Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Một số lỗi sử dụng ngôn ngữ thường gặp trên báo chí hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.51 KB, 15 trang )

1

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA: PHÁT THANH – TRUYỀN HÌNH
*****

TIỂU LUẬN MƠN: NGƠN NGỮ BÁO CHÍ
MỘT SỐ LỖI SỬ DỤNG NGƠN NGỮ THƯỜNG GẶP TRÊN BÁO CHÍ
HIỆN NAY

Họ và tên: ĐÀO ĐỨC DŨNG
Mã sinh viên: 0230000456.
Lớp: Báo Phát thanh K42D.

1


2

MỤC LỤC
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
Nội dung
I. Ngôn ngữ chuẩn mực của báo chí.
1. Khái niệm về chuẩn mực ngơn ngữ.
2. Chuẩn ngơn ngữ và biến thể.
II. Tính chất của ngơn ngữ báo chí.
1. Tính chính xác
2. Tính cụ thể


3. Tính ngắn gọn
4. Tính đại chúng
5. Tính định hướng
6. Tính biểu cảm
7. Tính khuôn mẫu.
III. Thực trạng và giải pháp
1. Các lỗi sai thường thấy
2. Nguyên nhân
3. Một số lưu ý khi sử dụng ngơn ngữ báo chí
a. Viết hoa
b. Viết tắt
c. Sử dụng dấu câu
IV. Giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt và trách nhiệm của người làm báo.
Kết luận
Tài liệu tham khảo
2


3

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, báo chí Việt Nam ngày càng trở nên tân tiến, hiện
đại. Không chỉ dừng ở báo in, báo chí đã và đang phát triển mạnh mẽ trên các trang
mạng xã hội, các kênh thông tin và các tờ báo điện tử. Công nghệ đan xen, tất
nhiên, lượng thông tin trở nên dồi dào hơn, tiếp cận người đọc nhanh hơn. Nếu
ngày trước, các tờ báo sẽ chỉ phát hành mỗi ngày một số, 7 số mỗi tuần, thì hiện
nay, các trang báo online, các kênh thông tin thường xuyên cập nhật tin tức mỗi
giờ, mỗi phút, thậm chí là mỗi giây. Ngồi khả năng cung cấp thơng tin và định
hướng dư luận, báo chí cịn có trách nhiệm góp phần định hình ngơn ngữ, đặc biệt

là những tờ báo được viết cho giới trẻ. Tuy nhiên, trong thời đại bùng nổ công
nghệ và thông tin hiện nay, ngôn ngữ trên báo chí đang ngày càng mất đi tính chất
mà nó vốn có. Khơng chỉ ở nội dung bài báo, thậm chí những lỗi về ngơn từ cịn
xuất hiện cả trên tít báo. Sự sai lệch này gây ảnh hưởng tiêu cực đến báo chí cũng
như người đọc. Đề tài này là cần thiết để chúng ta có thể cùng nhau rút kinh
nghiệm.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu Những lỗi sử dụng ngơn ngữ thường gặp trên báo chí
dạng viết trên các phương tiện truyền thông, báo mạng điện tử.
- Phạm vi nghiên cứu:
Có nhiều vấn đề cần nói về việc sử dụng ngôn ngữ trên báo hiện nay. Tuy
nhiên, trong phạm vi có thể, tiểu luận chủ yếu nghiên cứu chuẩn mực ngơn ngữ
báo chí, đặc điểm chung của phong cách ngơn ngữ báo chí, cách thức sử dụng các
phương tiện ngôn ngữ (ngữ âm và chữ viết, từ vựng, ngữ pháp), và các lỗi sai

3


4

thường gặp trên một số trang báo mạng như và một số tờ báo in. Thực trạng,
nguyên nhân và đề xuất các giải pháp.
NỘI DUNG
I. NGÔN NGỮ CHUẨN MỰC CỦA BÁO CHÍ
1. Khái niệm về chuẩn mực ngơn ngữ
Theo GS.TS Vũ Quang Hào trong cuốn Ngơn ngữ báo chí, chuẩn mực của
ngôn ngữ (chuẩn ngôn ngữ) cần được xét trên hai phương diện: chuẩn phải mang
tính chất quy ước xã hội tức là phải được xã hội chấp nhận và sử dụng. Mặt khác,
chuẩn phải phù hợp phát triển nội tại của ngơn ngữ. Từ đó, khi xác định chuẩn

ngơn ngữ, đặc biệt là chuẩn ngơn ngữ báo chí, cần phải:
- Dựa trên những cứ liệu thực tế của ngôn ngữ để nắm được quy luật phát
triển và biến đổi của ngôn ngữ trên tất cả các cấp độ của nó là ngữ âm, từ vựng,
ngữ pháp và phong cách.
- Xét đến những lí do ngồi ngơn ngữ vốn ảnh hưởng đến sự phát triển của
Tiếng Việt. Những lí do đó là: những biến đổi lớn lao ngồi xã hội, công cuộc đổi
mới đất nước… Những yếu tố xã hội đó dù muốn hay khơng cũng có ảnh hưởng
trực tiếp đến cấu trúc nội tại của Tiếng Việt, ở từng thời đại lịch sử, nó được thể
hiện tức thời, sâu sắc và với một tần số cao trên báo chí.
Một nhóm nhà khoa học Nga Xơ Viết nhấn mạnh đến tính chất xã hội của chuẩn
ngơn ngữ, họ xem chuẩn là một hiện tượng xã hội và phát triển có tính lịch sử.
Quan niệm này đúng nhưng có phần phiến diện vì khơng tính đến bản thân ngơn
ngữ, bỏ qua quy luật phát triển bên trong của cấu trúc ngôn ngữ.
Cô-sê-ri-u xem chuẩn là tổng hợp những sự thể hiện các yếu tố trong cấu trúc ngôn
ngữ đã được tách ra và củng cố trong thực tế sử dụng. Điều đó có nghĩa là theo
ơng, hệ thống ngơn ngữ là những hình mẫu trừu tượng cịn chuẩn ngơn ngữ là sự
thể hiện hình mẫu đó bằng chất liệu ngơn ngữ.
4


5

Phần lớn ý kiến đều cho rằng chuẩn ngôn ngữ là mẫu ngôn ngữ được xã hội đánh
giá, lựa chọn và sử dụng. Cố nhiên, sự đánh giá lựa chọn đó khơng thể đạt đến sự
nhất trí hồn tồn và do vậy tính chất bắt buộc cũng như tính chất ổn định của
chuẩn chỉ là tương đối. Mặt khác, chuẩn không phải quy định mà là quy ước,
không phải luật mà là chỉ dẫn. Tuy nhiên, sự lựa chọn nói trên khơng những khơng
loại trừ mà cịn cho phép, thậm chí địi hỏi một sự lựa chọn của cá nhân trong một
phạm vi giao tiếp nhất định. Khi lựa chọn của cá nhân đạt đến trình độ sáng tạo
nghệ thuật và được cộng đồng đón nhận, thì cũng có nghĩa là một chệch chuẩn đã

ra đời.
Chuẩn ngôn ngữ bao gồm 2 nội dung căn bản, đó là cái đúng và sự thích hợp. Cái
đúng hay cịn gọi là tiêu chuẩn đúng phép tắc được cộng đồng ngôn ngữ hiểu và
chấp nhận, là một trong những điều kiện để thừa nhận tính chuẩn mực cùa ngơn
ngữ.
Tuy nhiên, cái đúng mới chỉ là một mặt của chuẩn mực. Chuẩn mực còn cần phải
thích hợp vì thơng tin đúng mà khơng thích hợp thì hiệu quả thơng tin kém. Cái
thích hợp cịn có vai trị nâng cao giá trị thẩm mĩ cùa ngơn từ.
Hai nội dung của chuẩn ngơn ngữ có mối quan hệ hữu cơ trong q trình sử dụng
ngơn ngữ làm cho giao tiếp bằng ngôn ngữ đạt đến hiệu quả cao nhất. Giải quyết
tốt mối tương quan đó giữa cái đúng và cái thích hợp chính là người viết đã đạt đến
sự thành công và cái tài của nhà văn, nhà báo trong việc dung ngơn từ có đạt được
hay khơng cũng chính là ở đó.
2. Chuẩn ngơn ngữ và biến thể
Chuẩn ngơn ngữ có những quy luật và cách sử dụng tồn tại khách quan trong
một giai đoạn, trong một cộng đồng nười và mang tính chất bắt buộc tương đối đối
với các thành viên cộng đồng. Nhưng do chỗ ngôn ngữ luôn vận động nên cái
chuẩn chung không những khơng loại trừ mà cịn cho phép những biến thể khác

5


6

nhau được sử dụng cùng với chuẩn. Tình hình đó có thể diễn ra theo 3 chiều
hướng:
- Hoặc là giữa biến thể với nhau xảy ra tình trạng cần bằng.
- Biến thể cũ lấn át biến thể mới.
- Biến thể mới thay thế biến thể cũ.
Trong số các biến thể nói trên, có cái được coi là chệch chuẩn. Tuy nhiên đó

khơng phải là cái sai mà là sự sáng tạo nghệ thuật được cơng chúng chấp nhận và
đón nhận một cách hấp dẫn.
Đặc điểm:
- Chệch chuẩn là một hiện tượng có tính lâm thời, nó chỉ xuất hiện trong
những giai đoạn nhất định và mang sắc thái biểu cảm nhất định.
- Chệch chuẩn thường mang sắc thái khoa trương, ly kì hóa hình tượng nghệ
thuật ngơn ngữ. Do vậy nó có tính 2 mặt: Một mặt dễ thu hút người đọc nhưng một
mặt dễ đưa ngòi bút của tác giả trở nên lan man, sáo rỗng và chỉ thích hợp với
những thể loại báo chí nhất định.
- Sự tồn tại của chệch chuẩn vừa mâu thuẫn vừa độc đáo. Mâu thuẫn ở chỗ nó
là hiện tượng lâm thời nhưng tơng tại trong loại hình ngơn ngữ chuẩn. Độc đáo ở
chỗ nó là sự sáng tạo của cá nhân nhưng lại được cả cộng đồng đón nhận bởi nó
hấp dẫn.
II. TÍNH CHẤT CỦA NGƠN NGỮ BÁO CHÍ
1. Tính chính xác
Đối với ngơn ngữ báo chí, đây là tính chất đặc biệt quan trọng. Vì báo chí có
chức năng định hướng dư luận xã hội. Chỉ cần một sơ suất nhỏ nhất cũng có thể
làm cho độc giả hiểu sai thơng tin, nghĩa là có thể gây ra những hậu quả xã hội
nghiêm trọng khơng lường trước được. Có thể đưa ra dẫn chứng: Sau chuyến tháp
tùng một quan chức cao cấp sang thăm Trung Quốc, một nhà báo đã viết một bài
phóng sự, trong đó có câu: “Chúng tơi chia tay với tình hữu nghị dạt dào của hai
6


7

nước Việt - Trung”. Rõ ràng từ “với” ở đây được dùng sai (vì cụm từ “chia tay
với…” biểu đạt ý nghĩa “từ bỏ, từ giã”), cần phải thay nó bằng từ “trong”.
2. Tính cụ thể
Tính cụ thể của ngơn ngữ báo chí được hiểu là khi nhà báo miêu tả, tường

thuật sự việc, phải cụ thể, cặn kẽ đến từng chi tiết nhỏ. Có như vậy người đọc,
người nghe mới có cảm giác mình là người trong cuộc, đang trực tiếp được chứng
kiến những gì nhà báo nói tới trong bài báo. Mỗi sự kiện được đề cập trong tác
phẩm báo chí phải gắn liền với một khơng gian, thời gian xác định; với những con
người xác định (có tên tuổi, nghề nghiệp, chức vụ, giới tính…cụ thể). Do đó, trong
ngơn ngữ báo chí nên hạn chế tối đa việc dùng từ có tính chất mơ hồ như: “một
người nào đó”, “ở một nơi nào đó”, “vào khoảng”, “hình như” …
3. Tính đại chúng
Báo chí là phương tiện thơng tin đại chúng. Tất cả mọi người trong xã hội,
không phụ thuộc nghề nghiệp, trình độ nhận thức, địa vị xã hội, lứa tuổi… đều là
đối tượng phục vụ của báo chí. Đây vừa là nơi để họ tiếp nhận thơng tin, vừa là nơi
để bày tỏ ý kiến. Chính vì thế, ngơn ngữ báo chí phải là thứ ngơn ngữ dành cho đại
chúng, có tính phổ cập rộng rãi như theo nhà nghiên cứu ngơn ngữ báo chí nổi
tiếng người Nga V.G. Kostomarov đã từng nói: “Ngơn ngữ báo chí phải thích ứng
với mọi tầng lớp cơng chúng sao cho một nhà bác học với kiến thức uyên thâm
nhất cũng khơng cảm thấy chán và một em bé có trình độ cịn non nớt cũng khơng
thấy khó hiểu”.
4. Tính ngắn gọn
Ngơn ngữ báo chí cần ngắn gọn và súc tích. Sự dài dịng có thể làm lỗng
thơng tin, ảnh hưởng đến hiệu quả tiếp nhận của người đọc, người nghe. Thêm vào
đó, nó cịn làm tốn thời gian của cả người viết lẫn người đọc, dễ dẫn đến các lỗi sai
về mặt ngơn từ.
5. Tính định lượng
7


8

Các tác phẩm báo chí thường bị giới hạn về mặt thời gian hay diện tích xuất
hiện trên báo, đó là tính định lượng. Vì thế, việc lựa chọn và sắp xếp các thành tố

ngôn ngữ cần kỹ lưỡng, hợp lý để phản ánh đầy đủ lượng sự kiện mà không vượt
quá khung cho phép về thời gian và không gian. Theo bài: “Đặt tít ngắn có dễ?”
trên trang web Nghề báo (nghebao.com), có những tít báo rất dài, như: “Hội thảo
đổi mới giáo dục đại học Việt Nam - Hội nhập và thách thức” (tít này dài 64 ký
tự), sau khi được sửa lại là: “Hội thảo đổi mới giáo dục đại học” (chỉ còn 33 ký
tự). Chúng ta có thể nhận ra tít sau khi sửa chỉ dài gần bằng phân nửa tít trước
nhưng nội dung chính vẫn được giữ nguyên. Vậy tại sao lại bắt độc giả ngồi đọc
những dòng chữ dài lê thê và khiến cho họ cảm thấy “tức mắt” như vậy?
Bài viết trên cũng đã đưa ra chuẩn mực cho một tít báo là khoảng dưới 50 ký
tự, theo đó là một vài gợi ý nhỏ khi viết tít:
- Bỏ những từ thừa
- Bỏ những từ “có cũng như khơng” như “của”, “về”, “được”
- Bỏ “các”, “những” nếu có thể
- “Chặt” chữ trong từ nếu được: “thành lập”, “sang thăm”, “phòng chống”,
“tham dự” …
- Tránh câu bị động
- Không nhất thiết lúc nào cũng phải nói là Việt Nam
6. Tính biểu cảm
Tính biểu cảm trong ngôn ngữ gắn liền với việc sử dụng những từ ngữ mới lạ,
giàu hình ảnh, in đậm dấu ấn cá nhân… Nếu ngơn ngữ báo chí khơng có tính biểu
cảm, chỉ là những chuỗi thơng tin khơ khan thì nó khó có thể thu hút được sự chú ý
của độc giả. Tính biểu cảm tác động mạnh mẽ tới tâm hồn người nghe, làm cho họ
có những trạng thái cảm xúc nhất định theo như người viết mong đợi.
7. Tính khn mẫu
Trong văn phong báo chí, ta rất hay gặp những dạng tin như:
8


9


- Theo AFP, ngày…tại…trong cuộc gặp gỡ…Tổng bí thư…đã kêu gọi…
- TTXVH, ngày…người phát ngơn Bộ Ngoại giao…cho biết…
Đây chính là tính khn mẫu của báo chí, thường bao gồm 6 câu hỏi: Ai? Cái
gì? Khi nào? Ở đâu? Bao giờ? Như thế nào? Tại sao?
Yếu tố khuôn mẫu không đi một mình. Nó thường được kết hợp với thành tố
biểu cảm, nên ngơn ngữ báo chí thường mềm mại, hấp dẫn chứ không hề khô khan
như trong một văn bản khoa học hay văn bản hành chính.
III. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
1. Các lỗi sai thường gặp
-Cách viết không thống nhất những từ nước ngồi đã được Việt hóa, tức là đã
được phiên âm, dùng phổ biến trong tiếng Việt. Ví dụ: càphê, ximăng, xíchlơ,
bêtơng, axít, vắcxin, kiốt. Theo tơi, những từ như thế đã thốt khỏi ngun gốc,
được sử dụng như mọi từ tiếng Việt khác, có dấu tiếng Việt thì cần viết tách ra.
Hoặc chúng ta có thể sửa bằng cách để tiếng gốc, thay bằng từ đã được phiên âm
tiếng Việt.
- Những từ nước ngoài về đo lường viết tắt như: km (ki lô mét), kg (ki lô
gam), ha (héc ta), m2 (mét vuông) bị nhiều phóng viên và tờ báo dùng khơng
chuẩn mực. Cần lưu ý rằng những từ đó khi đi liền với con số cụ thể thì có thể viết
tắt (ví dụ 200ha, 15km) nhưng khi đi với chữ thì phải viết đầy đủ (ví dụ 200 ngàn
héc ta, 1 vạn ki lơ mét). Điều rất đáng lưu ý là trong tiếng Việt đã có những từ thay
thế rất gọn nhưng ít được dùng, ví dụ: cây số (ki lơ mét), ký (ki lô gam).
- Dùng dấu phẩy (,) tràn lan. Không chỉ trên mặt báo mà ngay cả những văn
bản quan trọng của nhà nước bây giờ cũng nhan nhản sự lạm dụng dấu phảy. Họ lý
giải rằng tách ra bằng dấu phẩy để nhấn mạnh, làm rõ từng thành phần, từng yếu tố
được nói đến nhưng thực ra khơng cần thiết bởi khơng dùng dấu phẩy thì người
đọc vẫn hiểu nội dung văn bản đang thể hiện cái gì. Rất nhiều từ ghép, thành ngữ
cần phải viết liền thì bị tách ra bằng dấu phẩy khiến văn bản trở nên rối, vô duyên,
9



10

ví dụ: phịng, chống tham nhũng (trong khi đó lại viết liền phòng chống lụt bão);
tắm, giặt; cơm, áo, gạo, tiền; rút dây, động rừng; trọng nam, khinh nữ; mưa to, gió
lớn; dạy thêm, học thêm; nhà cao, cửa rộng; giận cá, chém thớt…
2. Nguyên nhân
1.1. Nguyên nhân khách quan:
Báo chí hiện đại, hay cịn gọi là báo mạng điện tử vẫn cịn trên đà cạnh tranh
với những trang thơng tin. Vì cạnh tranh nên có thể khâu kiểm duyệt chưa được
chọn lọc kĩ càng và nghiêm túc.
1.2. Nguyên nhân chủ quan:
Đến từ nghiệp vụ và kiến thức của người viết bài là chủ yếu. Nhiều người làm
báo, cộng tác viên của những tờ báo đã không trau dồi đủ kiến thức về từ vựng
cũng như cách sử dụng từ vựng, dẫn đến những sai sót khơng đáng có.
3. Một số lưu ý khi sử dụng ngơn ngữ báo chí
a) Viết tắt: Đối với các từ hay cụm từ được sử dụng lặp đi lặp lại trong một
bài báo hay văn bản nói chung, viết tắt khơng chỉ tiết kiệm được thời gian và cơng
sức mà cịn giúp đáp ứng u cầu về trình bày (diện tích khổ báo hạn chế, đảm bảo
sự hài hòa, cân xứng giữa các thành tố ngôn ngữ…).
- Kiểu viết tắt phổ biến nhất hiện nay là viết các chữ cái đầu tiên của các âm
tiết có trong tên gọi.
Ví dụ: xã hội chủ nghĩa là XHCN; ủy ban nhân dân là UBND;
+ Kiểu viết tắt này chỉ được dùng cho các tên gọi được cấu tạo bởi các từ
cùng một thứ tiếng, chủ yếu là tiếng Anh hay tiếng Việt.
+ Chỉ được sử dụng hình thức viết tắt trên sau khi đã viết dạng đầy đủ có kèm
dạng tắt được đặt trong ngoặc đơn đứng ngay bên cạnh. Ví dụ:Học viện Báo chí và
Tuyên truyền (HVBCVTT) , Đài Truyền hình Việt Nam (ĐTHVN),…

10



11

+ Khơng nên viết tắt theo kiểu trên ở tít. Trong trường hợp bất khả kháng, chỉ
nên viết tắt những từ hay cụm từ xuất hiện với tần số cao trong giao tiếp mà hầu
hết mọi người đều biết như XHCN, UBND, VTV, GDP …
- Kiểu viết tắt lược bớt các yếu tố theo xu hướng giữ lại ít nhất hai chữ cái
trong mỗi âm tiết của tên gọi (trong đó thường có một chữ cái là ký hiệu ghi
nguyên âm). Ví dụ: HABECO (Cơng ty Bia Hà Nội), VINATABA (Công ty Thuốc
lá Việt Nam) … Đối với các tên gọi tiếng Anh, nếu bộ phận chính của tên (bộ phận
giúp nhận diện được ngay đặc thù về phạm vi chức năng, lĩnh vực sản xuất hay
kinh doanh của đối tượng dịch vụ có tên viết tắt) chỉ có một âm tiết thì trong nhiều
trường hợp nó được giữ ngun. VD: HABUBANK (Ngân hàng Xây dựng và Phát
triển nhà Hà Nội), SILKTEXTCO (Công ty Xuất khẩu tơ tằm), FAFILM (Hãng
Phim Việt Nam), VINAMILK (Công ty Sữa Việt Nam)
- Kiểu viết tắt thứ ba kết hợp một âm tiết của từ này với một âm tiết của từ
khác để tạo nên một từ ghép mới rồi gán cho nó ý nghĩa của các từ nguyên gốc.
b) Viết hoa: Có một số quy tắc viết hoa cơ bản đã được thừa nhận và đang
được sử dụng rộng rãi trong xã hội:
- Viết hoa tên người:
+ Đối với tên người nước ngoài, chỉ cần viết hoa chữ cái đầu ở mỗi bộ phận
của tên. Ví dụ: Vladimir Putin, Bill Clinton, Victo Hugo …
+ Đối với tên người Việt Nam hay tên người nước ngoài được phiên âm qua
Hán - Việt, chữ cái đầu của tất cả các âm tiết đều được viết hoa. Ví dụ: Nguyễn
Huệ, Lê Lợi, Đỗ Phủ, Thành Cát Tư Hãn …
- Viết hoa tên địa lý: Tên địa lý được viết hoa giống tên người, ví dụ: Tên địa
lý Việt Nam: Trường Sơn, Cửu Long, Hà Nội, Việt Bắc … Tên địa lý nước ngoài:
Paris, Berlin, Washington …
- Viết hoa tên các cơ quan, tổ chức chính trị - xã hội: Với tên các cơ quan,
đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội …chúng ta viết hoa chữ cái đầu của âm tiết

11


12

đầu tiên và các chữ cái đầu của các âm tiết đầu trong các từ nêu lên tính chất riêng
biệt của tên. Ví dụ: Bộ Giáo dục và Đào tạo, Học viện Báo chí và Tuyên truyền,
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Sở Kế hoạch và Đầu tư …
- Viết hoa tu từ: Đây là hình thức dùng chữ viết hoa nhằm làm tăng màu sắc
biểu cảm trong văn bản. Một số hình thức viết hoa tu từ phổ biến:
+ Những từ ngữ liên quan đến các đối tượng, sự kiện là niềm tự hào của dân
tộc, đất nước. Ví dụ: Người (chỉ Bác Hồ), Cách mạng Tháng Tám, Chiến thắng
Điện Biên Phủ …
+ Tên các chức vụ cao cấp của Đảng và Nhà nước: Tổng Bí thư, Chủ tịch
Nước, Thủ tướng Chính phủ …
+ Các danh hiệu cao quý được công nhận như: Nhà giáo Nhân dân, Nghệ sỹ
Ưu tú, Anh hùng Lao động … Hiện nay, trên báo chí đang tồn tại khá nhiều lỗi về
viết hoa không đúng cách, phần lớn là lỗi viết hoa tên của các cơ quan, đoàn thể, tổ
chức chính trị - xã hội. Có thể điểm một vài ví dụ để minh chứng cho vấn đề này:
Sở Văn hóa thơng tin (đúng ra phải là Sở Văn hóa - Thông tin); Hội nhà báo
(phương án đúng là Hội Nhà báo); Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (viết đúng
là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam).
c) Dấu câu trong tiếng Việt: Dấu câu là một thành phần không thể thiếu
được trong bất kỳ một văn bản nào, cho dù văn bản đó chỉ gồm một câu hay dài
hàng chục trang. Hiện nay trong tiếng Việt tồn tại 10 loại dấu câu, bao gồm: dấu
chấm (.), dấu chấm hỏi (?), dấu chấm than (!), dấu phẩy (,), dấu chấm phẩy (;), dấu
chấm lửng (…), dấu gạch ngang (-), dấu hai chấm (:), dấu ngoặc đơn (), dấu ngoặc
kép (“”).
- Dấu chấm: đứng ở cuối các câu trần thuật.
- Dấu chấm hỏi: đứng ở cuối câu hỏi, ví dụ: Vậy theo ơng, những địi hỏi bức

xúc đó là gì? Dấu chấm hỏi được đặt trong ngoặc đơn thể hiện sự hồi nghi, ví dụ:

12


13

Vậy mà vị trưởng phịng nọ khẳng định ơng ta không hề hay biết về chuyện này (?)
(Báo lao động)
- Dấu chấm than: dùng để kết thúc câu cảm thán hay câu cầu khiến, ví dụ:
Hãy giúp họ kéo dài thêm sự sống! (Báo Văn hố) Bên cạnh đó, dấu chấm than còn
được dùng trong cả câu gọi và đáp, ví dụ: - Hồng! -Vâng! Nếu dấu chấm than
được dùng trong ngoặc đơn (có thể được kèm với dấu chấm hỏi) thì nó sẽ biểu đạt
sắc thái ngạc nhiên hay mỉa mai, châm biếm, ví dụ: Một giám đốc bệnh viện nói
rằng tình trạng xuống cấp của các cơ sở y tế cũng giống như bệnh ung thư, chưa có
thuốc chữa (!)
- Dấu phẩy: dùng để phân cách với các vế câu, các thành phần cùng loại hay
nòng cốt câu với các thành phần phụ…
- Dấu chấm phẩy: được dùng để phân cách các vế câu đã trọn vẹn về mặt cú
pháp nhưng vẫn có quan hệ ý nghĩa khăng khít với nhau (khiến người ta khơng
muốn tách chúng thành các câu độc lập), hoặc để phân tách các phần có quan hệ
đẳng lập mà ở đó dấu phẩy đã được sử dụng.
- Dấu chấm lửng: có thể đứng ở cả 3 vị trí: đầu, giữa và cuối câu với các chức
năng như: biểu thị lời nói bị ngắt quãng do xúc động; biểu thị sự liệt kê chưa hết;
biểu thị sự lược bớt những phần nào đó ở phía trên; làm giãn nhịp câu văn, chuẩn
bị cho sự xuất hiện của những từ ngữ mang nội dung bất ngờ…
- Dấu gạch ngang: dùng để phân biệt các thành phần chêm xen, báo hiệu bắt
đầu lời đấu thoại, biểu thị sự liệt kê, diễn đạt ý “từ…đến…”.
- Dấu hai chấm: dùng để chỉ phần đứng sau có chức năng thuyết minh chú
giải cho phần đứng trước, hoặc báo hiệu một sự liệt kê.

- Dấu ngoặc đơn: dùng để phân cách phần chú thích với các phần khác hoặc
đóng khung bộ phận chỉ nguồn gốc lời trích dẫn.
- Dấu ngoặc kép: dùng để đánh dấu lời trích dẫn trực tiếp; đóng khung tên
riêng, tên tác phẩm; đánh dấu những từ ngữ được hiểu theo nghĩa khác…
13


14

Ngoài 10 loại dấu câu đã liệt kê ở trên, cịn có một số cách ghép các dấu câu
với nhau tạo nên sắc thái biểu cảm cao hơn. Ví dụ như: dấu “?!” biểu thị sự hoài
nghi và ngạc nhiên trước một sự việc gì đó. Lỗi sai về dấu câu: Các lỗi sai về dấu
câu thường gây trở ngại rất lớn cho người đọc. Chỉ thiếu hoặc thừa một dấu nào đó
thơi cũng làm cho câu trở nên khá mơ hồ về nghĩa.
IV. GIỮ GÌN SỰ TRONG SÁNG CỦA TIẾNG VIỆT VÀ TRÁCH
NHIỆM CỦA NGƯỜI LÀM BÁO
Chữ viết, tiếng nói là của cải vơ cùng quan trọng và q giá của bất kỳ dân
tộc nào trên thế giới, là niềm tự hào của mỗi dân tộc. Tiếng Việt của dân tộc Việt
Nam cũng như vậy. Tiếng nói, chữ viết tiếng Việt có nguồn gốc bản địa, được cha
ơng ta sáng tạo, gìn giữ, cải tiến trong hành trình tạo dựng cuộc sống, phát triển
cộng đồng xã hội. Trải qua các triều đại lịch sử, qua những giai đoạn phát triển,
tiếng Việt đã trở thành hồn cốt của dân tộc, có sức sống lâu bền trong tâm hồn, lối
sống, tư duy của con người Việt Nam. Dù có sống ở miền đất nào trên lãnh thổ
Việt Nam hay sống xa q hương, những con người mang dịng máu Việt đều
khơng qn thứ tiếng ơng cha, lời ăn tiếng nói của dân tộc mình.
Trải qua thời gian, người dân Việt Nam khơng ngừng giữ gìn, cải tiến tiếng
Việt, làm cho tiếng nói của dân tộc ngày càng giàu và đẹp, ln là niềm tự hào của
con người Việt Nam trước bạn bè quốc tế. Để có một hệ thống quy tắc tiếng Việt
nói và viết theo chuẩn như ngày nay, chúng ta đã phải trải qua nhiều lần cải tiến
tiếng Việt trên những phương diện cụ thể như phát âm, chính tả, ngữ pháp, phong

cách ngơn ngữ. Cho dù có sáng tạo, cải tiến tiếng Việt nhưng chúng ta vẫn phải
đảm bảo nguyên tắc trên nền những quy định chung, trên cái cốt có sẵn chứ khơng
thay đổi hồn tồn. Nhà báo cần nắm vững những kiến thức cơ bản liên quan tới
việc sử dụng tiếng Việt, bao gồm: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và phong cách. Chỉ
khi nắm bắt được, hiểu được những kiến thức về ngôn ngữ tiếng Việt, nhà báo mới
có thể viết đúng, nói đúng; chưa viết đúng, nói đúng thì cũng chưa thể viết hay
14


15

được. Nhà báo cần hạn chế tối đa việc vay mượn những từ ngữ nước ngồi. Nó
khơng chỉ gây cản trở đối với đối tượng độc giả không biết ngoại ngữ mà còn làm
cho bài báo trở nên rườm rà, kém thu hút người đọc.

KẾT LUẬN
Những vấn đề xoay quanh việc sử dụng ngơn từ tên báo chí, thực tế để nói thì
khơng thể ngày một ngày hai mà có thể thay đổi hoàn toàn được. Nhưng với tư
cách là những nhà báo tương lai, chúng ta cần có trách nhiệm trau dồi kiến thức
bản thân từ những năm tháng cịn ngồi trên ghế nhà trường. Việc sử dụng ngơn
ngữ dúng quy tắc, đúng chuẩn mực không chỉ thể hiện kĩ năng nghề nghiệp, nó cịn
là trách nhiệm to lớn với Đảng, nhà nước và quần chúng nhân dân trong việc phát
huy cũng như giữ gìn những nét đẹp của tiếng Việt. Giữ gìn và làm giàu tiếng Việt
là trách nhiệm của toàn dân. Song, dù xã hội, khoa học cơng nghệ có thay đổi đến
đâu, chúng ta phải nhận thức sâu sắc và xác định không được làm méo mó, lai căng
tiếng Việt trong q trình sử dụng. Mỗi người cần ý thức được việc giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt phải trên cơ sở nói và viết đúng chuẩn mực về phát âm,
chính tả chữ viết, từ ngữ, ngữ pháp và phong cách ngôn ngữ. Cần loại bỏ những
yếu tố không phù hợp, làm ảnh hưởng đến sự chuẩn mực, trong sáng của tiếng
Việt. Mỗi người dân cần nêu cao trách nhiệm giữ gìn và làm giàu tiếng Việt để

chúng ta luôn tự hào về tiếng của dân tộc Việt Nam, như lời dạy của Bác Hồ kính
u: “Tiếng nói là thứ của cải vơ cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc.
Chúng ta phải giữ gìn nó, q trọng nó.

15



×