TIỂU LUẬN
MƠN: PHẤP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC BÁO CHÍ -TRUYỀN THÔNG
Đề tài:
THỰC TIỄN TUÂN THỦ CÁC CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC TRONG
QUÁ TRÌNH TÁC NGHIỆP CỦA NHÀ BÁO
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC NHÀ BÁO..............................2
1.1. Khái niệm đạo đức...................................................................................2
1.2. Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo:..........................................................3
1.3. Tầm quan trọng của đạo đức nghề báo:...................................................6
1.4. Những biểu hiện vi phạm đạo đức của nhà báo trong quy trình sáng tạo
tác phẩm báo chí................................................................................................6
Chương 2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TUÂN THỦ ĐẠO ĐỨC TRONG QUÁ
TRÌNH TÁC NGHIỆP CỦA NHÀ BÁO HIỆN NAY...................................13
2.1. Thực trạng vấn đề tuân thủ đạo đức của nhà báo.....................................14
2.3. Bài học kinh nghiệm về vấn đề đạo đức nhà báo.....................................16
2.4. Giải pháp nâng cao chuẩn mực đạo đức nhà báo.....................................18
KẾT LUẬN....................................................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................22
MỞ ĐẦU
Cung cấp thông tin trung thực, khách quan, tôn trọng sự thật là điều tiên
quyết hàng đầu của luật pháp và đạo đức báo chí nước ta. Thơng tin thể hiện
trên báo chí được hàng nghìn, hàng vạn, hàng triệu người theo dõi, nó có ảnh
hưởng đến toàn xã hội. Trong thời đại bùng nổ thông tin toàn cầu, báo chí đang
ngày càng chứng tỏ vai trị to lớn của mình đến Xã hội. Các cơ quan báo chí là
nơi cung cấp thông tin về mọi mặt Kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội cho đại
chúng. Người dân nắm bắt được tình hình trong nước và quốc tế thơng qua các
bài viết báo và các chương trình trên đài. Báo chí là cơng cụ của Đảng, của Nhà
nước, các tổ chức đoàn thể, là tiếng nói của nhân dân; là công cụ hữu hiệu để
quản lý và cải cách điều hành xã hội; báo chí giáo dục định hướng tư tưởng
chính trị vững vàng cho quần chúng nhân dân để ủng hộ chế độ xã hội chủ
nghĩa; giúp định hướng và tạo lập dư luận; là cầu nối giữa các doanh nghiệp và
thúc đẩy kinh tế phát triển; bảo vệ qùn lợi của cơng dân… Chính những vai
trị như vậy càng chứng minh rằng việc đưa ra những thông tin trung thực càng
trở nên cấp bách, cấp thiết và quan trọng. Để làm được điều này, nhà báo cần
phải thể hiện trách nhiệm xã hội và trách nhiệm cơng dân của mình cũng như
thực hiện những quy định pháp luật về hoạt động báo chí.
Hầu hết người dân đều có thói quen tiếp cận thơng tin một cách bị
động, tin vào những gì báo chí viết, báo chí nói mà ít khi có sự xem xét tính
trung thực vấn đề. Vì vậy những nguồn thơng tin nếu sai lệch sẽ làm cho
người đọc hiểu sai vấn đề. Với những vấn đề lớn đặc biệt liên quan đến chính
trị sẽ làm ảnh hưởng lớn, tác động dư luận xã hội khiến trật tự xã hội mất ổn
định. Thông tin sai lệch sẽ được khuếch đại lên gấp nhiều lần, có khi gây ảnh
hưởng xấu tới toàn Xã hội. Chính vì vậy trong đề tài này chủ yếu tập trung
vào “Thực tiễn tuân thủ các chuẩn mực đạo đức trong quá trình tác nghiệp
của nhà báo” để làm tiểu luận cho mơn học pháp luật và đạo đức báo chí
trùn thông.
1
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC NHÀ BÁO
1.1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức nghề nghiệp là một bộ phận của đạo đức xã hội, là đạo đức
trong một lĩnh vực cụ thể trong đạo đức chung của xã hội. Đạo đức nghề
nghiệp bao gồm những yêu cầu đạo đức đặc biệt, các quy tắc, các quy tắc và
chuẩn mực trong lĩnh vực nghề nghiệp nhất định, nhằm điều chỉnh hành vi
của các thành viên trong nghề nghiệp đó sao cho phù hợp với lợi ích và sự
tiến bộ của xã hội.
Xã hội đòi hỏi người hành nghề trong bất cứ lĩnh vực nào cũng phải
tuân thủ những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp cơ bản. Phẩm chất đạo đức
cá nhân trong xã hội có nét chung, nhưng phẩm chất đạo đức trong từng
nghề nghiệp lại có những nét đặc thù và yêu cầu riêng biệt. Tuân theo các
nguyên tắc, chuẩn mực trong đạo đức nghề nghiệp vừa góp phần vào tăng
trưởng kinh tế, vừa tạo điều kiện nâng cao chất lượng lao động, hoàn thiện
người lao động trong nghề nghiệp đó. Song, một số nghề có vị trí quan
trọng đặc biệt và mối quan hệ rộng rãi tới nhiều người trong xã hội như
nghề giáo, nghề báo, nghề y, nghề luật, an ninh, tịa án... thì đạo đức nghề
nghiệp được đặc biệt coi trọng. Với những nghề này, bên cạnh những
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp chung cho tất cả các quốc gia như đạo đức
người thầy giáo, đạo đức người thầy thuốc, đạo đức quan tòa, đạo đức nghề
báo... thì mỗi nước, trong mỗi thời kỳ lịch sử lại đề ra những chuẩn mực
đạo đức nghề nghiệp riêng cho người hành nghề ở nước mình. Ví dụ, bên
cạnh lời thề Hypơcrat có tính phổ quát cho những người làm trong ngành y
trên toàn thế giới thì cịn có những chuẩn mực đạo đức của người thầy
thuốc Việt Nam dựa theo lời dạy của các danh y người Việt và của Bác Hồ
đối với cán bộ, nhân viên ngành y.
2
1.2. Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo:
Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là những quy tắc, chuẩn mực quy định
thái độ và hành vi ứng xử của nhà báo trong các mối quan hệ nghề nghiệp. Hiện
nay, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo còn được gọi là đạo đức nghề báo, đạo
đức báo chí, đạo đức nghề nghiệp của người làm báo, đạo đức nhà báo. Trong
luận án này, chúng tôi sử dụng ba cách gọi: Đạo đức nghề báo, đạo đức nghề
nghiệp của nhà báo và đạo đức nghề nghiệp của người làm báo.
Cũng giống như đạo đức, bên cạnh những chuẩn mực đạo đức nghề báo
chung cho tất cả nhà báo ở tất cả các quốc gia thì cịn có những chuẩn mực
đạo đức nghề báo riêng của từng quốc gia, từng cơ quan báo chí phụ thuộc
vào từng thời kỳ phát triển lịch sử của từng quốc gia, cơ quan báo chí đó. So
với các quy ước về đạo đức nghề báo của các quốc gia và tổ chức báo chí
quốc tế, thì Quy định đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam có những
điểm tương đồng và một số nét mang tính đặc thù.
Tác giả E.P.Prôkhôrốp trong cuốn Cơ sở lý luận báo chí cho rằng đạo đức
nghề nghiệp của nhà báo là “những quy định đạo đức không được ghi trong đạo
luật, nhưng được chấp nhận trong giới báo chí và được duy trì bởi sức mạnh của
dư luận xã hội, bởi các tổ chức sáng tạo nghề nghiệp, đó là những nguyên tắc,
những quy định và những quy tắc về hành vi đạo đức của nhà báo” .
Trong cuốn Thuật ngữ Báo chỉ - Truyền thông, tác giả cho rằng đây là
“khái niệm chỉ tư cách, lương tâm nghề nghiệp trong hoạt động báo chí, biểu
hiện qua hành vi, nguyên tắc ứng xử của người làm báo” .
Theo PGS,TS Nguyễn Văn Dững thì khi nói đến đạo đức nghề nghiệp
của nhà báo là ‘‘nói đến các mối quan hệ ứng xử của nhà báo trong quá trình
tác nghiệp”, “nói đến thái độ và hành vi ứng xử của nhà báo trong từng tình
huống.cụ thế”.
Như vậy, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là những quy tắc, chuẩn
mực quy định thái độ và hành vi ứng xử của nhà báo trong các mối quan hệ
nghề nghiệp.
3
Trên thực tế hiện nay, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo còn được gọi
bằng nhiều tên khác nhau với ý nghĩa đồng nhất. Đó là đạo đức nghề báo, đạo
đức báo chí, đạo đức nghề nghiệp của người làm báo, đạo đức nhà báo.
Đạo đức báo chí là đạo đức của một ngành, một lĩnh vực. Đạo đức nhà
báo bao gồm đạo đức con người và đạo đức nghề nghiệp của nhà báo. Tuy
đây là hai khía cạnh nhưng lại tồn tại chung trong một con người - nhà báo.
Vì vậy, chúng có quan hệ mật thiết với nhau, khó tách rời.
Đạo đức nghề báo, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo và đạo đức nghề
nghiệp của người làm báo có chung một ý nghĩa.
Theo tác giả G.V.Ladutina, gắn liền với khái niệm đạo đức nghề nghiệp
của nhà báo cịn có các khái niệm bốn phận nghề nghiệp, trách nhiệm nghề
nghiệp và lương tâm nghề nghiệp. Đâv là những khái niệm phản ánh các khía
cạnh của các quan hệ đạo đức nghề báo, bắt nguồn từ bản chất công việc của
nhà báo và thể hiện dưới dạng thúc dục các hành động cần thiết cho việc hoàn
thành các nhiệm vụ nghề nghiệp. Bổn phận nghề nghiệp của nhà báo là quan
niệm do cộng đồng các nhà báo thảo ra về các trách nhiệm trước xã hội mà
nhà báo tự nguyện gánh vác, trên cơ sở phù hợp với vị trí và vai trị của mình
trong đời sống xã hội”.
Trách nhiệm nghề nghiệp của nhà báo là sự phụ thuộc trong thực tế
giữa kết quả hoạt động nghề nghiệp của nhà bảo và những hậu quả mà nó có
thể gây ra cho xã hội, cho những con người cụ thế. Bản thân những nhà báo
có trách nhiệm nghề nghiệp là những người nhận thức được sự liên quan của
mình tới các hậu quả của hoạt động nghề nghiệp.
Lương tâm nghề nghiệp của nhà báo là sự định hướng đặc biệt của cá
nhân nhà báo về các hoạt động nghề nghiệp, có khả năng tạo ra trạng thái
thanh thản về tâm hồn, một sự thoải mái bên trong. Lương tâm nghề nghiệp
giống như cái máy chỉ báo đầy nhạy cảm về sự tương ứng giữa cách xử sự
của nhà báo với các quy tắc, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, Nó ngăn chặn
4
hoặc xui khiến, thúc đẩy nhà báo tiến hành những bước đi nghề nghiệp theo
hướng tốt nhất.
Cũng giống như đạo đức, bên cạnh những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn
mực đạo đức nghề báo chung cho tất cả nhà báo ở tất cả các quốc gia thì cịn
có những ngun tắc, chuẩn mực đạo đức nghề báo riêng của từng quốc gia,
từng cơ quan báo chí phụ thuộc vào từng thời kỳ phát triển lịch sử của từng
quốc gia, cơ quan báo chí đó. Đương nhiên, những ngun tắc, chuẩn mực
này vừa bảo đảm cho nhũng hoạt động của nhà báo hịa đồng với xã hội vừa
khơng vượt quá giới hạn của những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức chung,
đạo đức nghề báo. Chính vì thế, những phẩm chất đạo đức nghề báo như chân
thật, khách quan, lịng trung thành... có nội dung giống nhau nhưng lại có
những yêu cầu cụ thể riêng của mỗi quốc gia, mỗi cơ quan báo chí trong từng
thời kỳ lịch sử.
Từ cuối thế kỷ XIX, các nền báo chí chuyên nghiệp, hiện đại trên thế
giới như Mỹ, Anh, Pháp, Đức... đều bắt đầu xây dựng cho riêng mình những
quy tắc về đạo đức nghề nghiệp. Đến nay, hầu hết các nền báo chí trên thế
giới đều đã có quy ước bằng văn bản được thơng qua bởi đại hội nghề nghiệp
và mặc nhiên thừa nhận khi nhà báo hành nghề. Thậm chí, có những cơ quan
báo chí cịn xây dựng riêng bộ quy ước nhằm định hướng đạo đức nghề
nghiệp cho nhà báo trong tòa soạn của mình như Bộ quy tắc đạo đức dành cho
Phòng biên tập và thời sự của The NewYork Times (Mỹ), ban hành tháng 12003. Được biết nhiều nhất là bản Những nguyên tắc quốc tế và đạo đức nghề
nghiệp báo chí ào Tổ chức quốc tế các nhà báo (OIJ) khởi thảo và được Tổ
chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) cơng nhận.
Văn kiện này được nhiều tổ chức báo chí quốc tế đại diện cho 40 vạn nhà báo
đang hành nghề trên khắp các châu lục thông qua.
Đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam được xác lập trên
cơ sở thống nhất với báo chí thế giới và dựa trên cơ sở thực tiễn hoạt động
báo chí Việt Nam. Ở Việt Nam, những người làm báo Việt Nam đều là công
5
dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nên đạo đức nghề báo
không thể tách rời những chuẩn mực đạo đức của mỗi con người Việt Nam
trong thời kỳ này. Chính vì thế, những phẩm chất như yêu nước, thương dân,
trung thành với chủ nghĩa xã hội, lòng nhân đạo xã hội chủ nghĩa... phải trở
thành nền tảng của đạo đức nhà báo Việt Nam.
1.3.
Tầm quan trọng của đạo đức nghề báo:
Ngày nay, vị trí và vai trị của báo chí trong đời sống xã hội ngày càng
được nâng lên, nó trở thành một bộ phận quan trọng, không thể thiếu trong
đời sống tinh thần của con người, ở một khía cạnh nào đó nó cịn tham gia
vào tiến trình lịch sử của thời đại, cùng lúc có thể tác động đến nhiều người,
nhiều tầng lớp, nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Chính vì vậy, những người làm
nghề này trong mỗi tác phẩm và sản phẩm của mình phải nhận thức sâu sắc
từng việc làm, cân nhắc kỹ lưỡng và xem xét cẩn trọng những hậu quả có thể
xảy ra đối với xã hội. Chỉ cần một chút thiếu thận trọng của nhà báo, xã hội
phải bỏ ra gấp trăm ngàn lần công sức để khắc phục hậu quả.
1.4. Những biểu hiện vi phạm đạo đức của nhà báo trong quy trình
sáng tạo tác phẩm báo chí
Sự vi phạm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo trong thực hiện quy trình
sáng tạo tác phẩm báo chí, chủ yếu thể hiện qua các nội dung dưới đây:
- Thứ nhất, nhà báo không nghiên cứu, thâm nhập thực tiễn để phát
hiện đề tài sáng tạo tác phẩm báo chí mà chỉ sao chép, bịa đặt thông tin, hư
cấu chi tiết trong tác phẩm, dẫn tới gây hậu quả xấu cho dư luận xã hội.
Bước đầu tiên của nhà báo khi sáng tạo tác phẩm báo chí là nghiên
cứu, thâm nhập thực tiễn để phát hiện đề tài. Các nhà báo chuyên nghiệp, tự
trọng nghề nghiệp thực hiện rất nghiêm túc bước này. Hiện nay, sở dĩ cịn có
những tác phẩm báo chí chưa hấp dẫn hoặc làm mất niềm tin đối với công
chúng là do tác giả bịa đặt, sao chép, làm sai lệch thông tin về các sự kiện,
vấn đề. Đây là kết quả lao động của các phóng viên, cộng tác viên “sa lơng”,
tức là ngồi tại tịa soạn, ở nhà để “sáng tạo”. Những phóng viên, cộng tác viên
6
lười lao động, thiếu trách nhiệm với nghề nghiệp và xã hội thường có hành
động này. Trong thực tế hoạt động báo chí ở nước ta hiện nay, đã và đang
xuất hiện khơng ít các “nhà báo sa lơng”. Họ là những phóng viên thực thụ
trong một cơ quan báo chí hoặc là những cộng tác viên hoạt động báo chí tự
do. Họ cũng có thể là một nhà báo đã công tác lâu năm hoặc là người mới vào
nghề. Vì những mục đích khác nhau, họ đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp
trong tác nghiệp.
- Thứ hai, tác phẩm báo chí sai số liệu, nhầm lẫn thông tin, nhà báo
bị kiện – lỗi vi phạm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo trong sử dụng các
phương pháp thu thập thông tin, dữ liệu.
Các nhà báo chuyên nghiệp khi thu thập thơng tin, dữ liệu sáng tạo tác
phẩm báo chí đều sử dụng ít nhất 3 phương pháp, đó là: quan sát, phỏng vấn,
nghiên cứu tư liệu. Ngoài ra, các nhà báo cịn có thể sử dụng các phương pháp
khác để thu thập thông tin, dữ liệu làm báo như: điều tra xã hội học, thảo
luận nhóm, lập diễn đàn trao đổi thơng tin…
Trong thực tiễn hoạt động báo chí ở nước ta hiện nay, vẫn cịn những
phóng viên, cộng tác viên thể hiện sự yếu kém trong kỹ năng thu thập thông
tin, dữ liệu sáng tạo tác phẩm báo chí. Các nhà báo khơng chun hoặc mới
vào nghề thường lúng túng về vấn đề này. Ngay cả những nhà báo có tuổi
nghề cao, nếu khơng “thuộc bài” phương pháp thu thập thông tin, dữ liệu
cũng dễ bị lúng túng. Trong thực tế hoạt động báo chí mà có nhiều nhà báo
không “thuộc bài” phương pháp thu thập thông tin, dữ liệu, chắc chắn thông
tin trong các tác phẩm của họ sẽ hời hợt, nơng cạn, thậm chí là sai lệch, bịa
đặt, vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
Trong thực tế hoạt động báo chí, khi sử dụng phương pháp nghiên cứu
tư liệu để thu thập thông tin, dữ liệu, một số nhà báo đã tự khoe khả năng
“cóp pết” (copy and paste) lành nghề của mình trên Google của internet. Đây
cũng là câu chuyện vi phạm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo.
7
Tư liệu để nhà báo sáng tạo tác phẩm báo chí có nhiều dạng thức khác
nhau như: tư liệu văn tự (từ các nguồn sách, báo, văn bản pháp luật, hành
chính, khoa học, báo cáo…); tư liệu âm thanh (từ ghi âm, đài phát
thanh…); tư liệu hình ảnh (từ hình ảnh tĩnh, hình ảnh động…). Nhà báo
nghiên cứu, thu thập tư liệu là để phát hiện các chi tiết đặc sắc, có cơ sở để
dẫn chứng phân tích, lập luận, chứng minh cho đề tài mình thể hiện trong tác
phẩm. Tuy nhiên, không phải nhà báo nào khi tác nghiệp cũng sử dụng tốt
phương pháp này. Qua quan sát việc tác nghiệp của các đồng nghiệp tại
những chuyến đi cơ sở, tại những sự kiện lễ tân cho thấy, nhiều nhà báo rất
lười thu thập tài liệu để phục vụ cho việc sáng tạo tác phẩm báo chí. Các nhà
báo này chủ yếu trông cậy vào việc thu nhận các văn bản báo cáo hoặc thơng
cáo báo chí, sau đó về chế tác thành tác phẩm. Việc “xào nấu” này cũng là sự
vi phạm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo. Nhà bảo chỉ có thể sử dụng các
báo cáo, thơng cáo báo chí với tư cách là những tài liệu cung cấp thông tin,
chứ không được phép “chế biến” các báo cáo, thơng cáo báo chí thành tác
phẩm báo chí. Các nhà báo nên cảnh giác với những chi tiết, con số được đưa
vào báo cáo, thông cáo báo chí, bởi nó thường chỉ là những chi tiết, số liệu
chủ quan, mang nặng tính thành tích mà cá nhân, tổ chức muốn quảng bá cho
hình ảnh của mình. Nếu chỉ chế biến tác phẩm bằng các số liệu , dẫn chứng
báo cáo, vơ hình chung nhà báo ủng hộ cho “bệnh thành tích”, cịn cơng
chúng thì nhận được một món ăn dở, như vậy cũng là vi phạm đạo đức nghề
nghiệp của người cầm bút.
- Thứ ba, mục đích thông tin không rõ ràng, lạm dụng những chi tiết
“hot”, giật gân, câu khách, tác phẩm thiếu tính khách quan, chân thực và
giá trị nhân văn – nhà báo đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp trong bước thể
hiện tác phẩm báo chí.
Thể hiện tác phẩm là bước quan trọng trong quy trình sáng tạo tác
phẩm báo chí. Chọn thể loại nào, kết cấu gì, chi tiếtra sao, ngơn ngữ biểu đạt
thế nào, đó là khâu quan trọng quyết định nội dung, hình thức của một tác
8
phẩm báo chí. Chủ tịch Hồ Chí Minh – người thầy lỗi lạc của nền báo chí
cách mạng Việt Nam đã đưa ra bài học báo chí bổ ích cho các nhà báo bằng
các câu hỏi là: viết cho ai? viết để làm gì? Viết như thế nào?. Các nhà báo
chuyên nghiệp, có thương hiệu trong báo giới thường làm rất tốt điều này.
Hoạt động có chủ ý về chọn lựa thể loại, chi tiết, bố cục tác phẩm làm nên sự
thành công trong nghề nghiệp của các nhà báo chuyên nghiệp. Thường thì họ
đặt ra câu hỏi khi thể hiện tác phẩm là: Tác phẩm sẽ dành cho công chúng
nào? Thơng tin của tác phẩm có gì liên quan đến lợi ích của quốc gia, cộng
đồng, cá nhân? Tác phẩm đem lại hiệu quả hay hậu quả cho công chúng xã
hội? Từ đó, các nhà báo mới quyết định chọn hình thức thể loại nào thể hiện
sẽ tạo hiệu quả thông tin, hấp dẫn công chúng. Cụ thể là: Tác phẩm sẽ được
xây dựng bố cục ra sao? Cần chọn lựa những chi tiết nào để đưa vào tác
phẩm? Sử dụng ngôn ngữ biểu đạt tác phẩm như thế nào?.
Trong thực tiễn hoạt động báo chí, vẫn cịn khơng ít các nhà báo thể
hiện sự non yếu ở bước sáng tạo này. Các tác phẩm của họ thường không rõ
mục đích thơng tin, chưa rành mạch về thể loại, chưa khéo léo trong xây dựng
bố cục tác phẩm, chưa tinh xảo trong chọn lựa chi tiết, chưa giỏi về sử dụng
ngôn ngữ biểu đạt. Sự non yếu về năng lực sáng tạo của nhà báo, tất yếu trên
mặt báo sẽ xuất hiện những “tác phẩm báo chí” vơ thưởng, vô phạt, kém hấp
dẫn hoặc gây hậu quả xã hội nghiêm trọng.
- Thứ tư, không tự biên tập tác phẩm của mình, nhà báo vơ tình hoặc
cố ý để lọt sai sót, đánh đố biên tập viên, đó cũng là sự vi phạm đạo đức
nghề nghiệp.
Những nhà báo có kinh nghiệm sau khi viết bài xong thường đọc đi đọc
lại nhiều lần, sửa chữa câu văn, lược bỏ những chi tiết rườm rà, sai, bổ sung
những chi tiết mới. Tự biên tập tác phẩm là bước không thể bỏ qua đối với
một nhà báo chuyên nghiệp. Không biên tập viên nào có thể biên tập tác
phẩm tốt hơn là do chính tác giả tự biên tập. Các biên tập viên biên tập tác
9
phẩm của phóng viên, cộng tác viên chỉ là để làm cho các tác phẩm đó tốt hơn
khi nó được tổ chức trên sản phẩm báo chí.
Trong thực tế hoạt động báo chí, vẫn cịn những phóng viên, cộng tác
viên “ngại” tiến hành bước này trong quy trình sáng tạo tác phẩm. Họ thường
đùn đẩy, phó thác trách nhiệm này cho các biên tập viên. Các biên tập viên
chuyên nghiệp, tự trọng nghề nghiệp thường phải cố gắng “gạn đục, khơi
trong” để “ni đứa con tinh thần” mà các phóng viên, cộng tác viên đã “đẻ
non”. Nếu biên tập viên có chun mơn yếu lại lười lao động, rất dễ họ sẽ để
nguyên những “đứa con tinh thần còi cọc, bệnh tật” đó để tổ chức trên các sản
phẩm báo chí và hậu quả là cơng chúng xã hội sẽ được thưởng thức những
“món ăn” kém hấp dẫn, thâm chí là độc hại.
Việc phóng viên, cộng tác viên ít quan tâm đến việc tự biên tập tác
phẩm của mình trước khi gửi đến toà soạn là do những lý do chủ quan, khách
quan. Yếu tố chủ quan là các tác giả thiếu trách nhiệm với tác phẩm , lười lao
động. Lý do khách quan là do nhiều toà soạn chưa nghiêm túc trong khâu
nhận tác phẩm hoặc làm việc với đội ngũ tác giả. Điều này không những chỉ
gây trở ngại cho các biên tập viên mà còn là biểu hiện của sự thiếu trách
nhiệm đối với nghề nghiệp. Thậm chí cịn là sự vi phạm đạo đức nghề nghiệp
nếu như cả tác giả và những người có trách nhiệm trong toà soạn để lọt những
chi tiết sai, những lý giải, bình luận vi phạm đến lợi ích, sử dụng ngơn từ gây
hiểu lầm cho cơng chúng.
- Thứ năm, vì lợi ích cá nhân, nhóm hoặc vì mục đích thương mại mà
coi nhẹ các chức năng, nguyên tắc hoạt động của báo chí khi tổ chức tác
phẩm trên các sản phẩm báo chí – đó là sự vi phạm pháp luật và đạo đức
nghề nghiệp.
Tác phẩm báo chí là một trong những thành tố làm nên sản phẩm báo
chí. Một sản phẩm báo chí đúng, trúng và hấp dẫn cơng chúng là sản phẩm
được kết cấu bằng những tác phẩm báo chí có chất lượng cao . Để có một sản
phẩm báo chí chất lượng cao, ngoài việc phóng viên, cộng tác viên sáng tạo ra
10
các tác phẩm hấp dẫn thì những người chịu trách nhiệm tổ chức chúng trên
các sản phẩm phải thực sự cơng tâm, có đạo đức nghề nghiệp cao cả. Nếu chỉ
vì lợi ích cá nhân, nhóm hoặc vì mục đích thương mại mà coi nhẹ các chức
năng, nguyên tắc hoạt động của báo chí, thì việc tổ chức tác phẩm báo chí trên
sản phẩm báo chí của nhà báo đã vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp
báo chí.
Trong thực tế hoạt động báo chí đã có những tổng biên tập, phó tổng
biên tập, thư ký toà soạn chủ ý hoặc “hồn nhiên” chỉ đạo phóng viên, cộng tác
viên viết tin, bài giật gân, câu khách, viết bài quảng cáo trá hình để đăng tải
trên các sản phẩm báo chí. Sở dĩ gần đây trên diễn đàn báo chí ở nhà bàn luận
nhiều đến thuật ngữ “báo lá cải” cũng là do bức xúc của báo giới và công
chúng xã hội về việc đang xuất hiện các sản phẩm báo chí chú trọng đăng tải
thơng tin “cướp, giết, hiếp”. Vì chạy theo thị hiếu tầm thường của một phận
cơng chúng hoặc vì mục đích thương mại rẻ tiền mà một số lãnh đạo cơ quan
báo chí đã coi thường các nguyên tắc, chức năng hoạt động của báo chí khi áp
dụng cách làm này.
Chưa kể để việc, hiện nay có một số phóng viên, cộng tác viên “canh
ti” với người tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí để dành “đất” đăng bài quảng
cáo trá hình, bài viết doạ nạt, đánh đấm, tống tiền cơ sở. Khi bài viết được tổ
chức trên mặt báo, ban biên tập duyệt cũng đã vơ tình hoặc cố ý để lọt hoặc
“cho qua”. Vơ hình chung, cả lãnh đạo và nhân viên của cơ quan báo chí đó
đã vi phạm nghiêm trọng đạo đức nghề nghiệp.
- Thứ sáu, không theo dõi, nắm bắt và xử lý thông tin phản hồi từ
hiệu quả, hậu quả của tác phẩm báo chí, lãnh đạo, phóng viên, cộng tác
viên, biên tập viên đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp báo chí.
Theo dõi, nắm bắt và xử lý thông tin phản hồi là một bước quan trọng
trong quy trình sáng tạo tác phẩm báo chí. Theo dõi, nắm bắt thông tin phản
hổi là để nhà báo biết được tác phẩm của mình đem lại hiệu quả hay hậu quả
11
xã hội. Xử lý thông tin phản hồi là để nhà báo kịp thời giải quyết các tình
huống đặt ra liên quan đến dư luận xã hội mà tác phẩm của mình đem lại.
Phản hồi về hiệu quả, hậu quả do tác phẩm báo chí đem lại thường từ
các đối tượng như:
- Cơ quan quản lý tư tưởng – văn hoá (Ban Tuyên giáo Trung ương,
Ban Tuyên giáo các tỉnh, thành phố, huyện, ngành);
- Cơ quan quản lý Nhà nước về báo chí và truyền thông (Bộ Thông tin
và Truyền thông, Bộ Ngoại giao, các Cục chuyên ngành: Cục Báo chí, Cục
Phát thanh – Trùn hình và Thơng tin điện tử, Cục Thông tin đối ngoại…);
- Cơ quan chủ quản báo chí (các Bộ, ngành, tổ chức đoàn thể xã hội,
địa phương…);
- Các tập thể (các cơ quan nhà nước, các tổ chức hội nghề nghiệp, các
tổ chức phi chính phủ, đơn vị tư nhân,…);
- Các đồng nghiệp báo chí (trong và ngoài cơ quan báo chí)
- Cá nhân cơng chúng xã hội.
Một trong những chức năng cơ bản của báo chí là tham gia quản lý,
giám sát và phản biện xã hội. Báo chí quản lý, giám sát, phản biện xã hội
bằng dư luận xã hội. Chỉ có thơng qua dư luận xã hội, báo chí mới làm trịn
trách nhiệm của mình là cầu nối quan trọng của Đảng, nhà nước với nhân
dân; là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, diễn đàn của quần chúng nhân dân.
12
Chương 2
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TUÂN THỦ ĐẠO ĐỨC TRONG QUÁ TRÌNH
TÁC NGHIỆP CỦA NHÀ BÁO HIỆN NAY
Hoạt động báo chí là một hoạt động trùn thơng đại chúng. Sản phẩm,
tác phẩm báo chí được tạo ra là để chuyển tải tới công chúng những thông tin
thời sự về các sự kiện, vấn đề, sự vật, hiện tượng, con người xảy ra hàng
ngày, hàng giờ trong đời sống xã hội. Đích hướng đến của một tác phẩm báo
chí là đem lại giá trị thông tin cho công chúng xã hội, do đó, đảm bảo tính
thơng tin là chức năng quan trọng đầu tiên của một tác phẩm báo chí. Để đạt
được hiệu quả thơng tin, một tác phẩm báo chí phải đạt các tiêu chí như: mới,
thời sự, cập nhật; chân thực, khách quan; có ý nghĩa xã hội, mang lại giá trị
giáo dục và nhân văn… Ngoài ra, tác phẩm báo chí cịn phải đảm nhiệm các
chức năng xã hội khác như: định hướng dư luận xã hội; giám sát, quản lý và
phản biện xã hội; giáo dục và giải trí.
Các nhà báo chuyên nghiệp đều phải tuân thủ các bước tiến hành cơ
bản trong quy trình sáng tạo một tác phẩm báo chí là: Nghiên cứu, thâm nhập
thực tiễn, phát hiện đề tài; Thu thập thông tin, dữ liệu; Thể hiện tác phẩm; Tự
biên tập tác phẩm; Tổ chức tác phẩm trên sản phẩm báo chí, phát tán thông
tin; Theo dõi, nắm bắt và xử lý thông tin phản hời.
Khi sáng tạo tác phẩm báo chí, những u cầu về năng lực chuyên môn
của nhà báo luôn phải gắn với những chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp.
Điều này được thể hiện trong từng bước tiến hành sáng tạo một tác phẩm báo
chí. Có như vậy, tác phẩm báo chí mới đem lại những giá trị đích thực cho
công chúng xã hội. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động báo chí hiện nay,
khơng phải lúc nào các nhà báo cũng thực hiện tốt được những yêu cầu này,
do đó đã làm ảnh hưởng đến giá trị thơng tin của các tác phẩm báo chí và lớn
hơn là làm mất niềm tin của cơng chúng đối với báo chí. Ngun nhân chính
của vấn đề này, đó chính là sự vi phạm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo ở
từng khâu trong quy trình sáng tạo tác phẩm báo chí.
13
2.1. Thực trạng vấn đề tuân thủ đạo đức của nhà báo
Từ khi có Luật Báo chí (sửa đổi) năm 2016 gắn liền với vai trò của Hội
Nhà báo Việt Nam. Tại điểm b, khoản 2, Điều 8 Luật Báo chí quy định: Hội
Nhà báo Việt Nam “Ban hành và tổ chức thực hiện quy định về đạo đức nghề
nghiệp của người làm báo”. Tháng 12-2016, Hội Nhà báo Việt Nam đã ban
hành “10 điều quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam”.
Đây là các chuẩn mực rất cụ thể và thiết thực nhằm xác định trách nhiệm đạo
đức người làm báo trong hoạt động nghề nghiệp. Quy định này không chỉ
khẳng định đạo đức nghề nghiệp là yếu tố hết sức quan trọng đối với mỗi
người làm báo, tạo ra hành lang pháp lý đối với người làm báo trong quá trình
tác nghiệp mà cịn khẳng định yếu tố đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động
báo chí của mọi hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, khơng phân biệt giữa người
làm báo có Thẻ Nhà báo, hay người làm báo khơng có Thẻ Nhà báo. Chính vì
vậy vấn đề vi phạm đạo đức của nhà báo trong quá trình tác nghiệp đã được
hạn chế một cách rõ rệt, các cơ quan báo chí đã có cơ chế quản lý vấn đề này
một cách cụ thể hơn.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đã đạt được, có thể nhận thấy những
biến đổi tiêu cực trong đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam đang
diễn ra ngày càng phức tạp và cho thấy dấu hiệu của sự tha hoá trong một bộ
phận nhà báo Việt Nam. Đó là hiện tượng nhà báo thơng tin sai sự thật, thiếu
trách nhiệm, không kiểm chứng, chụp giật, thiếu khách quan, thổi phồng sự
thật và bóp méo sự thật; hiện tượng thương mại hoá tờ báo bằng việc đưa tin
bài, hình ảnh giật gân, câu khách, kích động, kích dục, thiếu văn hoá, thiếu
tính thẩm mỹ và phản giáo dục; tình trạng nhà báo lạm quyền và cửa quyền
ngày càng gia tăng; biểu hiện thiếu tính nhân văn trên báo chí. Trong đó có
một số vấn đề vi phạm đạo đức nhà báo nổi cộm như:
Một là, thiếu khách quan, không tôn trọng sự thật
Thứ trưởng Bộ Thông tin truyền thơng Đỗ Q Dỗn cũng nêu quan
điểm: “Các nhà báo và tịa soạn báo cần tự xây dựng cho mình phương thức
14
xác định sự thật từ những thông tin trên mạng xã hội. Vấn đề là kiểm chứng
thông tin chứ không phải là e ngại thông tin từ mạng xã hội. Phía cơ quan
quản lý cũng phải nghiên cứu thấu đáo, tạo mơi trường lành mạnh để mặt tích
cực của mạng xã hội phát triển”
Điều 2 Quy ước tiêu chuẩn đạo đức nhà báo Việt Nam đã nêu rõ: “Nhà
báo phải khách quan, trung thực, tôn trọng sự thật. Mọi thông tin đưa ra công
luận phải phản ánh đúng bản chất sự thật khách quan trong bối cảnh xã hội
của nó, tuyệt đối không được xuyên tạc hoặc cường điệu sự việc, sự kiện”
Hai là, về vấn đề nhà báo thu thập thơng tin và xử lý dữ liệu trong quá
trình tác nghiệp
Cách đây ít năm, Hà Nội có chỉ thị ngừng đăng ký môtô và xe gắn máy
tại các quận nội thành. Toà soạn báo nọ đã cử phóng viên đi viết bài, chụp
ảnh phản ánh về vấn đề này. Sau khi số báo xuất bản, ban biên tập đã bị một
cơng dân kiện, vì lý do đã ám chỉ họ là “cò” đăng ký xe máy. Ban biên tập tìm
hiểu, ngun do là bức ảnh minh hoạ mà phóng viên nọ “zoom” có tiền cảnh
rất rõ chân dung một phụ nữ. Toà soạn đã in dịng chú thích rất áp đặt dưới
bức ảnh là “Các “cò” thường lởn vởn trước cổng các điểm đăng ký xe máy”.
Phụ nữ này đang là giảng viên của một trường đại học lớn tại Hà Nội. Chị đã
rất bức xúc với lời bàn tán của đồng nghiệp và sinh viên rằng “cô giáo kiêm
“cò” đăng ký xe máy” nên mới kiện toà soạn. Ban biên tập nhận thiếu sót và
cho đính chính. Tuy nhiên, biên tập viên lại cho in lời đính chính kiểu “Nói
lại cho rõ”, thế là phụ nữ nọ đã nổi giận đề nghị gặp “ba mặt một nhời”, gồm
lãnh đạo toà soạn báo, đại diện cơ quan quản lý báo chí và gia đình chị để giải
quyết vấn đề. Rõ ràng đây là sự vi phạm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo ở
toà soạn nọ trong tất cả các bước của quy trình sáng tạo tác phẩm báo chí.
Trên báo chí của chúng ta hiện nay đã và đang xuất hiện những bài viết
mang tính chủ quan, võ đoán dẫn đến sai sự thật, đó là thể hiện sự non yếu
của nhà báo trong sử dụng phương pháp quan sát thu thập thông tin, dữ liệu
sáng tạo tác phẩm báo chí. Các nhà báo mắc lỗi này thường mới chỉ quan sát
15
bằng cảm tính chứ chưa quan sát bằng lý tính. Khi phát hiện, tiếp cận các sự
kiện, vấn đề, nhà báo đã chưa tìm hiểu kỹ lưỡng bản chất của các sự kiện, vấn
đề, do đó chưa có được những chi tiết, dữ kiện phù hợp thể hiện trong tác
phẩm báo chí.
Ba là, về việc sử dụng phương pháp phỏng vấn để thu thập thơng tin.
Hiện nay vì sao nhiều người ngại tiếp xúc với báo giới, vì nhiều nhân
vật trả lời phỏng vấn đã trở thành nạn nhân của báo chí, bị nhà báo “nhét
miệng” những câu trả lời sai sự thật. Một ví dụ cười ra nước mắt về một vị
lãnh đạo cấp vụ ở Bộ Giáo dục và Đào tạo – nạn nhân của báo chí bởi sự
“nhét miệng” này. Chuyện là trong một lần dự hội nghị tập huấn giáo viên
dạy văn toàn quốc được tổ chức tại Thừa Thiên – Huế. Phóng viên giáo dục
của một tờ báo nọ đã phỏng vấn vị vụ trưởng về chủ đề dạy và học văn học ở
nhà trường phổ thông. Vốn là giáo viên văn, vị lãnh đạo trả lời đại ý là “các
thầy cô dạy văn cần dạy học trò tình yêu quê hương, đất nước… Ví dụ, các
thầy cô dạy các em học sinh ở Huế phải biết yêu dòng sông Hương thơ mộng,
dạy học sinh ở Nghệ An phải biết yêu dòng sông Lam”. Hôm sau, trên trang
“Giáo dục” của tờ báo nọ đăng tải bài viết về sự kiện tập huấn này và đã trích
lời vị vụ trưởng nọ “… lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các thầy cô
dạy văn phải dạy cho học trò đã yêu sông Hương phải biết yêu cả… sông
Lam”. Vị lãnh đạo nọ điếng người, khơng biết giải thích ra sao vì bài viết gán
ghép nực cười này. Ông đã đưa ra một kết luận, cần cảnh giác với cánh báo
chí, vì dễ chết oan có ngày.
2.3. Bài học kinh nghiệm về vấn đề đạo đức nhà báo.
- Đạo đức có khả năng thấm sâu vào ý thức con người và hóa thân
thành xử sự của cá nhân, tạo ra những con người có khả năng “miễn dịch” cao
đối với sự vi phạm pháp luật. Pháp luật vốn sinh ra để điều tiết hoạt động
quản lý của nhà nước và điều chỉnh mối quan hệ giữa người và người, ngăn
chặn những cái xấu, thúc đẩy những cái tốt bằng những luật lệ, quy định
chung. Đạo đức giúp cho pháp luật được thực thi thuận lợi hơn khi chính đạo
16
đức đã phần nào giúp định hướng nhân cách, nếp sống, lối suy nghĩ trong mỗi
con người, giúp họ hiểu được thế nào là cái tốt, thế nào là cái xấu, cái gì nên
làm và cái gì khơng nên làm.Cái làn ranh mong manh của đạo đức người làm
báo ở đây là việc nhà báo ấy với vai trò là chủ thể phản ánh đang đặt mình ở
đâu trong sự kiện, sự việc đang diễn ra.
- Phản ánh đúng sự thật, khơng thêm bớt vào phần bài viết của mình
tránh tình trạng “tam sao thất bản”. Đối với những sự việc có tính nhạy cảm,
địi hỏi lương tâm của người làm báo và trách nhiệm của tác giả đối với bài
viết đo.Chuyện đạo đức của nghề báo nhiều khi không hẳn là câu chuyện quá
to tát mà nó nằm ngay trong cái cách nhà báo đưa tin. Cũng sự việc ấy, nhưng
sao có nhà báo chuyển đến bạn đọc thơng điệp ấm áp nhân văn. Ngược lại có
nhà báo khai thác ở góc độ khiến cho bạn đọc hoang mang, lạc lối trong cảm
xúc lẫn định hướng. Khơng ít chụn tình dục, câu chụn phịng the bị đẩy
đi quá xa, thậm chí cịn bịa đặt, thêm thắt “mắm muối” vào để câu chụn
thêm ly kỳ nhưng vơ tình, nhà báo đã thiên về chủ nghĩa tự nhiên, tầm thường
hoá và vơ hình trung khơi gợi những dục vọng thấp hèn với sự suy đồi phản
văn hoá.
- Hạn chế lấy chuyện phịng the, trắc ẩn tình u, tình dục làm đối
tượng phản ánh chính. Từ hình ảnh cho tới nội dung đã được các nhà báo khai
thác tối đa nó với các cung bậc, góc khuất, đầy dục tính… có thể nói đây phải
là bước thụt lùi đáng xấu hổ trong lịch sử phát triển của báo chí hiện đại? Từ
những trò tiêu khiển bệnh hoạn, đến những quan hệ yêu đương phi nhân
tính…Nó có thể mang đến cho bạn đọc một cảm xúc thẩm mĩ giúp họ hướng
đến chân thiện mĩ, đến chuẩn của sự văn minh và tiến bộ?... Nếu có một ngày
người ta luận tội sự xuống cấp của văn hóa Việt, sự băng hoại các thuần
phong mĩ tục, đạo đức trùn thống, thì lúc đó ai dám nói rằng, báo chí, vơ
can?
- Khơng phải “sự thật” nào cũng đưa tất tật lên mặt báo, nhất là vấn đề
có tính nhạy cảm như các vấn đề liên quan đến quan hệ đối ngoại, liên quan
17
đến quốc phịng và an ninh quốc gia. Khơng ít nhà báo đã trách cứ cơ quan
cung cấp thông tin, nhất là các chuyên án đang trong quá trình điều tra mà cứ
địi phải cơng khai cho báo chí biết. Tuy nhiên, có những lúc, nhà báo chỉ
“thấy cây mà không thấy rừng”.
- Tuân theo những quy định, chấp hành những đường lối, chủ trương
của Ban biên tập, đi đúng tơn chỉ, mục đích của tờ báo. Đấy chính là quan hệ
đạo đức giữa cá nhân nhà báo với ban biên tập của mình. Nền tảng của mối
quan hệ này là sự thống nhất quan điểm tư tưởng. Phải trung thành với toà
soạn của mình, phải có bổn phận giữ bí mật của toà soạn. Tuy nhiên, sự chấp
hành này không đồng nghĩa với sự mù quáng mà là sự nhất trí trên nguyên tắc
của sự sáng tạo.
2.4. Giải pháp nâng cao chuẩn mực đạo đức nhà báo
Một là, nâng cao đạo đức, trách nhiệm xã hội của nhà báo.
Việc nhà báo khai thác, nắm bắt thông tin từ mạng xã hội hoàn toàn
khơng phải là việc xấu, thậm chí là cần thiết và mạng xã hội thực sự sẽ là nơi
mỗi người cầm bút có thể thu thập, phát hiện những vấn đề, phát hiện nhu cầu
thông tin của công chúng một cách nhanh nhất. Tuy nhiên, mỗi người cầm bút
cần cẩn trọng và kỹ càng khi khai thác hoặc lấy thông tin từ mạng xã hội làm
chất liệu cho bài báo của mình. Mỗi nhà báo, cơ quan báo chí phải thực sự trở
thành “người gác cổng thơng tin”. Có như vậy mới tạo nên tác phẩm báo chí
có giá trị, góp phần định hướng cho người đọc. Chính vì vậy hơn ai hết, chính
những người cầm bút cần nâng cao trách nhiệm, đạo đức và kỹ năng nghề
nghiệp của mình. Việc nắm bắt nhu cầu cơng chúng, sàng lọc, kiểm chứng,
xác minh độ tin cậy của thông tin cũng như mở rộng phân tích theo chủ đề là
việc làm tối cần thiết đối với mỗi nhà báo. Chính họ sẽ là “bộ lọc” đầu tiên và
cùng với bộ máy của tòa soạn trở thành “người gác cổng thơng tin”. Tránh xu
hướng một số phóng viên chỉ chăm chăm lướt web, khai thác các “tin nóng”
từ các diễn đàn rồi cắt dán ý kiến của người nọ người kia để tạo ra những sản
18