Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Phong tục hôn nhân truyền thống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.93 KB, 15 trang )

DANH SÁCH NHÓM VIÊN NHÓM 1
STT Họ và tên Chức vụ Ghi chú
1 Tạ Văn Lĩnh Nhóm trưởng
2 Nguyễn Thị Hải Duyên Nhóm viên
3 Nguyễn Thị Hải (1967) Nhóm viên
4 Nguyễn Thị Hải (1987) Nhóm viên
5 Nguyễn Thị Tú Chinh Nhóm viên
6 Nguyễn Thị Lệ Thủy Nhóm viên
7 Nguyễn Thị Trang Nhóm viên
8 Phùng Thị Thu Hà Nhóm viên
9 Trần Thị Hải Yến Nhóm viên
10 Phạm Thị Hà Nhóm viên
Tổng cộng danh sách có: 10 người.
1
MỤC LỤC
STT Nội dung Trang
Mục lục 1
1
Mục đích của hôn nhân và giải thích các khái niệm liên quan
đến hôn nhân
2 Phong tục hôn nhân qua các thời kỳ:
- Phong tục hôn nhân thời Hùng Vương
- Phong tục hôn nhân thời Phong kiến (ảnh hưởng bởi văn
hóa Trung Hoa)
- Phong tục hôn nhân truyền thống (Từ sau thời phong kiến)
- Phong tục hôn nhân thời hiện đại
- Sự khác nhau giữa nhẫn đính hôn và nhẫn cưới
3 Hôn lễ của dân tộc Dao đỏ
4 Ca dao, dân ca về hôn nhân gia đình
5 Một vài kiểu kết hôn kỳ lạ trên thế giới
6 Ý nghĩa của việc cưới xin


2
Trong đời sống tinh thần của người Việt (Kinh) thì cưới là một chuyện hệ trọng
trong cuộc đời của mỗi con người. Vì vậy, mà dân gian xưa có câu:
Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà
Trong ba việc ấy thật là khó thay
Cưới là một phong tục, một nghi lễ mang đậm phong vị dân tộc nhưng lại nhiêu
khê, tốn kém. Phần lớn các đám cưới cổ xưa của người Việt thường được tổ chức theo
một cuốn sách cổ gọi là: “Thọ mai gia lễ - Cuốn sách dạy người ta những việc về quan,
hôn, tang, tế. Tùy theo từng vùng, từng thời gian, từng gia cảnh mà việc hỷ (cưới) được tổ
chức khác nhau. Để hiểu rõ hơn về phong tục hôn nhân của người Việt, chúng ta sẽ cùng
đi sâu tìm hiểu.
I. MỤC ĐÍCH CỦA HÔN NHÂN VÀ GIẢI THÍCH CÁC KHÁI
NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN HÔN NHÂN
1. Mục đích của hôn nhân:
- Hôn nhân VN có truyền thống lâu đời có sự liên hệ của hai gia đình kết hợp hai
người xa lạ sau một thời gian tìm hiểu, quyết định kết hôn, như vậy hôn nhân xem như
một gạch nối giữa hai gia đình và xã hội, có ý nghĩa lịch sử dân tộc, ngoài tôn kính tổ tiên
và còn biểu hiện một không khí hòa thuận gia đình.
- Mục đích hôn nhân chính là để sáng tạo ra những cuộc đời mới kế thừa tiếp nối
cha ông, đây không những sinh sôi gia tộc mà còn có trách nhiệm của xã hội loài người.
2. Giải thích các khái niệm liên quan đến hôn nhân:
Trong hôn nhân người ta sử dụng khá nhiều từ để chỉ việc hai người xa lạ đến với
nhau để lập thành một gia đình, ví dụ như: cưới, cưới hỏi, gả, hôn nhân, hôn phối… Để
hiểu rõ hơn chúng ta cùng đi sâu vào tìm hiểu một số khái niệm sau:
- Cưới là làm lễ chính thức lấy nhau. Cưới hỏi hay cưới xin là làm lễ cưới theo tục
lệ cổ truyền.
- Gả là bằng lòng cho con gái mình lấy 1 người nào đó làm chồng, gả bán là gả có
đủ cheo cưới, tức là có đủ thủ tục về lễ cưới theo tục lệ cổ truyền. Cheo là khoản tiền mà
người con gái thời xưa phải nộp cho làng khi đi lấy chồng, gọi là nộp cheo:
- Giúp em quan tám tiền cheo

Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau
- Nuôi lợn thì phải vớt bèo
Lấy vợ thì phải nộp cheo cho làng
- Ông xã đánh trống thình thình
Quan viên mũ áo ra đình ăn cheo
Từ đó có từ cưới gả, tức là cưới vợ gả chồng, hay dựng vợ gả chồng. Dựng vợ gả
chồng còn gọi là hôn nhân, cưới xin, hôn thú, hôn thư, giá thú (giá là lấy chồng, thú là lấy vợ)
- Hôn nhân là việc nam nữ chính thức lấy nhau. Hôn phối là kết hôn. Hôn lễ là lễ cưới.
3
Ngày xưa, cưới xin cứ đến tối mới đi rước dâu nên gọi là hôn lễ. Hôn là lễ cưới,
hôn cũng có nghĩa là tối, khoảng thời gian từ lúc mặt trời lặn đến lúc đi ngủ (khoảng từ 7
giờ tối đến 10 giờ đêm), đó là thời điểm âm dương giao hoán với nhau, rất tốt cho việc
dựng vợ gả chồng, theo quan niệm của người xưa.
Người Việt xưa trọng lễ nghĩa. Vì vậy việc cưới gả được tổ chức rất long trọng từ
triều đình xuống đến thứ dân.
Ví dụ dưới triều đình nhà Nguyễn lễ cưới của công chúa được tổ chức liên tục 3 ngày
gồm 6 lễ, mỗi ngày cử hành 2 lễ, riêng lễ nạp thái (lễ đầu tiên trong 6 lễ) gồm những lễ vật: 1
con trâu, 1 con lợn, 2 mâm trầu cau, 2 vò rượu ngon, 2 cây gấm, 10 tấm lụa, 4 thỏi vàng, 1
đôi bông vàng, 1 cái trâm vàng, 2 chuỗi ngọc, 16 thỏi bạc Lễ nạp thái (1 trong 6 lễ) của
hoàng tử gồm những lễ vật: 2 thỏi vàng ròng, 4 thỏi bạc, 2 cây gấm, 6 cây lụa, 20 cây vải tốt,
1 đôi xuyến, 1 đôi hoa tai, 1 bộ trâm vàng, 2 chuỗi hạt châu quý, 1 con trâu, 1 con bò, 1 con
heo (các con vật sơn màu đỏ nhốt trong những cũi cũng sơn màu đỏ).
Tại làng xã, các nhà phú quý vẫn giữ 6 lễ (Phú quý sinh lễ nghĩa) nhưng đã thay đổi
rất nhiều và lễ vật cũng giảm đi rất nhiều, còn giới bình dân thì thường tổ chức lễ cưới rất
du di linh động.
"Cây có cội nước có nguồn" người có ông bà tổ tiên, việc tìm hiểu phong tục tập
quán của người xưa là điều cần thiết, tục lệ cưới gả của người xưa là một nét văn hóa độc
đáo của Dân tộc đã góp phần củng cố gia đình bền vững, làm nền tảng vững chắc cho xã
hội, trải suốt 4.000 năm lịch sử vẫn giữ vững nền độc lập tự chủ của đất nước trước bao
thế lực xâm lược bạo tàn. Vậy hôn nhân của Người Việt trong xã hội Việt Nam truyền

thống như thế nào? Hãy cùng đi sâu để tìm hiểu rõ hơn về phong tục hôn nhân của người
Việt trải dài trong suốt 4.000 năm lịch sử. Phần này được chia làm 2 phần nhỏ: Phong tục
hôn nhân thời Hùng Vương và phong tục hôn nhân người Việt (Tiếp theo thời Hùng
Vương cho đến bây giờ).
II. PHONG TỤC HÔN NHÂN QUA CÁC THỜI KỲ:
A. PHONG TỤC HÔN NHÂN THỜI HÙNG VƯƠNG
1. Phong tục:
Phong tục hôn lễ thời Hùng Vương xuất phát từ đặc trưng của nền văn hóa mà các
nghi thức, lễ tiết có những nét rất độc đáo, đặc biệt là những biểu trưng cầu chúc cho quan
hệ vợ chồng mãi mãi vững bền, hạnh phúc.
Các nghi thức và lễ tiết hôn nhân trong thời kỳ này đã phát triển đến một mức độ
đáng kể, hình thành nên một số phong tục có ý nghĩa sâu sắc. Trước hết là tục thách cưới,
rồi đến lễ dạm với các vật phẩm. Khi tổ chức hôn lễ, nghi thức này thường kèm theo các
4
trò vui, mọi người lấy bùn đất, hoa quả ném vào chàng rể như một sự cầu chúc những
điều tốt đẹp của cộng đồng cho đôi vợ chồng mới. Tục ăn cơm chung cũng là một nghi
thức quan trọng đánh dấu việc đôi nam nữ chính thức là vợ chồng.
Đó là một vài nét cơ bản nhất về phong tục hôn nhân thời Hùng Vương mà chúng
ta biết được qua các truyền thuyết như: “Sơn Tinh, Thủy Tinh”, “Trầu cau”, “Chử Đồng
Tử”…, qua những tục lệ còn tồn tại đến ngày nay. Điều đó chứng tỏ phong tục hôn nhân
thời Hùng Vương là một nét văn hóa rất riêng, khác biệt, có nhiều điểm đặc sắc, độc đáo
mang đậm bản sắc mà tổ tiên chúng ta đã tạo dựng trong đời sống văn hóa của mình.
Phong tục hôn nhân Thời Hùng Vương trải qua 18 đời các vua Hùng và nhìn chung
đều được tiến hành theo 03 nghi lễ chính sau: Lễ dạm, Lễ rước dâu, Lễ thành thân.
a. Lễ dạm:
Trước hết là lễ dạm, trong lễ này, vật phẩm không thể thiếu là gói muối hoặc nắm
đất. Nắm đất vừa là vật tượng trưng cho quê hương, nguồn cội, là lời nguyền gắn bó với
đất đai, làng xóm, vừa là hương liệu (đất hun). Còn gói muối là lời chúc cho tình nghĩa
của đôi trai gái mặn mà, đằm thắm, thuỷ chung; muối còn là gia vị cần thiết cho đời sống
con người.

b. Lễ rước dâu:
Trong nghi thức rước dâu có tục ném bùn đất, hoa quả vào chú rể. Có lẽ tục này có
ý nghĩa thử thách và cầu mong chú rể gặp may mắn, gặt hái thành quả cao trong lao động
để tạo dựng đời sống gia đình tốt đẹp, hạnh phúc.
Ngày hội làng ở các xã Vân Luông (huyện Phù Ninh) và Chu Hóa (huyện Lâm
Thao) của tỉnh Phú Thọ có diễn lại tích Sơn Tinh rước Ngọc Hoa về núi Tản, người ta
ném đất đá vào người đóng vai Sơn Tinh. Ở nhiều đám cưới của người Mường thời cận
đại vẫn giữ nguyên phong tục cổ truyền này, ném bùn đất, hoa quả vào chàng rể.
c. Lễ thành thân:
Khi làm lễ thành thân còn có tục cô dâu, chú rể ăn chung với nhau một đĩa cơm
nếp, uống chung một chén rượu. Ý nghĩa của tục này cũng là cầu chúc cho hai vợ chồng
luôn gắn bó với nhau, dính nhau như dính cơm nếp và say mê nhau như say rượu.
Tục ăn cơm nếp trong ngày cưới hiện còn thấy ở đám cưới người Mường và một số
dân tộc thuộc khu vực Tây Nguyên.
Trên đây là ý nghĩa của ba tục lệ chính trong hôn lễ thời Hùng Vương, nó phản ánh
tư tưởng, tình cảm của người Việt được biểu hiện rất sinh động, hàm ý sâu sắc trên tinh
thần cộng đồng keo sơn, gắn bó.
2. Đặc điểm hôn nhân thời Hùng Vương:
Một trong những nét đặc trưng cơ bản của xã hội Việt Nam là tính cộng đồng, mọi
việc liên quan đến cá nhân cũng đồng thời liên quan đến cộng đồng, kể cả hôn nhân là
lĩnh vực riêng tư nhất. Hôn nhân của người Việt theo truyền thống không đơn thuần là
việc hai người lấy nhau, mà là việc của cả cha mẹ, họ hàng hai bên, nó xuất phát từ quyền
lợi của cộng đồng trên nền tảng văn hóa và mang những đặc điểm riêng:
- Hôn nhân một vợ, một chồng (Sơn Tinh chỉ lấy Ngọc Hoa, Ngọc Hoa chỉ lấy
Sơn Tinh; cô gái họ Lưu trong truyện Trầu Cau chỉ lấy người anh trong cặp anh em Tân
và Lang…); trai gái gắn bó với nhau một cách ổn định, lâu dài.
- Có tục thách cưới, phản ánh thân phận và giá trị của người phụ nữ (vua Hùng thứ
18 đặt điều kiện lễ vật khi Sơn Tinh, Thuỷ Tinh đến xin cưới Ngọc Hoa).
5
- Đồng nhất lễ hỏi và lễ cưới (nghi thức này còn tồn tại ở nhiều vùng nông thôn

người Việt trong những thế kỷ trước; ngoài ra ta còn thấy ở nhiều đám cưới của đồng bào
Mường và một số dân tộc Tây Nguyên thời cận đại).
- Có sự phân biệt giàu sang, nghèo khó (vua Hùng thứ 18 không chấp nhận việc
Tiên Dung lấy chàng đánh cá nghèo Chử Đồng Tử).
- Hình thức hôn nhân của chế độ phụ hệ nảy sinh với tục cô gái về nhà chồng (phản
ánh qua truyền thuyết Sơn Tinh - Ngọc Hoa, Trầu Cau,…).
- Có tục phụ nữ đi lấy chồng rồi quay lại nhà bố mẹ đẻ ở một thời gian cho đến khi
sinh con đầu lòng (Ngọc Hoa lấy Sơn Tinh, một thời gian sau đã quay về nhà mình. Theo
các sách sử, Trưng Trắc và Thi Sách sau khi lấy nhau vẫn ở riêng tại đất của mình). Nhiều
làng quê ở đồng bằng và trung du phía bắc cho đến cách mạng tháng 8/1945 vẫn còn giữ
tục lệ này, như làng Nội Duệ ở Tiên Sơn (Bắc Ninh).
- Trong các cuộc hôn nhân, người phụ nữ có một vai trò khá chủ động, đây chính là
một biểu hiện tàn dư vai trò của phụ nữ trong phong tục hôn nhân thời kỳ chế độ mẫu hệ
(Tiên Dung chủ động lấy Chử Đồng Tử, cô gái họ Lưu trong truyện Trầu Cau chủ động
thử thách và chọn lấy người anh…).
- Hôn nhân một vợ, một chồng đã hình thành các gia đình cá thể, mỗi gia đình gồm
hai thế hệ: cha, mẹ và con cái. Sự phát triển của sức sản xuất và công cụ lao động với hiệu
suất cao đã biến những gia đình cá thể thành các đơn vị kinh tế độc lập.
Phong tục hôn nhân thời Hùng Vương đánh dấu những nghi thức của xã hội phát
triển trong giai đoạn mới nhưng vẫn tồn tại nhiều tàn dư của phong tục hôn nhân thời mẫu
quyền. Trong gia đình, địa vị và quyền lợi của người phụ nữ được tôn trọng và về nhiều
mặt còn bình đẳng với đàn ông. Điều này được phản ánh trong những truyền thuyết, tín
ngưỡng và nhất là biểu hiện một cách sinh động qua hình tượng người phụ nữ trong nghệ
thuật tạo hình của văn hóa Đông Sơn.
Trên đây là những đặc điểm chính của hôn nhân thời Hùng Vương. Tất cả thể hiện
một bản sắc riêng, một phong cách dân tộc độc đáo được bảo lưu, kế thừa lâu dài trong
cộng đồng dân tộc Việt Nam.
B. PHONG TỤC HÔN NHÂN THỜI PHONG KIẾN (chịu ảnh hưởng
bởi văn hóa Trung Hoa):
a. Quan niệm về hôn nhân:

Thời phong kiến, theo luân lý "tam cương ngũ thường", con cái mà có cha khi nào
cũng ở địa vị phụ thuộc, việc hôn nhân của con cái cha mẹ có quyền độc đoán và "đặt đâu
ngồi đấy". Nếu con cái không bằng lòng với người vợ (hay chồng) mà cha mẹ chỉ định thì
6
chỉ có cách bỏ nhà ra đi. Chính sự không cần biết ái tình của con cái, chỉ cốt tìm được nơi
"môn đăng hộ đối" là cha mẹ nhờ "mối lái" điều đình để đính hôn nên đã xảy ra tệ tảo hôn
và tục phúc hôn
Người xưa quan niệm mục đích hôn nhân cốt duy trì gia thống cho nên việc hôn
nhân là việc chung của gia tộc chứ không phải việc riêng của con cái. Bởi vậy định vợ gả
chồng cho con là quyền quyết định của cha mẹ. Nghĩa vụ của mỗi người đối với tổ tiên,
dòng họ là phải truyền giống về sau để "vĩnh truyền tông tộc", do đó luân lý cho người
"vô hậu" là phạm điều bất hiếu rất lớn. Việc hôn nhân không những chỉ có nguyên nhân
huyết thống mà còn có nguyên nhân kinh tế. Người vợ không những phải sinh con đẻ cái
nối dõi tông đường mà còn phải làm lụng và coi sóc việc nhà cho gia đình nhà chồng.
Chế độ "đa thê, đa thiếp" cho phép đàn ông được phép có nhiều vợ mà không phải
vì vợ chính không sinh con hay chỉ sinh con gái. Lấy thiếp (còn gọi là vợ lẽ, vợ hai, vợ
ba, nàng hầu ) không cần tổ chức lễ cưới và vì người thiếp không phải là một phần tử
trọng yếu trong gia đình nên chồng hay vợ chính muốn đuổi khi nào cũng được.
b. Lễ nghi dân gian:
Hôn nhân thời Phong kiến chịu ảnh hưởng rất lớn từ văn hóa Trung Quốc, và có
sáu lễ chính. Để tiến đến lễ cưới, hai gia đình phải thực hiện những lễ sau:
• Lễ nạp thái: sau khi nghị hôn, nhà trai mang sang nhà gái một cặp "nhạn"
để tỏ ý đã kén chọn ở nơi ấy.
• Lễ vấn danh: là lễ do nhà trai sai người làm mối đến hỏi tên tuổi và ngày
sinh tháng đẻ của người con gái.
• Lễ nạp cát: lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ
hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, nếu tuổi xung khắc thì thôi.
• Lễ nạp tệ (hay nạp trưng): là lễ nạp đồ sính lễ cho nhà gái, tang chứng
cho sự hứa hôn chắc chắn.
• Lễ thỉnh kỳ: là lễ xin định ngày giờ làm rước dâu tức lễ cưới. Và sau

cùng là:
• Lễ thân nghinh (tức lễ rước dâu hay lễ cưới): đúng ngày giờ đã định, họ
nhà trai mang lễ đến để rước dâu về.
C. PHONG TỤC HÔN NHÂN TRUYỀN THỐNG (Từ sau thời phong kiến)
Trong truyền thống, khi chúng ta không còn ảnh hưởng nhiều bởi văn hóa của đất
nước Trung Hoa nữa thì hôn nhân của người Việt được tổ chức theo tuần tự 6 lễ sau: Lễ
dạm, lễ sơ vấn, lễ vấn danh, lễ hỏi, lễ nạp tài và lễ cưới.
a. Lễ dạm (còn gọi là lễ chạm ngõ hay coi mắt):
Là ướm ý xem có ưng thuận không để chính thức làm lễ sơ vấn.
Khi nhà trai tìm được một nhà gái vừa ý thường là "môn đăng hộ đối" hay khi người
con trai phải lòng một cô gái:
- Thấy em đẹp nói đẹp cười
Đẹp người đẹp nết ra vào đoan trang
Nhà trai nhờ ông mai đến nhà gái ướm ý rằng mình muốn "bước đến" thăm chơi làm
quen, nếu nhà gái đồng ý thì nhà trai sẽ chọn ngày lành đến viếng nhà gọi là lễ dạm. Lễ
này không dùng lễ vật, trong câu chuyện trao đổi chưa đề cập đến việc hôn nhân.
b. Lễ sơ vấn:
7
Nhà trai mua bánh, mứt, rượu, trà, đường phèn mỗi thứ 1 cặp, đến viếng và biếu
nhà gái gọi là "đi cho đồ", trước khi đi, ông mai báo cho bên gái biết để chuẩn bị đón tiếp.
Trong câu chuyện cũng chỉ nói bóng gió chứ chưa đi vào vấn đề then chốt. Vài ngày sau,
nếu nhà gái im lặng tức là đã chấp thuận, còn nếu nhà gái mang quà đến nhà trai đáp lễ
tức là chính thức từ chối cuộc hôn nhân, gọi là "đi trả đồ":
Duyên ta như lửa mới nhen
Như trăng mới mọc như đèn mới khêu
c. Lễ vấn danh:
Nếu lễ sơ vấn trôi chảy, nhà trai sẽ nhờ ông mai sang nhà gái trao mảnh giấy ghi tên
tuổi chàng trai, nếu nhà gái bằng lòng thì cũng cho biết tên tuổi cô gái. Nhà trai chọn ngày
tốt cùng ông mai mang lễ vật đến nhà gái làm lễ vấn danh, gồm 2 chai rượu, 6 miếng trầu,
6 miếng cau, 2 hộp trà, cùng bánh, mứt, đường phèn mỗi thứ 1 cặp Ông mai thay mặt

bên trai nói rõ ý định muốn hợp thức hóa cuộc hôn nhân, kết tình sui gia. Nếu bên gái
đồng ý thì chàng trai sẽ được phép ở lại nhà gái 3 ngày, làm mọi việc như con cái trong
nhà, Từ đó, gặp ngày mồng Năm tháng Năm (Tết Đoan Ngọ), ngày Tết Nguyên Đán, hay
ngày giỗ kỵ bên nhà gái, thì chàng rể phải mang lễ vật đi Tết vợ, gồm đầu heo, trà rượu
bánh, v.v Nếu giàu có thì lễ Tết là 1 con heo nhốt cũi, cùng nếp đậu bánh trái
Ngày xưa, khi cha mẹ bằng lòng thì con cái phải nghe theo: Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó
Nếu bên trai nửa chừng bỏ cuộc thì công của coi như mất hết, nhưng nếu bên gái nửa
chừng hồi hôn thì phải bồi hoàn gấp đôi:
Trai chê vợ của đổ xuống sông
Gái hồi chồng của một thành hai
Sau lễ sơ vấn 1 thời gian, ông mai liên lạc với nhà gái để xin xúc tiến lễ hỏi.
d. Lễ hỏi (còn gọi là lễ ăn hỏi, hay lễ đính hôn):
Người xưa cho quan trọng hơn lễ cưới, nhà trai mang lễ vật (sính lễ) gồm 1 đôi
bông tai, 1 chiếc nhẫn đính hôn, 1 mâm trầu cau, 1 cặp đèn cầy, 1 con heo quay, 1 mâm
xôi màu, trà, bánh đến nhà gái lễ gia tiên. Nhà trai gồm có ông mai, ông bà sui trai cùng
một số bà con thân tộc. Chú rể thắp hương cúng từ đường, chào họ hàng nhà gái rồi mới
được ngồi xuống bên cạnh họ nhà trai. Cô dâu nhận lễ, và nhận họ hàng bên nhà chồng.
Trong lễ này chú rể đeo nhẫn đính hôn cho cô dâu, tức là nhẫn đính ước, giao ước sẽ lấy
nhau làm vợ chồng, do đó lễ hỏi được gọi là lễ đính hôn. Dù chú rể chưa được chính thức
làm lễ gia tiên với cô dâu, nhưng kể từ giờ phút này, chú rể được phép xưng con và gọi
song thân cô dâu là ba má.
Lễ này, nhà gái mời bà con thân tộc đến dự, nhà trai lo khoản tiệc ăn uống này.
Sau 3 ngày, cô dâu phải qua nhà trai đáp lễ bằng cách mời trầu cau bánh họ hàng
bên nhà trai.
Sau lễ hỏi, chú rể phải qua nhà gái "ở rể" làm rể 3 năm, lao động vất vả nhọc nhằn:
Trời mưa cho ướt lá khoai
Công anh làm rể đã hai năm ròng
Nhà em lắm ruộng ngoài đồng
Bắt anh tát nước nhọc lòng anh thay
Tháng Chín mưa bụi gió may

Cất lấy gàu nước chân tay rụng rời
8
Ăn hỏi rồi mới xêu, mùa nào thức nấy, mùa vải thì xêu vải, mùa dưa thì xêu dưa.
Có nơi 1 năm xêu 4 mùa. Đồ xêu, nhà gái nhận 1 nửa, 1 nửa gởi lại gọi là "đồ lại mặt".
Xêu 1 năm, có khi đến 3 năm mới được xin cưới. Không xêu mà xin cưới là thiếu lễ:
Anh về thưa với mẹ cha
Bắt lợn sang cưới bắt gà sang xêu
Sau 3 năm làm rể, nếu cả hai nhà không mắc tang chế thì nhà trai viết thư nhờ ông
mai mang đến nhà gái trao thư xin cưới và hỏi nhà gái đòi bao nhiêu tiền nong lễ vật? Nhà
gái "thách cưới". Nếu nhà gái thách cưới cao quá thì nhà trai sẽ xin giảm bớt, nếu không
đủ sức lo thì xin hoãn lại, nếu đủ sức lo thì chọn ngày lành tháng tốt đính ước ngày nạp
tài, ngày cưới, nếu nhà gái chấp thuận thì nhà trai xúc tiến lễ nạp tài và lễ cưới. Đồ thách
cưới đại để là bao nhiêu trâu, bò, lợn, xôi, rượu, vòng, xuyến, nhẫn, hoa, hột xoàn, vàng
bạc, gấm lụa, quần áo, tiền nong
Em là con gái nhà giàu
Mẹ cha thách cưới ra màu xinh sao
Cưới em trăm tấm gấm đào
Một trăm hòn ngọc hăm tám ông sao trên trời
e. Lễ nạp tài:
Thường tổ chức trước lễ cưới chừng vài ba tuần. Theo ngày giờ đã định, nhà trai
mang lễ vật tiền nong đến giao cho nhà gái, nhiều ít tùy theo thư thách cưới của nhà gái.
Ngày xưa có những nhà gái vì đòi hỏi lễ vật tiền bạc cao quá nên đã làm cho tình
sui gia sứt mẻ, đi đến chỗ oán ghét nhau, làm cho đôi vợ chồng trẻ mới cưới chưa được
bao ngày đã đi đến đổ vỡ chia lìa, hay sống trong cảnh bần cùng đầu tắt mặt tối để lo trả
khoản nợ chồng chất:
Mẹ tôi tham thúng xôi rền
Tham con lợn béo tham tiền Cảnh Hưng
Mẹ tôi tham thúng bánh chưng
Tham con lợn đẻ em nai lưng chịu đòn
f. Lễ cưới (còn gọi là lễ thân nghinh, hay nghênh hôn): gồm rước dâu và đưa

dâu (vu quy):
- Rước dâu hay đón dâu: Ngày xưa gọi là tiểu đăng khoa được tổ chức vào ban tối,
khởi hành chọn giờ hoàng đạo, có 1 người đàn ông dễ tính hiền hậu đứng đón trước ngõ để cầu
mọi việc được mau mắn dễ dàng. Trong lễ này, cô dâu và chú rể cùng thực hiện một số lễ sau:
- Lễ lên đèn: rất quan trọng và thiêng liêng (hay là lễ gia tiên).
- Cô dâu chú rể sang làm lễ tại nhà từ đường họ gái (ngày xưa ở gần nhau)
- Lễ tơ hồng tại bàn Tơ Hồng có bày lễ vật: gà, xôi, trầu, rượu (bên nhà gái)
- Xong vào nhà làm lễ ra mắt ông bà cha mẹ và họ hàng, lạy mỗi người 2 lạy 3 vái,
được cho tiền, vàng hay quà cùng những lời chúc tốt lành.
Lạy cha hai lạy một quỳ
Lạy mẹ hai lạy con đi lấy chồng
Làm lễ cưới xong, đốt pháo, ăn uống vui vẻ, rồi họ nhà trai rót rượu xin phép ra về.
- Vu quy (còn gọi là lễ đưa dâu, tức là đưa cô dâu về nhà chồng):
+ Lễ rước dâu: Đoàn rước dâu của nhà trai đi thành một đoàn, có cụ già cầm
hương đi trước, cùng với người mang lễ vật. Nhà gái cho mời cụ già thắp hương vái trước
bàn thờ rồi cùng ra đón đoàn nhà trai vào. Cô dâu cùng với chú rể lạy trước bàn thờ, trình
với tổ tiên. Sau đó hai người cùng bưng trầu ra mời họ hàng. Bố mẹ cô dâu tặng quà cho
9
con gái mình. Sau đó là cả đoàn rời nhà gái, để đưa dâu về nhà chồng. Họ nhà gái chọn
sẵn người đi theo cô gái, gọi là các cô phù dâu.
+ Rước dâu vào nhà: đoàn đưa dâu về đến ngõ. Lúc này, bà mẹ chồng cầm bình
vôi, tránh mặt đi một lúc, để cô dâu bước vào nhà. Hiện tượng này được giải thích theo
nhiều cách. Thường người ta cho rằng việc làm này có ý nghĩa khắc phục những chuyện
cay nghiệt giữa mẹ chồng và nàng dâu sau này.
+ Lễ tơ hồng: khi hai họ ra về, một số người trừ người thân tín ở lại chứng kiến cô
dâu chú rể làm lễ cúng tơ hồng. Người ta cho rằng vợ chồng lấy được nhau là do ông Tơ
bà Nguyệt trên trời xe duyên cho. Cúng tơ hồng là để tạ ơn hai ông bà này. Lễ cúng đơn
giản, ông cụ già cầm hương lúc đón dâu, hoặc ông cụ già cả nhất của họ hàng làm chủ lễ.
Hai vợ chồng lạy lễ tơ hồng rồi vái nhau.
+ Trải giường chiếu: bà mẹ chồng, hoặc một bà cao tuổi khác, đông con nhiều

cháu, phúc hậu, hiền từ, cô dâu chú rể vào phòng tân hôn, bà sẽ trải sẽ trải đôi chiếu lên
giường ngay ngắn, xếp gối màn cẩn thận… cho cô dâu và chú rể.
+ Lễ hợp cẩn: đây là buổi lễ kết thúc đám cưới tại nhà trai. Trước giường có bàn
bày trầu rượu và một đĩa bánh phu thê. Ông cụ già đứng lên rót rượu vào chén rồi mời đôi
vợ chồng cùng uống.
+ Tiệc cưới: dù đám cưới to hay nhỏ, cũng phải có tiệc cưới. Đặc biệt là ở nông
thôn, tính cộng đồng xóm giềng, làng xã, họ hàng đang còn mạnh thì tiệc cưới là một dịp
tốt để củng cố tính cộng đồng ấy. Ở thành phố, người ta thường tổ chức tiệc cưới ngay
sau lễ thành hôn, tiệc cưới có thể tổ chức nhà gái (trước hôm cưới) và nhà trai (trong ngày
cưới); nhưng cũng có thể hai nhà tổ chức chung thành một tiệc.
Lễ cheo: một số vùng của Việt Nam còn có lễ cheo. Lễ cheo có thể tiến hành trước
nhiều ngày, hoặc sau lễ cưới một ngày. Lễ cheo là nhà trai phải có lễ vật hoặc kinh phí
đem đến cho làng hay cho xóm có con gái đi lấy chồng. Lễ cưới là để họ hàng công nhận,
lễ cheo là để xóm làng tiếp thu thêm thành viên mới, tế bào mới của làng.
Lễ lại mặt: (còn gọi là nhị hỉ hoặc tứ hỉ), sau lễ cưới (2 hoặc 4 ngày), hai vợ chồng
trẻ sẽ trở về nhà cha mẹ vợ mang theo lễ vật để tạ gia tiên. Lễ vật cũng có trầu, xôi, lợn.
Bố mẹ vợ làm cơm để mời chàng rể và con gái mình.

D. HÔN NHÂN THỜI HIỆN ĐẠI:
Để đảm bảo hôn nhân tự do, tiến bộ và bênh vực quyền lợi người phụ nữ Nhà nước
đã cụ thể hóa hôn nhân bằng luật: Luật hôn nhân và gia đình… Cụ thể như: “Việc thực
hiện đầy đủ chế độ hôn nhân tự do và tiến bộ, một vợ một chồng, nam nữ bình đẳng, bảo
vệ quyền lợi của phụ nữ và con cái, xoá bỏ những tàn tích còn lại của chế độ hôn nhân
phong kiến cưỡng ép, trọng nam khinh nữ, coi rẻ quyền lợi của con cái, Cấm tảo hôn,
10
cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự do, yêu sách của cải trong việc cưới hỏi, đánh đập
hoặc ngược đãi vợ. Cấm lấy vợ lẽ”
Ngày nay, việc cưới gả không tổ chức rườm rà, nhiêu khê, phiền phức, tốn kém và
kéo dài như xưa nữa, tùy theo mỗi gia đình, mỗi tôn giáo mà có những nghi lễ đặc thù
khác nhau, tuy nhiên nhìn chung vẫn giữ ít nhiều tục lệ cổ truyền hay đẹp của người xưa.

Từ 6 lễ người ta rút xuống còn 3 lễ gồm: lễ viếng (bao gồm: lễ dạm, lễ sơ vấn, lễ
vấn danh), lễ hỏi (bao gồm: lễ hỏi, lễ nạp tài), lễ cưới (rước dâu, đưa dâu).
Một số hủ tục cũng đã được loại bỏ bớt khiến hôn nhân mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp
hơn: + Không còn tục ở rể, không còn thách cưới, nhưng nhà trai vẫn giữ tục lệ xưa, tự
động mang tiền đến nạp tài trong lễ hỏi.
+ Không còn quan niệm “Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy” nữa, cũng không còn tục
“tảo hôn”, tệ “phúc hôn” và nam nữ lấy nhau thì phải “môn đăng hộ đối”
+ Tiệc cưới không còn tổ chức ăn uống linh đình, tốn kém mấy ngày liền như trước
nữa, nhà trai và nhà gái có thể sẽ gộp chung tiệc cưới của cả hai nhà thành một lễ ăn
mừng với bạn bè và người thân của hai bên gia đình.
+ Đám cưới không những không còn phô trương, tốn kém mà ngày nay đám cưới
còn có nhiều hình thức lạ như: Để tiết kiệm chi phí người ta tổ chức đám cưới tập thể.
Trong một đám cưới có nhiều cô dâu và chú rể làm lễ “bái đường thành thân” cùng một
lúc. Những đám cưới này thường xuất hiện trong quân đội hoặc ở đoàn thanh niên
Hôn nhân hoàn toàn tự do, tự nguyện, bình đẳng, tiến bộ giữa nam và nữ.

(Một đám cưới tập thể)
E. SỰ KHÁC NHAU GIỮA NHẪN ĐÍNH HÔN VÀ NHẪN CƯỚI:
-Nhẫn đính hôn, thì chỉ có 1 chiếc. Người con trai cầu hôn và đeo vào tay người con gái
(trong lễ đính hôn hay đám hỏi). Chiếc nhẫn này có đính hột. Nó có ý nghĩa là sự cam kết
dặn dò, đặt cọc trước về 1 mối tình dài lâu bền vững).
- Còn nhẫn cưới thì là 2 chiếc ,tròn và trơn. Ý nghĩa tình yêu 2 người sẽ suôn sẻ ,trơn tru
không có gì ngăn cản và viên mãn vĩnh cửu suốt cuộc đời. Ngày nay người ta làm hoa văn
trên chiếc nhẫn cưới là đi ngược lại truyền thống về mặt ý nghĩa của hình thức chiếc nhẫn
cưới. Vì tình yêu đôi lứa cần tránh sự gồ ghề va đập, dằn xóc mà ở đó cần sự suôn sẻ
trơn láng và êm đềm dịu dàng lãng mạn
3. HÔN LỄ CỦA DÂN TỘC DAO ĐỎ
Người Dao ở Yên Bái có khoảng 62.000 người, chiếm 9,1% dân số toàn tỉnh, với
địa bàn sống chủ yếu ở huyện Văn Chấn, Văn Yên và Lục Yên.
Mùa xuân, mùa hoa nở, mùa của lễ hội và cũng là mùa cưới hỏi của người dân tộc

Dao đỏ. Ngày nay, nhiều thủ tục lạc hậu đã được bà con lược bỏ, chỉ giữ lại những phần
quan trọng để đám cưới vừa vui, vừa ý nghĩa.
11
Người con trai khi chọn được cô gái mình yêu sẽ về nói với bố mẹ để hai bên gia
đình được biết. Sau khi được gia đình nhà gái đồng ý, gia đình nhà trai đem lễ vật đến nhà
cô dâu. Lễ vật gồm: hai con gà trống, mười chai rượu, gạo nếp và tiền mặt để gia đình nhà
gái mua một số vật dụng cho đám cưới.
Sau khi nhờ thầy cúng chọn được ngày lành tháng tốt, trước khi về nhà chồng, cô
dâu phải may đồ cưới và sắm những thứ cần thiết để làm của hồi môn. Thời gian chuẩn bị
cho đám cưới có khi phải kéo dài cả năm đến khi nào cô gái chuẩn bị đủ vật dụng về nhà
chồng, đám cưới mới được tiến hành.
Sau khi nhờ thầy cúng chọn được ngày lành tháng tốt, trước khi về nhà chồng, cô
dâu phải may đồ cưới và sắm những thứ cần thiết để làm của hồi môn. Thời gian chuẩn bị
cho đám cưới có khi phải kéo dài cả năm đến khi nào cô gái chuẩn bị đủ vật dụng về nhà
chồng, đám cưới mới được tiến hành.
Trước cửa nhà, thầy cúng đặt một bồn nước sạch để cô dâu bước qua. Thầy cúng
giăng một sợi giây đỏ nối liền vai đôi vợ chồng mới và khấn vái xin tổ tiên chứng giám,
phù hộ cho đôi vợ chồng trẻ trăm năm hạnh phúc, con đàn cháu đống.
Trước đây, trong lễ cưới hỏi, người Dao đỏ ở Yên Bái còn lưu giữ nhiều tập tục lạc
hậu nhưng ngày nay, để phù hợp với nếp sống văn hoá mới, bà con đã tự lược bỏ nhiều
thủ tục, chỉ giữ lại những phần quan trọng để đám cưới vừa vui, vừa ý nghĩa.

(Một buổi rước dâu của dân tộc Dao đỏ)
5. CA DAO, DÂN CA VỀ HÔN NHÂN, GIA ĐÌNH
Ca dao tục ngữ Việt Nam về hôn nhân gia đình rất phong phú và đa dạng. Nó như một lời
thủ thỉ, một lời tâm tình và thật sự đã trở thành ngôn ngữ thứ hai để các chàng trai, cô gái
bày tỏ nỗi tâm tình của mình. Sau đây là một vài câu ca dao quen thuộc mà chúng ta vẫn
thường nghe:
- Lời ngỏ ý của một chàng trai:
Cô kia cắt cỏ bên sông

Có muốn ǎn nhãn thì lồng sang đây.
Sang đây anh nắm cổ tay,
Anh hỏi câu này: có lấy anh chǎng?
Thẩn thơ dưới gốc mai già,
Hỏi thǎm ông Nguyệt có nhà hay không?
- Lời tâm tình của một cô gái:
Anh đà có vợ con chưa?
Mà anh ǎn nói gió đưa ngọt ngào.
12
Mẹ già anh ở nơi nao?
Để em tìm vào hầu hạ thay anh.
- Ca dao là lời đối đáp giữa chàng trai và cô gái:
Gặp đây Mận mới hỏi Đào
Vườn Hồng đã có ai vào hay chưa?
Mận hỏi thì Đào xin thưa:
“Vườn Hồng có lối, nhưng chưa ai vào…”
Hay:
Chim khôn mắc phải lưới hồng,
Hễ ai gỡ được, đền công lạng vàng.
Anh rằng: anh chẳng lấy vàng,
Hễ anh gỡ được thì nàng lấy anh.
- Lời tỏ tình rất khéo léo của một chàng trai:
Hôm qua tát nước đầu đình,
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin,
Hay là em để làm tin trong nhà?
Áo anh sứt chỉ đường tà,
Vợ anh chửa có, mẹ già chửa khâu.
Áo anh sứt chỉ đã lâu,
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng.

Khâu rồi anh sẽ trả công,
Đến lúc lấy chồng anh sẽ giúp cho:
Giúp em một thúng xôi vò,
Một con lợn béo, một vò rượu tǎm.
Giúp cho đôi chiếu em nằm,
Đôi chǎn em đắp, đôi trằm em đeo.
Giúp cho quan tám tiền cheo,
Quan nǎm tiền cưới, lại đèo buồng cau.
- Ngoài những câu ca dao thể hiện tài ăn nói trong lời tâm sự, tỏ tình của các chàng trai cô
gái thì cũng có những câu ca dao thể hiện sự từ chối một cách thẳngthừng nhưng vô cùng
khéo léo, chẳng hạn:
Bao giờ cho chuối có cành,
Cho sung có nụ, cho hành có hoa.
Bao giờ chạch đẻ ngọn đa,
Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình.
Hay:
Bao giờ cây cải làm đình,
Gỗ lim thái ghém thì mình lấy ta.
- Cũng có thể là một lời tiếc nuối muộn màng:
- Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em đã có chồng anh tiếc lắm thay.
- Ba đồng một mớ trầu cay,
13
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng, như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thuở nào ra?

- Hoặc lời yêu thương nồng nàn của một người vợ dành cho chồng:
Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu
- Cũng có thể là một lời oán giận:
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
5. MỘT VÀI KIỂU KẾT HÔN KỲ LẠ TRÊN THẾ GIỚI:
Cưới xin là chuyện hệ trọng của cả đời người. Nó đánh dấu một bước ngoặt mới,
đòi hỏi cả cô dâu lẫn chú rể bắt đầu một cuộc sống mới đầy hạnh phúc và cũng không ít
khó khăn. Mỗi dân tộc, mỗi địa phương có phong tục cưới xin đặc trưng của mình. Thế
nhưng, vẫn có những tục cưới kì lạ đến mức không thể kì lạ hơn. Chúng ta hãy cùng tìm
hiểu để có cái nhìn rõ hơn về hôn nhân trong xã hội:
Tại Iran:
Trước khi có cuộc hôn nhân hợp pháp hai người đã chung sống với nhau từ một
tháng tới vài nǎm trước đó. Thông thường các cô gái không thích làm vợ lâm thời. Một số
cô gái có nhan sắc sau mỗi lần kế hôn (nếu có con) lại gửi con cho bố mẹ đẻ để tiếp tục
một mối nhân duyên mới.
Dân tộc Chilie ở Hymalaya:
Để tránh việc chia cắt đất đai, hai anh em trai lấy chung một vợ. Trường hợp có ba
anh em trai thì anh cả và em út được kết hôn cùng một vợ, người con trai thứ sẽ phải
xuất giá đi tu
Một dân tộc sống trên dãy Hymalaya:
Do thiếu thốn thực phẩm nên không phải bất cứ người đàn ông nào cũng được phép
lấy vợ. Gia đình nào đông con trai thì chỉ người con đầu mới được quyền lấy vợ, sinh con.
Những con trai thứ đành chịu ở không!
Ấn Độ:
Có một dân tộc có kiểu kết hôn hết sức kỳ lạ: 3 đến 4 hoặc nhiều người đàn ông
cùng lấy chung một vợ. Họ có thể giao thoa, tức mỗi người trong số họ có thể cùng với 3
hoặc nhiều người đàn ông khác lấy chung hai, ba hay nhiều vợ.
Vài nơi của Barazil và Guinea:

Thanh niên muốn lập gia đình trước hết phải kết duyên với một phụ nữ lớn tuổi
hơn, sau đó với một phụ nữ cùng tuổi, và cuối cùng mới được lấy một cô gái trẻ hơn mình
làm vợ.
Myanmar:
Người dân tộc Khâm đang gặp phải một bất công ghê gớm: Người cha trong gia
đình sau khi chết, con trai cả sẽ "thừa kế" tất cả những người vợ mà cha mình để lại, dĩ
nhiên phải trừ mẹ ruột.
6. Ý NGHĨA CỦA VIỆC CƯỚI XIN:
14
Trong cuộc sống, ngày xưa cũng như ngày nay, đám cưới chính là biểu hiện của
nếp sống xã hội, của nền vǎn hoá dân tộc. Nó vừa kế thừa truyền thống phong tục, tập
quán của dân tộc, vừa được cách tân ngày càng vǎn minh theo sự phát triển của thời đại.
Trong các đám cưới không thể thiếu trầu cau. Nó tượng trưng cho sự gắn bó bền
chặt của tình anh em cũng như lòng chung thuỷ sắt son trong tình cảm vợ chồng…
Cũng từ đó, trầu cau mang ý nghĩa ” Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Bên cạnh đó là
rượu, gạo, thịt, bánh trái là sản phẩm đặc trưng cua nền vǎn minh nông nghiệp lúa nước.
Mỗi thứ như vậy đều có ý nghĩa nhất định trong vǎn hoá cổ truyền Việt Nam. Trong ngày
cưới, chẳng những cô dâu, chú rể, hai bên cha mẹ hoan hỉ mà cả họ hàng nội ngoại, bạn
bè, làng xóm đều hân hoan chúc mừng hạnh phúc lứa đôi.
Có thể khẳng định rằng, từ lâu, việc tổ chức lễ cưới đã là một phong tục không thể
thiếu trong cuộc sống cộng đồng, mà ý nghĩa xã hội của nó thể hiện ở nhiều khía cạnh:
kinh tế, xã hội, đạo đức, vǎn hoá.
Lễ cưới thường là sự ghi nhận quá trình trưởng thành của đôi thanh niên nam nữ,
sau quá trình tìm hiểu. Nó khẳng định xã hội đã thừa nhận một tình yêu. Hôn nhân là sự
thống nhất giữa tình yêu và trách nhiệm giữa hai người. Hôn nhân không được xây dựng
trên cơ sở của tình yêu là hôn nhân không có đạo đức.
Lễ cưới là sự công bố trước dư luận xã hội sau quá trình hoàn thành thủ tục đǎng ký
kết hôn. Sự ra đời của một gia đình mới có một ý nghĩa rất quan trọng đối với xã hội.
Lễ cưới còn là sự họp mặt của hai họ và bạn bè thân thích để mừng cho hạnh phúc
lứa đôi. Đến với đám cưới, con người có cơ hội gặp gỡ, tiếp xúc, làm quen với nhau, tǎng

cường giao tiếp, mở rộng các mối quan hệ xã hội. Đến với đám cưới là đến với một sinh
hoạt vǎn hoá lành mạnh không thể thiếu trong cuộc sống mỗi con người và cả cộng đồng.
Một số lễ thức trong cưới xin xét ở khía cạnh nào đó cũng thể hiện được ý nghĩa
nhất định. Lễ gia tiên, lễ hợp cẩn, lễ lại mặt bộ lộ truyền thống luân lý đạo đức như hiếu
đễ với tổ tiên, trân trọng tình cảm vợ chồng, có trách nhiệm với làng xóm quê hương.
Hình ảnh cô dâu duyên dáng trong tà áo dài truyền thống của những đám cưới xưa
vẫn luôn được mọi người ca ngợi và trân trọng. Nó thể hiện được tính dân tộc của phong
tục Việt nam. Và cũng trong hôn lễ, sự chân thành, sâu sắc của tình yêu đôi lứa được thể
hiện qua các tục lệ cổ truyền. Đó là lời khẩn nguyện (lễ thề nguyền) của cô dâu chú rể
trước gia tiên hai họ, kèm theo là sự trao kỷ vật như trao nhẫn cưới, hứa hẹn ǎn ở với
nhau cho đến “mãn chiều xế bóng”… Tất cả đều nhằm đánh dấu một sự chín muồi của
tình yêu để dẫn tới hôn nhân.
15

×