào tạo là: quan điểm chất
lượng trong con mắt khách hàng.
Cũng như hàng hố hữu hình, người mua dịch vụ là nhằm thoả mãn một nhu cầu nào đó
của họ. Nếu dịch vụ thoả mãn nhu cầu khách hàng có nghĩa là dịch vụ đó có chất lượng;
mức độ thoả mãn càng cao thì cũng đồng nghĩa với chất lượng dịch vụ càng cao. Dịch vụ
đào tạo muốn tiêu thụ được, trước hết phải được khách hàng chấp nhận. Nếu học sinh khơng
chấp nhận chương trình nội dung đào tạo, tổ chức q trình đào tạo thì nhà trường khơng thể
thực hiện quá trình giảng dạy. Khi học sinh ra trường, họ lại đưa kiến thức và tay nghề ra áp
dụng vào kinh doanh, nếu họ mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp, thì họ sẽ được chủ doanh



nghiệp thừa nhận (mua sức lao động); dịch vụ đào tạo của nhà trường phải dựa vào nhu cầu
người học và doanh nghiệp sử dụng lao động. Vì vậy, bằng nhiều con đường khác nhau, nhà
trường phải tìm cách thoả mãn nhu cầu học tập của học sinh và phải giảng dạy những kiến
thức mà thực tế doanh nghiệp cần.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng đào tạo
Trong kinh doanh, doanh nghiệp biết quản lý chất lượng sẽ mang lại thành cơng. Bởi vì,
chất lượng là cái mà khách hàng muốn, đó là mức độ hồn hảo của một sản phẩm hoặc dịch
vụ mà khách hàng nhận thức được. Vì thế, để hiểu chất lượng nào cần cho doanh nghiệp, cần
phải biết ai là khách hàng, nhu cầu và kỳ vọng của họ là gì.
Chất lượng đào tạo là cái mà người học mong muốn, là lý do để họ bỏ tiền ra theo đuổi,
và cũng như trong kinh doanh, chất lượng đào tạo là cái mang lại thành cơng cho một nhà
trường. Vì thế, đó là mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ một cơ sở đào tạo nào.
Tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng đào tạo chính xác nhất đó là sự khẳng định của người
sử dụng lao động. Tuy nhiên, dẫu mới chỉ là giai đoạn đầu tiên thì các cơ sở đào tạo vẫn
phải đi tìm các chỉ tiêu đánh giá chất lượng đào tạo.
Chất lượng đào tạo thường được đánh giá bằng các chỉ tiêu cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Đội ngũ giáo viên giảng dạy.
Đội ngũ giáo viên thể hiện bằng số lượng và chất lượng giáo viên. Chất lượng giáo viên
thể hiện ở trình độ chun mơn nghiệp vụ, thâm niên giảng dạy và các cơng trình nghiên
cứu khoa học.
Số lượng giáo viên có liên quan đến chất lượng đào tạo của nhà trường. Theo quy định
của Nhà nước (dự thảo "Quy định về chế độ công tác giáo viên" số 9294/TCCB ngày
19/9/2003 của Bộ Giáo dục và Đào tạo), đối với học sinh nghề thì 25 học sinh/ 1 lớp học
(tương đương 1 giáo viên/ 1 líp). Như vậy, giáo viên có điều kiện học tập, nghiên cứu, biên
soạn giáo trình, hệ thống bài thực hành, bài tập... để làm cơ sở cho việc giảng dạy có chất
lượng.
Trình độ chun môn nghiệp vụ của đội ngũ giáo viên trước hết được thể hiện ở trình độ
học vấn. Giáo viên có trình độ học vấn cao thì kiến thức càng phong phú, phương pháp
nghiên cứu càng khoa học và do đó khả năng giảng dạy sẽ tốt hơn.
Số lượng các công trình nghiên cứu khoa học của đội ngũ giáo viên (cấp trường, cấp bộ,

cấp ngành) là chỉ tiêu có liên quan trực tiếp đến chất lượng đào tạo. Bởi vì chỉ tiêu này nói
lên khả năng nghiên cứu, khả năng tiếp cận thực tế của đội ngũ giáo viên trong nhà trường.
Kết quả các cơng trình nghiên cứu sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng giáo
trình, một trong những nhân tố cơ bản để đảm bảo chất lượng đào tạo.


Ngồi ra, tỷ lệ các cơng trình xuất bản (các cuộc trình diễn, triển lãm) trên đầu giáo viên
cũng nói lên nói lên năng lực chun mơn, bề dày kiến thức của đội ngũ cán bộ, giáo viên
trong nhà trường.
Phương pháp giảng dạy của giáo viên là con đường để dẫn kiến thức đến với học sinh.
Nếu phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng, nội dung môn học thì học sinh tiếp thu
kiến thức dễ dàng, hứng thú trong học tập và đạt kết quả cao. Điều quan trọng hơn là
phương pháp giảng dạy của giáo viên sẽ hình thành phương pháp cơng tác của học sinh kể
cả khi đang học tại trường và cả sau khi ra trường. Q trình giảng dạy của giáo viên đóng
vai trị quan trọng trong việc hình thành phương pháp cơng tác của người lao động trong
tương lai. Khi còn ở trường, nếu có phương pháp tốt, học sinh sẽ có kết quả học tập cao
hơn.
Thâm niên giảng dạy là chỉ tiêu nói lên vốn kinh nghiệm của giáo viên. Một giáo viên
mới lên lớp thì chưa thể giảng dạy có chất lượng được. Bởi vì ngồi kiến thức chun mơn,
để giảng dạy tốt giáo viên còn phải biết kiến thức của các mơn học có liên quan; đồng thời,
giáo viên phải có kinh nghiệm trong việc xử lý các tình huống giao tiếp với học sinh, vì học
sinh trước hết là những con người. Những kinh nghiệm này phải trải qua giảng dạy mới
được hình thành. Cũng qua thâm niên giảng dạy mới hình thành phong thái chững chạc, tự
tin và chuẩn mực, đây là yếu tố quan trọng để tạo ra niềm tin cho người học, nhờ đó mà học
sinh học tập nhiệt tình, hăng say hơn.
Thứ hai: cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy, học tập
Đây là những yếu tố làm cơ sở cho việc dạy tốt, học tốt. Để phục vụ dạy tốt, học tốt thì
hệ thống phịng học phải rộng rãi, thống mát, có đủ bàn ghế cho 2 học sinh/ 1 bàn và đảm
bảo ánh sáng; các thiết bị phục vụ cho giảng dạy, như: bảng viết, đèn chiếu, máy chiếu đa
năng, máy tính xách tay... phải đầy đủ và thuận tiện cho giáo viên lắp đặt, sử dụng. Các thiết

bị giảng dạy là cơ sở để giáo viên áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực, giảm bớt
ghi chép và tăng cường tính chủ động của học sinh trong giờ học.
Hệ thống giáo trình, bài thực hành, bài tập là yếu tố vật chất cơ bản phục vụ học sinh học
tập; có giáo trình, học sinh sẽ đọc trước bài giảng và giảm được rất nhiều thời gian ghi bài;
giáo viên dành nhiều thời gian đi sâu phân tích, liên hệ thực tế và tăng thời gian làm bài tập
để củng cố lý thuyết đã học. Có giáo trình sẽ có kiến thức chuẩn cho học sinh học tập, tránh
sự không thống nhất về nội dung kiến thức giữa các giáo viên cùng dạy một môn học hoặc
giữa các giáo viên dạy các mơn học có những nội dung liên quan với nhau.
Số đầu sách, tạp chí trên đầu học sinh là một chỉ tiêu biểu hiện một khía cạnh của chất
lượng đào tạo. Bởi vì, sách và tạp chí là nguồn thơng tin để học sinh nghiên cứu, tham khảo
nhằm hiểu rõ hơn, sâu hơn những nội dung đã được giáo viên trình bày; đồng thời cập nhật


những thơng tin mới nhất mà giáo trình chưa kịp tu chỉnh, bổ sung, nhằm hoàn thiện kiến
thức cho học sinh. Hiện nay, việc tự học tập, nghiên cứu của học sinh đóng vai trị rất quan
trọng trong việc hình thành kiến thức của họ, vì thế việc trang bị đầy đủ sách báo, tạp chí
phục vụ học sinh là rất cần thiết.
Thứ ba: kết quả học tập và rèn luyện của học sinh
Trong phạm vi nhà trường, chỉ tiêu kết quả học tập và rèn luyện của học sinh là chỉ tiêu
cơ bản để đánh giá chất lượng đào tạo. Kết quả học tập của học sinh thể hiện trước hết ở tỷ
lệ học sinh tiên tiến, giỏi, xuất sắc từng học kỳ, năm học, cả khoá học. Đây là chỉ tiêu tổng
hợp, nói lên trình độ kiến thức của học sinh, được đánh giá bằng điểm số. Điểm số được coi
như mức chất lượng đào tạo của mỗi học sinh, là cái tem chất lượng được người cung ứng
giám định và nhà doanh nghiệp sẽ nhìn vào đó để làm một căn cứ quan trọng khi tuyển dụng
lao động. Đánh giá kết quả theo môn học cho thấy sở trường học tập của từng học sinh, mức
độ đồng đều giữa các môn; đánh giá theo năm học cho thấy qúa trình phấn đấu của mỗi học
sinh, mức độ đồng đều trong các học kỳ; đánh giá theo tỷ lệ tốt nghiệp cho thấy kết quả của
quá trình đào tạo, chất lượng thực hành và khả năng nắm bắt thực tế khi đi thực tập tốt
nghiệp.
Xếp loại đạo đức của học sinh đánh giá mức độ rèn luyện của học sinh trong việc chấp

hành nội quy, quy chế của nhà trường, của ngành; đánh giá khả năng tham gia vào các hoạt
động tập thể... Đây là môi trường để xây dựng đạo đức nghề nghiệp của người lao động.
Nói đến chất lượng đào tạo khơng thể chỉ nói đến trình độ chun mơn học sinh đạt được,
mà cịn phải nói đến lập trường tư tưởng, quan điểm của học sinh. Bởi vì lập trường tư
tưởng là định hướng cho hành động, đồng thời nếu nó đúng đắn thì sẽ là động lực thúc đẩy
hành động. Trong giai đoạn hiện nay thì cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng cho học sinh
phải đặt lên hàng đầu.
Ngoài ra chất lượng đào tạo còn thể hiện ở các chỉ tiêu: tỷ lệ tốt nghiệp trên số lượng học
sinh năm cuối, chỉ tiêu này cho phép đánh giá chất lượng của học sinh trong năm học cuối
như thế nào? Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cơ bản của từng học sinh khi ra trường; tỷ lệ
tốt nghiệp trên số học sinh nhập học đầu khoá, chỉ tiêu này cho phép đánh giá mức độ kiên
trì phấn đấu của mỗi học sinh, tỷ lệ học sinh rơi rụng trong khoá học, kiến thức truyền đạt
cho học sinh trong khoá học. Tuy nhiên, để đánh giá toàn diện kết quả học tập và rèn luyện
của học sinh, trong phạm vi nhà trường, phải đánh giá trên cả 3 mặt: đánh giá đầu vào; đánh
giá quá trình và đánh giá kết quả.
Thứ tư: tỷ lệ học sinh tìm được việc làm phù hợp sau khi ra trường
Đây là chỉ tiêu cuối cùng đánh giá chất lượng đào tạo, là sự đánh giá của xã hội về
chất lượng đào tạo của nhà trường. Suy cho cùng thì sự đánh giá của người sử dụng lao


động do nhà trường đào tạo là quan trọng nhất, bởi vì họ là cơ sở hình thành nhu cầu đào
tạo, là cái cớ khách quan cho sự tồn tại và phát triển của nhà trường.
Nếu tỷ lệ học sinh tìm được việc làm phù hợp sau khi ra trường càng lớn thì chất lượng
đào tạo của nhà trường càng cao. Học sinh các khoá đào tạo trước đây, được nhận vào làm ở
các doanh nghiệp, vì họ làm việc có hiệu quả nên tạo ra uy tín cho nhà trường; vì thế, các
khố sau ra trường sẽ tìm được việc làm nhiều hơn. Lao động do trường đào tạo được doanh
nghiệp sử dụng càng nhiều có nghĩa mức độ thoả mãn nhu cầu xã hội càng lớn.
Sự đánh giá của xã hội là cơng bằng chính xác nhất. Có nhiều trường trung học cùng đào
tạo một chuyên ngành, doanh nghiệp nhận học sinh của các trường, do đó họ có cơ hội so
sánh, đánh giá chất lượng đào tạo giữa các trường một cách công bằng. Nếu nhà trường

đánh giá chất lượng đào tạo thì đó mới là sự đánh giá ban đầu, chưa có cơ sở thực tế; nếu
học sinh đánh giá chất lượng đào tạo thì phần lớn nặng về cảm tính và thiếu cơ sở khoa học;
nhưng doanh nghiệp đánh giá chất lượng đào tạo thì độ chính xác cao nhất, vì họ trải qua
một q trình sử dụng lao động vào thực tế và đã được thực tế trả lời bằng hiệu quả kinh
doanh.
Những học sinh tìm được việc làm nhưng doanh nghiệp phải tiếp tục bồi dưỡng hoặc cho
học thêm về tay nghề để có thể làm tốt cơng việc được giao thì có nghĩa là chất lượng đào
tạo của nhà trường chưa phù hợp với thực tế. Chẳng hạn, có những học sinh chuyên ngành
xăng dầu phải mất một thời gian mới làm quen với máy móc thiết bị ở doanh nghiệp, có nghĩa
là quá trình thực hành nghề nghiệp tại trường chưa tốt.
1.3. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo trong các trường trung
học chuyên nghiệp
1.3.1. Chất lượng học sinh đầu vào
Đối tượng tuyển sinh ở các trường trung học chun nghiệp có trình độ văn hố tốt
nghiệp phổ thông trung học hoặc phổ thông cơ sở. Hai đối tượng này có khả năng tiếp thu
khác nhau do trình độ văn hố và nhận thức xã hội khác nhau. Đối với đào tạo chuyên
nghiệp thì kiến thức khác với kiến thức phổ thông. Để tiếp thu tốt kiến thức chun mơn
nghiệp vụ, địi hỏi học sinh phải có nhận thức xã hội, nhất là các chuyên ngành kinh tế,
thương mại, dịch vụ, quản trị. Học sinh tốt nghiệp phổ thơng cơ sở thì ngồi trình độ văn
hố, nhận thức xã hội của họ còn rất hạn chế, vì thế việc tiếp thu kiến thức bậc trung học
chuyên nghiệp sẽ gặp khó khăn.
Nhận thức xã hội của học sinh đầu vào phụ thuộc rÊt lớn vào địa phương mà học sinh đó
sinh sống và học tập trước khi vào trường trung học chuyên nghiệp. Nếu tuyển được những
học sinh thành phố, thị xã hoặc đồng bằng thì mức độ tiếp thu sẽ cao hơn nhiều so với học
sinh nông thôn, miền núi hoặc vùng sâu vùng xa. Ngay khi mới vào trường, nếu khả năng


tiếp thu tốt thì sinh viên sẽ hiểu từ những bài đầu tiên, thuận lợi cho cả quá trình học tập sau
này, vì kiến thức của các mơn học có tính hệ thống và quan hệ chặt chẽ với nhau.
1.3.2. Trình độ, kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy của giáo viên

Dạy học là quá trình người thầy truyền đạt cho học sinh hệ thống những tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo nhằm phát triển năng lực trí tuệ và hình thành thế giới quan cho họ. Đối tượng của
quá trình dạy học là học sinh - con người với sự đa dạng về nhận thức, quan điểm, tình
cảm... làm cho q trình dạy học trở thành hoạt động rất khó khăn và phức tạp. Người thầy
không thể dạy tốt được nếu chỉ nắm vững kiến thức của một môn học, có nghĩa là ngồi
kiến thức của mơn học người thầy phải hiểu biết nhiều lĩnh vực khác như: kiến thức của các
mơn học khác có liên quan, kiến thức về tâm lý, giao tiếp, xử lý các tình huống sư phạm...
Vì vậy, đối với giáo viên, thời gian và kinh nghiệm giảng dạy là một vốn q, có vai trị rất
lớn trong việc nâng cao chất lượng đào tạo.
Giảng dạy là quá trình truyền đạt tri thức, vấn đề quan trọng là người thầy phải nắm vững
kiến thức; biết mười dạy một, hai là thể hiện người thầy có kiến thức. Tuy nhiên, vấn đề
quan trọng hơn là phải làm cho kiến thức của thầy trở thành kiến thức của trị, có nghĩa là
trị phải tiếp thu tốt kiến thức của thầy. Điều này có quan hệ mật thiết đến phương pháp
giảng dạy. Phương pháp dạy học là tổng hợp các cách thức tác động của giáo viên và học
sinh nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học. Phương pháp giảng dạy được quy định bởi
nội dung dạy học, nói cách khác, nội dung dạy học chi phối việc lựa chọn và vận dụng phối
hợp các phương pháp giảng dạy. Mặt khác, bản thân phương pháp là con đường, cách thức
để đạt tới mục đích nhất định. Để đạt được cùng một mục đích, những con người khác nhau
sẽ chọn những con đường (phương pháp) khác nhau. Lựa chọn con đường nào lại tuỳ thuộc
vào rất nhiều yếu tố, như: nhận thức của mỗi người về từng phương pháp, khả năng thực
hiện phương pháp của mỗi người, đánh giá chủ quan của mỗi người về đối tượng giảng
dạy... Ngay cả khi cùng sử dụng một phương pháp thì do khả năng và trình độ của mỗi
người thì khác nhau, nên kết quả là chất lượng giảng dạy sẽ khác nhau. Xét phương pháp
giảng dạy ở giác độ con đường để đạt tới mục đích, thì việc chọn con đường và đi trên con
đường Êy như thế nào là khả năng của mỗi người thầy và nó gần như có sẵn (bẩm sinh).
Như vậy, việc lựa chọn phương pháp, phối hợp và thực hiện các phương pháp giảng dạy
vừa dựa vào nội dung dạy học, vừa dựa vào khả năng của mỗi giáo viên, đây là cơng việc
rất khó khăn đối với bất kỳ giáo viên giảng dạy ở bậc học nào.
Ngồi ra, phương pháp khơng chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo mà còn
giúp cho học sinh tự học và giải quyết công việc sau này. Đây chính là dạy cho học sinh

phương pháp nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu tốt thì quá trình tự học tập của học sinh
sẽ có hiệu quả hơn nhiều, chất lượng đào tạo vì thế tăng lên rất nhiều. Điều này rất quan


trọng, bởi vì ngày nay nhà trường đào tạo ra những người chủ động nghiên cứu, giải quyết
công việc, chứ khơng chỉ học thuộc lịng những kiến thức thầy dạy.
1.3.3. Cơ sở vật chất và các phương tiện phục vụ giảng dạy, học tập
Cơ sở vật chất và các phương tiện phục vụ giảng dạy, học tập là điÒu kiện tối thiểu, đầu
tiên của quá trình đào tạo. Cơ sở vật chất và phương tiện phục vụ giảng dạy bao gồm: hệ
thống phòng học, thực hành, thư viện; các thiết bị phục vụ cho giảng dạy như hệ thống bảng
chuyên dùng, đèn chiếu, máy chiếu đa năng, máy tính, mạng Internet; các bảng biểu, mơ
hình, băng đĩa ghi hình...
Đối với đào tạo bậc trung học và nghề thì nội dung thực hành là rất quan trọng, vì vậy, hệ
thống phịng thực hành với đầy đủ trang thiết bị phục vụ thực hành là điều kiện cần để đảm
bảo tay nghề cho học sinh. Hiện nay, chi phí phục vụ thực hành, thí nghiệm là rất lớn, do đó
rất Ýt trường trung học có phịng thực hành đạt chuẩn để rèn tay nghề cho học sinh, thậm
chí có những trường cắt bỏ nội dung thực hành trong chương trình đào tạo. Do quy mơ
phịng thực hành nhỏ nên chưa tương xứng với khối lượng học sinh đào tạo. Vì thế, mỗi ca
thực hành, mỗi học sinh chỉ trực tiếp thao tác được một vài lần, mới đủ để nhớ chứ làm sao
có thể rèn luyện kỹ năng tay nghề được.
Đầu tư mua sách và tài liệu là để phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập của
thầy và trò. Đối với trường trung học chuyên nghiệp hiện nay học sinh rất Ýt cơ hội mượn
sách để học tập, tham khảo. Trang bị sách được đến đâu là tuỳ thuộc vào khả năng của mỗi
trường. Điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo.
Đèn chiếu, máy chiếu đa năng, máy tính, phịng học chun dùng... chưa phải là phổ biến
đối với các trường trung học chuyên nghiệp. Các phương tiện, thiết bị giảng dạy đó chủ yếu
được trình bày khi hội giảng, hội thảo khoa học, chưa được sử dụng thường xuyên trong các
giờ giảng ở lớp. Cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ và đặc biệt là công nghệ
thông tin, đã trang bị cho giáo dục đào tạo những phương tiện, thiết bị giảng dạy rất hiệu
quả, góp phần rất lớn vào việc thay đổi phương pháp giảng dạy và nâng cao chất lượng đào

tạo. Trường nào biết trang bị và khai thác tốt các phương tiện đó thì sẽ thu hút học sinh học
tập hào hứng, hăng hay hơn và có chất lượng hơn.
Trong thực hành một số nghề như khách sạn, du lịch, bán hàng... nếu sử dụng băng hình
để phân tích, đánh giá, nhận xét, kết luận và học tập thì kết quả rèn luyện tay nghề sẽ chuẩn
mực hơn, tinh thông hơn. Tuy nhiên, để làm được điều này, nhà trường phải có mối quan hệ
mật thiết với các doanh nghiệp thực tế hoặc hợp tác với các tổ chức đào tạo ngồi nước.
Thơng qua quan hệ mật thiết với các cơ sở đào tạo sẽ cập nhật được những nội dung
giảng dạy mới nhất, phù hợp nhất với đối tượng đào tạo.


Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, giáo dục và đào tạo phải có sự thay đổi cơ bản,
nhất là về chương trình và nội dung đào tạo. Thực tế, có lúc đào tạo của nhà trường bị động
chạy theo sù thay đổi của thực tế kinh doanh. Xét về lý luận, đào tạo nguồn nhân lực phải
đáp ứng nhu cầu xã hội đòi hỏi. Một mặt, kiến thức trang bị cho học sinh phải phục vụ cho
kinh doanh hiện tại; mặt khác, phải đón đầu những ngành nghề mới sẽ phát triển trong
tương lai. Nhìn chung kiến thức đào tạo phải đi trước, soi đường và hướng dẫn thực tiễn.
Trong suốt khoá học ở bậc trung học, học sinh có một quỹ thời gian 26 tuần dành cho
thực hành và thực tập. Thời gian này sẽ hình thành nên tay nghề của học sinh. Những kiến
thức lý thuyết đã học được sử dụng để góp phần hình thành nên tay nghề, nên phải phù hợp
với thực tiễn. Nếu kiến thức trang bị không phù hợp với thực tế thì khi thực hành, thực tập
tốt nghiệp hoặc cơng tác thực tế học sinh sẽ nhận ra. Dù khơng cịn học ở trường nữa nhưng
học sinh là những người truyền tin, có ảnh hưởng lớn đến những người đang và sẽ học tại
trường, ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu đào tạo. Khơng thể đào tạo có chất lượng mà
chương trình và nội dung lại khơng phù hợp với thực tiễn. Nói cách khác, kết quả đào tạo
đưa vào sử dụng trong kinh doanh nếu được xã hội thừa nhận là phù hợp với thực tiễn, tức
là đào tạo có chất lượng. Khi đã được xã hội thừa nhận về chất lượng, thì nhà trường sẽ có
uy tín, học sinh sẽ yên tâm với kiến thức các thầy cô dạy. Có lịng tin thì học sinh sẽ ra sức
học tập và chất lượng đào tạo vì thế mà được nâng cao.
Hệ thống giáo trình, bài tập, bài thực hành là những tài liệu cần thiết, tối thiểu để tạo điều
kiện cho học sinh học tập đạt chất lượng. Đây là cơ sở để chống "dạy chay, học chay"theo

cách dạy truyền thống. Thực tế hiện nay, rất nhiều nhà trường, do mở rộng quy mô, đội ngũ
giáo viên chưa đáp ứng được nhu cầu tăng quy mơ. Theo chuẩn thì mỗi lớp nghề chỉ có số
lượng 25 học sinh, tuy nhiên, hầu hết các trường đều không đảm bảo tỷ lệ chuẩn này. Do số
lượng giáo viên thiếu, chỉ lo hoàn thành khối lượng giờ giảng đã chiếm hết thời gian của
mỗi giáo viên. Vì thế, việc xây dựng một hệ thống giáo trình, bài tập, bài thực hành hồn
chỉnh, có chất lượng trong nhà trường là một điều rất khó khăn.
Khi khơng có bài giảng, giáo viên phải đọc cho học sinh ghi, thời gian đọc ghi chiếm từ
15 - 20 phút, tức là chiếm từ 33 - 44% thời gian của một tiết giảng dùng để đọc bài cho học
sinh ghi (số liệu thống kê từ kết quả dự giờ giáo viên của Hội đồng đào tạo qua các năm tại
Trường trung học Thương mại TWII). Dễ dàng nhận thấy, nếu có giáo trình, giáo viên sẽ
tiết kiệm được thời gian đọc ghi trên. Thời gian tiết kiệm được sẽ có điều kiện cho giáo viên
phân tích sâu hơn nội dung trình bày, tiết giảng sẽ phong phú thực tế hơn và sự tham gia xây
dựng bài giảng của học sinh sẽ nhiều hơn.
Hệ thống bài tập, một mặt giúp học sinh hoàn thiện và hiểu kỹ hơn lý thuyết đã được
trình bày; mặt khác, làm cho học sinh làm quen với những bài tập chuẩn, là cơ sở để sau này


kiểm tra, thi cử. Nếu mỗi giáo viên môn học dùng một hệ thống bài tập riêng thì khi kiểm
tra, thi cử sẽ có tình trạng, nếu học sinh gặp bài quen dạng thì sẽ làm tốt hơn. Kết quả thi cử
giữa các lớp sẽ khác nhau, nhưng sự khác nhau đó hồn tồn khơng đánh giá được chất
lượng đào tạo, mà đơn giản vì học sinh khơng có chung hệ thống bài tập thống nhất.
Bài thực hành là cơ sở ban đầu hình thành nên tay nghề của học sinh. Khối lượng và kết
cấu bài thực hành sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tay nghề của học sinh. Mặt khác, sự phù hợp
giữa kiến thức thực hành với thực tiễn tạo nên tính hữu dụng về tay nghề của học sinh.
1.3.4. Công tác tổ chức quản lý trong nhà trường
Công tác tổ chức quản lý ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo. Hệ thống tổ chức
trong nhà trường hình thành nên các bộ phận, quan hệ cơng việc giữa các bộ phận (phối hợp
và tương trợ); mối quan hệ như thế nào sẽ liên quan đến thời gian giải quyết công việc và
hiệu quả công việc. Sự phân công nhiệm vụ giữa những con người trong từng bộ phận (qua
bản mô tả công việc) sẽ cho phép đánh giá chính xác khối lượng và chất lượng cơng việc

của từng người trong mét thời gian nhất định. Đó là cơ sở để khen thưởng, xử phạt và phân
phối thu nhập một cách chính xác. Đánh giá đúng thì sẽ động viên được mọi người đem hết
khả năng để làm việc, đồng thời hạn chế được những người dựa dẫm, cơ hội, gây mất đoàn
kết trong nhà trường.
Để tổ chức quản lý tốt trong nhà trường thì mỗi bộ phận phải xây dựng được quy chế
hoạt động và hoạt động theo đúng quy chế đó; giữa các bộ phận phải có quy chế phối hợp.
Ví dụ: quy chế phối hợp giữa Đảng, Chính quyền với các tổ chức đồn thể trong nhà trường.
Hiệu quả của công tác quản lý chính là hiệu quả cơng tác của nhà trường, trong đó có
chất lượng đào tạo. Hiện nay, các tổ chức, doanh nghiệp đều chú trọng vào việc tổ chức lại
bộ máy, đơn giản hố thủ tục giải quyết cơng việc, giải quyết cơng việc theo cơ chế "một
cửa" đó chính là góp phần vào việc nâng cao chất lượng cơng tác của tổ chức mình.
Trong nhà trường cũng như trong từng bộ phận, mọi công việc được đưa ra trao đổi, thảo
luận nhằm phát huy trí tuệ tập thể nhưng phải có người quyết định và chịu trách nhiệm về
quyết định của mình. Để có hiệu quả thực sự thì mỗi bộ phận, mỗi cá nhân phải có kế hoạch
hành động, được cụ thể hoá dần theo thời gian: từng năm, từng học kỳ, từng tháng... cùng
với quá trình thực hiện là công tác đánh giá, tổng kết, điều chỉnh để thực hiện tốt hơn.
Xây dựng được kế hoạch đào tạo khoa học sẽ kết hợp tối ưu giữa các mơn học có liên
quan, bổ trợ cho nhau, làm cho học sinh tiếp thu kiến thức dễ dàng hơn, hệ thống hơn. Giữa
học lý thuyết, thực hành, thực tập được kết hợp nhuần nhuyễn sẽ làm cho việc tiếp thu của
học sinh khơng nhàm chán, có thực tế và hình thành kỹ năng cho học sinh.
Công tác quản lý học sinh bao gồm nhiều vấn đề: tổ chức kế hoạch đào tạo cho từng khoá
học, năm học, học kỳ, hàng tuần; tổ chức các cuộc họp, sinh hoạt, toạ đàm, giao lưu... cho


từng lớp; phổ biến, triển khai thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các quy chế, nội quy, quy
định... liên quan đến học tập và rèn luyện của học sinh; giải quyết những vướng mắc của
học sinh về học tập và rèn luyện... Đây là công việc vừa ảnh hưởng trực tiếp đến thời gian,
sức lực, tiền bạc của học sinh, vừa góp phần hình thành nề nếp, phong thái, đạo đức nghề
nghiệp của người lao động tương lai, đồng thời vừa góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.
Việc tổ chức các hoạt động, sinh hoạt tập thể góp phần hình thành kỹ năng giao tiếp, ứng

xử, đây là một kỹ năng không thể thiếu được của học sinh khối kinh tế trong công tác sau
này. Đồng thời qua các buổi toạ đàm, thảo luận, giao lưu... góp phần hình thành kiến thức
tổng hợp của học sinh.
Tổ chức thực hiện và kiểm tra học sinh chấp hành nội quy, quy chế học tập và rèn luyện
sẽ góp phần hình thành đạo đức nghề nghiệp của học sinh. Kiểm tra, thi cử sẽ hình thành
tính chủ động, tự giác của học sinh; các hoạt động Đồn, lớp sẽ hình thành tinh thần đoàn
kết, phối hợp, hợp tác với nhau để hoàn thành nhiệm vụ; tổ chức cuộc sống, sinh hoạt tại ký
túc xá góp phần hình thành tính tập thể, nền nếp, giờ giấc, tính kỷ luật và đồn kết, hợp tác...
Để góp phần kích thích học sinh tự giác, nhiệt tình và hăng say trong học tập, rèn luyện,
cùng với những chính sách khuyến khích của Nhà nước, Nhà trường phải thực hiện các biện
pháp khuyến khích vật chất và tinh thần.
Biện pháp khuyến khích lợi Ých vật chất bao gồm tiền thưởng, học bổng và miễn giảm
học phí. Tiền thưởng cho những học sinh đạt các danh hiệu học sinh giỏi, xuất sắc, tiên
tiến...; tiền thưởng trong những cuộc thi do nhà trường tổ chức, như thi học sinh giỏi các
môn học; tiền thưởng cho những học sinh đạt giải trong các cuộc thi chuyên môn do cấp
trên hoặc trường tổ chức. Căn cứ vào chế độ nhà nước quy định, học sinh đạt danh hiệu
xuất sắc, giỏi, tiên tiến sẽ được mức học bổng tương ứng; đồng thời sẽ có thêm phần kích
thích vật chất của nhà trường là được miễn, giảm học phí.
Đi kèm với khuyến khích vật chất, học sinh viên đạt các danh hiệu sẽ được cấp giấy
chứng nhận, cấp bằng khen hoặc được tuyên dương trong chào cờ đầu tháng. Đây là hình
thức kích thích tinh thần đối với học sinh.
1.3.5. Mơi trường học tập, sinh hoạt trong nhà trường
Môi trường học tập, sinh hoạt trong nhà trường là một tập hợp rất nhiều yếu tố. Trước
hết, đó là hệ thống phịng ở với các dịch vụ diện, nước, điện thoại... đi kèm. Hiện nay, học
sinh thường chỉ chấp nhận phòng ở từ 4 - 6 người/ phịng, chứ khơng phải 10 - 12 người/
phòng như trước kia. Khu vệ sinh đòi hỏi khép kín trong phịng ở. Ngồi nhu cầu điện thắp
sáng, học sinh cịn có nhu cầu quạt điện, là ủi quần áo, nghe nhạc... Đó là những dịch vụ
góp phần ổn định điều kiện sống của học sinh. Trật tự, trị an trong nhà trường nói chung và
khu vực ký túc xá nói riêng là một yêu cầu quan trọng của học sinh. Quản lý ký túc xá vừa



đảm bảo trật tự trị an, vừa không ảnh hưởng đến quyền tự do, sinh hoạt của học sinh trong
những giờ nghỉ. Cảnh quan môi trường trong khuôn viên trường: cây xanh, thảm cỏ, vườn
hoa và vệ sinh sạch sẽ là môi trường tốt, đem lại cảm giác thư thái, bình yên cho học sinh
nghỉ ngơi để học tập tốt hơn. Các khu vui chơi, sân tập, câu lạc bộ thanh niên... tạo ra môi
trường sinh hoạt lành mạnh cho học sinh trong thời gian nghỉ ngơi.
Cuối cùng là mối quan hệ giữa học sinh với giáo viên, giáo viên chủ nhiệm, cán bộ quản
lý, phục vụ. Đây là mối quan hệ thường ngày giữa học sinh và cán bộ, giáo viên trong
trường. Những tác động đó có ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần, tình cảm và tâm lý học sinh.
Nếu họ đón nhận được sự tận tình, trách nhiệm, chu đáo từ những người bảo vệ, quét dọn vệ
sinh đến thầy cô, những người quản lý cao nhất trong nhà trường, thì họ sẽ tự nhận thấy
trách nhiệm, tự giác học tập và rÌn luyện, để khơng phụ công ơn của tất cả cán bộ, giáo viên
trong nhà trường. Khi đó chắc chắn chất lượng học tập sẽ nâng cao.
1.3.6. Mối quan hệ giữa nhà trường với doanh nghiệp
Mối quan hệ giữa trường với doanh nghiệp thực chất là mối quan hệ giữa học đi đôi với
hành, gắn lý luận với thực tiễn.
Vai trò của doanh nghiệp trong giáo dục đào tạo nói chung và trong việc nâng cao chất
lượng đào tạo nói riêng là rất quan trọng. Vai trị đó được thể hiện trong việc tiếp nhận học
sinh tham quan, thực tập; doanh nghiệp tham gia báo cáo thực tế, gia hội thảo về xây dựng
chương trình, nội dung đào tạo; hợp tác trong việc bồi dưỡng, đào tạo lại đội ngũ lao động
của doanh nghiệp.
Ở trường, học sinh chỉ được trang bị chủ yếu về lý thuyết, cịn một nội dung rất quan
trọng trong q trình đào tạo đó là giai đoạn thực tế, thực tập. Giai đoạn này nhà trường
hoàn toàn phải dựa vào các doanh nghiệp. Với xu hướng giảm tiết lý thuyết, tăng tiết thực
hành, nên thời gian thực tập của bậc trung học là rất lớn, đến 13 tuần. Nếu không tổ chức tốt
quá trình này thì chất lượng và hiệu quả thực tập sẽ thấp, lãng phí xã hội sẽ rất lớn. Mặt
khác, các doanh nghiệp hiện nay trong môi trường cạnh tranh gay gắt và đang phải kinh
doanh thật sự, họ khơng có thời gian và rất ngại tiếp nhận học sinh thực tập. Nếu nhà trường
và doanh nghiệp có mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với nhau thì sẽ rất thuận lợi trong việc tổ
chức quá trình thực tập.

Đối với bậc trung học, mục đích đào tạo chủ yếu là những lao động có tay nghề để đáp
ứng nhu cầu cho các doanh nghiệp. Vì vậy, vai trị của doanh nghiệp trong việc góp phần
thiết kế chương trình, nội dung đào tạo là rất quan trọng. Nhà trường nên tổ chức hội thảo
để lấy ý kiến các doanh nghiệp sử dụng lao động do trường đào tạo. Ý kiến của doanh
nghiệp một mặt làm cho các chương trình, nội dung đào tạo phù hợp với nhu cầu thực tế sử
dụng lao động, mặt khác sẽ tiết kiệm được chi phí xã hội do đào tạo hiệu quả.


Khi nhà trường và doanh nghiệp đã có mối quan hệ thường xun, gắn bó với nhau thì cả
hai bên sẽ cùng phát hiện nhu cầu đào tạo và cùng nhau giải quyết nhu cầu đó. Hiện nay,
mối quan hệ giữa đào tạo - sử dụng - đào tạo lại là một nhu cầu khách quan. Trong mối quan
hệ này, doanh nghiệp có được đội ngũ lao động có tay nghề, thường xuyên bồi dưỡng tay
nghề; nhà trường có được nguồn đào tạo và không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo.
1.3.7. Tác động của môi trường xã hội
Đây là nhân tố gián tiếp, nhưng có tác động rất lớn đến tinh thần, tư tưởng học sinh. Nếu
học những chuyên ngành có khả năng tìm việc làm lớn thì học sinh sẽ yên tâm, phấn khởi
học tập; tuy nhiên, có khi chỉ là những thông tin sai lệch về nghề nghiệp cũng tác động tiêu
cực đến học sinh; khi mà nhận thức, lập trường của mỗi học sinh chưa chắc chắn, nên dễ bị
dao động bởi những thông tin từ những nguồn khác nhau. Có những học sinh học hết năm
thứ nhất mà vẫn chưa xác định được động cơ, thái độ học tập thì làm sao họ có thể tự giác,
hăng say học tập để đạt kết quả được.
Nhu cầu lao động của xã hội thì liên tục vận động, biến đổi, mà ngành nghề từng học sinh
theo học lại cố định, nên những thông tin về nhu cầu lao động xã hội từng ngày, từng giờ tác
động đến tư tưởng học sinh; đồng thời để có nhiều cơ hội xin việc sau này, ngoài chuyên
ngành đào tạo, mỗi học sinh thường phải học thêm các kiến thức bổ trợ khác, như: tin học,
ngoại ngữ, chuyên ngành quản trị thì học thêm kế tốn... mà khơng phải học sinh nào cũng
có khả năng theo và học tốt đồng thời tất cả các kiến thức đó. Kết quả là, có những học sinh
học nhiều thứ nhưng chất lượng đào tạo lại khơng cao.
Về khách quan, có những doanh nghiệp tuyển dụng lao động nhưng khơng xác định
chính xác loại lao động mà mình cần, có nghĩa là lao động đó phải đạt trình độ chun mơn

gì? có những kiến thức hỗ trợ gì? để phù hợp với cơng việc tại doanh nghiệp. Có những
doanh nghiệp tuyển dụng nhân viên bán xăng dầu cũng đòi hỏi bằng B Anh ngữ và tin học
văn phịng, nhưng thực chất thì chẳng sử dụng để làm gì cả. Với mốt tuyển dụng lao động
như vậy buộc học sinh phải học thêm ngoài chuyên ngành chính của mình.
Về quan niệm xã hội, hầu hết các bậc phụ huynh hiện nay đều có quan niệm phải cho con
cái vào đại học, bằng mọi giá phải cho con vào học đại học không cần biết đến khả năng của
con cái mình. Vì thế, trong quan niệm của xã hội Việt Nam hiện nay học nghề vẫn chưa
được coi trọng, điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc lựa chọn học nghề của học sinh tốt
nghiệp phổ thông, ảnh hưởng đến động cơ thái độ học tập của học sinh khi buộc phải học
nghề. Tuy nhiên, quan niệm và vị thế học nghề của các nước phát triển thì hồn tồn ngược
với Việt Nam. Điều này lại ảnh hưởng tốt đến nhận thức và kích thích học sinh lựa chọn học
nghề nhiều hơn. Trong điều kiện mở cửa và hợp tác quốc tế, các doanh nghiệp liên doanh
ngày càng nhiều hơn và với việc chú trọng tuyển dụng lao động nghề của họ đã hướng các


doanh nghiệp Việt Nam có cái nhìn đúng đắn hơn trong việc sử dụng lao động trình độ bậc
nghề.
1.4. Quản lý chất lượng đào tạo tại một số trường trung học chuyên nghiệp ở nước ngoài
và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
1.4.1. Công tác quản lý chất lượng đào tạo ở một số nước
1.4.1.1. Mơ hình kiểm sốt chất lượng
Đây là mơ hình quản lý truyền thống về chất lượng giáo dục. Nhà nước với tư cách là tổ
chức quyền lực - cơng cụ kiểm sốt chất lượng giáo dục và đầu tư lớn vào giáo dục. Tỷ lệ
đầu tư cho giáo dục từ ngân sách nhà nước ở các nước đều chiếm một tỷ lệ đáng kể, như:
Thái Lan 24% (năm 2001). Mơ hình kiểm sốt chất lượng của Nhà nước là mơ hình chủ
yếu, gồm có 2 loại mơ hình cơ bản sau đây:
Mơ hình kiểm sốt đầu vào (Imput): thơng qua chính sách phát triển giáo dục đào tạo, hệ
thống pháp luật, thanh tra giáo dục... để kiểm sốt đầu vào, từ quy mơ đào tạo các bậc học, chỉ
tiêu tuyển sinh, định mức kinh phí đào tạo, chương trình đào tạo, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật
chất... Đây là mơ hình đặc trưng trong cơ chế quản lý tập trung, bao cấp của các nước XHCN

(trước kia) và một số nước Châu Âu hiện nay.
Mơ hình kiểm sốt đầu ra (Output): là mơ hình hướng trọng tâm quản lý, kiểm sốt vào
kết quả đào tạo thơng qua chính sách sử dụng, đánh giá, kiểm soát chặt chẽ thi cử, tốt
nghiệp, văn bằng chứng chỉ quốc gia. Ví dụ: tổ chức kỳ thi đánh giá quốc gia chất lượng tốt
nghiệp. Mơ hình này khơng quan tâm nhiều đến người học ở đâu và học khi nào.
Mơ hình kiểm sốt chất lượng có ưu điểm là chuẩn hoá được các điều kiện và kết quả đào
tạo (Imput) nhờ hệ thống các quy định, chế độ, tiêu chuẩn để tổ chức quá trình đào tạo;
đồng thời thông qua công tác thanh tra, kiểm tra sẽ chấn chỉnh kịp thời những tồn tại, sai
phạm của các cơ sở đào tạo. Thơng qua đánh giá, kiểm sốt đầu ra (Output) sẽ đảm bảo
được chất lượng học sinh ra trường, đạt được mục tiêu đào tạo. Tuy nhiên mô hình này có
nhược điểm là chưa kiểm sốt được chất lượng trong quá trình đào tạo. Nếu thực hiện tốt
các bước, các giai đoạn của quá trình đào tạo thì chắc chắn chất lượng sẽ đảm bảo.
1.4.1.2. Mơ hình quản lý chất lượng theo ISO 9000
Với quan điểm cơ sở đào tạo là một loại hình dịch vụ xã hội, một số nước đã và đang áp
dụng mơ hình quản lý chất lượng theo ISO 9000: 2000 với yêu cầu cơ bản là hình thành ở
các cơ sở đào tạo hệ thống quản lý chất lượng theo tư tưởng đảm bảo tính liên tục của các
q trình (Biểu số 1).



×