Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tư tưởng triết học của Nho giáo, quá trình du nhập và ảnh hưởng của Nho giáo trong truyền thống văn hoá Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.86 KB, 30 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nho giáo là một trong những trường phái triết học chính của Trung Quốc
thời cổ đại và có ảnh hưởng lớn trong quá trình phát triển tư tưởng triết học Trung
Quốc thời trung cổ. Nho giáo như là một thành tố văn hố góp phần làm phong phú
văn hố Trung Quốc vốn được hình thành trên nền tảng của văn hoá Hán cùng với
sự giao lưu tiếp xúc văn hoá với các tộc người khác.
“Đạo” theo Nho gia là quy luật biến chuyển, tiến hoá của trời đất, muôn vật.
Đối với con người, đạo là con đường đúng đắn phải noi theo để xây dựng quan hệ
lành mạnh, tốt đẹp. Đạo của con người, theo quan điểm của Nho gia là phải phù
hợp với tính của con người lập nên. Chính vì vậy, Nho giáo tác động mạnh mẽ đến
nếp sống, thói quen, suy nghĩ của con người và tác động vào các khu vực khác của
đời sống xã hội cũng như đối với xã hội Việt Nam. Trong công cuộc xây dựng đất
nước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác – Lênin là tư tưởng chủ đạo, là
vũ khí lý luận của chúng ta nhưng bên cạnh đó, bộ phận kiến trúc thượng tầng của
xã hội cũ vẫn có sức sống dai dẳng. Việc xố bỏ hồn tồn ảnh hưởng của nó là
khơng thể thực hiện nên chúng ta cần vận dụng nó một cách hợp lý để góp phần đạt
được mục đích của thời kỳ quá độ cũng như sau này. Vì vậy, việc nghiên cứu lịch
sử, giáo lý và sự tác động của Nho giáo đến thế giới quan, nhân sinh quan của con
người là hết sức cần thiết. Việc đi sâu nghiên cứu đánh giá những mặt hạn chế cũng
như tiến bộ, tư tưởng của Nho giáo giúp chúng ta hiểu rõ tâm lý của con người và
qua đó tìm được một phương cách để hướng cho họ một nhân cách chính và đúng
đắn.
Vì vậy, đề tài “Tư tưởng triết học của Nho giáo, quá trình du nhập và ảnh
hưởng của Nho giáo trong truyền thống văn hoá Việt Nam” được thực hiện nhằm
làm rõ hơn tư tưởng triết học chủ đạo của Nho giáo, tầm ảnh hưởng sâu rộng của
nó đến truyền thống văn hoá người Việt Nam cũng như định hướng phát triển của
nhân cách, tư duy con người Việt Nam trong tương lai.


CHƯƠNG 1
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO


1.
Khái quát lịch sử Triết học Trung Hoa cổ đại
Trung Hoa cổ đại là một quốc gia rộng lớn, có lịch sử lâu đời từ cuối thiên
niên kỷ III TCN kéo dài tới tận thế kỷ II TCN với sự kiện Tần Thủy Hoàng thống
nhất Trung Hoa mở đầu cho thời kỳ phong kiến. Trong hơn 2000 năm lịch sử ấy,
lịch sử Trung Hoa được phân chia làm 2 thời kỳ lớn: Thời kỳ từ thế kỷ IX TCN trở
về trước và thời kỳ từ thế kỷ VIII TCN đến cuối thế kỷ III TCN.
1.1. Thời kỳ thứ nhất
Có các triều đại nhà Hạ, nhà Thương và nhà Tây Chu. Theo các văn bản cổ,
nhà Hạ ra đời vào khoảng thế kỷ XXI TCN, đánh dấu sự mở dầu cho chế độ chiếm
hữu nô lệ ở Trung Hoa. Khoảng nửa đầu thế kỷ XVII TCN, người đứng đầu bộ tộc
Thương là Thành Thang đã lật đổ nhà Hạ, lập ra nhà Thương, đóng đơ ở đất
Bạc( Hà Nam hiện nay). Đến thế kỷ XVI TCN, Bàn Canh rời đô về đất Ân nên nhà
Thương còn gọi là nhà Ân. Vào khoảng thế kỷ XI TCN, Chu Vũ Vương đã giết vua
Trụ nhà Ân lập ra nhà Chu ( giai đoạn đầu là Tây Chu), đưa chế độ nô lệ ở Trung
Hoa lên đỉnh cao. Nhà Chu đã thực hiện quốc hữu hóa về tư liệu sản xuất (gồm
ruộng đất và sức lao động) rất nghiêm ngặt, tất cả đều thuộc quyền quản lý của vua
nhà Chu . Đồng thời, thành lập những đô thị lớn tạo nên sự đối lập rất lớn giữa
thành thị và nông thôn.
Trong thời kỳ này, thế giới quan thần thoại, tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm
thần bí thống trị trong đời sống tinh thần. Những tư tưởng triết học đã xuất hiện,
nhưng chưa đạt tới mức là một hệ thống. Nó đã gắn chặt thần quyền với thế quyền,
lý giải sự liên hệ mật thiết giữa đời sống chính trị – xã hội với lĩnh vực đạo đức
luân lý. Lúc này cũng đã xuất hiện những quan niệm có tính chất duy vật mộc mạc,
những tư tưởng vô thần tiến bộ.
Về khoa học, họ đã phát minh ra chữ viết và dựa vào sự quan sát vận hành
của mặt trăng, các vì sao, tính chất chu kỳ của nước sông và quy luật sinh trưởng
của cây trồng mà họ đã biết làm ra lịch (Âm lịch)
1.2. Thời kỳ thứ hai: là thời kỳ Đông Chu (còn gọi là thời kỳ Xuân Thu –
Chiến quốc)

Thời kỳ chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến. Sự
phát triển của sức sản xuất đã tác động mạnh mẽ đến hình thức sở hữu ruộng đất và
kết cấu giai tầng của xã hội. Nếu dưới thời Tây Chu, đất đai thuộc sở hữu của nhà
vua thì nay thuộc về tầng lớp địa chủ mới lên và chế độ sở hữu tư nhân về ruộng
đất hình thành.Từ đó, sự phân hóa sang hèn dựa trên cơ sở tài sản xuất hiện. Xã hội


lâm vào cảnh loạn lạc, rối ren và chiến tranh xảy ra liên miên. Đây chính là điều
kiện lịch sử địi hỏi giải thể chế độ nơ lệ thị tộc nhà Chu, hình thành chế độ phong
kiến; địi hỏi giải thể nhà nước của chế độ gia trưởng, xây dựng nhà nước phong
kiến nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển.
Sự phát triển sôi động của xã hội đã đặt ra và làm xuất hiện những tụ điểm,
những trung tâm của những “kẻ sĩ” luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ và đề ra
những mẫu hình của một xã hội trong tương lai. Lịch sử gọi đây là thời kỳ “Bách
gia chư tử” (trăm nhà trăm thầy), “Bách gia tranh minh” (trăm nhà đua tiếng).
Chính trong q trình ấy đã sản sinh ra những nhà tư tưởng lớn và hình thành nên
các trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Đặc điểm của các trường phái này là lấy
con người và xã hội làm trung tâm của sự nghiên cứu, có xu hướng chung là giải
quyết những vấn đề thực tiễn chính trị – đạo đức của xã hội. Theo Lưu Hâm (đời
Tây Hán), Trung Hoa thời kỳ này có chín trường phái triết học chính (gọi là Cửu
lưu hay Cửu gia) là: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Âm dương gia, Danh gia, Pháp gia,
Nơng gia, Tung hồnh gia, Tạp gia. Trừ Phật giáo được du nhập từ ấn Độ sau này,
các trường phái triết học được hình thành vào thời kỳ này được bổ sung và hoàn
thiện qua nhiều giai đoạn lịch sử và tồn tại cho tới thời kỳ cận đại.
2.
Đặc điểm của triết học Trung Hoa cổ, trung đại 
– Thứ nhất: là nền triết học nhấn mạnh tinh thần nhân văn. Trong tư tưởng
triết học Trung Hoa cổ, trung đại, tư tưởng liên quan đến con người như triết học
nhân sinh, triết học đạo đức, triết học chính trị, triết học lịch sử phát triển, cịn triết
học tự nhiên có phần mờ nhạt.

– Thứ hai: là chính trị đạo đức, các triết gia Trung Hoa đều tập trung vào lĩnh
vực luân lý đạo đức, xem việc thực hành đạo đức như là hoạt động thực tiễn căn
bản nhất của một đời người, đặt lên vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội.
– Thứ ba: là nhấn mạnh sự hài hòa, thống nhất giữa tự nhiên và xã hội. Các
nhà triết học nhấn mạnh sự hài hòa, thống nhất giữa các mặt đối lập, coi trọng tính
đồng nhất của các mối liên hệ tương hỗ của các khái niệm, coi việc điều hòa mâu
thuẫn là mục tiêu cuối cùng để giải quyết vấn đề.
– Thứ tư: là tư duy trực giác. Đặc điểm nổi bật của phương thức tư duy triết
học cổ, trung đại Trung Hoa là nhận thức trực giác, tức là có trong sự cảm nhận hay
thể nghiệm. Cảm nhận tức là đặt mình giữa đối tượng, tiến hành giao tiếp lý trí, ta
và vật ăn khớp, khơi dậy linh cảm, quán xuyến nhiều chiều trong chốc lát, từ đó mà
nắm bản thể trừu tượng. Phương thức tư duy trực giác đặt biệt coi trọng tác dụng
của cái tâm, coi tâm là gốc rễ của nhận thức, “lấy tâm để bao quát vật”.
3.
Các giai đoạn phát triển của Nho giáo


3.1. Nho giáo nguyên thủy
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh
gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc.
Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ
kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn
Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử,
dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là
Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc,
Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh
Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo ngun thủy, cịn gọi là
Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh".
3.2 . Hán Nho
Đến đời Hán, hai cuốn Đại Học và Trung Dung được gộp vào sách Lễ Ký.

Hán Vũ Đế đưa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm cơng cụ thống nhất
đất nước về tư tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ
chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được
gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao
quyền lực của giai cấp thống trị. Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy
"pháp trị".
3.3. Tống Nho
Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với
Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối
đầu giường của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các
tên tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di, cịn được gọi
gộp là "Chu - Trình" hoặc "Trình - Chu". Phương Tây gọi Tống nho là "Tân Khổng
giáo". Điểm khác biệt của Tống nho với Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu
tố "tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo) phục vụ
cho việc đào tạo quan lại và cai trị.
4.
Các tác phẩm kinh điển của Nho giáo
Kinh sách của Nho giáo đều hình thành từ thời kỳ Nho giáo nguyên thủy.
Các sách kinh điển gồm hai bộ: Ngũ Kinh và Tứ Thư. Hệ thống kinh điển đó hầu
hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, ít viết về tự nhiên.
Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị, về đạo đức là
những tư tưởng cốt lõi của Nho gia.
4.1. Ngũ Kinh


4.1.1. Kinh Thi: sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói
nhiều về tình u nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi
người tình cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong sáng.
Một lần, Khổng Tử hỏi con trai "học Kinh Thi chưa?", người con trả lời "chưa".
Khổng Tử nói "Khơng học Kinh Thi thì khơng biết nói năng ra sao" (sách Luận

ngữ).
4.1.2. Kinh Thư: ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có
trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các
minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
4.1.3. Kinh Lễ: ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại
mong dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: "Khơng
học Kinh Lễ thì khơng biết đi đứng ở đời" (sách Luận ngữ).
4.1.4. Kinh Dịch: nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại
dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái,... Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và
giải thích các quẻ của bát quái gọi là Thốn từ. Chu Cơng Đán giải thích chi tiết
nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là Chu
Dịch. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Thoán từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn và gọi là
Thoán truyện và Hào truyện.
4.1.5. Kinh Xuân Thu: ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng
Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước
nên ơng chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để giáo
dục các bậc vua chúa. Ơng nói, "Thiên hạ biết đến ta bởi kinh Xuân Thu, thiên hạ
trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này". Đây là cuốn kinh Khổng Tử tâm đắc nhất.
(Xuân thu có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ý nói những sự việc xảy ra theo thời
gian.)
4.1.6. Kinh Nhạc: do Khổng tử hiệu đính nhưng về sau bị thất lạc, chỉ cịn lại
một ít làm thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. Như vậy từ lục kinh chỉ
còn lại ngũ kinh.
4.2. Tứ Thư
4.2.1. Luận ngữ: ghi lại lời dạy của Khổng Tử do học trị của ơng ghi chép
lại sau khi ông mất (Luận ngữ = các lời bình luận).
4.2.2. Đại học: dạy phép làm người để trở thành bậc quân tử. Sách này do
Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử, dựa trên lời
dạy của ông soạn ra (Đại học = sự học lớn).



4.2.3. Trung Dung: dạy người ta cách sống dung hòa, không thiên lệch. Sách
này do người cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, học trò của Tăng Tử, còn gọi
là Tử Tư soạn ra (Trung dung = ở giữa, dung hòa).
4.2.4. Mạnh Tử: ghi lại lời dạy của Mạnh Tử (Mencius). Mạnh Tử tên thật
là Mạnh Kha, là người tiêu biểu nhất sau Khổng Tử, thuộc dòng Tử Tư, phát triển
tư tưởng của Khổng Tử ở thời Chiến Quốc (390-305 trước công nguyên).

CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NHO GIÁO


Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức
xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho
được người cai trị kiểu mẫu, người lý tưởng này gọi là quân tử (quân là kẻ làm vua,
quân tử là chỉ tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt với "tiểu nhân", những người
thấp kém về địa vị xã hội; "quân tử" còn chỉ cả phẩm chất đạo đức, những người
cao thượng, phẩm chất tốt đẹp, phân biệt với "tiểu nhân" là những người thiếu đạo
đức hoặc đạo đức chưa hoàn thiện. Điều này có thể được lí giải bởi đối tượng mà
Nho giáo hướng đến trước tiên là những người cầm quyền). Để trở thành người
quân tử, con người ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân
xong, người quân tử có bổn phận phải "hành đạo" (Đạo khơng đơn giản chỉ là đạo
lí. Nho gia hình dung cả vũ trụ được cấu thành từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở
đây bao chứa cả nguyên lí vận hành chung của vũ trụ, vấn đề là nguyên lí đó là
những ngun lí đạo đức do Nho gia đề xướng (hoặc như họ tự nhận là phát hiện
ra) và cần phải tuân theo. Trời giáng mệnh làm vua cho kẻ nào có Đạo, tức là nắm
được đạo trời, biết sợ mệnh trời. Đạo vận hành trong vũ trụ khi giáng vào con
người sẽ được gọi là Mệnh).
1.
Cơ sở triết lí của Nho giáo
1.1. Tu thân

Khổng Tử đặt ra một loạt Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức...
để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội.
Tam Cương và Ngũ Thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam Tòng
và Tứ Đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã
hội giữ được Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tịng, Tứ Đức thì xã hội được an
bình.
1.1.1. Tam Cương: ba mối quan hệ quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu
thê (vợ chồng). 

Quân thần: Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt công minh, tôi
trung thành một dạ.

Cha con: Cha hiền con hiếu. Cha có nghĩa vụ nuổi dạy con cái, con
phải hiếu đễ và nuôi dưỡng cha khi cha về già.

Vợ chồng: Chồng phải yêu thương và đối xử công bằng với vợ; vợ
phải chung thủy tuyệt đối với chồng.
1.1.2. Ngũ Thường: Ngũ là năm; Thường là hằng có; Ngũ Thường là năm
điều phải hằng có trong khi ở đời, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. 

Nhân: Lịng u thương đối với mn lồi vạn vật.

Nghĩa: Cư xử với mọi người cơng bình theo lẽ phải. 



Lễ: Sự tơn trọng, hịa nhã trong khi cư xử với mọi người. 

Trí: Sự thơng biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai. 


Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.
1.1.3. Tam Tòng: Tam là ba; Tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ
phải theo, gồm: "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử".

Tại gia tòng phụ: nghĩa là, người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha, 

Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng, 

Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con.
1.1.4. Tứ Đức: bốn tính nết tốt người phụ nữ phải có là: Cơng, Dung, Ngơn,
Hạnh. 

Cơng: khéo léo trong việc làm.

Dung: hịa nhã trong sắc diện. 

Ngơn: mềm mại trong lời nói. 

Hạnh: nhu mì trong tính nết.
Người qn tử phải đạt ba điều trong q trình tu thân:

Đạt Đạo. Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà
người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều:
đạo vua tơi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (sách Trung
Dung), tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu". Đó
chính là Ngũ thường, hay Ngũ luân. Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là "trung
dung". Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân được tập trung lại chỉ còn ba mối quan hệ
quan trọng nhất được gọi là Tam thường hay còn gọi là Tam tòng.

Đạt Đức. Quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Khổng Tử

nói: "Đức của người qn tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân khơng lo
buồn, người trí khơng nghi ngại, người dũng khơng sợ hãi" (sách Luận ngữ). Về
sau, Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức trở thành bốn đức: "nhân,
nghĩa, lễ, trí". Hán nho thêm một đức là "tín" nên có tất cả năm đức là: "nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín". Năm đức này cịn gọi là Ngũ thường.

Biết Thi, Thư, Lễ, Nhạc. Ngoài các tiêu chuẩn về "đạo" và "đức",
người quân tử còn phải biết "Thi, Thư, Lễ, Nhạc". Tức là người qn tử cịn phải
có một vốn văn hóa toàn diện.
1.2. Hành đạo
Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm
chính trị. Nội dung của cơng việc này được cơng thức hóa thành "tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - tề gia, cho đến lớn - trị


quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim chỉ nam
cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị là hai phương châm:

Nhân trị: Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu
người và coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì
Khổng Tử nói: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Điều gì mình khơng muốn thì đừng
làm cho người khác" (sách Luận ngữ). Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý,
đạo đức, Khổng Tử nói: "Người khơng có nhân thì lễ mà làm gì? Người khơng có
nhân thì nhạc mà làm gì?" (sách Luận ngữ).

Chính danh: Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó,
mỗi người phải làm đúng chức phận của mình. "Danh khơng chính thì lời khơng
thuận, lời không thuận tất việc không thành" (sách Luận ngữ). Khổng tử nói với
vua Tề Cảnh Cơng: "Qn qn, thần thần, phụ phụ, tử tử - Vua ra vua, tôi ra tôi,
cha ra cha, con ra con" (sách Luận ngữ).

Trên đây là những điều mấu chốt trong kinh sách của Nho giáo, chúng được
tóm gọi lại trong chín chữ: “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Và chín chữ đó
chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thơi.
Qn tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi, thư,
lễ, nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó cịn có thể chỉ những người có đạo đức mà
khơng cần phải có quyền. Ngược lại, những người có quyền mà khơng có đạo đức
thì được gọi là tiểu nhân (như dân thường).
2.
Một số Triết Gia tiêu biểu
2.1. Khổng Tử (551- 479 – TCN)
– Khổng Tử là người mở đầu khai sinh ra trường phái Nho gia. Ông tên thật
là Khổng Khâu, tự là Ni, sinh ra tại nước Lỗ, nay thuộc tỉnh Sơn Đông-Trung
Quốc. Sinh ra trong gia đình quý tộc nhưng đã sa sút. Cha Khổng Tử đã từng làm
quan nước Lỗ, có lúc làm quan đại phu của nước Lỗ. Nhưng khi Khởng Tử ra đời,
cha về hưu (Cha có 3 vợ: vợ đầu có 9 con gái, vợ 2 có 1 người con trai nhưng bị teo
chân. Năm 70 tuổi, cha cưới vợ 3 sinh ra Khổng Tử, đến năm 73 tuổi thì mất).
Khổng Tử nói “ta lớn lên trong cảnh nghèo hèn nên biết nhiều nghề mọn”.
- Khổng tử là người thông minh ơn hịa, nghiêm trang, khiêm tốn và hiếu
học. Với ông, “học không biết chán, dạy không biết mỏi”. Người đầu tiên tự mở
trường dạy học. Học trị của ơng khơng phân biệt giai cấp nhưng việc đào tạo có
mục đích.
- Khổng Tử từng làm quan (quan trong coi ruộng đất, sổ sách) nhưng không
được trọng dụng. Cuộc đời không thành đạt trong quan trường nhưng lại rực rỡ
trong lĩnh vực triết học nhân sinh. Khổng tử mất vào năm 73 tuổi.


- Khổng Tử là người viết nhiều tác phẩm (8 tác phẩm)
+ Kinh Dịch: giải thích bản chất của thế giới theo quan điểm âm dương ngũ
hành.
+ Kinh Thư: trình bày các hoạt động của các triều đại trong lịch sử

+ Kinh Thi: tác phẩm sưu tầm truyền thuyết, ca dao, dân ca
+ Kinh Lễ: tác phẩm trình bày tổ chức hành chính và trật tự địi nhà Chu.
+ Kinh Xuân Thu
Các bộ kinh trên gọi là Ngũ Kinh
+ Luận Ngữ: bàn về đường lối vchính trị lấy dân làm gốc
+ Đại Học: tác phẩm bàn về sự học của người quân tử
+ Trung Dung: dạy cách ứng xử của người quân tử

Quan điểm của Khổng tử về chính trị xã hội
Khổng tử sống trong thời đại nhà Chu suy tàn, trật tự xã hội bị đảo lộn. trước
tình hình đó, ơng chủ trương lập lại lễ giáo nhà Chu, lập ra học thuyết, mở trường
dạy học và đi khắp nơi để truyền bá tư tưởng của mình. Để thực hiện điều đó, ơng
đã xây dụng nên học thuyết về chính trị xã hội mà cốt lõi là 3 phạm trù nhân-lễchính danh.
–  Quan niệm đức nhân: đức nhân có nhiều nghĩa nhưng nghĩa chính là
thương người, nhân đạo đối với con người, nhân cũng là đức hạnh của người quân
tử. Khổng Tử cho rằng đức nhân dựa trên 2 nguyên tắc:
+ “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”- cái gì mình khơng muốn thì đừng làm cho
người khác.
+ “ Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân”- mình muốn đứng
vững thì giúp người khác đứng vững, mình muốn lập thân thì gíup người khác lập
thân, mình muốn thành đạt thì giúp người khác thành đạt.
Trên cơ sở 2 nguyên tắc này, ông cụ thể thành các tiêu chuẩn đạo đức cụ thể
đặc biệt là đối với tầng lớp quân tử, ông cho rằng đối với những người làm chính trị
quản lý xã hội muốn có đức nhân phải có 5 điều:
+ Một là trọng dân
+ Hai là khoan dung độ lượng với dân
+ Ba là giữ lòng tin với dân
+ Bốn là mẫn cán (tận tụy trong công việc): lo việc chung
+ Năm là đem lòng nhân ái đối xử với dân
Như vậy, quan niệm về đức nhân của Khổng Tử là một đóng góp lớn trong

việc giáo dục đào tạo con người giúp con người phát triển tồn diện, vừa có đức
vừa có tài. Tuy nhiên do hạn chế về lập trường giai cấp nên quan niệm về đức nhân


của Khổng Tử cũng có nội dung giai cấp rõ ràng khi ơng cho rằng chỉ có người
qn tử mới có được đức nhân, cịn kẻ tiểu nhân tức nhân dân lao động khơng có
đức nhân; nghĩa là đạo nhân chỉ là đạo của người quân tử là của giai cấp thống trị.
– Quan niệm về lễ: Khổng tử cho rằng để đạt được đức nhân, phải chủ
trương dùng lễ để duy trì trật tự xã hội.Lễ trước hết là lễ nghi, cách thờ cúng, tế lễ;
lễ là kỷ cương, trật tự xã hội, là những qui định có tính pháp luật đòi hỏi mọi người
phải chấp hành. Ai làm trái những điều qui định đó là trái với đạo đức. Như vậy, lễ
là biên pháp đạt đến đức nhân.
– Quan niệm về chính danh: quy định rõ danh phận của mỗi người trong xã
hội. Khổng Tử cũng như các nhà Nho có hồi bão về một xã hội kỷ cương. Vào
thời đại Khổng Tử, xã hội rối ren, vì vậy, điều căn bản của việc làm chính trị là xây
dựng xã hội chính danh để mỗi người mỗi đẳng cấp xác định rõ danh phận của
mình mà thực hiện
Chính danh có hai bộ phận là danh và thực: danh là tên gọi, là địa vị, thứ bậc
của con người; thực là quyền lợi mà con người được hưởng phù hợp với danh.
Khổng Tử cho rằng danh và thực phải thống nhất với nhau. Từ đó ơng chia xã hội
thành 5 mối quan hệ gọi là Ngũ Luân:
+ Vua-tôi (quân-thần): vua nhân-tôi trung
+ Chồng-vợ (phu-phụ): chồng biết điều-vợ biết nghe lẽ phải
+ Cha-con (phụ-tử): cha hiền-con thảo
+ Anh- em (huynh-đệ): anh tốt-em ngoan
+ Bạn bè (bằng hữu): chung thủy
Khổng Tử cho rằng nếu mỗi người mỗi đẳng cấp thực hiện đúng danh phận
của mình thì xã hội có chính danh và một xã hội có chính danh là một xã hội có kỷ
cương thì đất nước sẽ thái bình thịnh trị.


Quan niệm của Khổng Tử về thế giới
Trong quan điểm về thế giới, Khổng Tử có sự giao động gĩưa lập trường duy
vật và lập trường duy tâm vì có khi Khổng Tử tin có mệnh trời: ơng cho rằng “tử
sinh có mệnh” (sống chết tại ở trời, không cãi được mệnh trời). Khổng Tử cho rằng
người quân tử có 3 điều sợ trong đó sợ nhất là mệnh trời, 2 là sợ bậc đại nhân, 3 là
sợ lời thánh nhân. Nhưng có khi Khổng Tử lại khơng tin có mệnh trời: ông cho
rằng trời là lực lượng tự nhiên không có ý chí, khơng can thiệp vào cơng việc của
con người. Ơng cho rằng “Trời có nói gì đâu mà bốn mùa cứ vận hành thay đổi,
trăm vật trong vũ trụ cứ sinh sơi”.
Tóm lại, mặc dù đứng trên lập trường thế giới quan duy tâm bảo thủ, bảo vệ
trật tự xã hội nhà Chu suy tàn nhưng triết hoc Khổng Tử có yếu tố tiến bộ là đề cao


vai trò đạo đức kỷ cương xã hội, đề cao nguyên tắc giáo dục đào tạo con người,
trong người hiền tài, nhân đạo đối với con người và quan niệm tiến bộ của ơng
nhằm xây dựng xã hội thái bình thịnh trị.
2.2. Mạnh Tử (327-289 – TCN)
Mạnh tử tên thật là Mạnh Kha, tự là Dư, sinh tại nước Lỗ, nay thuộc tỉnh Sơn
Đơng – Trung Quốc. Ơng là người kế thừa phát triển tư tưởng của trường phái Nho
gia. Quan điểm triết học của Mạnh Tử thể hiện ở 3 nội dung sau:

Quan điểm của Mạnh tử về thế giới
Mạnh tử phát triển tư tưởng “thiên mệnh” của Khổng Tử và đẩy thế giới
quan ấy tới đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm. Ơng cho rằng khơng có việc gì xảy ra
mà khơng do mệnh trời, mình nên tùy phận mà nhận lấy cái mệnh chính đáng ấy.
Từ đó, Mạnh Tử đưa ra học thuyết “Vạn vật đều có đủ ở trong ta, nên chỉ cần tự
tĩnh nội tâm là biết được tất cả”, nghĩa là khơng phải tìm cái gì ở thế giới khách
quan mà chỉ cần tu dưỡng nội tâm là biết được tất cả. Ông đã chuyển từ quan điểm
duy tâm khách quan sang quan điểm duy tâm chủ quan.


Quan điểm về bản chất con người
Mạnh Tử cho rằng bản chất con người vốn là thiện, tính thiện đó là do thiên
phú chứ khơng phải là do con người lựa chọn. Nếu con người biết giữ gìn thì làm
cho tính thiện ngày càng mạnh thêm; nếu khơng biết giữ gìn sẽ làm cho nó ngày
càng mai mọt đi thì con người trở nên nhỏ nhen, ti tiện khơng khác gì lồi cầm thú.
Từ đó, Mạnh Tử kết luận: bản chất con người là thiện nhưng con người hiện
thực có thể là ác, đó là do xã hội rối loạn, luân thường đạo lý bị đảo lộn. Cho nên,
để thiết lập quốc gia thái bình thịnh trị thì phải trả lại cho con người tính thiện bằng
đường lối chính trị lấy nhân nghĩa làm gốc.

Quan điểm về chính trị xã hội
Trong quan điểm về chính trị xã hội, Mạnh Tử có nhiều tiến bộ đặc biệt là tư
tưởng của ông về dân quyền, tức đề cao vai trị của quần chúng nhân dân. Ơng cho
rằng trong một xã hội thì quý nhất là dân rồi mới đến vua, đến của cải xã tắc “dân
vi quý, quân vi khinh, xã tắc thứ chi”. Với tinh thần ấy, Mạnh tử chủ trương xây
dựng một chế độ bảo dân, dưỡng dân tức là phải chăm lo, bảo vệ nhân dân và ơng
u cầu người trị vì đất nước phải quan tâm đến dân, phải tạo cho dân có nhà cửa,
ruộng vường, tài sản bởi vì họ “hàm sản mới hàm tâm”. Ơng là người chủ trương
khơi phục chế độ tĩnh điền để cấp đất cho dân. Ông khuyên các bậc vua chúa tiết
kiệm chi tiêu, thu thuế của dân có chừng mực. Đó là những quan điểm hết sức mới
mẽ và tiên bộ của ông khiến ông mạnh dạn đưa vào đường lối chính trị của trường


phái Nho gia hàng loạt vấn đề mới mẽ toát lên tinh thần nhân bản theo đường lối
lấy dân làm gốc.

CHƯƠNG 3
QUÁ TRÌNH DU NHẬP VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TRONG
TRUYỀN THỐNG VĂN HĨA VIỆT NAM
1.

Q trình du nhập và phát triển Nho giáo Việt Nam
1.1. Định nghĩa Văn hóa
Từ “Văn hóa” có rất nhiều nghĩa với nhiều phạm vi khác nhau trong
tiếng Việt, Văn hóa được dùng theo nghĩa thơng dụng để chỉ học thức (trình độ văn
hóa), lối sống (nếp sống văn hóa); Theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ văn minh
của một giai đoạn lịch sử (Văn hóa Đơng Sơn).
Định nghĩa văn hóa trong các từ điển hầu hết mở đầu bằng câu : “Văn hóa
là tập hợp của các giá trị…” Ủy ban UNESCO của liên hợp quốc thì xếp văn hóa
bên cạnh khoa học và giáo dục, tức đặt hai lĩnh vực này ra ngồi khái niệm văn
hóa, và đã định nghĩa văn hóa như sau : “ Văn hóa là một phức thể, tổng thể các
đặc trưng – diện mạo tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm … Khắc họa lên bản
sắc một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội. Văn hóa


không chỉ bao gồm nghệ thuật văn chương mà cả những lối sống, những quyền cơ
bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống tín ngưỡng …”
Theo Triết học Macxít thì : “Văn hóa thể hiện trình độ phát triển của xã hội
mà loài người đạt được, bao gồm quan hệ con người với tự nhiên và xã hội, cả sự
phát triển sáng tạo và khả năng của cá nhân”. Phó giáo sư – Tiến sĩ Trần Ngọc
Thêm đã tổng kết và đưa ra định nghĩa văn hóa như sau : “Văn hóa là một hệ thống
hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua q
trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với mơi trường tự
nhiên và xã hội của mình”.
Ta thấy khái niệm văn hóa có mặt trong mọi phạm vi xã hội và gắn liền với
một xã hội, một dân tộc, một cộng đồng và một cá thể trong từng thời  điểm lịch sử
nhất định. Văn hóa là một nhân tố chủ quan của con người tác động trở lại quá trình
phát triển khách quan của lịch sử. Ngày nay, nhân tố con người ngày càng trở nên
quan trọng, nhất là trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
1.2. Quá trình du nhập và phát triển của Nho giáo Việt Nam
• Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo được du nhập vào Việt Nam từ lâu và

đã có vai trị đáng kể trong đời sống tinh thần của nhân dân. Những trào lưu ấy
được cải biến cho phù hợp với truyền thống văn hóa của nhân dân và nhu cầu của
đất nước, đã trở thành nhân tố của nền văn hóa và hệ tư tưởng thống trị ở Việt
Nam. Nghiên cứu về Nho giáo ở Việt Nam khơng thể tách rời nó với truyền thống
Việt Nam.
 • Nho giáo ở dạng Hán nho được các quan lại Trung Hoa như Tích
Quang, Nhâm Diên, Lý Thiện, Sĩ Nhiếp.. tích cực truyền bá từ cơng ngun.
Nhưng Phật giáo đã có ưu thế hơn Nho giáo rất nhiều. Trong khi Nho giáo chỉ
dừng lại ở tầng lớp quan lại xung quanh chính quyền ngoại bang thì Phật giáo đã
thâm nhập vào các tầng lớp nhân dân ở mọi miền đất nước. Có thể nói rằng suốt cả
giai đoạn chống Bắc thuộc, Nho giáo chưa có chỗ đứng trong xã hội Việt Nam.
• Đến thời Lý, với sự kiện Lý Thái Tổ cho xây cất Văn Miếu thờ Chu
Công, Khổng Tử (1076), mới có thể xem là Nho giáo được tiếp nhận chính thức.
Chính vì vậy mà Nho giáo ở Việt Nam chủ yếu là Tống Nho (Nhà Lý cùng thời với
nhà Tống ở Trung Hoa) chứ không phải Hán Nho, Đường Nho…
• Vào năm 1232 vua Trần đã đặt ra học vị đầu tiên cho thi cử Nho giáo ở
nước ta, đó là học vị Thái học sinh (về sau đổi thành tiến sĩ) và có Chu Văn An đỗ
thái học sinh nhưng không ra làm quan mà mở trường dạy học, đào tạo được khá
đơng học trị. Các nhà Nho thời kỳ này ra sức bài xích Phật giáo để khẳng định chỗ
đứng của mình. Tuy nhiên, đến cuối đời Trần, Nho giáo vẫn chưa được chấp nhận


rộng rãi. (Khơng cứ gì ở nơi nơng thơn, ngay ở chốn triều đình, các tập tục, lề lối
của khn mẫu Nho giáo cũng rất xa lạ với ta. Một lần có người đề nghị cải tổ triều
đình theo khn mẫu Phương Bắc đã bị vua Trần cự tuyệt và nói rằng ta có cách
của ta).
• Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, các nhà Nho, đứng đầu là
Nguyễn Trãi, tập hợp dưới ngọn cờ của Lê Lợi đã có những đóng góp to lớn. Với
sự lớn mạnh của Nho giáo Việt Nam, với nhu cầu cải cách đất nước đã dẫn đến
việc triều Lê chủ động đưa Nho giáo thành Quốc giáo; Nho giáo giữ địa vị độc tôn.

Từ đó, Nho giáo thịnh suy theo bước thăng trầm của các triều đại phong kiến. Nhà
Nguyễn lên cầm quyền, địa vị của Nho giáo một lần nữa khẳng định để rồi tàn lụi
dần khi phải đối mặt với sự tấn cơng của văn hóa phương Tây.
1.3. Sự tiếp thu Nho giáo trên cơ sở truyền thống văn hóa Việt Nam
 
Nét độc đáo của văn hoá Việt Nam là khi tiếp thu cái ngoại lai, nó tiếp
nhận từng yếu tố riêng lẻ và Việt Nam hoá để rồi cấu tạo lại theo cách của mình.
Nhà nước phong kiến Việt Nam chủ động tiếp nhận Nho giáo chính là để
khai thác những yếu tố là thế mạnh của Nho giáo, thích hợp cho việc tổ chức và
quản lý đất nước.
Trước hết nhà nước quân chủ Việt Nam đặc biệt là các triều Lê, Nguyễn
đã học tập rất nhiều ở cách tổ chức triều đình và hệ thống pháp luật, hệ thống thi cử
để chọn người tài bổ dụng, trong bộ máy cai trị đã được triều đình phong kiến Việt
Nam vận dụng ngay từ đầu thời Lý hoàn thiện dần ở thời Trần và hoàn chỉnh vào
thời Lê. Chữ cổ đã mai một và mất hẳn thì người Việt sử dụng chữ Hán (chữ Nho)
làm văn tự chính thức trong giao dịch hành chính, trên cơ sở chữ Hán, từ cuối thời
Bắc thuộc, người Việt đã tạo ra chữ Nôm dùng trong sáng tác văn chương. Thời
Tây Sơn vua Quang Trung đã mở rộng sử dụng chữ Nôm trong lĩnh vực hành chính
và giáo dục.
Có rất nhiều yếu tố của Nho giáo khi vào Việt Nam đã biến đổi cho phù hợp
với truyền thống của văn hoá dân tộc tức là: “Chữ nghĩa nó vẫn thế nhưng cách
hiểu thì đã khác nhiều”.

Về chữ Trung và Hiếu
Trong giai đoạn của lịch sử Việt Nam, khi xuất hiện mâu thuẩn giữa Vua và
đất nước với dân tộc, thì đất nước dân tộc ln là cái quyết định, được đặt lên trên
hết. Tư tưởng Trung quân của Nho giáo được người Việt Nam tiếp thu trên cơ sở
tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc sẵn có khiến cho nó đã bị biến đổi, “Trung
quân” gắn liền với “Ái quốc”.



Chủ Tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại, nguời con tiêu biểu của dân tộc
Việt Nam, đã kế thừa và phát huy những giá trị tinh tuý nhất của Nho giáo trong
cuộc đời cách mạng của mình, đưa dân tộc đi lên con đường phát triển mới của thời
đại. Chữ Trung trong thời đại Bác Hồ mang nội dung mới hồn tồn: Khơng phải
“Trung với Vua” mà là “Trung với nước” và chữ Hiếu với nội dung được mở rộng
đến vơ cùng đó là “Hiếu với dân”, chứ khơng cịn hạn hẹp như khái niệm của Nho
giáo xưa kia.
Theo Nho giáo xưa kia thì “ Phụ mẫu tại bất viễn du” tức là: cha mẹ cịn con
khơng được đi xa,và “ Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”.Tức là: Có ba tội bất hiếu,
tội khơng có con nối dõi là tội nặng nhất.
Chính vì đặt đất nước lên hết, mà một người dòng dõi Nho gia như Hồ Chí
Minh dám đi ngược lại giáo huấn của Nho gia.Vì tổ quốc vì dân tộc, người tạm thời
gác bỏ chữ hiếu theo nội dung hạn hẹp của Nho gia, để ra đi tìm đường cứu nước.
Người khơng lập gia đình để hy sinh tất cả cho đất nước, non sông. Như vậy, chữ
hiếu đã được mở rộng vượt ra ngồi khn khổ chật hẹp của Nho giáo, hồ với chữ
Trung là một,và chữ Trung cũng mang một nội dung hoàn toàn hiện đại, như lời 
dạy của Bác đối với quân đội cách mạng.
                                    Trung với Đảng, hiếu với dân
                                     Nhiệm vụ nào cũng hồn thành
                                     Khó khăn nào cũng vượt qua
                                     Kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Trung và hiếu hai khái niệm hạn hẹp của Nho gia ngày xưa, nay đã được mở
rộng, gắn liền với khái niệm nhân dân, đất nước. Người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc,
vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh của chúng ta  vốn xuất thân từ dòng dõi Nho gia
nhưng đã vượt qua khỏi vòng cương toả khắc nghiệt của Nho gia, hiến trọn đời
mình vì nước vì dân, nên trở thành bất tử.
                                  …Người khơng con mà có triệu con
                                      Nhân dân ta gọi người là Bác…


Trọng dụng người tài
Một trong những điểm tiến bộ của Nho giáo xưa là chủ trương “Coi trọng
người hiền tài”  .
                               … “Hiền tài là ngun khí của quốc gia
                                      Ngun khí mạnh thì quốc gia thịnh
                                      Ngun khí yếu thì quốc gia suy”…       
Chủ tịch Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ anh minh lỗi của dân tộc chúng ta, ngay từ
những năm sau kháng chiến chống Pháp trường kỳ và gian khổ, đãcó một tầm nhìn


rộng lớn, đề ra và giải quyết nhiều vấn đề vượt trước thời đại. Ngưới thấu hiểu vai
trị của trí thức, đã trân trọng mời nhiều trí thức việt kiều về xây dựng đất nước.
Ngay từ năm 1946 Người nói đến việc diệt trừ “giặc dốt” ngay sau khi tuyên
bố độc lập 4/10/1945 Người phát động phong trào “Bình dân học vụ” nhằm chống
nạn thất học. Người khuyên bảo thầy trị ngành giáo dục “Dù khó khăn gian khổ
đến đâu, cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt”…
Suốt cuộc đời mình lúc nào Người cũng hết mực chăm lo thế hệ tương lai
của đất nước.Trước lúc phải đi xa, Bác vẫn khơng qn dặn dị chu đáo trong di
chúc của Người:  …Bồi dưỡng cách mạng đời sau là việc làm rất quan trọng và cần
thiết. Đảng phải chăm lo bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho họ để họ trở thành…
vừa hồng vừa chuyên…
Vì vậy việc coi trọng giáo dục, đào tạo nhân tài cho đất nước chính là một
trong những mục tiêu quan trọng và cấp thiết mà Đảng và nhà nước ta hết sức quan
tâm. Đảng và nhà nước ta, ngay cả các địa phương, đã lập ra các quỹ học bổng ,
quỹ khuyến học, các giải tài năng trẻ…để giúp đở học sinh, sinh viên nghèo hiếu
học, và đó cũng chính là thể hiện sự ưu ái, coi trọng người hiền tài trong xã hội
ngày nay.
             “ Ngun khí mạnh thì quốc gia thịnh…”
Đó khơng chỉ là quy luật muôn đời đúng với từng dân tộc,từng quốc gia,mà
cịn ln ln mới và đúng trong phạm vi hẹp hơn là ở mỗi địa phương, mỗi tổ

chức,thậm chí đúng cả ở phạm vi gia đình là tế bào của xã hội.
Một thực tế mà chúng ta đã biết Bình Dương xưa vốn là một tỉnh  giàu tìm
năng về mọi mặt, nhưng do cơ chế cũ, nên nghèo nàn lạc hậu chậm phát triển.Từ
khi có chủ trương “Chiêu hiền đãi sĩ” “Trãi chiếu hoa mời gọi đầu tư”đã trở thành
một tỉnh công nghiệp phát triển giàu và mạnh.

Chữ Nhân, Lễ, Trí, Dũng
Xin nhắc lại đơi nét về chữ Nhân trong triết học Khổng Tử: Tinh thần chủ
yếu của chử Nhân chính là lịng thương người, là cách sống đối với mình, đối với
người: “Mình muốn lập thân thì cũng giúp cho người khác lập thân; Mình muốn
thành đạt thì cũng giúp cho người thành đạt, những gì mình khơng muốn thì chớ
đem đối xử với người” (kỷ sở bất dục,vật thị ư nhân)…    
Khi Nho giáo du nhập vào Việt Nam chữ Nhân được người Việt Nam rất tâm
đắc và nó trở thành truyền thống tốt đẹp bao đời nay của dân tộc ta.
Trong xã hội ngày nay nó vẫn được coi trọng và thể hiện qua cách hiểu và
cách sống: “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Các phong trào thực hiện nếp
sống văn minh, văn hoá, phong trào đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn thực


hiện gia đình văn hố “Ơngbà, cha mẹ mẫu mực con cháu thảo hiền”…Các nghĩa
cử tương thân tương ái trong xã hội như “Lá lành đùm lá rách”… Đó chính là biểu
hiện tốt đẹp của chữ Nhân trong cả phạm vi rộng và hẹp của xã hội ngày nay.
Xưa kia theo quan niệm đạo đức Nho giáo thì người quân tử, người cai trị
phải có đầy đủ các đức tính như: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Dũng…
Chữ Nhân phải gắn liền với chữ Lễ trong việc tu thân, học đạo để sửa mình
để trị nước, muốn đạt được đức Nhân thì cần phải rất mực chú trọng đến chữ
Lễ.Theo Khổng Tử Lễ chính là những quy phạm, những nguyên tắc đạo đức của
nhà Chu: Vua cho ra vua, tôi cho tôi, cha cho ra cha, con cho ra con…phải dùng lễ
để khôi phục trật tự, phép tắc luân lý xã, khiến mọi người phải trở về đạo và nhân,
trở thành chính danh.. Lễ và Nhân là hai yếu tố có quan hệ mật thiết không thể tách

rời nhau; Nhân là chất, là nội dung là linh hồn của lễ, lễ là hình thức biểu hiện của
Nhân.
Người muốn đạt được đức Nhân, theo Khổng Tử phải là người có Trí và
Dũng.
Nhờ có Trí con người mới sáng suốt, minh mẫn để hiểu biết đạo lý, xét đoán
được sự việc, phân được phải trái, thiện ác để trao dồi đạo đức và hành động hợp lý
với thiên lý. Nhưng muốn đạt được chữ Nhân, có trí thơi chưa đủ mà cần phải có
dũng,dũng khơng phải ỷ vào sức mạnh, chỉ biết vì lợi ích cá nhân mà suy nghĩ và
hành động bất chấp cả đạo lý. Người Nhân có Dũng phải là: “Người có thể tỏ rõ ý
kiến mình một cách cao minh,có thể hành động một cách thanh cao khi vận nước
loạn lạc, khi người đời gặp phải hoạn nạn…” Người Nhân có Dũng mới làm chủ
được mình, mới quả cảm xả thân vì Nhân Nghĩa mới có thể “Lập thân” và “ Đạt
Nhân”. Khi gặp cơn thiếu thốn, cực khổ không nao núng làm mất nhân cách của
mình; khi đầy đủ, sung túc không ngã nghiêng xa rời đạo lý hơn người, Nhân có
Dũng sẽ sẵn sàng “Vì Nhân mà sát thân, chứ khơng giữ mạng sống của mình mà
hại Nhân”. Cùng với Nhân, Trí, Dũng, thì Nhạc, Thi, Thư cũng là phương tiện để
giáo hóa con người góp phần ổn định và phát triển xã hội. Nhạc chính trực, trang
nghiêm, hồ nhã có tác dụng di dưỡng tính tình cảm hố lịng người, hướng tâm
người ta tới cái chân, thiện, mỹ do sự ứng cảm trong tâm tư với sự hài hoà của âm
nhạc.
Khổng Tử cho rằng: “Hưng khởi là nhờ thi tạo lập là nhờ lễ, thành đạt là nhờ
nhạc…”
Như vậy chúng ta có thể hiểu một cách khái quát: Người cai trị, người quân
tử phải là người có một vốn văn hố tồn diện.


Ngày nay, những điều đó được thể hiện ở quan điểm toàn diện trong giáo
dục và đào tạo.Trong đạo đức của xã hội, và nó được thể hiện rất đầy đủ trong chữ
Tài và Đức, Hồng và Chuyên. Hồ chủ tịch dạy: “Người có tài mà khơng có đức là
người vơ dụng. Người có đức mà khơng có tài làm việc gì cũng khó”.

Để được cái tài và đức ấy, mỗi con người cần phải được rèn luyện ngay từ
khi còn nhỏ, khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Chúng ta đã bắt gặp câu khẩu hiệu:
“Tiên học lễ hậu học văn” trong các trường học, cùng với năm điều Bác dạy thiếu
niên nhi đồng.
Đó chính là nội dung giáo dục toàn diện đối với thế hệ trẻ Việt Nam. Đối với
người cán bộ, người lãnh đạo trước hết phải tu thân, để trở thành con người toàn
diện phải thực sự gương mẫu về mọi mặt. Hồ chủ tịch dạy phải cần kiệm liêm
chính, phải chí cơng vơ tư, xứng đáng là đầy tớ trung thành của nhân dân.

Tư tưởng Nhân chính, Bảo dân
Mạnh Tử là người kế thừa chính thống học thuyết của Khổng Tử. Trên cơ
sở học thuyết về “tính thiện’’ và “Nhân trị”  của Khổng Tử, Ơng đề ra tư tưởng
“Nhân chính” trong phương pháp trị nước. Đặc biệt Ơng có quan niệm mới mẻ và
hết sức sâu sắc về vấn đề dân quyền:
                    … “Dân di q, xã tắc thứ chi qn vi khinh”
Vì theo Ơng, có dân mới có nước, có nước mới có vua thậm chí dân quan
trọng hơn vua.Nếu khơng có sự ủng hộ của dân, thì chế độ sớm muộn sẽ sụp đổ;
Vua nếu khơng hợp lịng dân và ý trời, thì trước sau cũng sẽ bị phế bỏ…Mạnh Tử
cũng chủ trương một chế độ “Bảo dân’’ người cai trị phải lo cái lo của dân,vui cái
vui của dân,tạo cho dân của cải ruộng đất, sản nghiệp và cuộc sống bình yên no
đủ.Việc vua Nghiêu,Vua Thuấn được thiên hạ là do được lòng dân. Còn Vua
Kiệt,Vua Trụ mất thiên hạ là do mất lịng dân.
Học thuyết về chính trị, xã hội với tư tưởng nhân chính, bảo dân có ý nghĩa
tiến bộ phù hợp với yêu cầu và xu thế phát triển của lực lượng xã hội. Chính vì vậy
một số học giả coi Mạnh Tử là người có tư tưởng dân chủ.
Từ mấy trăm năm trước, Nguyễn Trãi cũng từng nói :
   … “ Lật thuyền mới biết dân như nước”
Cách đây vài mươi năm, đồng chí Trường Chinh một trong những vị lãnh
đạo cao cấp của Đảng cũng đã chỉ ra rằng phải lấy dân làm gốc trong sự nghiệp đổi
mới…


Thuyết chính danh
Thuyết chính danh xưa của Nho gia, nếu xét theo những khía cạnh tiến bộ và
tích cực của nó vẫn hết sức cần thiết trong xã hội hiện nay.


Theo Khổng Tử xã hội loạn lạc do Danh –Thực rối loạn,dẫn đến xã hội xa
rời đạo lý và nhân nghĩa. Ơng chủ trương phải giáo hố đạo đức và thực hiện chủ
nghĩa “ chính danh,định phận’’, vì mọi người, mỗi vật sinh ra đều có địa vị, cơng
dung nhất định, ứng với một tên gọi nhất định
   … “Chính danh là làm việc cho ngay thẳng”
    … “Chính danh thì người nào có địa vị, bổn phận chính đáng của người
ấy;
        Trên dưới, vua tôi cha con, trật tự phân minh”
    … “Danh khơng chính thì ngơn khơng thuận;
    … Ngơn khơng thuận thì việc khơng thành”
Vì vậy từ cán bộ lãnh đạo cho đến thứ dân,người nào cũng phải trọn trách
nhiệm của người ấy,cho đúng với danh vị và chức phận của mình
Nếu mọi người trong xã hội chúng ta ngày nay đều xứng đáng,đều tuân thủ
đúng với danh vị và chức phận của mình thì xã hội tất sẽ khơng rối loạn khơng có
nạn tham nhũng,hối lộ, tham ơ và khơng có những tệ nạn tiêu cực, xấu xa hủ bại.
Biết bao thế hệ thầy và trò đã trưởng thành,đã đóng góp tài năng,trí lực,và cả
xương máu của mình vào thắng lợi của hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân
tộc. Ngành giáo dục thực sự đã có cơng rất lớn trong việc đào tạo ra những thế hệ
xứng đáng với dân tộc chúng ta.
Khi chiến tranh chấm dứt đã được khá lâu ,chuyện trường và lớp vẫn chưa
được biến đổi nhiều. Đó là do hậu quả của chiến tranh,và còn rất nhiều nguyên
nhân quan trọng khác.Nhưng có điều đáng nói là ở chổ ;chữ Tài và chữ Đức trong
trường học và trong nhiều lãnh vực…gây nhiều mối lo ngại cho các bậc phụ huynh
và cho toàn xã hội. Việc học sinh bỏ học, vơ lễ,thậm chí phạm pháp…gần như diễn

ra ở rất nhiều nơi…Chữ Lễ đã mất đi giá trị đích thực của nó. Do những chuyện
tiêu cực  trong việc dạy và học còn tồn tại khá nhiều, cho nên dẫn đến việc trò chưa
đạt chất lựơng.Thầy chưa đạt chuẩn hố. Đã có một thời gian dài việc giáo dục và
rèn luyện đạo đức cho học sinh là vấn đề hàng đầu mà ngành giáo dục phải quan
tâm.
Trong những năm gần đây, vai trò và vị trí của giáo dục đã nhìn nhận đúng
với vị trí đích thực của nó, giáo dục trở thành quốc sách, được Đảng và nhà nuớc và
toàn xã hội đặc biệt quan tâm. Sự biến đổi về trường và lớp là điều dễ nhận thấy
nhất: Những ngôi trường già nua, những lớp học giột nát…dần đã biến mất, hàng
loạt các ngôi trường cao tầng khang trang, sạch đẹp với những tiện nghi đầy
đủ,hiện đại đạt chuẩn quốc gia đã mọc lên hầu hết khắp các địa phương trong cả
nước. Ai cũng sung sướng và yên tâm khi nhìn thấy con em mình được học tập



×