1
Danh mục những từ viết tắt:
BHXH:
BHYT:
ASXH:
BHTN:
HCSN:
DNNN:
HTX:
SXKD:
Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm y tế
An sinh xã hội
Bảo hiểm thất nghiệp
Hành chính sự nghiệp
Doanh nghiệp nhà nước
Hợp tác xã
Sản xuất kinh doanh
2
LỜI MỞ ĐẦU
Bảo hiểm xã hội ( BHXH ) là một chính sách lớn của đảng và nhà nước được
thực hiện ở nước ta ngay từ những ngày đầu thành lập. Người ta ví “ Cuộc sống
khơng có bảo hiểm như cầu thang khơng có tay viện”. Do tầm quan trọng của bảo
hiểm nói chung và BHXH nói riêng trong công tác xã hội và phát triển đội ngũ
công nhân viên chức từ đó củng cố và phát triển đất nước ngày 01/11/1945 chủ tịch
Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 54/SL quy định các điều kiện công nhân viên chức,
viên chức nhà nước được hưởng chế độ hưa trí.
Thực hiện đường lối đổi mới, hầu hết các chính sách đều được thay đổi trong
đó có chính sách BHXH, BHYT. Ngày 30/06/1994 quốc hội thông qua Bộ luật lao
động trong đó có quy định về BHXH. Đây là điểm mốc đánh dấu sự đổi mới của
chính sách BHXH ở nước ta phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Để thực hiện có hiệu quả chính sách BHXH theo cơ chế mới ngày
16/02/1995 chính phủ ban hành nghị định số 19/CP thành lập BHXH Việt Nam là
cơ quan thuộc chính phủ trên cơ sỡ thống nhất các tổ chức BHXH ở trung ương và
địa phương thuộc hệ thống Lao động – Thương binh & Xã hội và Liên đồn lao
động. Tháng 01/2002 Thủ tướng chính phủ có quyết định số 20/2002/QĐ – TTg
chuyển Bảo hiểm y tế ( BHYT ) Việt Nam trực thuộc Bộ y tế sang BHXH Việt
Nam.
Nhận thức được tầm quan trọng của BHXH trong hệ thống an sinh quốc gia
(ASXH ) quốc gia. Trong những năm vừa qua việc triển BHXH đã từng bước đi
vào cuộc sống thông qua việc thực hiện có hiệu quả các chế độ hưa trí, ốm đau,
thai sản …. Trên cơ sỡ những thành công bước đầu, hệ thống BHXH đã và đang
củng cố và chuẩn bị thực hiện một số chế độ bảo hiểm mới vào ngày 01/01/2009
đã triển khai bảo hiểm thất nghiệp ( BHTN ). Từ đó góp phần vào ổn định đời sống
của người lao động.
3
Thanh Hoá là một tỉnh nằm ở Bắc Trung Bộ có diện tích tự nhiên lớn và dân
cư đơng bao gồm: 27 huyện thị trong đó có 2 thị xã và một thành phố. Là một tỉnh
có truyền thống về lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, năm trên con đường huyết
mạch từ Bắc chí Nam với cây cầu Hàm Rồng lịch sử. Quê hương của biết bao
nhiêu anh hùng, danh nhân, nhà văn nhà thơ nổi tiếng của đất nước mà cứ mỗi khi
ai đó nhắc đến cũng đều phải thốt lên rằng đúng là “Đất địa linh nhân kiệt “.Đất
của Lê Lợi khởi binh, của dòng dõi nhà Lê, Trịnh, Hồ của Đào Duy Từ với chiến
tích Luỹ Thầy của Phạm Bành, Tống Duy Tân với khởi nghĩa Ba Đình của nhà thơ
Nguyễn Duy với Tre Việt Nam.
Thật là may mắn khi được sinh ra ở vùng đất địa linh nhân kiệt ( đất ba
vua ). Được thừa hưởng một nền văn hóa có từ lâu đời được ni dưỡng trong
những câu hị, câu lý, được nghe sự tích về Mai An Tim, được nghe kể về sự thơng
minh lanh lợi của Trạng Quỳnh được tắm mình trong dịng nước mát lạnh của sơng
mã anh hùng. May mắn hơn lại được thực tập ở phòng Thu của BHXH tỉnh Thanh
Hóa được chứng kiến khơng khí lao động hăng say của các cán bộ tại các phòng
ban BHXH tỉnh, những con người đang nổ lực đóng góp một phần nhỏ của mình
vào cơng cuộc xây dựng BHXH xã hội tỉnh nói riêng và BHXH Việt Nam nói
chung. Để bày tỏ sự may mắn đó em đã chọn đề tài “ Thực trạng công tác thu –
chi ở BHXH tỉnh Thanh Hóa giai đoạn ( 2003 – 2008 ). Đề tài của em gồm 3
phần
Phần 1: Tổng quan về BHXH và quỹ
BHXH
Phân 2: Phân tích thực trạng thu – chi BHXH tỉnh Thanh Hóa giai đoạn ( 2003
– 2008 )
Phần 3: Giải pháp nhằm hồn thiện cơng tác thu – chi ở BHXH tỉnh Thanh
Hóa
4
Chương 1: Tổng quan về BHXH và Quỹ BHXH
1 Giới thiệu chung về BHXH
BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao
động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ
BHXH
BHXH là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời sớm và đến nay đã được thực
hiện ở tất cả các nước trên thế giới. So với các loại hình bảo hiểm khác ở vai trị,
bản chất, chức năng có nhiều điểm khác biệt.
1.1 Sự cần thiết khách quan và vai trò của BHXH trong đời sống kinh tế - xã
hội
Trong cuộc sống con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc
ở và đi lại. Để thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để làm
ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều thì đời
sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn.
Như vậy, việc thỏa mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ
thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế không phải lúc nào
con người củng chỉ gặp những thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh
sống bình thường. Có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên
phát sinh làm cho con người bị giảm hoặc bị mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh
sống khác như: bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn trong lao động, mất việc làm hay
khi tuổi già sức yếu… Ở vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong
cuộc sống khơng vì thế mà mất đi, trái lại có cái cịn tăng lên, thậm chí cịn xuất
hiện thêm một số nhu cầu mới như: cần có nhu cầu được khám, chữa bệnh và điều
trị khi ốm đau, tai nạn, thương tật, cần có người chăm sóc ni dưỡng v.v..Vì vậy
muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm ra và
5
thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: San sẻ, đùm bọc lẫn nhau
trong nội bộ cộng đồng, đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước
v.v… Rõ ràng, những cách đó là hồn tồn thụ động và khơng chắc chắn.
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn nhân cơng trở nên phổ
biến thì mối quan hệ kinh tế giữa người lao động làm thuê và giới chủ cũng có
nhiều mâu thuẫn . Ban đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau
đã cam kết cả việc bảo đảm cho người lao động làm thuê có một số thu nhập để họ
trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm, tai nạn, thai sản…Trong
thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải trả
một đồng nào. Mặt khác, cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ phải một lúc bỏ ra
một khoản tiền lớn mà họ không muốn. Mâu thuẫn chủ - thợ phát sinh, giới thợ
liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra
ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt tới đời sống kinh tế - xã hội. Vì vậy,
Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn, sự can thiệp của Nhà
nước một mặt làm tăng được vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và
thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính tốn chặt chẽ
trên cơ sỡ xác xuất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả
chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn
được bổ sung từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho
người lao động khi gặp phải khó khăn biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan
hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của
người lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ củng
thấy có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được
những xáo trộn khơng cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập trung được thiết lập
ngày càng lớn và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày
càng được đảm bảo. Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc
chặt chẽ trên được thế giới quan niệm là BHXH đối với người lao động.
6
1.2 Bản chất của BHXH
Bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội
mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn
lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng
đa dạng và hồn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH
không vượt qua trạng thái kinh tế của mỗi nước
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sỡ lao động và
diễn ra giữa ba bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Bên
tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người sử
dụng lao động. Bên BHXH ( bên nhận nhiệm vụ BHXH thông thường là cơ quan
chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và
gia đình họ khơng có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động mất việc làm trong
BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người
như: Ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp… hoặc cũng có thể là những
trường hợp xảy ra khơng hồn toàn ngẫu nhiên như già yếu, thai sản v.v… Đồng
thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngồi q trình lao động.
Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc bị mất khi gặp những biến cố, rủi
ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại.
Nguồn quỹ này do các bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngồi ra cịn
được sự hỗ trợ từ phía nhà nước.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người
lao động trong trường hợp bị giảm hay mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này
đã được tổ chức lao động quốc tế ( ILO ) cụ thể hoá như sau:
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu
cầu thiết yếu cuộc sống cho họ
7
+ Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật;
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu
đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
1.3 Chức năng của BHXH
BHXH có những chức năng chủ yếu sau đây:
Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo
hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc
làm. Sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng,
mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động
theo các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm và mất khả năng lao
động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao động cũng sẽ được hưởng
trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời điểm và
thời hạn được hưởng phải đúng quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của
BHXH, nó quy định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của
BHXH.
Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giúp những người tham gia
BHXH. Tham gia BHXH khơng chỉ có người lao động mà cả những người sử dụng
lao động. Các bên tham gia đều phải đóng vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ
cấp cho một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hay mất thu nhập. Số
lượng những người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số người tham gia
đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đơng bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại
thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối lại giữa người có thu nhập
cao và thu nhập thấp, giữa người đang khoẻ mạnh làm việc với những người ốm
yếu phải nghỉ việc v.v…Thực hiện chức năng này có nghĩa là BHXH góp phần
thực hiện cơng bằng xã hội.
8
Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao
năng xuất lao động cá nhân và năng xuất lao động xã hội. Khi khỏe mạnh tham gia
lao động sản xuất người lao động được chủ sử dụng lao động trả lường hoặc tiền
công. Khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hoặc khi già yếu đã có BHXH trợ cấp
thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ ln được
đảm bảo ổn định và có chổ dựa. Do đó, người lao động ln n tâm gắn bó tận
tình với cơng việc, với nơi làm việc. Từ đó, họ sẽ tích cực lao động sản xuất, nâng
cao năng xuất lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng này biểu hiện như một địn
bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng xuất lao động cá nhân và kéo
theo là năng xuất lao động của xã hội.
Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa người
lao động với xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử
dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền
công, thời gian lao động v.v… Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó sẽ được
điều hồ và giải quyết. Đặc biệt cả hai giới này đều thấy nhờ có BHXH mà mình
có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với
nhau. Đối với Nhà nước và xã hội, chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và
có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao
động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính trị và xã
hội được phát triển và an tồn hơn.
1.4 Tính chất của BHXH
BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống an sinh xã hội, vì vậy tính xã hội
của nó thể hiện rất rõ. Quỹ BHXH là một bộ phận của tổng sản phẩm quốc nội
được xã hội tổ chức quản lí, bảo tồn và phân phối lại cho người lao động. Thực
chất quỹ BHXH là một phần trong tổng sản phẩm quốc nội, trong đó người lao
động chỉ phải đóng góp một khoản nhỏ nhưng khi gặp rủi ro được cả cộng đồng trợ
9
giúp để vượt qua khó khăn, hoạn nạn. Kết quả của sự phân phối lại đó tạo ra được
sự bình đẳng hơn về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Chính từ đó
góp phần tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng sức lao động, tạo thêm
được nhiều điều kiện thúc đẩy sản xuất có hiệu quả, tạo thêm được nhiều cơng ăn
việc làm, tăng thu nhập đồng thời phát triển tốt hơn các dịch vụ xã hội phục vụ cho
con người như y tế, giáo dục, văn hố... Hoạt động BHXH khơng vì mục tiêu lợi
nhận mà hoạt động vì mục đích bảo đảm sự phát triển lâu bền của nền kinh tế, góp
phần ổn định và tiến bộ xã hội. BHXH mang tính chất nhân đạo, nhân văn, dùng
tiền đóng góp khi còn trẻ khoẻ để dùng vào lúc tuổi già, đau yếu. Xét về lâu dài,
mọi người lao động trong xã hội đều có quyền tham gia BHXH. Và ngược lại,
BHXH phải có trách nhiện bảo hiểm cho mọi người lao động và gia đình họ, kể cả
khi họ đang cịn trong độ tuổi lao động.
Tính xã hội của BHXH ln gắn chặt với tính dịch vụ của nó. Khi nền kinh
tế – xã hội ngày càng phát triển thì tính dịch vụ và tính xã hội hố của BHXH cũng
ngày càng cao.
2. Quỹ BHXH
2.1 Khái niệm:
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngồi ngân sách nhà
nước. Quỹ có mục đích và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập quỹ BHXH là dùng để
chi trả cho người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp các biến cố hoặc rủi
ro. Chủ thể của quỹ BHXH chính là những người tham gia đóng góp để hình thành
nên quỹ, do đó có thể bao gồm: Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà
nước.
2.2 Đặc điểm của quỹ BHXH
Quỹ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau:
10
Quỹ ra đời, tồn tại và phát triển gắn với mục đích đảm bảo ổn định cuộc
sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp các biến cố, rủi ro làm giảm hoặc
mất thu nhập từ lao động. Hoạt động của quỹ khơng nhằm mục đích kinh doanh
kiếm lời. Vì vậy, nguyên tắc quản lý quỹ BHXH là: Cân bằng thu – chi.
Phân phối quỹ BHXH vừa mang tính chất hồn trả vừa mang tính chất
khơng hồn trả. Tính chất hồn trả thể hiện ở chổ, người lao động là đối tượng
tham gia và đóng BHXH đồng thời họ cũng là đối tượng được nhận trợ cấp được
chi trả từ quỹ BHXH cho dù chế độ, thời gian trợ cấp và mức trợ cấp của mỗi
người sẽ khác nhau, tuỳ thuộc vào những biến cố và rủi ro mà họ gặp phải, cũng
như mức đóng góp và thời gian đóng góp BHXH của họ. Tính khơng hồn trả thể
hiện ở chổ, cùng tham gia và đóng góp BHXH, nhưng có người được hưởng trợ
cấp nhiều lần và nhiều chế độ khác nhau, nhưng cũng có những người được ít lần
hoặc thậm chí không được hưởng. Chính từ đặc điểm này nên một số đối tượng
được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH thường lớn hơn nhiều so với mức đóng của họ
và ngược lại. Điều đó thể hiện tính chất xã hội của tồn bộ hoạt động BHXH.
Q trình tích luỹ để bảo tồn giá trị và bảo đảm an tồn về tài chính đối với
quỹ BHXH là một vấn đề mang tính nguyên tắc. Đặc điểm này xuất phát từ chức
năng cơ bản nhất của BHXH là đảm bảo an tồn về thu nhập cho người lao động.
Vì vậy, đến lượt mình, BHXH phải tự bảo vệ mình trước nguy cơ mất an tồn về
tài chính. Nhiều nhà kinh tế cho rằng: Quỹ BHXH là “ Của để dành ” của người
lao động phòng khi ốm đau, tai nạn hoặc tuổi già v.v…Nguồn quỹ này được đóng
góp và tích luỹ lại trong suốt q trình lao động. Nếu xem xét tại một lượng tiền
tạm thời nhàn rỗi để chi trả trong tương lai. Lượng tiền này có thể biến động tăng
và cũng có thể biến động giảm do mất an toàn, giảm giá trị do yếu tố lạm phát. Do
đó, bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH đã trở thành yêu cầu mang tính
nguyên tắc trong quá trình hoạt động của BHXH.
11
Quỹ BHXH là hạt nhân, là nội dung vật chất của tài chính BHXH. Nó là
khâu tài chính trung gian cùng với Ngân sách nhà nước và tài chính doanh nghiệp
hình thành nên hệ thốn tài chính quốc gia. Tuy nhiên mỗi khâu tài chính được tạo
lập, sử dụng cho một mục đích riêng và gắn bó với một chủ thể nhất định, vì vậy
chúng ln độc lập với nhau trong quản lý và sử dụng. Thế nhưng tài chính
BHXH, Ngân sách Nhà nước và tài chính doanh nghiệp lại có quan hệ chặt chẽ với
nhau và đều chịu sự chi phối của pháp luật Nhà nước.
Sự ra đời, tồn tại và phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ phát triển
kinh tế - xã hội của tưng quốc gia và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ nhất định
của đất nước. Kinh tế - xã hội càng phát triển thì càng có điều kiện thực hiện đầy
đủ các chế độ BHXH, nhu cầu thoả mãn về BHXH đối với người lao động càng
được nâng cao. Đồng thời khi kinh tế - xã hội phát triển, người lao động và người
sử dụng lao động sẽ có thu nhập cao hơn, do đó càng có điều kiện tham gia và
đóng góp BHXH v.v…
2.3 Nguồn hình thành quỹ BHXH
Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:
Người sử dụng lao động đóng góp
+ Người lao động đóng góp
+ Nhà nước đóng và hổ trợ thêm
+ Các nguồn khác ( như cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu tư
phần quỹ nhàn rỗi )
Trong nền kinh tế hàng hoá, trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho
người lao động được phân chia cho cả người sử dụng lao động và người lao động
trên cơ sỡ quan hệ lao động. Điều này không phải là sự phân chia rủi ro, mà là lợi
ích giữa hai bên. Về phía người sử dụng lao động, sự đóng góp một phần BHXH
cho người lao động sẽ trách được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền
lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà mình th mướn. Đồng thời nó
12
cịn góp phần giảm bớt tình trạng tranh chấp, kiến tạo được mối quan hệ tốt đẹp
giữa chủ và thợ. Về phía người lao động, sự đóng góp một phần dể BHXH cho
mình vừa biểu hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa
ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ.
Mối quan hệ chủ - thợ trong BHXH thực chất là mối quan hệ lợi ích. Vì thế,
cũng như nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao động. BHXH không thể thiếu
được sự tham gia đóng góp của Nhà nước. Trước hết các luật lệ của nhà nước về
BHXH là những chuẩn mực pháp lý mà cả người lao động và người sử dụng lao
động đều phải tuân theo, những tranh chấp chủ - thợ trong lĩnh vực BHXH có cơ
sỡ vững chắc để giải quyết. Ngoài ra, bằng nhiều hình thức biện pháp và mức độ
can thiệp khác nhau, Nhà nước khơng chỉ tham gia đóng góp và hổ trợ thêm cho
quỹ BHXH, mà còn trở thành chổ dựa để đảm bảo cho hoạt động BHXH chắc chắn
và ổn định.
Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các
nguồn nêu trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên
tham gia BHXH có khác nhau.
Về phương thức đóng góp BHXH của người lao động và người sử dụng lao
động hiện vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm thứ nhât cho rằng, phải căn cứ vào
mức lương cá nhân và quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp. Quan điểm thứ hai lại
nêu lên, phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối
chung trong toàn bộ nền kinh tế quôc dân để xác định mức đóng góp.
Về mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử dụng lao động
phải
chiệu tồn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động. Chính phủ trả chi phí y tế
và trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao
động cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Một số nước khác lại quy định,
Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chiệu tồn bộ chi phí quản lý BHXH
v.v…
13
Bảng 1.1 : Mức đóng góp của một số nước trên thế giớing 1.1 : Mức đóng góp của một số nước trên thế giớic đóng góp của một số nước trên thế giớióng góp của một số nước trên thế giớia một số nước trên thế giớit số nước trên thế giới nước trên thế giớic trên thế giới giớc trên thế giớii
Tỷ lệ đóng góp của
Tên nước
Chính phủ
Tỷ lệ đóng góp của
người lao động so
với tiền lương (%)
người sử dụng lao
động so với quỹ
lương (%)
CHLB Đức
Bù thiếu
14,8 – 18,8
16,3 – 22,6
CH Pháp
Bù thiếu
11,82
19,68
Indonexia
Bù thiếu
3,0
6,5
Philipin
Bù thiếu
2,85 – 9.25
6,85 – 8,05
Malaixia
Chi toàn bộ chế độ
9,5
12,75
ốm đau, thai sản
(Nguồn: BHXH ở một số nước trên thế giới)
Ở nước ta, từ năm 1962 đến 1987, quỹ BHXH chỉ được hình thành từ 2
nguồn: Các xí nghiệp sản xuất vật chất đóng góp 4,7% quỹ lương của xí nghiệp,
phần cịn lại do ngân sách Nhà nước đài thọ. Thực chất là không tồn tại quỹ BHXH
độc lập. Từ năm 1988 đến nay, các đơn vị sản xuất kinh doanh đóng góp 15% quỹ
lương của đơn vị. Sau khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường,
Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP ngày 22/6/1993 và Điều lệ BHXH Việt
Nam ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995, trong đó văn bản này
đều quy định quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau đây:
Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương của
những người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó, 10% để chi trả các chế độ
hưu trí, tử tuất và 5% để chi trả các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và
bệnh nghề nghiệp.
+ Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi trả các chế độ hưu
trí và tử tuất.
14
+ Nhà nước đóng và hổ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH
đối với người lao động.
+ Các nguồn khác.
Mức đóng góp BHXH thực chất là phí BHXH. Phí BHXH là yếu tố quyết
định sự cân đối thu chi quỹ BHXH. Vì vậy, quỹ này phải được tính tốn một cách
khoa học. Trong thực tế, việc tính phí BHXH là một nghiệp vụ chuyên sâu của
BHXH và người ta thường sử dụng các phương pháp toán học khác nhau để xác
định. Khi tính phí BHXH, có thể có những căn cứ tính tốn khác nhau:
+ Dựa vào tiền lương và thang lương để xác định mức trợ cấp BHXH, từ đó
có cơ sỡ xác định mức đóng phí.
+ Quy định mức phí BHXH trước rồi từ đó xác định mức hưởng.
+ Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức hưởng,
rồi từ mức hưởng BHXH này có thể xác định mức phí phải đóng.
Mặc dù chỉ thuần t mang tính kỹ thuật nhưng xác định phí BHXH lại khá
phức tạp vì nó liên quan đến cả người lao động, người sử dụng lao động và Nhà
nước. Liên quan đến khả năng cân đối thu nhập của người lao động và điều kiện
phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, khi xác định phí BHXH vẫn phải
đảm bảo các nguyên tắc: Cân bằng thu chi, lấy số đông bù số ít và có dự phịng.
Mức phí xác định phải được cân đối với mức hưởng, với nhu cầu BHXH và điều
chỉnh sao cho tối ưu nhất.
Phí BHXH xác định theo cơng thức:
P = f1 + f2 + f3
Trong đó:
P – Phí BHXH
F1 – Phí thuần tuý trợ cấp BHXH
F2 – Phí dự phịng
F3 – Phí quản lý
15
2.4 Mục đích sử dụng quỹ BHXH
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu để chi trả cho các mục đích sau đây:
+ Chi trợ cấp cho các chế độ BHXH;
+ Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH;
+ Chi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH;
Trong 3 nội dung chỉ tiêu nêu trên thì chi trả trợ cấp BHXH theo các chế độ
là lớn nhất và quan trọng nhất. Bao gồm các chế độ BHXH:
- Chăm sóc y tế
- Trợ cấp ốm đau
- Trợ cấp thất nghiệp
- Trợ cấp tuổi già
- Trợ cấp tai nạn và bệnh nghề nghiệp
- Trợ cấp gia đình
- Trợ cấp sinh đẻ
- Trợ cấp khi tàn phế
- Trợ cấp cho người còn sống ( trợ cấp mất người nuôi dưỡng)
Khoản chi này được thực hiện theo luật định và phụ thuộc vào phạm vi trợ
cấp của từng hệ thống BHXH. Về nguyên tắc, có thu có chi, thu trước chi sau. Vì
vậy, quỹ chỉ chi cho các chế độ trong phạm vi có nguồn thu. Thu của chế độ nào
thì chi ở chế độ đó
3 Mối quan hệ giữa BHXH với chính sách kinh tế và chính sách xã hội
3.1 Mối quan hệ giữa BHXH với chính sách xã hội
Chính sách xã hội là một vấn đề rộng lớn, được cụ thể hoá và thể chế hố
bằng pháp luật, phản ánh lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói chung
và từng nhóm xã hội nói riêng, nhằm mục đích cao nhất là thoả mãn những nhu
cầu ngày càng tăng về đời sống vật chất, văn hố, tinh thần của nhân dân... chính
16
sách xã hội bao trùm lên mọi cuộc sống của con người. Trong hệ thống các chính
sách xã hội thì BHXH là một chính sách quan trọng. Chính sách BHXH và các
chính sách xã hội khác có mối quan hệ biện chứng với nhau, các chính sách này
hỗ trợ lẫn nhau để giải quyết các vấn đề xã hội. Thực hiện tốt các chính sách xã
hội sẽ góp phần thực hiện tốt chính sách BHXH và ngược lại thực hiện tốt chính
sách BHXH sẽ góp phần thực hiện tốt các chính sách xã hội khác. Chẳng hạn như
chính sách tiền lương là cơ sở để xác định mức đóng BHXH, vì vậy mức tiền
lương phải đảm bảo đủ trang trải các nhu cầu cơ bản của người lao động và phần
đóng BHXH do đó chính sách tiền lương hợp lí sẽ góp phần thực hiện chính sách
bảo hiểm xã hội .
Chính sách việc làm có liên quan đến chính sách BHXH được thể hiện khá
rõ nét, số người làm việc ngày càng nhiều và mức thu nhập ổn định sẽ tạo cho
BHXH có nguồn thu ổn định; ngược lại chính sách giảm biên chế, chính sách
giảm lao động làm việc trong các doanh nghiệp như quyết định 176/HĐBT, quyết
định 111/CP... dẫn đến tăng số người về nghỉ chế độ...làm tăng nguồn chi BHXH
như hiện nay ngân sách hàng năm phải cấp bù rất lớn. Ngồi ra chính sách
BHXH cũng có tác động lớn đến chính sách dân số kế hoạch hố gia đình, chính
sách đối với những người tham gia chiến trường B,C,K.
3.2 Mối quan hệ giữa BHXH với chính sách kinh tế
Mối quan hệ giữa chính sách BHXH với chính sách kinh tế được thể hiện ở
chỗ hai loại chính sách này có giới hạn hợp lí. Nếu khơng xác định được giới hạn
hợp lí này sẽ dẫn đến hoặc là xây dựng một hệ thống BHXH không phù hợp khả
năng và trình độ phát triển của nền kinh tế làm cho chính sách BHXH thực thi
khơng cao, tác động tiêu cực đến nền sản xuất xã hội. Hoặc nếu chỉ tập trung phát
triển kinh tế, coi trọng yếu tố năng suất lao động mà không đầu tư thoả đáng cho
chính sách xã hội trong đó có chính sách BHXH sẽ làm mất ổn định xã hội. Bởi
17
vậy thực hiện tốt chính sách BHXH sẽ tạo điều kiện để giải phóng năng lực sản
xuất, tạo năng suất lao động cao, sản xuất ổn định. Mối quan hệ giữa chính sách
BHXH với chính sách kinh tế cịn thể hiện thông qua mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế tự thân
nó khơng dẫn tới tiến bộ xã hội và càng không dẫn tới công bằng xã hội một cách
trực tiếp, mặc dù tăng trưởng kinh tế ở một mức độ nào đó có thể thúc đẩy tiến
bộ xã hội. Tăng trưởng kinh tế phải qua khâu phân phối mới đưa các chính sách
BHXH nói riêng và phúc lợi xã hội nói chung tới các tầng lớp dân cư. tăng
trưởng kinh tế là một điều kiện quan trọng để thực hiện chính sách BHXH có
hiệu quả. Ngược lại khi xem xét chính sách BHXH dưới góc độ một chính sách
kinh tế khi hoạch định chính sách BHXH khơng hợp lí, xây dựng mức đóng
BHXH khơng phù hợp sẽ làm nâng giá thành sản phẩm lên cao, hiệu quả sản xuất
kinh doanh giảm, hạn chế tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên giữa tăng trưởng kinh tế
và chính sách BHXH cũng có sự mâu thuẫn. Qúa trình nâng cao hiệu quả kinh tế
thường xuất hiện các hiện tượng cố tình khơng thực hiện chính sách BHXH cho
người lao động như đóng BHXH khơng đứng mức thu nhập, kí hợp đồng lao
động ngắn hạn, trang bị bảo hộ lao động không đảm bảo gây ra tai nạn lao độngbệnh nghề nghiệp. Việc giải quyết hài hoà mối quan hệ này phụ thuộc vào bản
chất chế độ chính trị xã hội và năng lực quản lí của Nhà nước trong việc tạo điều
kiện tối ưu sự kết hợp sự phát triển kinh tế với việc thoả mãn ngày càng cao nhu
cầu của xã hội gắn liền tiến bộ xã hội với sự phát triển toàn diện con người.
18
Chương 2: Phân tích thực trạng thu – chi quỹ BHXH ở cơ quan BHXH
Thanh Hóa giai đoạn 2003 – 2008
1 Vài nét về cơ quan BHXH tỉnh Thanh Hóa
Trên cơ sỡ của việc thành lập BHXH Việt Nam. BHXH tỉnh Thanh Hoá
được thành lập theo QĐ số 137/QĐ – TCCB ngày 15/06/1995 và bổ sung thêm
chức năng, nhiệm vụ thực hiện chế độ BHXH, BHYT theo QĐ 1620/QĐ – TCCB;
Quyết định 195/QĐ – TCCB ngày 17/12/2002 của Tổng Giám Đốc BHXH Việt
Nam. Như vậy từ thời điểm này, ngoài việc đảm bảo các chế độ BHXH cho người
lao động, cơ quan BHXH còn được giao thêm nhiệm vụ quản lý thực hiện chế độ
BHYT cho cán bộ công nhân viên chức và các đối tượng khác trong xã hội. Đặc
biệt ngày 26/09/2002 Quốc Hội khoá XI kỳ họp thứ 9 thông qua luật BHXH cơ sỡ
pháp lý vững chắc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia BHXH. Nội
dung của luật thể hiện đầy đủ chủ trương chính sách xã hội quan điểm của đảng
nhà nước trong lĩnh vực BHXH.
Sự hình thành và phát triển của BHXH Thanh Hố ln ln gắn liền với sự hình
thành và phát triển của BHXH Việt Nam. Sau 13 năm kể từ ngày thành lập cho đến
nay BHXH tỉnh Thanh Hố đã có nhiều chuyển biến mới, trụ sở của BHXH tỉnh
năm trên đại lộ Lê Lợi nơi đặt trụ sở của rất nhiều cơ quan chính quyền quan trọng
trong tỉnh.
Hệ thống tổ chức BHXH ở nước ta:
19
Sơ đồ 2.1 : Bộ máy tổ chức của BHXH Việt Nam
CHÍNH PHỦ
- Hội đồng quản lý
BHXH VIỆT NAM
- Tổng giám đốc
20
- Các phó tổng giám đốc
- Giám đốc
- Các phó giám đốc
- Các phịng ban:
. Phịng chế độ chính sách
BHXH CẤP TỈNH, THÀNH PHỐ
. Phịng kế hoạch - tài chính
. Phòng thu
. Phòng giám định chi
. Phòng BH tự nguyện
. Phịng cơng nghệ thơng tin
. Phịng kiểm tra
. Phịng tổ chức hành chính
- Giám đốc
BHXH CẤP HUYỆN, THỊ XÃ
- Phó giám đốc
- Các công chức, viên chức
HỆ THỐNG ĐẠI LÝ CHI TRẢ BHXH
Theo hệ thống tổ chức của BHXH Việt Nam thì BHXH tỉnh Thanh Hóa bao gồm
các phịng ban:
Phịng bảo hiểm tự nguyện
Được thành lập theo Quyết định 195/2003/QĐ – BHXH ngày 19/02/2003 của
Tổng Giám Đốc BHXH Việt Nam, phịng bảo hiểm tự nguyện có chức năng nhiệm
vụ cơ bản giúp Giám đốc quản lý và tổ chức thực hiện các chế độ BHYT tự nguyện
theo quy định.
Phịng cơng nghệ thông tin