Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Giáo dục tư tưởng hồ chí minh về đức và tài cho sinh viên trường đại học sư phạm thành phố hồ chí minh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (934.24 KB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

HỒ THANH CHÍ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỨC VÀ TÀI CHO
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

Thuộc nhóm ngành khoa học: Khoa học Xã hội và Nhân văn

Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 03/2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỨC VÀ TÀI CHO
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

Thuộc nhóm ngành khoa học: Khoa học Xã hội và Nhân văn

Sinh viên thực hiện: Hồ Thanh Chí

Nam, Nữ: Nam


Dân tộc: Kinh
Năm thứ: 04/Số năm đào tạo: 04

Lớp: 44.01.GDCT
Ngành học: Giáo dục Chính trị

Giảng viên hướng dẫn: TS. Lương Văn Tám

Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 03/2022


Lời cam đoan
Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình do tôi nghiên cứu và thực hiện, dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Lương Văn Tám. Nội dung, kết quả nghiên cứu được
trình bày trong đề tài là trung thực và khách quan. Các tài liệu trong đề tài đều có
nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 04 năm 2022
Người cam đoan

Hồ Thanh Chí


Lời cảm ơn
Cơng trình nghiên cứu này được thực hiện tại trường Đại học Sư phạm thành
phố Hồ Chí Minh dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Lương Văn Tám.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy về định hướng khoa học, đã
hướng dẫn nhiệt tình, tận tâm, liên tục quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi trong suốt
q trình nghiên cứu, hồn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến q thầy cơ khoa Giáo dục Chính
trị đã truyền đạt, chỉ dạy tận tình cho tác giả những kiến thức quan trọng và bổ ích

trong q trình học tập tại Nhà trường.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn Lãnh đạo trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ
Chí Minh, Hội đồng Khoa học, Phịng Đào tạo, Phịng Cơng tác Chính trị và Học
sinh Sinh viên, Thư viện trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Ban chủ
nhiệm khoa Giáo dục Chính trị vì đã tạo điều kiện để tác giả được thực hiện và hoàn
thành chương trình nghiên cứu của mình.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn tới các bạn sinh viên, bạn bè thân hữu, đã tạo nhiều
điều kiện thuận lợi, giúp đỡ động viên, hỗ trợ thực hiện việc thu thập dữ liệu, triển
khai đề tài nghiên cứu tại trường.
Cuối cùng là sự biết ơn tới Ba Mẹ, gia đình và những người bạn thân thiết vì đã
liên tục động viên để duy trì nghị lực, sự cảm thơng, chia sẻ về thời gian, sức khỏe và
các khía cạnh của cuộc sống trong cả q trình để hồn thành cơng trình.
Trân trọng!

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 04 năm 2022
Tác giả

Hồ Thanh Chí


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài....................................................................................... 1
2. Tổng quan về đề tài ............................................................................................. 3
3. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................... 9
4. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................. 9
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 10
6. Cấu trúc của khóa luận tốt nghiệp ..................................................................... 10
7. Đóng góp của đề tài ........................................................................................... 10
Chương 1. Cơ sở lý luận và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đức và tài ............ 11

1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đức và tài .................................. 11
1.1.1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về đức và tài....................................... 11
1.1.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đức và tài ............................ 16
1.1.2.1. Tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại ............................................ 17
1.1.2.2. Kế thừa những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ............................... 20
1.1.2.3. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin ........................................ 26
1.1.2.4. Năng lực tư duy và trí tuệ của bản thân Hồ Chí Minh ....................... 28
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đức và tài .............................................. 30
1.2.1. Tài – đức hồng thắm, chuyên sâu ............................................................. 30
1.2.2. Đức – tài một thể thống nhất, không thể tách rời ..................................... 32
1.2.3. Đức phải đặt lên hàng đầu, đức là gốc ..................................................... 34


Chương 2. Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đức và tài cho sinh viên trường Đại
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay:Thực trạng và giải pháp .............. 41
2.1. Thực trạng giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đức và tài cho sinh viên trường
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay ............................................ 41
2.1.1. Một số đặc điểm của sinh viên Sư phạm .................................................. 41
2.1.2. Thực trạng việc giáo dục đức và tài cho sinh viên sư phạm hiện nay ..... 42
2.1.2.1. Những kết quả đạt được ..................................................................... 44
2.1.2.2. Những hạn chế ................................................................................... 53
2.1.3. Nguyên nhân............................................................................................. 55
2.2. Giải pháp giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đức và tài cho sinh viên trường
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay ............................................ 59
2.2.1. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng ủy, Ban giám hiệu .......................... 59
2.2.2. Tăng cường và đổi mới phương thức hoạt động của tổ chức Đồn – Hội 64
2.2.3. Đẩy mạnh cơng tác giáo dục tư tưởng – chính trị và hoạt động học tập.. 67
2.2.4. Phát huy tinh thần tự giác của sinh viên trong việc bồi dưỡng đức và tài 75
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 84



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tiếp tục thực hiện chỉ thị 05/CT – TW: “Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp
tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động…đưa việc học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thành cơng việc tự giác”.
Đạo đức Hồ Chí Minh là phương hướng đúng đắn và yếu tố trọng yếu đảm bảo
cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đó khơng chỉ là
cơ sở để xây dựng đội ngũ cán bộ, Đảng viên nói riêng mà cịn là cơ sở xây dựng
con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung hiện nay. Trong tầm nhìn của
nhân loại tiến bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương nổi bật về cuộc đời của
một con người “đầy tình yêu nhân dân, đầy yêu thương con trẻ, dạt dào tình yêu
Tổ quốc, yêu những người lao động, yêu Đảng, yêu chủ nghĩa xã hội và lý tưởng
cộng sản chủ nghĩa”. Những phẩm chất nhân cách cần có của người cán bộ nói
riêng và con người nói chung đã được Người khái quát cô đọng và sâu sắc trong
hai chữ “đức” – “tài” trở thành giá trị cơ bản khơng chỉ của cán bộ, Đảng viên mà
cịn để mỗi người phấn đấu, rèn luyện.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển như vũ bão cùng với việc thực
hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta với quá trình
mở cửa, hội nhập quốc tế và khu vực có những biến đổi kinh tế, chính trị, xã hội,
quân sự, an ninh của thế giới và khu vực. Trong mơi trường đó, năng lực chun
mơn, kỹ năng, của thanh niên ngày nay được nâng lên nhưng chưa đáp ứng được
địi hỏi cao của q trình hội nhập; trong đó thanh niên đang thiếu hụt cả về kiến
thức lịch sử và văn hóa dân tộc cũng như kỹ năng, khả năng tư duy độc lập. Phần



2

lớn, thanh niên thiếu trình độ về ngoại ngữ, tin học, khoa học cơng nghệ, chưa có
thói quen trong mơi trường lao động và đời sống công nghiệp...
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong
khu vực và trên thế giới, một bộ phận thanh niên, trong đó có một số bộ phận sinh
viên sư phạm chưa có bản lĩnh chính trị, dễ dao động lập trường tư tưởng chính trị,
có biểu hiện lệch lạc về giá trị đạo đức và lối sống, chỉ chú trọng rèn luyện chuyên
môn nghiệp vụ mà chưa quan tâm bồi dưỡng đạo đức, có lối sống vơ cảm, thờ ơ,
đề cao hưởng thụ, sống thực dụng, ích kỷ, đề cao cá nhân chủ nghĩa, thiếu trách
nhiệm với cộng đồng hay thậm chí là sa vào tệ nạn xã hội…Bối cảnh mới như thế
đang đặt ra những vấn đề mới trong quan niệm về “đức” và “tài”.
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đến nay đã trải qua hơn
40 năm xây dựng và phát triển. Nhằm góp phần thực hiện mục tiêu của trường,
đào tạo thành công nguồn năng lực chất lượng cao – những người truyền thụ lý
tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sinh viên Sư phạm là đội ngũ trí thức tương
lai của đất nước, là những người mang trên vai sứ mệnh quan trọng mà xã hội giao
phó. Để phát huy hơn nữa những phẩm chất tốt đẹp, góp phần nâng cao ý chí, tinh
thần trách nhiệm của sinh viên đối với xã hội thì việc giáo dục nhận thức cho sinh
viên về tầm quan trọng của “đức và tài” – góp phần hình thành con người phát
triển tồn diện cả về năng lực và phẩm chất “vừa hồng – vừa chuyên” là vô cùng
quan trọng và cấp bách, đặc biệt là trong xã hội có nhiều biến đổi nhanh chóng như
hiện nay.
Xuất phát từ tầm quan trọng và ý nghĩa của việc giáo dục đạo đức Hồ Chí
Minh cho sinh viên nói chung và sinh viên trường Đại học Sư phạm nói riêng; tác
giả mong muốn góp một phần nhỏ vào việc tìm ra giải pháp, trang bị và bồi dưỡng
cho sinh viên Sư phạm phẩm chất và năng lực – “đức và tài” hài hòa, phát triển


3


toàn diện nên tác giả quyết định chọn thực hiện đề tài: “Giáo dục tư tưởng Hồ
Chí Minh về đức và tài cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay”
2. Tổng quan về đề tài
Đạo đức Hồ Chí Minh là một nội dung quan trọng trong tư tưởng, sự nghiệp
của chủ tịch Hồ Chí Minh, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn. Cho nên có rất
nhiều nhà khoa học quan tâm tìm hiểu và nghiên cứu vấn đề này:
- Tác giả Thành Duy và Lê Quý Đức (2007): “Học tập tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh – Xây dựng nền văn hóa ở nước ta hiện nay” – NXB Lý luận chính trị
Hà Nội. Các tác giả đã hệ thống tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và khẳng định rằng
đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương trọn đời phấn đấu hy sinh vì sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; đạo đức Hồ Chí Minh
là tấm gương cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư.
- Tác giả Hồng Trung (2010) “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh qua các phạm
trù mà Người sử dụng”. Tác giả đã chỉ ra những phạm trù đạo đức cơ bản mà Hồ
Chí Minh sử dụng, vận dụng và phát triển tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong
cơng cuộc đổi mới hiện nay. Từ đó tác giả nhấn mạnh người Việt Nam cần phải
tiếp tục tuyên truyền, giáo dục và thực hiện ngày càng sâu rộng trong các phạm trù
đạo đức mà Người sử dụng, thường xuyên đấu tranh chống lại các biểu hiện của
chủ nghĩa cá nhân.
- Cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng vào đào tạo đại học
hiện nay”, công trình nghiên cứu nguồn gốc, quá trình hình thành, nội dung tư
tưởng của Người về giáo dục, đánh giá thực trạng và giải pháp vận dụng tư tưởng
của Người, trong đó có giải pháp xây dựng đội ngũ giảng viên đủ đức – tài, vừa
hồng vừa chuyên theo lời dạy của Người.


4


- “Tấm gương Bác – Ngọc quý của mọi nhà – Tìm người tài đức” của ThS.
Đào Thị Lệ Hằng và Tuệ Minh (biên soạn, tuyển chọn)
- Luận án Tiến sỹ chuyên ngành Hồ Chí Minh học: “Giáo dục đạo đức Hồ
Chí Minh cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay”, Lương Thị Thúy Nga (Hà
Nội, 2019). Trên cơ sở làm rõ những vấn đề cơ bản của đạo đức Hồ Chí Minh và
nội dung giáo dục đạo đức cho sinh viên, đánh giá thực trạng và đưa ra giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên đại học
Thái Nguyên hiện nay.
- “Giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Kĩ thuật Công nghiệp Thái
Nguyên hiện nay theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh” Luận văn Thạc sỹ Chuyên
ngành: Hồ Chí Minh học, Lương Thị Bích Ngọc (2013). Làm rõ một số nội dung
cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên, đạo đức và giáo dục đạo đức
cho thanh niên – sinh viên. Tìm hiểu thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức cho
sinh viên ở Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên hiện nay. Đề xuất
một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho
sinh viên Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên theo tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh.
- “Đánh giá cán bộ chú trọng đức và tài trong Tư tưởng Hồ Chí Minh và vận
dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam” – Nguyễn Thị Phương Chi, tạp chí Khoa học
Viện Đại học Mở Hà Nội số 56 (06/2019) trang 6 – 10. Bàn về những luận điểm
cơ bản của Hồ Chí Minh về đánh giá cán bộ chú trọng đức và tài và sự vận dụng
của Đảng Cộng sản Việt Nam về đánh giá cán bộ, công chức.
- “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người mới phát triển toàn diện với việc xây
dựng và phát triển con người Việt Nam hiện nay”. Nguyễn Ngọc Khá – tạp chí


5

khoa học Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người mới phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững

của đất nước, trong đó có bàn luận đến “đức” và “tài” trong tư tưởng con người
mới phát triển tồn diện theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- “Vấn đề xây dựng con người có đức và tài theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong
thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” – Lê Thị Hịa, tạp chí khoa học
trường Đại học Hồng Đức, số 37.2018. Bài viết nhằm làm rõ quan điểm của Hồ
Chí Minh về mối quan hệ giứa đức và tài làm cơ sở để Đảng ta đưa ra chiến lược
xây dựng con người Việt Nam thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- “Tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy giáo” – Ngơ Văn Hà, Đỗ Thị Hằng
Nga. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 05(40.2020). Gắn liền
với phẩm chất đạo đức, người thầy giáo trong Tư tưởng Hồ Chí Minh phải có kiến
thức chun môn, thuần thục về phương pháp giảng dạy.
- “Đức và Tài của người cán bộ và việc trọng dụng tài năng để thực hiện khát
vọng Việt Nam hùng cường, thịnh vượng” GS, TS. Hồng Chí Bảo. Đức và tài có
quan hệ biện chứng với nhau trong nhân cách của người cán bộ cách mạng. Trong
đó, đức phải được đặt lên hàng đầu. Đức khơng chỉ là chính trị mà cịn là khoa học
và văn hóa. Cịn tài thể hiện ở cái trí, cái tầm gắn chặt với cái tâm. Người có tài,
trong ý nghĩa đích thực phải là người có đức, tài càng lớn đức càng cao. Đất nước
muốn phát triển nhanh và bền vững cần phải có nhiều cán bộ, đảng viên với thực
tài, thực đức để chấn hưng dân tộc, hiện thực khát vọng Việt Nam hùng cường,
thịnh vượng.
- “Bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ
hai và ý nghĩa đối với việc giáo dục đạo đức cho sinh viên”. Bài đăng trên tạp chí


6

Lý luận chính trị và Truyền thơng số 1.2014. TS. Bùi Thị Kim Hậu. Bàn về bài nói
Ngày 7.5.1958, Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ hai của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
trong đó có những phẩm chất cơ bản của sinh viên để rèn đức, luyện tài.
- “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đức và tài đối với cán bộ quản lí giáo

dục trong giai đoạn hiện nay”. Nguyễn Thị Hiền Oanh, tạp chí Khoa học Giáo dục
Việt Nam. Số 40 tháng 4/2021, trang 8-12. Thấm nhuần Tư tưởng Hồ Chí Minh
về mối quan hệ giữa đức và tài của người cán bộ vào xây dựng đội ngũ cán bộ
quản lí giáo dục trong tình hình hiện.
- “Tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy giáo”. Tạp chí khoa học và cơng
nghệ, Đại học Đà Nẵng số 5(40).2010. – Ngô Văn Hà – Đỗ Thị Hằng Nga. Bài
viết làm rõ quan điểm Hồ Chí Minh về vai trị, đạo đức, chun mơn và phương
pháp giảng dạy của người thầy giáo.
- Bài báo “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đức và tài của người cán bộ
cách mạng vào xây dựng đội ngũ cán bộ Học viện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
tình hình mới”; “Mấy giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đức và tài của
người cán bộ cách mạng vào xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên ở Học viện Lục
quân hiện nay” của Trần Sinh Huy – Học viện lục quân. Quán triệt và vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng ta về đức và tài của cán bộ
cách mạng vào xây dựng đội ngũ cán bộ, Thường vụ Đảng ủy Học viện và cấp ủy,
tổ chức đảng các cấp đã lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ Học viện có số
lượng tương đối phù hợp, từng bước nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ, góp phần xây dựng tổ chức đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và
đạo đức, đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.


7

- “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đức và tài của người cán bộ” - Trung tá, ThS.
Trịnh Quốc Việt – Học viện Chính trị.
- “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đức và tài” – GS. TS Hồng Chí Bảo (kể), Lê
Lâm (ghi). Đức và tài là 2 phẩm chất cấu tạo nên nhân cách một con người. Về
đức và tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta những lý giải rất đặc sắc.
Nhớ lại khi viết tác phẩm “Đường cách mệnh” là tác phẩm lý luận, được truyền bá
Chủ nghĩa Mác vào Việt Nam và chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng. Bác đã đặt tư

cách của người cách mạng ngay trang mở đầu tác phẩm, trong đó Bác nhấn mạnh
giữ chủ nghĩa cho vững và ít lịng tham hướng về vật chất thì mới đủ bản lĩnh để
đưa sự nghiệp cách mạng toàn thắng. Bác đã đặt đức và tài ngay từ rất sớm, khi
cách mạng mới nhen nhóm như đốm lửa ban đầu.
- “Đức và Tài của cán bộ, Đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh” Hồng Lĩnh.
- “Thấm nhuần quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đức và tài, nhằm
phấn đấu học tập và rèn luyện để trở thành cán bộ kiểm sát đạo đức và tài năng” –
TS. Lê Thành Dương.
- “Nhận thức mới về “đức” và “tài” trong xây dựng cán bộ” – Thiếu tướng,
PGS. TS Nguyễn Vĩnh Thắng
- “Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về “tài” và “đức” - hai chữ cần phải có của một
người thầy” – Võ Văn Chỉ, Học viện Chính trị khu vực IV.
- “Quan điểm của Hồ Chí Minh về nhân tài và ứng dụng trong tuyển dụng
nhân tài ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” TS. Ngô Sỹ Trung.


8

- “Đức và Tài của người cán bộ và việc trọng dụng tài năng để thực hiện khát
vọng Việt Nam hùng cường, thịnh vượng” - GS, TS. Hồng Chí Bảo, Chuyên gia
cao cấp, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương.
- “Lựa chọn người có tài, có đức cho dân, cho nước” Nguyễn Thế Trung Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương.
- “Lựa chọn người tài đức - chủ trương nhất quán của Đảng Cộng sản Việt
Nam” – Báo quân đội Nhân dân Việt Nam (30/09/2019)
- “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đức và tài của người cán bộ dân cử” Minh Chấn.
- “Xây dựng đội ngủ giáo viên đủ “đức” và “tài” theo lời dạy của Chủ tịch
Hồ Chí Minh” – Lê Trung Kiên.
- “Nghĩ về lời Bác dạy: “Giáo viên phải chú ý cả tài, cả đức”” ThS. Phan Thị
Hồi, Phịng Tun truyền, Giáo dục, ThS. Hồng Trung Thành.
Tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy vấn đề giáo dục đạo đức Hồ Chí

Minh cho mọi người nói chung và cho sinh viên nói riêng được một số nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu. Các nghiên cứu về nội dung giáo dục đạo đức Hồ Chí
Minh cho sinh viên vẫn dựa trên những nội dung giáo dục đạo đức chung cho con
người Việt Nam, với bốn phấm chất đạo đức cơ bản là: “trung với nước, hiếu với
dân; cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư; yêu thương con người; có tinh thần
quốc tế trong sáng”. Cịn ít cơng trình nghiên cứu và chưa có cơng trình nào phân
tích sâu sắc về vấn mối quan hệ giữa “đức và tài” theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên chưa có cơng trình nào nghiên cứu đặc điểm riêng, đánh giá khách
quan thực trạng, những yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đức và
tài theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí


9

Minh dưới sự tác động của bối cảnh hiện nay. Chính vì vậy, tác giả chọn thực hiện
nghiên cứu đề tài: “Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đức và tài cho sinh viên
trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ mối quan hệ giữa “đức” và “tài” trong Tư tưởng Hồ Chí
Minh, và nội dung giáo dục “đức và tài” theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên.
Từ việc phân tích, làm rõ mối quan hệ, vai trị giữa “đức và tài” theo tư tưởng Hồ
Chí Minh cũng như thực trạng của sinh viên Sư phạm về vấn đề đức và tài, tác giả
sẽ đề xuất một số giải pháp giáo dục mối quan hệ giữa “đức và tài” cho sinh viên
trường đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Để thực hiện mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ:
+ Phân tích mối liên hệ giữa “đức và tài” theo Tư tưởng Hồ Chí và ý nghĩa
của mối liên hệ đó.
+ Khảo sát thực trạng giáo dục “đức và tài” cho sinh viên trường đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
+ Phân tích nguyên nhân và đưa ra giải pháp để giáo dục “đức và tài” theo tư

tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đạo đức Hồ Chí Minh và giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh là nội dung lớn, tuy
vậy đề tài này tác giả chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục “đức và tài” cho
sinh viên trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh qua việc phân tích mối
liên hệ giữa đức và tài theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đề tài sử dụng số liệu thống kê sinh viên năm học 2020 – 2021 từ phịng
Cơng tác Chính trị và Học sinh Sinh viên, Đoàn trường và phiếu khảo sát.


10

5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài trên, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ
nghĩa duy vật biện chứng. Trong quá trình triển khai, đề tài sử dụng các nhóm
phương pháp nghiên cứu khoa học liên ngành và chuyên ngành như:
+ Các phương pháp nghiên cứu lí luận: phương pháp logic – lịch sử, phương
pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp hệ thống hóa, khái quát hóa,...
+ Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: phương pháp điều tra xã hội học,
phương pháp thu thập số liệu thống kê,...
6. Cấu trúc của khóa luận tốt nghiệp
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 2
chương và 4 tiết.
7. Đóng góp của đề tài
Đề tài nghiên cứu, làm rõ khái niệm, mối quan hệ “đức và tài” theo tư tưởng
Hồ Chí Minh. Góp phần xác định rõ tầm quan trọng của việc giáo dục “đức và tài”
theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên, đề xuất một số giải pháp cụ thể để góp
phần giáo dục “đức và tài” theo tư tưởng Hồ Chí Minh trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh.

Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo trong học tập, trong lĩnh vực giáo dục
hoặc tài liệu tham khảo nghiên cứu cho những người quan tâm tới lĩnh vực nói trên.


11

Chương 1. Cơ sở lý luận và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đức và tài
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đức và tài
1.1.1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về đức và tài
Thứ nhất, về khái niệm “đức”
“Đức” là viết tắt của từ đạo đức, thể hiện khía cạnh nhân phẩm, tư cách, thái
độ sống, tác phong, lịng nhiệt tình, những khát vọng chân – thiện – mĩ, tâm hồn...
của con người trong xã hội. “Đức” thể hiện phẩm chất tốt đẹp do con người tu
dưỡng, rèn luyện dựa trên các chuẩn mực xã hội; được hình thành trong quá trình
tự trải nghiệm, giáo dục từ gia đình, nhà trường và xã hội. Đạo đức là mặt phẩm
chất không thể thiếu ở một con người. Người có đức thể hiện ở tâm hồn trong sáng,
suy nghĩ tích cực, ln hướng đến lợi ích chung của xã hội, tấm lịng nhân hậu
lương thiện, một người vì mọi người, ln sống đúng với những quy tắc chuẩn
mực của xã hội. Khơng có những suy nghĩ xấu xa, trục lợi, tâm địa ích kỷ,... Người
có “đức” biết tơn trọng và bảo vệ chân lý, dám đấu tranh với sai lầm, sẵn sàng hy
sinh quyền lợi cá nhân cho lợi ích chung của cộng đồng, xã hội.
Khái niệm đạo đức: đạo đức là một hiện tượng xã hội phản ánh các mối quan
hệ hiện thực bắt nguồn từ bản thân cuộc sống con người. Đạo đức là tập hợp những
quan điểm của một xã hội, một tầng lớp xã hội, một cộng đồng người nhất định về
thế giới, về chuẩn mực các hành vi, cách sống. Từ đó con người điều chỉnh hành
vi của mình cho phù hợp với cộng đồng, xã hội.
Trong tâm lý học, đạo đức được định nghĩa dưới nhiều khía cạnh sau:
Theo nghĩa hẹp: Đạo đức là một hình thành ý thức xã hội, là tổng hợp các
quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con người tự giác điều chỉnh
hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ

xã hội trong quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, và cá nhân với xã hội.


12

Theo nghĩa rộng hơn: Đạo đức là toàn bộ những quy tắc, chuẩn mực nhằm
điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã hội
và tự nhiên.
Theo nghĩa rộng: Đạo đức là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực biểu thị sự tự
giác trong quan hệ con người với con người, con người với cộng đồng xã hội, với
tự nhiên và với cả bản thân mình.
Đạo đức cịn được xem như một khái niệm nói về “luân thường đạo lý” của
con người, nó được xem như là đúng – sai, thuộc về vấn đề tốt – xấu trong các
hành vi của con người; được sử dụng trong ba phạm vi: lương tâm con người; hệ
thống phép tắc đạo đức; trừng phạt – hay là giá trị đạo đức. Đạo đức gắn liền với
cuộc sống của con người trong các lĩnh vực như: kinh tế, văn hóa, xã hội, tơn giáo,
chủ nghĩa nhân văn, triết học và những luật lệ của một xã hội,...
Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc
nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi ứng xử của con người với nhau – với xã hội
– với tự nhiên trong hiện tại hay quá khứ cũng như tương lai; chúng được thực
hiện bởi tinh thần tự giác của con người, niềm tin mỗi cá nhân, bởi truyền thống
cộng đồng và sức mạnh dư luận xã hội. (Học viện Chính trị Quốc gia, 2000)
Đạo đức học đã có từ xưa như một mơn triết học đề cập đến đức tính của con
người. Nhiều dân tộc thường dùng từ “êtíc” (ethis) để chỉ mơn triết học này. Đạo
đức được hình thành và phát triển với đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
qua các thời đại lịch sử. Đạo đức là sản phẩm kinh tế, nó phản ánh nền kinh tế,
song nó có tác dụng cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Suy cho
cùng, đạo đức là một hệ thống những tư tưởng, tình cảm lớn của con người, hướng
con người tới cái thiện, cái tốt, cái đúng, gạt bỏ cái ác, cái xấu, cái sai. Có thể
khẳng định, đạo đức là cái quý nhất, là linh hồn của một con người, một xã hội,



13

một chế độ, một nền văn minh. Đạo đức của con người thể hiện trong hành vi và
phong độ, phẩm chất, gộp lại thành chất con người.
Thứ hai, về khái niệm “tài”
“Tài” thuộc phạm trù năng lực riêng biệt của từng cá nhân. “Tài” chính là tài
năng, năng khiếu, thế mạnh, kiến thức, hiểu biết, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm
sống; năng lực xuất sắc, khả năng làm việc sáng tạo trong một hoặc nhiều lĩnh vực
để con người có thể hồn thành cơng việc của mình một cách tốt nhất, đặc biệt là
trong những hồn cảnh khó khăn, những tình huống phức tạp. Hoặc là khả năng
tìm tịi, khai thác, sáng tạo hoặc làm một cơng việc nào đó đạt đến trình độ mà khó
có ai có thể làm được. Cái tài của con người biểu hiện ở khả năng tư duy, sáng tạo,
làm ra những điều tốt đẹp, những phát minh có tầm quan trọng, đóng góp mang lại
lợi ích cho xã hội, sự phát triển của xã hội.
Khái niệm tài bao gồm hai mức độ, một là năng lực và hai là tài năng. Theo
tâm lý học, năng lực là những thuộc tính tâm lý độc đáo của cá nhân nhằm đáp ứng
yêu cầu đặc trưng của hoạt động và đảm bảo cho hoạt động nào đó đạt kết quả nhất
định. Để hồn thành có kết quả một lĩnh vực hoạt động, con người phải có những
đặc điểm, những thuộc tính đáp ứng yêu cầu của hoạt động đó. Năng lực là những
thuộc tính nhân cách nói lên hiệu quả hoạt động; mỗi cá nhân có năng lực nhất
định, ví dụ như có người nhạy bén với các con số và có khả năng tính tốn cao,
người thì có khả năng cảm thụ âm nhạc xuất sắc, người thì nhạy cảm và tài tình
trong sáng tác thơ văn, người giỏi giao tiếp...Thực tế ai cũng có năng lực, chỉ khác
nhau ở loại năng lực, số lượng và mức độ năng lực.
Mức độ cao của năng lực là tài năng. Tài năng biểu thị sự hồn thành cơng
việc nhanh chống, hồn hảo, sáng tạo với thành tích cao ít người sánh kịp. Sản
phẩm làm ra thường có giá trị lớn, mang tính độc đáo và mới mẻ. Người tài năng



14

thường có sáng kiến trong cơng việc, ở họ có sự kết hợp của nhiều năng lực trong
nhiều hoạt động phức tạp. (Huỳnh Văn Sơn, 2017)
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển và hành thành nhân cách, mỗi
yếu tố giữ vai trò khác nhau: yếu tố sinh học là tiền đề vật chất, yếu tố mơi trường
đóng vai trò quan trọng, là nguồn gốc, nội dung của nhân cách, giáo dục đóng vai
trị chủ đạo, hoạt động và giao tiếp đóng vai trị quyết định trực tiếp sự hình thành
và phát triển nhân cách.
Trong đó năng lực và tài năng cần trải qua quá trình bồi dưỡng và rèn luyện,
có thể là gian nan và gặp nhiều chơng gai, thử thách mới có được. Như Thomas
Edison đã từng nói rằng: “Thiên tài chỉ có 1% bẩm sinh, còn 99% còn lại là do khổ
luyện”. Hay một câu nói: “Ngọc khơng mài khơng thành đồ vật, người khơng học
không biết rõ đạo”
Thứ ba, về cả “đức và tài”
Qua quan điểm về đạo đức, tài năng, trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh, đức
và tài là một hệ thống những quan điểm toàn diện và sâu sắc của Người về những
chuẩn mực và những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới so với nền đạo đức cũ,
kết hợp với trau dồi và bồi dưỡng năng lực chuyên mơn.
Giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục “đức và tài” nói riêng là một trong
những hoạt động giáo dục cơ bản nhất nhằm bồi dững và hình thành nhân cách, ý
thức, tình cảm đạo đức, những thói quen, hành vi ứng xử đứng mực trong các mối
quan hệ của cá nhân với xã hội, của cá nhân đối với mọi người xung quanh. Giáo
dục đạo đức là một bộ phận rất quan trọng của quá trình sư phạm, là cơ sở ban đầu
hình thành đạo đức cho con người.
Cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh về triết học là đã nêu cao vai trò của
đạo đức. Chúng ta khơng khó tìm thấy những nội dung rất sâu sắc về đạo đức trong



15

nhiều bài nói, bài viết của Người, trong nhiều lời ngắn gọn của Bác với tổ chức
Đảng, quân, dân, cả trong những lời Bác nói về chủ trương Đảng và Nhà nước.
Đây cũng là một nét nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đạo đức được lồng vào
nhiều chủ trương chính trị, nhiều chỉ thị cơng tác, và một số lời dạy của Bác đã trở
thành những chuẩn mực về đạo đức cách mạng.
Hồ Chí Minh nhận thấy và đánh giá được dân tộc mình phải xây dựng chủ
nghĩa xã hội từ một điểm xuất phát rất thấp về kinh tế và kỹ thuật, cho nên, Người
nhấn mạnh vai trò quyết định của nhân tố con người và sự cần thiết phải xây dựng
con người xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh giải thích đó là con người thấm nhuần
đạo đức cách mạng, có lịng nồng nàn u nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có ý thức
làm chủ đất nước, đồng thời phấn đấu nâng cao trình độ hiểu biết về văn hóa, khoa
học kỹ thuật để dủ sức xây dựng và quản lý xã hội mới.
“Đức” và “tài” là hai trong những yếu tố cấu tạo nên nhân cách con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta những lý giải rất đặc sắc về “đức” và
“tài”. Trong giai đoạn truyền bá Chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam và chuẩn
bị cho sự ra đời của Đảng, Bác đã đặt đức và tài ngay từ rất sớm, khi cách mạng
mới nhen nhóm như đốm lửa ban đầu. Khi viết tác phẩm lý luận “Đường cách
mệnh”, Bác đã đặt tư cách của người cách mạng ngay trang mở đầu tác phẩm.
Trong đó, Bác nhấn mạnh giữ chủ nghĩa cho vững và ít lịng tham hướng về vật
chất thì mới đủ bản lĩnh để đưa sự nghiệp cách mạng toàn thắng.
Và sau này, Bác bàn luận về đức và tài rõ rệt hơn. Có khi Bác dùng là “chính
trị” – là linh hồn và “chun mơn” – là thể xác, hay là “hồng” và “chuyên”. Ở đây,
Bác muốn nói chính trị là linh hồn, chun mơn là thể xác, thiếu một trong hai yếu
tố đó con người sẽ khơng có sự sống. Suốt q trình hoạt động cách mạng, Bác Hồ
rất xem trọng, quan tâm đến phẩm chất – năng lực của người cán bộ. Người cho


16


rằng, đối với người cán bộ cách mạng, hai mặt “đức” và “tài” – phẩm chất và năng
lực không thể xem nhẹ mặt nào, cũng không thể thiếu mặt nào. Do đó, từ rất sớm
Người đã dày cơng vun đắp để đào tạo cho Ðảng, cho đất nước một đội ngũ cán
bộ vừa có đức, vừa có tài, vừa hồng lại vừa chuyên.
Như vậy hai mặt “đức và tài” là phẩm chất, năng lực của mỗi con người cần
có để hoạt động xã hội, đây là những yếu tố không thể thiếu trong q trình hồn
thiện nhân cách con người. Vấn đề giáo dục “đức” kết hợp với “tài” từ lâu đã được
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm nghiên cứu và triển khai trong công tác đào tạo
cán bộ, giáo dục quần chúng nhân dân. Sinh thời, Người bàn nhiều về rèn luyện
đạo đức và tài của người cán bộ, đảng viên, công an, giáo viên, và thanh niên –
những chủ nhân tương lai của đất nước
Trong xã hội khoa học kỹ thuật phát triển như ngày nay, càng có những yêu
cầu nhất định về phẩm chất đạo đức và năng lực của con người. Có thể thấy giáo
dục đức và tài cho sinh viên – những thế hệ tương lai của đất nước là một phần rất
quan trọng trong nội dung giáo dục và đào tạo nói chung, trong công tác học tập,
rèn luyện theo tác phong, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nói riêng.
1.1.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đức và tài
Hồ Chí Minh là nhà cách mạng gắn liền với thực tiễn, mục tiêu lớn nhất của
Người là độc lập – tự do – hạnh phúc cho nhân dân, cho nên từ sớm, Người đã đặt
câu hỏi “cách mạng trước hết phải có cái gì?” và Người thấy phải có một tổ chức
cách mạng gồm những con người “tài – đức” tiêu biểu dẫn dắt cách mạng đi đến
thành công. Cho nên, vấn đề đạo đức cách mạng đã hình thành rất sớm trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, trở thành bộ phận quan trọng, cốt lõi trong tư tưởng của Người.
Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về “đức và tài” cũng chính là các
yếu tố chi phối sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung.


17


1.1.2.1. Tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại
Thứ nhất, tiếp thu văn hóa phương Đơng: Đó là sự kế thừa truyền thống đạo
đức phương Đông như Nho giáo, Lão giáo, Phật giáo,…Chủ tịch Hồ Chi Minh đã
sử dụng nhiều phạm trù, khái niệm đạo đức đã xuất hiện lâu trong lịch sử tư tưởng
nhân loại, đầu tiên là Nho giáo. Bác đã đánh giá đúng đắn vai trò của Nho giáo và
người sáng lập ra nó – Khổng Tử, đã đặc biệt khai thác những mặt tích cực trong tư
tưởng Nho giáo. Nhưng như vậy khơng có nghĩa là đồng nhất tư tưởng đạo đức trong
Nho giáo với tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Những phạm trù, khái niệm này đã
được Hồ Chí Minh nâng lên một tầm cao mới với nội dung mới; đó là đạo đức của
người cách mạng trong sự nghiệp đấu tranh và giải phóng dân tộc, giải phóng con
người, chống mọi áp bức bóc lột, xây dụmg xã hội mới tốt đẹp hơn,...Những tiêu
chuẩn của đạo đức Nho giáo như: “Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, dũng, cần, kiệm, liêm,
chính, học đi đơi với hành,...” được Hồ Chí Minh kế thừa và vận dụng sáng tạo để
xây dựng đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư” cho đội ngũ cán bộ, công
chức và quần chúng nhân dân. Người khẳng định: “Đạo đức cách mạng khơng phải
trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và cùng
cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” (Hồ Chí Minh,
2011, tập 11, tr. 612). Người cũng đã kế thừa một cách sáng tạo những tư tưởng
như: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, “Tu thân, tề gia, trị quốc, binh thiên
hạ”, “giáo dục làm gương”, “đào tạo con người có đạo đức cho xã hội”,... những tư
tưởng đó được Hồ Chi Minh phát triển thành tư tưởng “lấy dân làm gốc”, “dân là
vốn quý nhất”, “đạo đức là cái gốc, là phẩm chất quan trọng nhất” của người cách
mạng, của quần chúng nhân dân.
Nếu như Nho giáo hạ thấp vai trò của phụ nữ, đặt ra những quy định hà khắc
đối với họ, thì Hồ Chí Minh phê phán những quan điểm ấy, khơi phục lại vị trí, vai


18

trị của phụ nữ và thực hiện quyền bình đẳng giữa nam – nữ trong xã hội. Người

viết: “Phụ nữ chiếm một nửa tổng số nhân dân. Để xây dựng chủ nghĩa xã hội thì
phải thực sự giải phóng phụ nữ và tôn trọng quyền lợi của phụ nữ” (Hồ Chí Minh,
2011, tập 12, tr. 705). Có thể thấy, những tư tưởng này của Người mang đậm tính
nhân văn, nhân đạo.
Hồ Chí Minh cịn kế thừa những tư tưởng của Phật giáo về giáo hóa con người.
Nếu như Phật giáo lấy lòng từ bị, vị tha giúp đỡ người khác, chăm làm việc thiện thì
tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ tấm lòng khoan dung, độ lượng đổi với con
người. Phật giáo chú ý đến số phận con người và vấn đề giải thoát cho con người
khỏi bể khổ trần gian – siêu thốt. Thì Hồ Chí Minh quan tâm đến thân phận và nỗi
khổ của con người, song khác với Phật giáo, Hồ Chí Minh đã chỉ ra nguyên nhân
gây ra nỗi khổ bên trong chính là bản thân con người.
Thứ hai, tiếp xúc với nhiều tư tưởng tiến bộ ở phương Tây, chủ yếu là tư tưởng
“nhân ái” thời kỳ phục hưng, tư tưởng của các nhà khai sáng Pháp với khẩu hiệu:
“Tự do – Bình đẳng – Bác ái” và những tư tưởng về dân quyền, dân ước, dân chủ,
dân sinh. Từ thời niên thiếu, Người đã tiếp xúc với nền văn hóa phương Tây qua
sách báo. Chính tư tưởng “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” đã thôi thúc Người hướng
về phương Tây để xem xét, tìm con đường cứu nước cho dân tộc. Người bôn ba ở
các châu lục như châu Á, châu Âu, châu Mỹ La tinh và châu Phi; một số nước tư
bản như Mỹ, Anh, Pháp và các thuộc địa của chúng. Qua đó, Người đã rút ra được
những nhận định hết sức sâu sắc, Người đọc Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ 1776
và đã nhắc lại: “Giời sinh ra, ai cũng có quyền tự do, quyền giữ tính mệnh của mình,
quyền làm ăn cho sung sướng... Hể Chính phủ nào mà có hại cho dân chúng thì dân
chúng đập đồ Chính phủ ấy đi và gây nên Chính phủ khác...”


19

Người cũng phát hiện ra những mâu thuẫn đằng sau những từ hoa mỹ về tự do,
bình đẳng là sự bất bình đẳng, nghèo đói của hàng triệu người lao động: đó là điều
kiện sống khủng khiếp của người da đen, là nạn phân biệt chủng tộc ghê gớm. Người

có ấn tượng khá sâu sắc với: chủ nghĩa nhân văn, tư tưởng tự do, tư tưởng bình đẳng
của các đại văn hào nổi tiếng như Vôn – te, Đi – đơ – rô, Rút – xô, Mông – te – xki
– ơ và đặc biệt ở bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp. Vì vậy,
Người đã vận dụng, phát triển, sáng tạo những tư tưởng đạo đức tiến bộ đó phù hợp
với thực tiễn cách mạng Việt Nam và Người đã chỉ ra những hạn chế của các tư
tưởng đó. Trong tác phẩm “Đường Kách Mệnh”, Người nhận xét về cuộc cách mạng
Mỹ là cuộc cách mạng không triệt để, cách mệnh Mỹ là cách mệnh tư bản, mà cách
mệnh tư bản là cách mệnh chưa đến nơi” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 1, tr. 291 – 292).
Người chỉ ra rằng: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh
tư bản, cách mệnh khơng đến nơi, tiếng là cộng hịa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó
tước lục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã bốn lần rồi, mà
nay cơng nơng Pháp hằng cịn mưu cách mệnh lần nữa mới hịng thốt khỏi vịng áp
bức. Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh còn bắt nguồn từ sự tiếp thu tư tưởng “nhân ái” cao cả
của đức chúa Giê – su, với nội dung chủ yếu là dạy con người có lịng bác ái, yêu
thương người khác cũng như yêu thương chính bản thân mình; phải cơng bằng trong
đối xử giữa người với nhau. Người nói: “Đức Giê – su đã nói, ta phải yêu mến các
kẻ thù của chúng ta” và kêu gọi “phải thực hành bác ái”. Với tinh thần ấy, Hồ Chí
Minh cho rằng: “Trước lịng bác ái thì máu người Pháp hay máu người Việt cũng
đều là máu, người Việt hay người Pháp cũng đều là người”. Cho nên, Nguời khẳng
định: “Đức Giê – su hi sinh vì muốn loài người được tự do hạnh phúc, đồng bào ta
cả lương cả giáo cũng vì tự do hạnh phúc cho toàn dân mà hi sinh phấn dấu” (Hồ


×