Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

thiết kế và sử dụng bài tập hóa học trong dạy học chương đại cương về kim loại và chương kim loại kiềm-kim loại kiềm thổ-nhôm chương trình 12 nâng cao thpt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.13 KB, 82 trang )

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa i
Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn iii
Mục lục 1
Danh mục các từ viết tắt 3
Danh mục các bảng, biểu 4
PHẦN MỞ ĐẦU 5
1. Lí do chọn đề tài 5
2. Mục đích nghiên cứu 5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 6
5. Phương pháp nghiên cứu 6
6. Giả thuyết khoa học 6
7. Đóng góp của đề tài 6
8. Cấu trúc luận văn 7
NỘI DUNG 8
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 8
1.1. Cơ sở lí luận 8
1.1.1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở Việt Nam hiện nay 8
1.1.2. Phương pháp dạy học tích cực 8
1.1.3. Dạy học nêu vấn đề - ơrixtic 10
1.1.4. Tư duy 11
1.1.5. Bài tập hóa học 11
1.1.6. Thiết kế và sử dụng BTHH trong dạy bài mới ở trường THPT 15
1.2. Cơ sở thực tiễn 17
1.2.1. Thực trạng dạy học Hóa học ở trường trung học phổ thông hiện nay 17
1.2.2. Thực trạng sử dụng bài tập Hóa học trong dạy học bài mới ở trường THPT
hiện nay 18
Tiểu kết chương 1 20
1


Chương 2. THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG BÀI TẬP HÓA HỌC TRONG DẠY HỌC
ĐẠI CƯƠNG VỀ KIM LOẠI VÀ CHƯƠNG KIM LOẠI KIỀM-KIM LOẠI KIỀM
THỔ-NHÔM CHƯƠNG TRÌNH 12 NÂNG CAO THPT 21




2.1. Phân loại bài tập trong dạy học bài mới 21
2.2. HTBT trong dạy học bài mới 25
2.2.1. Chương Đại cương về kim loại 25
2.2.2. Chương Kim loại kiềm–kim loại kiềm thổ-nhôm 38
2.3. Khái quát về thiết kế và sử dụng bài tập trong dạy bài mới 55
2.3.1. Nguyên tắc xây dựng 55
2.3.2. Khác nhau giữa bài tập để dạy học bài mới và bài tập thông thường 55
2.3.3. Cách xây dựng bài tập trong dạy học bài mới 56
2.3.4. Sử dụng bài tập trong dạy học bài mới như thế nào. 56
2.4. HTBT tự luận và trắc nghiệm nhằm củng cố và nâng cao kiến thức 63
Tiểu kết chương 2 68
Chương 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 70
3.1 Mục đích thực nghiệm sư phạm 70
3.2 Nhiệm vụ của TNSP 70
3.3. TNSP 70
3.4. Tiến hành thực nghiệm và xử lí kết quả 71
3.5. Kết quả thực nghiệm 72
3.6. Xử lý kết quả thực nghiệm 74
3.7. Phân tích kết quả thực nghiêm 76
Tiểu kết chương 3 77
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
2

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt Viết đầy đủ
BTHH : Bài tập hoá học
ĐC : Đối chứng
ĐLBT : Định luật bảo toàn
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
HTBT : Hệ thống bài tập
NXB : Nhà xuất bản
PPDH : Phương pháp dạy học
PTHH : Phương trình hoá học
PA : Phương án
THPT : Trung học phổ thông
TN : Thực nghiệm
TNSP : Thực nghiệm sư phạm
TSĐH : Tuyển sinh đại học
TSHS : Tổng số học sinh
3
DANH MỤC CÁC BẢNG, ĐỒ THỊ, BIỂU ĐỒ
STT Bảng, Đồ thị, Biểu đồ Trang
1 Bảng 3.1. Tổng hợp kết quả điểm kiểm tra 15 phút 71
2 Bảng 3.2. Thống kê chất lượng bài kiểm tra 15 phút 72
3 Hình 3.1 Thống kê chất lượng bài kiểm tra 15 phút 72
5 Bảng 3.3. Tổng hợp kết quả điểm kiểm tra 1 tiết chương kim loại
kiềm, kim loại kiềm thổ, nhôm.
72
6 Bảng 3.4. Thống kê chất lượng bài kiểm tra 1 tiết 73
7 Hình 3.2. Thống kê chất lượng bài kiểm tra 1 tiết 73
8 Bảng 3.5. Bảng phân phối tần suất bài kiểm tra số 1 73
9 Bảng 3.6. Bảng phân phối tần suất lũy tích bài kiểm tra 15 phút 73

10 Hình 3.3. Đồ thị đường lũy tích bài kiểm tra 15 phút 74
11 Bảng 3.7. Bảng phân phối tần suất bài kiểm tra 1 tiết 74
12 Bảng 3.8. Bảng phân phối tần suất lũy tích bài kiểm tra 1 tiết 74
13 Hình 3.4. Đồ thị đường lũy tích bài kiểm tra 1 tiết 75
14 Bảng 3.9. Kết quả phân tích thống kê điểm kiểm tra 75
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
4
Ngày nay thời đại khoa học kỹ thuật đang phát triển rất mạnh, những thay đổi
không ngừng của nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Ưu thế của
kinh tế tri thức, đã biến đổi bản chất và nâng cao mức độ yêu cầu đối với giáo dục
một cách mạnh mẽ. Mục tiêu giáo dục đào tạo phải hướng vào đào tạo những con
người lao động, tự chủ, sáng tạo, có năng lực giải quyết vấn đề thường gặp trong
cuộc sống, qua đó mà góp phần tích cực thực hiện mục tiêu lớn của đất nước là dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để có thể đi tắt đón đầu từ
một nước kém phát triển và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước thì
vai trò của giáo dục và công nghệ là yếu tố hàng đầu.
Trước nhu cầu thực tế của xã hội đòi hỏi những thay đổi cơ bản về thói quen
dạy và học, một tổ chức mới về cung cấp nội dung và cấu trúc học tập, một sự đánh
giá mới về những nhu cầu trí tuệ, tình cảm và xã hội của người học. Những trình độ
kỹ năng cần có trong thị trường lao động đều cao và mọi xã hội đều phải đối mặt
với thách thức nâng cao trình độ giáo dục. Do đó đổi mới phương pháp dạy học là
công việc có ý nghĩa cực kỳ to lớn và luôn mang tính thời sự.
Là một giáo viên hoá học chúng tôi luôn quan tâm đến việc làm sao để một
tiết học Hoá trở nên nhẹ nhàng mà kiến thức được khắc sâu và tạo được hưng phấn
cho học sinh. Vấn đề này đã có nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu và đã đóng góp
nhiều trong kinh nghiệm giảng dạy cho giáo viên tuy nhiên vẫn chưa đầy đủ và
chưa khái quát. Với mong muốn xây dựng được hệ thống bài tập tinh, gọn và chất
lượng trong việc dạy bài mới nhằm đêm lại kết quả học tập cao, phát huy được tính
độc lập, sáng tạo, tự học nên chúng tôi đã chọn đề tài “Thiết kế và sử dụng bài tập

Hóa học trong dạy học chương Đại cương về kim loại và chương Kim loại kiềm-
kim loại kiềm thổ-nhôm chương trình 12 nâng cao THPT”
2. Mục đích nghiên cứu
Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập Hóa học để dạy học chương Đại cương
về kim loại và chương Kim loại kiềm-kim loại kiềm thổ-nhôm chương trình 12
nâng cao nhằm giúp cho học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức, phát triển kĩ năng và
phương pháp học, góp phần nâng cao hứng thú học tập bộ môn.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận
5
-Nghiên cứu lí luận chung về phương pháp dạy và học Hóa học.
-Nghiên cứu phương pháp thiết kế và sử dụng bài tập Hóa học để dạy học bài
mới, củng cố kiến thức, nâng cao kiến thức.
-Thiết kế một số giáo án có sử dụng bài tập vào dạy học chương Đại cương
kim loại và chương Kim loại kiềm–kim loại kiềm thổ-nhôm ở chương trình Hoá 12
nâng cao
3.2. Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của đề tài
-Điều tra thực trạng dạy học Hóa học ở trường trung học phổ thông
-Điều tra cơ bản thực trạng sử dụng bài tập hoá học trong dạy học bài mới
3.3.Thực nghiệm sư phạm để đánh giá hiệu quả của phương pháp dạy học thông
qua hệ thống bài tập Hóa học đã được thiết kế.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra, trao đổi với các thầy cô giáo phổ thông và các em
học sinh.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
5. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học Hóa học ở trường trung học
phổ thông.

- Đối tượng nghiên cứu: Hệ thống bài tập dạy học chương Đại cương kim loại
và chương Kim loại kiềm-kim loại kiềm thổ-nhôm chương trình Hoá 12 nâng cao.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu thiết kế được hệ thống bài tập Hóa học có chất lượng tốt và tổ chức hoạt
động phù hợp thì sẽ phát huy tính tích cực nhận thức, khắc sâu kiến thức đồng thời
bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu cho học sinh góp phần nâng cao chất
lượng dạy học môn hóa học ở trường phổ thông.
7. Đóng góp của đề tài
- Cách thiết kế và sử dụng bài tập hóa học dùng để dạy học bài mới.
6
- Hệ thống bài tập Hoá học và phương pháp sử dụng bài tập trong dạy học bài
mới chương Đại cương kim loại và chương Kim loại kiềm-kim loại kiềm thổ-nhôm
chương trình hoá học 12 nâng cao.
8. Cấu trúc luận văn
Gồm 3 chương:
- Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
- Chương 2. Thiết kế và sử dụng bài tập hóa học trong dạy học chương đại
cương về kim loại, chương kim loại kiềm, kim loại kiềm thổ, nhôm chương trình 12
nâng cao THPT
- Chương 3. Thực nghiệm sư phạm
NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
7
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở Việt Nam hiện nay
Hiện nay, quá trình đổi mới dạy và học đang diễn ra mạnh mẽ ở mọi cấp học,
trên mọi vùng miền đất nước. Chúng ta đang ở trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Nền kinh tế nước ta đang chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập
trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Sự thay đổi này đòi hỏi
ngành giáo dục cần có những đổi mới nhất định. Định hướng đổi mới phương pháp

dạy học đã được ban hành trong luật giáo dục tại Điều 28.2: “Phương pháp giáo dục
phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của HS; phù hợp
với đặc điểm từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học; rèn luyện kĩ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho HS”.
Thật vậy, bản chất của việc đổi mới PPDH học là tổ chức cho người học được
học tập trong hoạt động tự giác, tích cực, sáng tạo, trong đó việc xây dựng phong
cách học tập sáng tạo là cốt lõi của đổi mới phương pháp giáo dục nói chung và
PPDH nói riêng. Lí luận dạy học hiện đại củng khẳng định “Để bồi dưỡng cho học
sinh năng lực tự học, năng lực sáng tạo cần phải đưa học sinh vào vị trí chủ thể của
quá trình học tập trong hoạt động và bằng hoạt động”.
“Giáo dục không nhằm mục tiêu nhồi nhét kiến thức mà là thắp sáng niềm tin”
Thành công hay thất bại trong việc đổi mới PPDH được quyết định không nhỏ
ở động cơ học tập của học sinh củng như ở chữ “tâm” với chữ “tài” của người thầy.
1.1.2. Phương pháp dạy học tích cực
1.1.2.1. Một số khái niệm
Khái niệm tính tích cực nhận thức là một khái niệm biểu thị sự nổ lực, chủ
động của chủ thể trong quá trình học tập và nghiên cứu, là sự biểu hiện mức độ huy
động cao các chức năng tâm lí nhằm giải quyết nhiệm vụ nhận thức, góp phần làm
cho nhân cách của chủ thể phát triển.
Phương pháp tích cực để chỉ những phương pháp dạy học phát huy tính tích
cực, chủ động sáng tạo của người học.
1.1.2.2. Một vài PPDH tích cực
8
1. Dạy học lấy HS làm trung tâm.
Đây là một quan điểm được đánh giá là tích cực vì hướng việc dạy học chú
trọng đến người học để tìm ra những PPDH có hiệu quả. Dạy học lấy HS làm trung
tâm, đặt vị trí của người học vừa là chủ thể vừa là mục đích cuối cùng của quá trình
dạy học, phát huy tối đa những tiềm năng của từng người học. Do vậy vai trò tích
cực, chủ động, độc lập sáng tạo của người học được phát huy. Người GV đóng vai

trò là người tổ chức, hướng dẫn, động viên các hoạt động độc lập của HS, đánh thức
các tiềm năng của mỗi HS giúp họ chuẩn bị tham gia vào cuộc sống.
2. PPDH theo hướng hoạt động hoá người học
Định hướng hoạt động hoá người học đã chú trọng đến việc giải quyết vấn đề
dạy học thông qua hoạt động tự giác tích cực và sáng tạo của người học, hình thành
công nghệ kiểm tra đánh giá, sử dụng phương tiện kĩ thuật, đặc biệt là công nghệ
thông tin trong quá trình dạy học. Trong dạy học hoá học cần sử dụng các biện pháp
hoạt động hoá người học như:
- Khai thác nét đặc thù môn Hoá học tạo ra các hình thức hoạt động đa dạng,
phong phú của HS trong giờ học:
+ Tăng cường sử dụng thí nghiệm hoá học, các phương tiện trực quan, phương
tiện kĩ thuật trong dạy học hoá học.
+ Trong giờ học cần sử dụng phối hợp nhiều hình thức hoạt động của HS như:
thí nghiệm, dự đoán lý thuyết, mô hình hoá, giải thích, thảo luận nhóm,… giúp HS
được hoạt động tích cực chủ động.
- Tăng thời gian hoạt động của HS trong giờ học. Hoạt động của GV chú trọng
đến việc thiết kế, hướng dẫn điều khiển các hoạt động và tư duy của HS khi giải
quyết các vấn đề học tập thông qua các hoạt động cá nhân hay hoạt động nhóm. GV
cần động viên HS hoạt động nhiều hơn trong giờ học, giảm tối đa các hoạt động
nhận thức thụ động.
- Tăng mức độ hoạt động trí lực chủ động của HS thông qua việc lựa chọn nội
dung và hình thức sử dụng các câu hỏi, bài tập có sự suy luận, vận dụng kiến thức
một cách sáng tạo.
3. Dạy học theo nhóm
Để giúp người học tham gia vào đời sống xã hội một cách tích cực, tránh tính
thụ động, ỷ lại thì phương pháp dạy học trong nhà trường có một vai trò rất to lớn.
9
Dạy học theo nhóm đang là một trong những phương pháp tích cực nhằm hướng tới
mục tiêu trên. Với phương pháp này, người học được làm việc cùng nhau theo các
nhóm nhỏ và mỗi một thành viên trong nhóm đều có cơ hội tham gia vào nhiệm vụ

đã được phân công sẵn. Hơn nữa với phương pháp này người học thực thi nhiệm vụ
mà không cần sự giám sát trực tiếp, tức thời của giáo viên.
Một nhiệm vụ mang tính cộng tác là nhiệm vụ mà người học không thể giải
quyết một mình mà cần thiết phải có sự cộng tác thực sự giữa các thành viên trong
nhóm tuy nhiên vẫn phải đảm bảo tính độc lập giữa các thành viên. Người dạy cần
phải có yêu cầu rõ ràng và tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác giữa người học.
Trong quá trình hợp tác, công việc thường được phân công ngay từ đầu cho mỗi
thành viên. Phương pháp hoạt động nhóm giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ
các băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới.
Thành công của bài học phụ thuộc vào sự nhiệt tình tham gia của mọi thành viên, vì
vậy phương pháp này còn gọi là phương pháp cùng tham gia. Tuy nhiên, phương
pháp này bị hạn chế bởi không gian chật hẹp của lớp học, bởi thời gian hạn định của
tiết học, cho nên giáo viên phải biết tổ chức hợp lý và học sinh đã khá quen với
phương pháp này thì mới có kết quả.
1.1.3. Dạy học nêu vấn đề - ơrixtic [10]
1.1.3.1. Khái niệm dạy học nêu vấn đề - ơrixtic
Dạy học nêu vấn đề - ơrixtic không phải là một phương pháp dạy học cụ thể
đơn nhất. Nó là một tổ hợp phương pháp dạy học phức tạp, tức là một tập hợp nhiều
phương pháp dạy học liên kết với nhau, trong đó phương pháp xây dựng bài toán -
ơrixtic giữ vai trò trung tâm chủ đạo, gắn bó các phương pháp dạy học khác trong
tập hợp lại thành một hệ thống toàn vẹn. Như vậy ngoài phương pháp xây dựng bài
toán - ơrixtic (tạo ra tình huống có vấn đề) giữ vai trò trung tâm chủ đạo, còn có
một loạt những phương pháp dạy học quen thuộc khác như thuyết trình, thí nghiệm,
nghiên cứu v.v…
Dạy học nêu vấn đề - ơrixtic có ba đặc trưng cơ bản sau:
10
- Giáo viên đặt ra trước HS một loạt những bài toán nhận thức có chứa đựng
mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái phải tìm, nhưng chúng được cấu trúc lại một cách
sư phạm, gọi là những bài toán nêu vấn đề - ơrixtic.
- HS tiếp nhận mâu thuẫn của bài toán ơrixtic như mâu thuẫn của nội tâm

mình và được đặt vào tình huống có vấn đề, tức là trạng thái có nhu cầu bên trong
bức thiết muốn giải quyết bằng được bài toán đó.
- Bằng cách tổ chức giải bài toán ơrixtic mà HS lĩnh hội một cách tự giác và
tích cực cả kiến thức, cả cách thức giải và do đó có được niềm vui sướng của sự
nhận thức sáng tạo.
1.1.3.2. Tình huống có vấn đề
Tình huống có vấn đề là trạng thái tâm lí độc đáo của người gặp chướng ngại
nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn nội tâm, có nhu cầu giải quyết mâu thuẫn đó, không
phải bằng tái hiện hay bắt chước, mà bằng tìm tòi sáng tạo tích cực, đầy hưng phấn
và khi đi tới đích thì lĩnh hội cả kiến thức, phương pháp lĩnh hội kiến thức và cả
niềm vui sướng của sự phát hiện.
1.1.4. Tư duy [17]
1.1.4.1. Khái niệm
Theo M.N. Sacđacop “ Tư duy là sự nhận thức khái quát gián tiếp các sự vật
và hiện tượng của hiện thực trong những dấu hiệu, những thuộc tính chung và bản
chất của chúng”
Theo lí thuyết thông tin: “Tư duy là hoạt động trí tuệ nhằm thu thập thông tin
và xử lí thông tin về thế giới quanh ta và thế giới trong ta. Chúng ta tư duy để hiểu
tự nhiên, xã hội và chính mình” (con người là một vũ trụ thu hẹp)
1.1.4.2. Phân loại tư duy
Trên cơ sở kiến thức hóa học ở trường THPT, ta có thể rèn cho học sinh 9 loại
tư duy cơ bản: Tư duy độc lập; Tư duy logic; Tư duy trừu tượng; Tư duy hình
tượng; Tư duy biện chứng; Tư duy phê phán; Tư duy sáng tạo; Tư duy đa hướng;
Tư duy hóa học; Tư duy khái quát
1.1.5. Bài tập Hoá học [6]
11
1.1.5.1. Khái niệm
“Bài tập là một nhiệm vụ mà người giải cần phải thực hiện. Trong bài tập có
dữ kiện cần tìm”
Bài tập thiết kế cho hoạt động dạy học hóa học ở đây chủ yếu là bài tập nhận

thức. “Bài toán nhận thức là câu hỏi, bài tập hoặc bài toán mà chứa đựng vấn đề học
tập, bằng những hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo để giải bài toán đó. Sau khi
giải bài tập HS không chỉ hiểu được kiến thức mới mà cả cách thức tìm ra kiến thức
mới, từ đó phát triển tư duy, năng lực nhận thức của HS”.
Bất cứ bài tập nhận thức nào củng chứa đựng bên trong nó một tình huống
xung đột, một mâu thuẫn giữa cái đưa ra và cái cần tìm. Trong dạy học Hóa học, bài
tập nhận thức có một ý nghĩa quan trọng, nó làm cho học sinh có ham muốn tìm tòi
cách giải bằng cách phân tích các điều kiện và huy động những kiến thức vốn có
của mình.
1.1.5.2. Phân loại bài tập hóa học
Có nhiều cách phân loại BTHH, giữa các cách phân loại không có ranh giới rõ
rệt. Dựa vào mục đích khác nhau người ta có các cách phân loại như sau:
- Dựa vào tích chất của bài tập: bài tập định tính và bài tập định lượng.
- Dựa vào mức độ kiến thức:bài tập cơ bản và bài tập nâng cao.
- Dựa vào mục đích dạy học: bài tập ôn tập, bài tập luện tập, bài tập kiểm tra.
- Dựa vào hoạt động của HS: bài tập lý thuyết và bài tập thực hành.
- Dựa vào cách trả lời: bài tập trắc nghiệm, bài tập tự luận.
- Dựa vào mức độ kiến thức: bài tập cơ bản và bài tập nâng cao…
1.1.5.3.Tác dụng của bài tập Hoá học
Bài tập Hóa học giữ một vai trò quan trọng trong quá trình dạy học. Hệ thống
bài tập được chọn lọc và xây dựng chất lượng nếu được GV khai thác có hiệu quả
thì sẽ phát huy tác dụng rất lớn đối với HS. Người GV sử dụng hệ thống bài tập hợp
lí không những nâng cao quá trình lĩnh hội kiến thức của HS mà còn tạo hứng thú
cho HS trong giờ học.
Bài tập Hóa học có những tác dụng trí dục và đức dục to lớn sau đây:
1.Thông qua BTHH HS tiếp thu được kiến thức bài mới.
12
Bài tập trong nghiên cứu bài mới chứa đựng mâu thuẩn giữa cái chưa biết và
cái đã biết, đòi hỏi người học phải dùng kiến thức đã học và bằng những hoạt động
tích cực tìm tòi sáng tạo để giải quyết vấn đề và tiếp thu kiến thức mới.

Ví dụ: Để hình thành kiến thức về độ tăng giảm khối lượng GV có thể sử dụng
bài tập sau:
TN 1: Ngâm một đinh sắt vào cốc A đựng 100 mL dung dịch Cu(NO
3
)
2
1M.
TN 2: Ngâm một lá chì vào cốc B đựng 100 mL dung dịch Cu(NO
3
)
2
1M.
a. Khi phản ứng xảy ra hoàn toàn, lấy lá sắt và lá chì làm sạch cẩn thận rồi cân
lại (giả sử lượng Cu sinh ra bám hết vào thanh kim loại). Theo em khối lượng lá sắt
và lá chì thay đổi như thế nào (tăng, giảm, không đổi) so với trước phản ứng?
b.Từ đó em hãy rút ra công thức tổng quát tính độ tăng giảm khối lượng kim
loại (hay chất rắn) trước và sau phản ứng?
2. Phát triển tư duy logic cho HS
Thông qua bài tập Hóa học, phát triển năng lực nhận thức, phát huy khả năng
phán đoán, suy luận logic, khả năng tư duy cao cho HS.
Ví dụ: Để hình thành kiến thức phần “pin điện hóa” GV có thể sử dụng bài
tập sau:
Khi nối hai lá kim loại (hình 5.3 SGK 12 NC) bằng một dây dẫn điện sẽ đo
được dòng điện từ lá Cu đến lá Zn.
a. Tại sao có dòng điện chạy từ lá Cu sang lá Zn?
b. Giải thích cơ chế phát sinh dòng điện trong pin điện hóa. Tại sao điện cực
Zn gọi là anot?
c. Nếu không có cầu muối thì dòng điện trong pin có duy trì được không? Vì
sao? Vai trò của cầu muối là gì?
3. Rèn luyện kĩ năng cho HS

Thông qua BTHH, đặc biệt là bài tập thực nghiệm rèn luyện được nhiều kĩ
năng cho học sinh như: kĩ năng quan sát, kĩ năng dự đoán, kĩ năng lắp ráp dụng cụ,
kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng nhận biết hóa chất, kĩ năng cân bằng phương trình
hóa học, kĩ năng tính toán theo công thức hóa học và phương trình hóa học Ngoài
ra còn rèn luyện được cho HS tính kiên nhẫn, cẩn thận, kĩ năng phân tích, kĩ năng
sống góp phần vào việc giáo dục kĩ năng tổng hợp cho HS.
13
Ví dụ: GV có thể hình thành các kĩ năng trên ở các bài như: dãy điện hóa của
kim loại, ăn mòn kim loại, điều chế kim loại
4. Giúp HS vận dụng Hóa học vào thực tiễn đời sống và sản xuất
Đây là tiêu chí rất quan trọng và cần thiết bỡi lẽ đó là những kiến thức phổ
thông mà sau khi học xong các em cần phải có được.
Ví dụ: Khi học xong bài pin điện hóa các em cần phải biết được điều kiện để
hình thành một pin điện hóa là gì, hoạt động của pin ra sao Từ đó các em có thể
hiểu được sự ăn mòn điện hóa là gì, cách bảo quản các đồ dùng hằng ngày như cửa
sắt, tôn, đồ dùng bằng nhôm như thế nào. Khi đi chiếc xe đạp điện ta phải sạc pin
như thế nào để giữ cho bình sạc lâu hỏng hay khi đi thăm quan các thắng cảnh
thiên nhiên các em hiểu được sự hình thành thạch nhũ trong các hang động, cách
bảo vệ các công trình kiến trúc như thế nào là tốt nhất hay khi đi xem pháo hoa
vào dip đón giao thừa các em hiểu được màu sắc của pháo hoa là do đâu
5. Phát triển năng lực nhận thức, rèn luyện trí thông minh
Thông qua bài tập hóa học phát triển năng lực nhận thức và rèn luyện trí thông
minh cho HS. Để giải được các bài tập khó đòi hỏi HS phải có cái nhìn tổng thể,
phải biết phân tích đầy đủ, chính xác các hiện tượng, các tình huống xảy ra trong
nội dung bài tập. Một BTHH có thể có rất nhiều cách giải, làm thế nào để chọn ra
cách giải chính xác và ngắn gọn nhất.
Ví dụ 1: (Đề Hóa B-2011) Hỗn hợp X gồm Fe(NO
3
)
2

, Cu(NO
3
)
2
và AgNO
3
.
Thành phần % khối lượng của nitơ trong X là 11,864%. Có thể điều chế được tối đa
bao nhiêu gam hỗn hợp ba kim loại từ 14,16 gam X?
A. 10,56 gam B. 7,68 gam C. 3,36 gam D. 6,72 gam
Suy luận:
Tại sao giả thuyết cho % khối lượng của nitơ trong X mà lại hỏi khối
lượng kim loại điều chế được? Giữa cho và hỏi có liên quan như thế nào? Từ đó
các em nhận thấy đề cho dữ kiện tìm số mol N suy ra số mol NO
3
-
và suy ra khối
lượng kim loại:
m
kl
= m
muối
- m
gốc axit
14
= 14,16 –
14100
864,1116,14
x
x

x 62
= 6,72 (đáp án D)
Ví dụ 2: (Đề Hóa B 2011). Cho m gam bột Cu vào 400 ml dung dịch AgNO
3
0,2M, sau một thời gian phản ứng thu được 7,76 gam hỗn hợp chất rắn X và dung
dịch Y. Lọc tách X, rồi thêm 5,85 gam bột Zn vào Y, sau khi phản ứng xảy ra hoàn
toàn thu được 10,53 gam chất rắn Z. Giá trị của m là
A.3,84 B. 6,40 C. 5,12 D. 5,76
Suy luận:
Trong bài tập này các em phải phân tích được hai cụm từ: “sau một thời gian
phản ứng” “khi phản ứng xảy ra hoàn toàn “ Từ đó các em thấy ngay tổng khối
lượng chất rắn X và chất rắn Z bằng khối lượng Cu, Ag và Zn còn dư.
n
Zn dư
=
2
2,04,0
65
85,5 x

= 0,05
m
Cu
+ m
Ag
+ m
Zndư
= 7,76 + 10,53
m
Cu

= 7,76 + 10,53 – ( 108 x 0,08 + 65 x 0,05) = 6,4
6. Củng cố kiến thức cho HS
Để củng cố kiến thức sau mỗi bài hay mỗi chương GV nên dùng bài tập có
tính chất khái quát, liên quan đến nội dung toàn bài hay toàn chương. Thông qua bài
tập này HS vừa giải vừa liên hệ kiến thức cũ, so sánh, tổng hợp lại kiến thức đã học.
Ví dụ: Cho dãy các chất sau: NaHCO
3
, BaCO
3,
(NH
4
)
2
CO
3
, Ca(HCO
3
)
2
,
K
2
CO
3
, Al
2
O
3
, Na
2

O , Al(OH)
3
, NaOH, Al, Zn
a. Có bao nhiêu chất trong dãy bị nhiệt phân?
A. 6 B. 3 C. 4 D. 5
b. Có bao nhiêu chất trong dãy có tính lưỡng tính?
A. 6 B. 3 C. 4 D. 5
c. Có bao nhiêu chất trong dãy vừa tác dụng được với dung dịch HCl, vừa tác
dụng được với dung dịch NaOH?
A. 7 B. 6 C. 8 D. 5
15
1.1.6. Thiết kế và sử dụng BTHH trong dạy bài mới ở trường THPT
1.1.6.1. Một số vấn đề cần lưu ý khi thiết kế BTHH để dạy học bài mới ở trường
THPT
- Bài tập Hóa học phải được xây dựng trên cở sở kiến thức đã học và GV phải
xây dựng đường dẫn đến kiến thức mới.
- Những thông tin đưa ra phải mang một tình huống để HS phải suy nghĩ, hạn
chế đưa ra những bài tập quá đơn giản có tính nhắc lại hoặc xem sách để trả lời.
- Bài tập Hóa học ở đây có thể là bài trắc nghiệm khách quan hay tự luận: Câu
hỏi trả lời, bài tập định tính, bài tập định lượng, bài tập thực nghiệm, bài tập thực
tiễn
- Bài tập thực nghiệm cần phải có đầy đủ dụng cụ hóa chất cần thiết để HS
tiến hành không nên đưa ra dưới dạng lí thuyết.
- Bài tập định lượng thì các dữ kiện phải rõ ràng các con số phải dễ tính nhẩm.
- Bài hình thành khái niệm mới như “chương đại cương về kim loại” dạng bài
này kiến thức mới và khó hiểu do đó bài tập thường dùng là bài tập thực nghiệm
như một công cụ để tìm kiến thức mới kết hợp với bài tập định lượng đơn giản để
rút ra công thức tính toán, ngoài ra còn dùng các câu hỏi bằng lời mang tính suy
luận logic giúp chúng ta giải thích các hiện tượng xảy ra.
- Bài học về chất cụ thể “chương kim loại kiềm, kim loại kiềm thổ, nhôm”

chương này nhiều kiến thức về vị trí, cấu tạo, tính chất vật lý, tính chất hóa học, ứng
dụng, điều chế HS đã được học ở lớp 9, 10, 11 và ở chương đại cương về kim
loại. Do đặc điểm nội dung như trên nên bài tập đưa ra phải phát huy được tính tích
cực hoạt động của HS để HS tự lực rút ra được những kiến thức cần nắm. Chính vì
vậy bài này nên dùng dạng câu hỏi có tính suy luận logic kết hợp với bài tập thực
nghiệm để làm sáng tỏ tính chất. Ngoài ra củng có thể dùng các dạng câu trắc
nghiệm để kiểm tra lại những kiến thức mà HS đã đọc được từ SGK.
1.1.6.2. Sử dụng bài tập Hóa học trong dạy học bài mới ở trường THPT
- Sử dụng bài tập Hóa học như một công cụ để tìm kiếm kiến thức vì vậy
người GV đóng vai trò rất quan trọng từ khâu thiết kế bài tập đến việc khai thác bài
tập như thế nào để HS bậc ra được kiến thức cần hướng đến. Ở đây, GV cần đưa HS
vào tư thế của một nhà nghiên cứu.
16
- Bài tập Hóa học có thể đưa ra ở dạng phiếu học tập hoặc có thể đưa ra dưới
hình thức máy chiếu, câu hỏi bằng lời rất đơn giản dễ sử dụng hoặc một bài tập thực
nghiệm
- Bài tập Hóa học dùng trong dạy học bài mới phải kết hợp với hình thức hoạt
động nhóm thì mới phát huy hết tính tích cực của HS.
- Cách tổ chức dạy học: GV chia ra làm nhiều nhóm, chọn nhóm trưởng. Phát
phiếu học tập hoặc dùng máy chiếu, đối với những bài tập có nhiều câu hỏi nhỏ thì
ta nên chiếu từng câu nhỏ để HS giải quyết, tránh đưa một lúc nhiều câu hỏi nhỏ
làm cho HS lúng túng. Phát dụng cụ hóa chất thí nghiệm cho từng nhóm (nếu có).
Các nhóm thảo luận việc độc lập dưới sự hướng dẫn và giám sát của GV. Sau một
thời gian, nhóm nào hoàn thành trước sẽ báo cáo kết quả. GV cho HS nhận xét và
bổ sung để hoàn chỉnh bài tập. Nhóm nào hoàn thành bài tập trước và đúng nhất sẽ
được cộng 1 điểm vào bài kiểm tra miệng hoặc tùy vào nội dung bài tập và tình
huống mà GV có thể cho điểm trực tiếp thay cho kiểm tra bài cũ.
- Ưu điểm của việc dùng bài tập Hóa học để dạy bài mới: Có thể dùng ở bất kì
trường nào dù miền núi hay đồng bằng, nơi có điều kiện hoặc nơi không có điều
kiện; GV thì linh hoạt trong việc chọn bài tập cho từng lớp nếu lớp khá thì bài tập

khó hơn còn lớp yếu thì bài tập dễ hơn.
1.2. Cở sở thực tiễn
1.2.1. Thực trạng dạy học Hóa học ở trường THPT hiện nay
Thời gian gần đây, chúng ta tốn không ít thời gian và kinh phí trong việc đổi
mới phương pháp dạy học. Song thực tế việc đổi mới phương pháp dạy học thực
hiện ở mỗi địa phương, do các nguyên nhân khách quan và chủ quan, thực trạng
dạy học nói chung và dạy học hoá học nói riêng còn nhiều hạn chế, chất lượng
chưa đều.
- Đối với các môn học thực nghiệm như môn hóa thì việc đổi mới phương
pháp dạy học là thực sự cần thiết. Tuy nhiên, phương pháp GV đang sử dụng còn
nặng về thuyết trình, hoạt động của HS còn thụ động, ít hoạt động tư duy, chủ yếu
là nghe giảng, ghi bài.
- Trong các giờ thực hành hóa với số lượng HS đông, không ít trường có
phòng thực hành rất nhỏ nên chất lượng giờ thực hành chưa cao. Có HS tâm sự là
17
học cả học kỳ nhưng chưa biết phòng thực hành ở đâu, chưa nhìn thấy GV biểu diễn
TN bao giờ.
- Trong giờ học, HS ít vận động tư duy dẫn đến HS thường chỉ chú ý tới việc
tiếp thu rồi tái hiện lại những điều GV giảng hoặc đã viết sẵn trong sách giáo khoa
nên có thể trả lời đúng các câu hỏi ở mức độ thấp nhất là những câu hỏi ở mức độ
biết, trong khi đó lại lúng túng ở những câu hỏi ở mức độ cao hơn như những câu
hỏi yêu cầu hiểu, áp dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá.
- Số học sinh trong một lớp quá đông (khoảng trên dưới 50 HS thậm chí
các trường tư thục còn cao hơn nhiều) trong khi mô hình đổi mới thì khoảng 30
đến 35 học sinh. Cơ sở vật chất ở một số trường chưa đáp ứng cả về số lượng và
chất lượng.
- Một số không ít bộ phận học sinh còn chưa có ý thức chủ động tìm hiểu bài
học trước khi đến lớp. Một số không ít trường hợp học sinh mất kiến thức cơ bản ở
cấp dưới nên rất khó khăn trong việc chủ động khai thác và nắm bắt thông tin từ
sách giáo khoa hoặc bài thí nghiệm biểu diễn…

- Bên cạnh đó bệnh thành tích vẫn tồn tại dẫn đến việc GV cho HS ngồi nhầm
lớp rất nhiều, thậm chí có HS ngồi nhầm từ lớp 2 trở đi. Có nhiều HS lớp 10 mà các
phép cộng trừ đơn giản hay việc giải hệ phương trình vẫn không thực hiện được
nên việc tính toán rất khó khăn.
- Việc học sinh hoạt động theo nhóm với số lượng đông khó thực hiện và nếu
thực hiện tốt củng chỉ đối với các lớp học khá, còn các lớp yếu kém nếu có thực
hiện được củng ở mức rất khiêm tốn và chỉ có hiệu quả đối với vài HS chăm
học.
- Việc kiểm tra và thi bằng hình thức trắc nghiệm khách quan củng một phần
ảnh hưởng đến thái độ học tập của HS. Một bộ phận HS hầu như không có thái độ
lo lắng ôn tập, một số HS thì không cần phải học mà vẫn có thể làm bài được, các
em rất thích kiểm tra trắc nghiệm khách quan, các em cho rằng đó là “hên xuôi”.
Ngoài ra, một số GV còn dùng chung đề kiểm tra cho nhiều lớp vào các buổi khác
nhau do đó đề đã bị lộ, HS đã biết đề rồi nên việc kiểm tra trở thành vô ích.
- Thực tế, HS ngày nay không còn thời gian để tư duy, để tự học, tự rèn luyện
mà chủ yếu là đi học cả ngày, nào là học bồi dưỡng, học nghề, học giáo dục quốc
18
phòng, học thêm do đó không còn thời gian để nghiên cứu bài mới, không còn
thời gian để tự giải quyết vấn đề mà chủ yếu dựa vào GV. Điều này củng phần nào
giải thích tại sao thủ khoa các kỳ thi đại học thường không phải là học trò có điều
kiện học tốt mà là các sĩ tử có hoàn cảnh khó khăn, ham học.
1.2.2. Thực trạng sử dụng bài tập Hóa học trong dạy bài mới ở trường THPT
hiện nay
- Qua dự giờ, thao giảng cụm và trao đổi chuyên môn với một số đồng nghiệp
ở các trường chúng tôi nhận thấy GV rất ít sử dụng bài tập trong dạy học bài mới,
thậm chí có nhiều giáo viên cảm thấy xa lạ khi nghe nói đến việc sử dụng bài tập để
bật lên kiến thức mới.
- Việc sử dựng bài tập thực nghiệm để giúp HS phát hiện kiến thức mới rất ít
được GV quan tâm, nếu có thì hầu hết củng chỉ ở mức độ minh họa sau khi đã rút ra
kết luận, chưa giúp HS giành lấy kiến thức một cách tích cực, tự giác

- Đối với các dạng bài học sau khi HS đã được học lý thuyết chủ đạo như bài
học về chất GV thường sử dụng phương pháp vấn đáp, tái hiện, rất ít GV sử dụng
hệ thống bài tập để tạo ra được tình huống có vấn đề, chưa tạo được nhu cầu nhận
thức, động cơ, hứng thú hập tập của HS.
- Bài tập hóa học được GV sử dụng nhiều đối với các dạng bài ôn tập củng cố
tuy nhiên củng chỉ ở mức độ sử dụng các bài tập có sẵn trong SGK nên vẫn chưa
đem lại hiệu quả cao đối với từng đối tượng HS. Đối với HS yếu thì việc giải hết
các bài tập SGK rất khó khăn còn đối với HS giỏi thì hệ thống bài tập này chưa đáp
ứng đủ nhu cầu cho các em
- Đối với các bài thực hành đa số GV rất ngại bởi lẽ rất ít trường có gáo viên
phòng thí nghiệm chuẩn bị hóa chất dụng cụ Phòng TN chật mà lớp đông. Hầu hết
GV củng chỉ cho HS làm các TN đơn giản theo SGK, rất ít GV ra thêm các bài tập
thực tế như một bài tập nhận biết nhỏ chẳn hạn.
- Bài tập Hóa học để dạy bài mới theo phương pháp hoạt động nhóm củng
đang được vận dụng nhưng chỉ ở một bọ phận GV hoặc một số tiết dạy mẫu như
sinh hoạt cụm, hội giảng
- Hiện nay, GV có sử dụng phiếu học tập để dạy trong các tiết ôn tập, luyện
tập, theo hình thức hoạt động nhóm nhưng do điều kiện (lớp học quá đông, phòng
19
học nhỏ ) nên chỉ hai em ngồi cạnh nhau hợp thành nhóm. Còn trong tiết dạy bài
mới thì rất ít sử dụng.
- Theo đa số GV, nếu sử dụng được hệ thống bài tập chất lượng cao trong dạy
học bài mới thì chất lượng giờ dạy củng như không khí học tập sẽ cải thiện hơn nhiều.
- Thật ra việc đầu tư hệ thống bài tập để sử dụng trong dạy học bài mới tốn
nhiều thời gian và công sức, thậm chí các bài tập thực nghiệm rất độc hại mà tiền
độc hại cho GV lại không có, đồng lương quá ít so với nhu cầu thực tế, nhất là trong
giai đoạn hiện nay nên không mấy GV mặn mà trong việc đầu tư chuyên môn. Việc
thay đổi chương trình ở SGK làm cho một bộ phận GV đặc biệt là GV lớn tuổi gặp
nhiều khó khăn về kiến thức mới, phương pháp mới trong khi họ củng chỉ dạy vài
năm nữa thôi. Theo chúng tôi một yếu tố rất quan trọng nữa là một bộ phận không ít

giáo viên vẫn còn thiếu “lửa” vẫn còn thiếu “chữ tâm với chữ tài” trong công tác
giảng dạy.
TIỂU KẾT CHƯƠNG I
Trong chương này chúng tôi đã trình bày một số vấn đề cơ sở lí luận và thực
tiễn của đề tài là:
1. Định hướng đổi mới PPDH hoá học ở trường phổ thông hiện nay là phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của HS và bản thân BTHH đã là PPDH
hoá học tích cực.
2. Những vấn đề cơ bản về dạy học tích cực, dạy học nêu vấn đề ơrixtic, phát
triển tư duy.
3. Khái niệm về bài tập hóa học, bài tập nhận thức, phân loại bài tập hóa học
và tác dụng của bài tập hóa học trong dạy học hóa học.
4. Một số vấn đề cần lưu ý khi thiết kế BTHH để dạy học bài mới. Sử dụng bài
tập Hóa học trong dạy học bài mới ở trường THPT như thế nào để đạt được hiệu
quả mong muốn. Thực trạng dạy học Hóa học và sử dụng bài tập Hóa học trong dạy
bài mới ở trường THPT hiện nay.
Từ những vấn đề nêu trên là nền tảng giúp chúng tôi đưa ra những nội dung ở
chương hai nhằm thiết kế và sử dụng bài tập hóa học trong dạy học bài mới để tăng
20
cường chất lượng, hiệu quả dạy học nói chung và dạy học phần hóa học đại cương
về kim loại và phần kim loại kiềm, kiềm thổ, nhôm ở trường phổ thông nói riêng.
Chương 2
THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG BÀI TẬP HÓA HỌC TRONG DẠY HỌC
CHƯƠNG ĐẠI CƯƠNG VỀ KIM LOẠI VÀ CHƯƠNG KIM LOẠI KIỀM-
KIM LOẠI KIỀM THỔ-NHÔM CHƯƠNG TRÌNH 12 NÂNG CAO THPT
2.1. Phân loại bài tập trong dạy học bài mới
Có nhiều cách phân loại bài tập , phần này chúng tôi chỉ đề cập đến cách phân
loại dựa vào mục đích sử dụng.
2.1.1. Sử dụng BTHH trong dạy học nhằm hình thành khái niệm mới
Tùy theo nội dung khái niệm cần hình thành mà chúng ta lựa chọn các loại bài

tập sao cho phù hợp với các đối tượng HS. Để hình thành một khái niệm mới có thể
sử dụng bài tập thực nghiệm, bài tập định tính.v.v Ví dụ để hình thành các khái
niệm như: “pin điện hóa”, “sự điện phân”, “sự ăn mòn kim loại” có thể dùng bài
tâp thực nghiệm. Thí nghiệm dùng trong trường hợp này chủ yếu là thí nghiệm
nghiên cứu nhằm giúp HS dẫn đến khái niệm mới, kiến thức mới. Khi sử dụng TN
theo phương pháp nghiên cứu cần hướng dẫn HS quan sát và gợi ý để HS tự rút ra
được kiến thức mới. Cần khai thác triệt để các hiện tượng quan sát được trong TN
để khắc sâu kiến thức cho HS.
Ví dụ 1: Để hình thành khái niệm đồng vị, GV có thể sử dụng bài tập sau:
Cho các nguyên tử sau với số electron, proton, nơtron tương ứng lần lượt là:
H (Hiđro): 1; 1; 0.
D (Đơtơri): 1; 1; 1
T (Triti): 1; 1; 2
a. Hãy viết kí hiệu nguyên tử và so sánh số proton, nơtron và số khối của 3
nguyên tử trên?
b. H, D, T là 3 đồng vị của nguyên tử hiđro. Vậy đồng vị là gì?
Ví dụ 2: Để hình thành khái niệm về sự điện phân GV có thể dùng bài tập sau:
21
GV cho HS xem phim TN điện phân nóng chảy hoặc điện phân dung dịch NaCl.
a. Quan sát hiện tượng xảy ra ở các điện cực và viết các bán phản ứng xảy ra ở
các điện cực đó.
b. Quá trình xảy ra như trên gọi là quá trình điện phân hay sự điện phân. Vậy
sự điện phân là gì? ( phản ứng điện phân thuộc loại phản ứng gì? xảy ra ở đâu? điều
kiện xảy ra phản ứng điện phân là gì?)
2.1.2. Sử dụng BTHH trong dạy học nhằm hình thành kiến thức mới.
Để HS tự phát hiện được kiến thức mới là điều rất quan trọng trong dạy học.
Tùy theo nội dung khái niệm được hình thành mà GV có thể chọn các đường dẫn
khác nhau. Đối với bộ môn thực nghiệm như môn hóa nếu dùng thí nghiệm nghiên
cứu hình thành kiến thức mới hay khái niệm mới thì kiến thức được khắc sâu hơn,
độ bền kiến thức củng tốt hơn. Xây dựng các giả thuyết cho việc nghiên cứu có tác

dụng rất lớn trong việc tạo động cơ, hứng thú cho HS. Nhờ việc tập dượt xây dựng
các giả thuyết mà khả năng suy luận, trí tưởng tượng của HS được phát triển bởi lẻ
“giả thuyết là phòng thí nghiệm của tư duy”
Ví dụ 1: Trộn 13,5 g bột nhôm và 40,0 g bột Fe
2
O
3
được hỗn hợp A. Tiến hành
phản ứng nhiệt nhôm hỗn hợp A. (phản ứng xảy ra được mô tả như hình vẽ 6.5 SGK)
a. Vai trò của dải Mg ở hình 6.5a là gì? Hiện tượng xảy ra khi đốt dải Mg (hình
6.5b) chứng tỏ điều gì xảy ra? Viết phương trình phản ứng .
b. Vì sao hỗn hợp sản phẩm ở hình 6.5c tồn tại trạng thái lỏng? Tại sao Fe ở l
ớp dưới?
c. Giải thích việc dùng hỗn hợp tecmit (Al + Fe
3
O
4
) để hàn đầu nối các thanh
rây xe lửa và xe điện bánh sắt?
d. Tính khối lượng các chất trong hỗn hợp sau phản ứng? (cho H = 100%)
Phân tích
- Giải đáp câu (a) HS hiểu được khái niệm “chất khơi mào cho phản ứng”
- Giải đáp câu (b) HS hiểu được phản ứng nhiệt nhôm tỏa nhiệt mạnh, khối
lượng riêng của Fe lớn hơn Al
2
O
3
.
- Câu (c) giúp HS hiểu rõ hơn bản chất phản ứng nhiệt nhôm, ứng dụng của
phản ứng nhiệt nhôm

- Câu (d) khẳng định lại kiến thức phần bảo toàn khối lượng.
22
Ví dụ 2: Khi biểu diễn TN điện phân dung dịch NaCl GV có thể sử dụng hệ
thống câu hỏi sau để hình thành kiến thức về thứ tự điện phân
a. Tại sao cần lọc dung dịch muối trước khi điện phân? (HS hiểu ý nghĩa của
giai đoạn tinh chế muối ăn)
b. Tại sao cần dùng ống nghiệm hình chữ U làm bình điện phân? (HS hiểu rõ
tác dụng của cái màng ngăn)
c. Có thể dùng chất gì để nhận biết sản phẩm của sự điện phân thoát ra ở anot
và catot? (HS hiểu rõ sản phẩm tạo thành)
d. Viết phản ứng điện phân nóng chảy và điện phân dung dịch NaCl. Giải
thích vì sao có sự khác nhau về sản phẩm tạo thành trong hai trường hợp trên? (HS
hiểu rõ thứ tự điện phân ở các điện cực)
2.1.3. Sử dụng BTHH trong dạy học nhằm xây dựng công thức mới.
Có thể sử dụng BTHH trong dạy học để hình thành công thức mới cho HS như
công thức tính toán trong hóa vô cơ hoặc công thức cấu tạo của hợp chất hữu cơ
Bài tập chủ yếu được sử dụng trong trường hợp này là bài tập định lượng hoặc bài
tập thực nghiệm. Khi xây dựng bài tập định lượng cần đảm bảo các yếu tố sau:
- Nội dung ngắn gọn, đơn giản.
- Số liệu đơn giản, dễ nhẩm, đẹp.
- Đảm bảo tính chính xác, khoa học.
Ví dụ 1: Để xây dựng công thức tính số mol OH
-
theo số mol kết tủa Al(OH)
3
ta có thể sử dụng bài tập định lượng sau:
Nhỏ từ từ V mL dung dịch NaOH 1M vào cốc đựng 100 mL dung dịch AlCl
3
1M. a. Tính khối lượng kết tủa thu được (nếu có) trong các trường hợp sau:
+ TH1: V = 300 mL + TH2: V = 400 mL

+ TH3: V = 150 mL + TH4: V = 350 mL
b. Hãy tìm mối liên hệ giữa số mol OH
-
, số mol Al
3+
và số mol kết tủa thu được
khi nhỏ từ từ dung dịch chứa OH
-
vào dung dịch chứa Al
3+
trong các trường hợp sau:
+ TH1: Kết tủa chưa tan.
+ TH2: Kết tủa tan bớt một phần.
Phân tích
23
GV phát dụng cụ cho mỗi nhóm làm mỗi thí nghiệm. Cho HS nhận xét lượng
kết tủa ở mỗi thí nghiệm. Sau đó HS tính lượng kết tủa tạo thành và viết phương trình
để chứng minh hai công thức ở câu (b)
TH1: n

OH
= 3n
+3
Al
TH2: n

OH
= 4n
+3
Al

- n

Ví dụ 2: Để hình thành công thức cấu tạo của glucozơ ta có thể dùng bài tập
thực nghiệm :
a. Em hãy làm các TN sau:
- TN1: Cho glucozơ tác dụng với dung dịch Cu(OH)
2
.
- TN2: Cho glucozơ tác dụng với dung dịch AgNO
3
/NH
3
, đun nhẹ.
Hiện tượng xảy ra ở 2 TN trên cho phép em có kết luận gì về cấu tạo của glucozơ?
b. Người ta tiến hành thêm một số TN và có kết quả như sau:
- TN3: Glucozơ tác dụng với anhiđrit axetic [CH
3
CO)
2
O] tạo este 5 chức.
- TN4: Khử hoàn toàn glucozơ thì thu được hexan.
Từ 4 TN trên em hãy đề nghị cách viết công thức cấu tạo mạch hở của glucozơ?
2.1.4. Sử dụng BTHH trong dạy học phần cấu tạo và tính chất vật lý
Ví dụ 1: Để dạy học phần vị trí, cấu tạo của kim loại kiềm GV có thể sử dụng
bài tập:
Cho bảng dữ liệu sau:
Nguyên tố: Li Na K Rb Cs Al
Số điện điện tích hạt nhân: 3 11 …. …. ….
Cấu hình electron: [He]2s
1

…. …. …. ….
Bán kính (nm): 0,123 0,157 0,203 0,216 0,235
I
1
(kJ/mol): 520 497 419 403 376
Thế điện cực chuẩn (V): -3,05 -2,71 -2,93 -2,98 -2,92
Mạng tinh thể: Lập phương tâm khối ( LPTK)
13
[Ne]3s
2
3p
1
0,125
I
3
=2744
-1,66
LPTD
a. Hãy điền những chỗ còn trống trong bảng trên.
b. Hãy rút ra các nhận xét đối với kim loại kiềm về: Cấu hình electron lớp ngoài
cùng, bán kính nguyên tử, năng lượng ion hóa thứ nhất, giá trị thế điện cực chuẩn?
*c. Theo em tại sao giá trị thế điện cực chuẩn của kim loại kiềm biến thiên không
đều đặn như giá trị năng lượng ion hóa?
24
*d. Vì sao Li có giá trị thế điện cực chuẩn âm nhất trong tất cả các kim loại kiềm?
Ví dụ 2: Để dạy học phần tính chất vật lí của crôm, GV có thể sử dụng bài
tập sau:
Phát biểu nào dưới đây về crôm là không đúng? Vì sao?
A. Crom là kim loại cứng nhất.
B. Crom có màu trắng ánh bạc, dễ bị mờ đi trong không khí.

C. Crom là kim loại khó nóng chảy ( t
0
nc

= 1890
0
C)
D. Crom thuộc kim loại nặng (d = 7,2 g/cm
3
)
2.1.5. Sử dụng BTHH trong dạy học phần ứng dụng
Ví dụ: Để HS hiểu được ứng dụng của kim loại kiềm GV có thể sử dụng bài
tập sau:
a. Dựa vào SGK em hãy cho biết kim loại kiềm có những ứng dụng nào? Giải
thích vì sao kim loại kiềm lại có các ứng dụng đó?
b. Giải thích việc dùng Na
2
O
2
làm chất cung cấp O
2
và hấp thụ khí CO
2
cho các
thủy thủ trong tàu ngầm? Viết PTHH liên quan.
2.1.6. Sử dụng BTHH trong dạy học phần điều chế
Ví dụ: Để dạy học phần điều chế kim loại kiềm GV có thể sử dụng bài tập sau:
a. Trong các phương pháp điều chế kim loại đã học thì phương pháp nào có thể
dùng để điều chế kim loại kiềm? Vì sao?
b. Trong công nghiệp, Na được điều chế bằng phương pháp điện phân nóng

chảy NaCl. Thực tế người ta dùng 2 phần NaCl và 3 phần CaCl
2
theo khối lượng.
Giải thích việc làm này? Làm thế nào để thu được Na tinh khiết khi điện phân hỗn
hợp NaCl và CaCl
2
?
Phân tích
- Vì không có chất nào khử được ion kim loại kiềm nên phương pháp duy
nhất để điều chế kim loại kiềm là điện phân nóng chảy.Tuy phương pháp này rất
tốn kém nhưng trong thực tế đây là phương pháp khả thi và mang lại hiệu quả kinh
tế cao nhất.
- Giải đáp câu (b) HS hiểu rõ việc điều chế Na trong công nghiệp và hiểu rõ
mục đích sử dụng các chất phụ gia trong sản xuất.
25

×