Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Thực trạng công tác khai thác bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại công ty bảo hiểm dầu khí đông đô và một số giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.8 KB, 72 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

1

GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường

LỜI MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta đang phát triển với tốc độ nhanh. Cùng với đó, giao thơng vận tải đang giữ
một vai trị quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế quốc gia. Số lượng xe cơ
giới tham gia vào hoạt động giao thông đường bộ ở nước ta ngày càng lớn và có vai
trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của quốc gia. Tuy nhiên, xe cơ giới
cũng gây ra rất nhiều vụ tai nạn giao thông làm thiệt hại cả về người và của. Ngày
nay, khơng ai cịn nghi ngờ tính chất nghiêm trọng của tai nạn xe cơ giới. Để phục
vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội thì số lượng xe cơ giới sẽ còn tăng, điều này
đồng nghĩa với việc số lượng các vụ tai nạn xe cơ giới cũng sẽ tăng. Đứng trước
những rủi ro về tai nạn giao thông, con người đã áp dụng nhiều biện pháp khác nhau
để phòng tránh và giảm thiểu tai nạn giao thông. Và người ta nhận thấy rằng, một
trong những nguyên nhân sâu xa dẫn đến tai nạn giao thơng chính là ý thức, trách
nhiệm của người tham gia giao thông. Nếu mỗi người tham gia giao thơng đều có ý
thức trách nhiệm với chính bản thân và những người khác thì sẽ giảm thiểu tai nạn
giao thơng. Để giải quyết bài tốn về trách nhiệm của chủ phương tiện khi tham gia
giao thơng, Chính phủ đã ban hành các quy định về bảo hiểm TNDS bắt buộc của
chủ xe cơ giới. Từ đó, bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
được sử dụng như là một trong những biện pháp quan trọng nhất để đối phó với tai
nạn giao thơng ở nước ta. Biện pháp này có tác dụng to lớn trong việc đề phòng,
hạn chế tổn thất, khắc phục nhanh chóng những hậu quả do tai nạn giao thông gây
ra, tạo tâm lý an tâm cho chủ xe và các bên tham gia. Ngày nay nhìn chung bảo
hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba đã đi vào thực tế cuộc sống của
toàn xã hội và phát huy được tính ưu việt của mình làm nổi bật bản chất tốt đẹp của
bảo hiểm nói chung và bảo hiểm TNDS nói riêng. Tuy nhiên, cơng tác triển khai


nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của các công ty bảo hiểm bên cạnh những thuận lợi cịn
khơng ít những khó khăn.
Với mục đích tìm hiểu, trao đổi, nghiên cứu sâu hơn về nghiệp vụ bảo hiểm
TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, đánh giá về phương thức triển khai
nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Trong q trình
thực tập tại cơng ty cổ phần bảo hiểm Toàn cầu (GIC), em đã lựa chọn đề tài:

Bùi Thị Thu Phương

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52 A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

2

GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
“Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối

với người thứ ba tại Công ty cổ phần bảo hiểm toàn cầu (GIC)”.
Nội dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới đối với người thứ ba
Chương II: Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ
giới đối với người thứ ba tại công ty CP bảo hiểm Toàn cầu – GIC
Chương III: Giải pháp phát triển nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe
cơ giới đối với người thứ ba tại GIC
Em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thị Hải Đường – giảng viên Khoa
Bảo hiểm - trường Đại học Kinh tế quốc dân đã nhiệt tình hướng dẫn giúp em
thực hiện đề tài này


Bùi Thị Thu Phương

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52 A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

3

GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường

CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA
1.1. Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với
người thứ ba
1.1.1. Khái niệm
Khái niệm bảo hiểm: Bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính, thơng qua đó
một cá nhân hay một tổ chức có quyền được hưởng bồi thường hoặc chi trả tiền bảo
hiểm nếu rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra nhờ vào khoản đóng góp phí bảo hiểm
cho mình hay cho người thứ ba. Khoản tiền bồi thường hoặc chi trả này do một tổ
chức đảm nhận, tổ chức này có trách nhiệm trước rủi ro hay sự kiện bảo hiểm và bù
trừ chúng theo quy luật thống kê.
Rủi ro: Là những biến cố xảy ra bất ngờ không ai lường trước được, thường
dẫn đến hậu quả là thiệt hại. Thậm chí có những rủi ro biết trước nhưng nó vẫn có
tính bất ngờ về mặt thời điểm.
Sự kiện bảo hiểm: là sự kiện khách quan do các bên thoả thuận hoặc pháp luật
quy định mà khi sự kiện đó xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm
cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm.

Kinh doanh bảo hiểm: Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của Doanh nghiệp bảo
hiểm (DNBH) nhằm mục đích sinh lợi, theo đó DNBH chấp nhận rủi ro của bên
mua bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp trả
tiền cho người Thụ hưởng hoặc bồi thường cho Người được bảo hiểm bảo hiểm khi
có các sự kiện bảo hiểm xảy ra.
Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động
theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan để kinh
doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm.
Bên mua bảo hiểm là tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm với doanh
nghiệp bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể đồng thời là
người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng.
Người thụ hưởng là tổ chức, cá nhân được bên mua bảo hiểm chỉ định để nhận
tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm con người.

Bùi Thị Thu Phương

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52 A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

4

GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
Người được bảo hiểm là tổ chức, cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự, tính
mạng được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm. Người được bảo hiểm có thể đồng
thời là người thụ hưởng.
Hợp đồng bảo hiểm: Là sự cam kết giữa bên tham gia với bên bảo hiểm mà trog
đó bên tham gia bảo hiểm phải nộp phí bảo hiểm theo quy định trong hợp đồng, cịn
bên bảo hiểm cam kết chi trả hoặc bồi thường cho bên tham gia khi đối tượng bảo

hiểm gặp rủi ro tổn thất. Hợp đồng bảo hiểm thực chất là hợp đồng kinh tế ràng
buộc quyền lợi và trách nhiệm giữa các bên.
Xe cơ giới: Là loại xe hoạt động bằng chính động cơ của mình và được phép lưu
hành trên lãnh thổ của một quốc gia (trừ xe đạp máy).
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự: Là một loại hình bảo hiểm mà người bảo hiểm
cam kết bồi thường phần trách nhiệm dân sự của người bảo hiểm theo cách thức và
hạn mức đã được hai bên thỏa thuận trong hợp đồng với điều kiện người tham gia
bảo hiểm phải đóng một khoản phí tương ứng.
Trách nhiệm dân sự (TNDS) của một chủ thể được hiểu là trách nhiệm phải bồi
thường các thiệt hại về tài sản, về con người…gây ra cho người khác do lỗi của
người chủ đó. TNDS có thể là TNDS trong hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng.
TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba: là phần trách nhiệm được xác
định bằng tiền theo quy định của pháp luật và sự phán quyết của Tòa án, quyết định
chủ xe phải gánh chịu do sự lưu hành xe của mình gây tai nạn cho người thứ ba.
Người thứ ba trong bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới là những người trực tiếp bị
thiệt hại do hậu quả của vụ tai nạn, thực chất là phía nạn nhân trong các vụ tai nạn
có phát sinh TNDS. Người thứ ba có thể là một hoặc nhiều người, có thể là tài sản,
là kinh doanh…Tuy nhiên, những trường hợp sau không được coi là người thứ ba:
- Thân nhân của chủ xe và lái xe.
- Những người làm công cho chủ xe và lái xe.
- Hành khách, những người có mặt trên xe.
- Tài sản, tư trang, hành lý của những người nêu trên.
Sở dĩ những trường hợp trên khơng được coi là người thứ ba vì nhằm hạn chế
tối đa hiện tượng trục lợi bảo hiểm.
1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm TNDS
Trong cuộc sống mỗi cá nhân cũng như mỗi tổ chức đều phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về hành vi ứng xử của mình. Nếu cá nhân, tổ chức nào đó vì sự bất

Bùi Thị Thu Phương


Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52 A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

5

GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
cẩn mà gây nên thiệt hại nào đó thì phải chịu trách nhiệm về mọi thiệt hại mà cá
nhân, tổ chức đó gây ra và đây được coi là trách nhiệm bồi thường theo luật định,
chủ yếu liên quan đến Luật Dân sự. Tuy nhiên, trách nhiệm bồi thường này có thể
phát sinh trong hoặc ngồi hợp đồng và tùy theo mức độ lỗi của sự bất cẩn gây nên,
cá nhân hoặc tổ chức phải có trách nhiệm bồi thường cho bên thứ ba để giúp họ
khắc phục hậu quả, đảm bảo tính cơng bằng và nghiêm minh trong pháp luật. Xuất
phát từ vấn đề nêu trên, bảo hiểm trách nhiệm đã ra đời và từ khi ra đời đến nay đã
đáp ứng được nhu cầu của các cá nhân và tổ chức trong xã hội, giúp họ nâng cao
tinh thần trách nhiệm của mình, song song nâng cao ý thức pháp luật trong cuộc
sống cũng như trong lao động – sản xuất. Ngồi ra cịn góp phần đảm bảo lợi ích
cho mọi cơng dân, đảm bảo cơng bằng xã hội, vì vậy, trên thế giới cũng như ở Việt
Nam, một loạt các loại hình bảo hiểm trách nhiệm ra đời và đi vào cuộc sống. Đặc
biệt, Luật kinh doanh bảo hiểm của hầu hết các nước trên thế giới đã quy định một
số cá nhân, tổ chức phải tham gia bảo hiểm trách nhiệm cá nhân bắt buộc.
Một số nghiệp vụ chủ yếu sau đây được triển khai rộng rãi:
-

Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
Bảo hiểm TNDS của nhà vận chuyển trong ngành hàng không dân dụng.
Bảo hiểm TNDS của chủ sử dụng lao động đối với người lao động.
Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp.
Bảo hiểm trách nhiệm công cộng.

Bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm.


Đặc điểm của bảo hiểm trách nhiệm:
Đối tượng bảo hiểm rất trừu tượng, bởi vậy, về mặt pháp lý bao giờ cũng quy
định phải có ba điều kiện sau đây mới phát sinh TNDS:
-

Có gây ra thiệt hại thực tế cho người thứ ba hay không hoặc người bị thiệt
hại có thuộc trong hợp đồng dân sự.
- Có hành vi gây thiệt hại của cá nhân, tổ chức và phải có lỗi.
- Có quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với người bị hại.
Cả ba điều kiện này phải diễn ra đồn thời. Căn cứ và ba điều kiện này, tòa án sẽ
phán xét trách nhiệm pháp lý phát sinh đến đâu để nhà bảo hiểm có cơ sở bồi
thường theo đúng luật. Chính vì đối tượng bảo hiểm ở đây rất trừu tượng cho nên

Bùi Thị Thu Phương

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52 A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

6

GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội và trình độ dân trí mà cơng ty bảo hiểm có thể
triển khai ở một phạm vi nhất định ở từng nghiệp vụ nhất định. Sau khi đã triển khai
thì cơng tác tun truyền, giải thích có vai trị quan trọng hơn bao giờ hết. Việc giới
hạn trách nhiệm cũng phải được xác định cho phù hợp để người dân kip thời nắm

bắt.
Các nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự phần lớn được quy định bắt
buộc. Việc quy định này có tác dụng nâng cao ý thức và góp phần đảm bảo công
bằng xã hội cũng như quyền lợi người được bảo hiểm. Việc quy định bắt buộc còn
giúp cho một số loại dình doanh nghiệp và một số tổ chức và cá nhân hoạt động
mang tính chất nghề nghiệp phát huy hết khả năng sáng tạo.
Có thể giới hạn trách nhiệm hoặc không giới hạn trách nhiệm. Về nguyên
tắc, việc triển khai bảo hiểm TNDS có thể giới hạn trách nhiệm tùy theo từng
nghiệp vụ bảo hiểm và khả năng tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm. Tuy nhiên,
từ những năm 70 của thế kỷ XX trở về trước có một số cơng ty bảo hiểm lớn trên
thế giới khi triển khai bảo hiểm trách nhiệm dân sự liên quan đến một số nghiệp vụ
như: bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp, bảo hiểm trách nhiệm công cộng khơng đưa ra hạn mức trách
nhiệm. Điều đó có nghĩa thiệt hại của người bị nạn bao nhiêu, nhà bảo hiểm bồi
thường bấy nhiêu. Ý tưởng này rất tốt và họ đã cạnh tranh được với đối thủ. Tuy
nhiên sau một thời gian triển khai họ đã gặp phải những khó khăn rất lớn vè tài
chính và nhìn chung áp dụng hình thức này phản tác dụng vì ba lý do cơ bản sau:
không nâng cao tinh thần trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm; tình trạng trục
lợi bảo hiểm diễn ra tràn lan, doanh nghiệp khó kiểm sốt; khi số tiền bồi thường
bảo hiểm TNDS ngày càng tăng dần kéo theo đó là nhà bảo hiểm nâng mức phí.
Tuy nhiên, từ những năm 80 trở lại đây các nhà bảo hiểm trên thế giới đã nhận thấy
rất rõ vấn đề kể cả những người làm công tác quản lý nhà nước, cho nên, đại đa số
nghiệp vụ bảo hiểm TNDS đều phải đưa ra mức giới hạn trách nhiệm. Mức giới hạn
trách nhiệm cao hay thấp hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế trong từng thời
kỳ và bản thân từng nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm.
Trong bảo hiểm TNDS, nhà bảo hiểm vẫn áp dụng nguyên tắc bồi thường và thế
quyền hợp pháp. Sở dĩ vẫn phải áp dụng những ngun tắc này vì có rất nhiều
trường hợp nhiều bên cùng có lỗi gây nên thiệt hại cho người khác. Bởi vậy, áp
dụng 2 nguyên tắc này rất hợp tình, hợp lý liên quan đến việc bồi thường TNDS,
sản xuất kinh doanh cho người thứ ba.

Bùi Thị Thu Phương

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52 A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

7

GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
Tính phí phải được tính tốn đầy đủ và đồng bộ. Chỉ có như vậy thì việc bồi
thường mới chính xác, đảm bảo công bằng cho người được bảo hiểm.
1.1.3. Sự cần thiết của bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
1.1.3.1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với
người thứ ba
Xã hội càng phát triển thì nhu cầu về bảo hiểm ngày càng cao. Đặc biệt với sự
bùng nổ của phương tiện giao thông vận tải, bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới là
vô cùng cần thiết. Bỡi lẽ giao thơng chính là mạch máu của nền kinh tế. Do đó phát
triển giao thơng nói chung và giao thơng đường bộ nói riêng là một tất yếu khách
quan của xã hội. Một đặc điểm của giao thông đường bộ là sử dụng rất nhiều loại xe
cơ giới khác nhau và chúng là nguồn nguy hiểm cao độ thường xuyên đe dọa tính
mạng và tài sản của con người. Trên thế giới, chỉ sau vài năm sau chiến tranh thế
giới thứ hai, giao thông đường bộ đặc biệt là ô tô đã phát triển với mức độ chóng
mặt, cùng với đó là sự tăng lên của số vụ tai nạn giao thông và trở thành hiểm họa
cho xã hội.
Còn ở Việt Nam, số lượng xe cơ giới và số người bị chết, bị thương được tổng
hợp trong bảng sau:
Bảng 1.1: Số lượng xe cơ giới lưu hành qua các năm
Năm
Ơ tơ (chiếc)


1990
234.000

2000
860.000

2010
1.200.000

2012
1.950.964

Mơ tơ (Chiếc)

800.000

12.500.000

34.000.000

35.240.162

2.768

12.000

12.600

10.000


6.718

26.000

25.00

20.000

Số người chết
(người)
Số người bị
thương (người)

(Nguồn: Trung tâm Quản lý kiểm định PTCGĐB)

Nhìn vào bảng trên có thể thấy số lượng xe cơ giới ở Việt Nam tăng nhanh
trong vòng hai thập kỷ qua, cũng với số người chết và bị thương cũng tăng. Nguyên
nhân là do:
- Do đặc điểm hệ thống giao thông đường bộ bị hạn chế bởi điều kiện địa hình
¾ là đồi núi, từ Bắc vào Nam có vơ số đèo dốc, vực sâu nguy hiểm (cả nước có 109

Bùi Thị Thu Phương

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52 A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

8


GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
đèo dốc nguy hiểm; hơn 6000 điểm đen về tai nạn giao thông). Hơn nữa hệ thống
giao thông ngày một xuống cấp nghiêm trọng, chất lượng kém, đường chật hẹp…
- Ý thức chấp hành luật lệ an tồn giao thơng của nhân dân cịn thấp.
- Trang thiết bị an tồn của phương tiện giao thơng khơng đảm bảo an tồn.
- Xe cơ giới có tính cơ động cao, tính việt dã tốt nên xác suất xảy ra tai nạn
giao thông đã lớn nay còn lớn hơn so với các loại phương tiện vận tải khác.
1.1.3.2. Tác dụng của bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
Góp phần ổn định tài chính, khắc phục hậu quả khi rủi ro xảy ra cho người
tham gia bảo hiểm.
Hoạt động của xe cơ giới là hoạt động tiềm ẩn rất nhiều nguy hiểm. Khi rủi ro
hay tai nạn bất ngờ xảy ra đều gây ra thiệt hại về kinh tế, ảnh hưởng đến thu nhập,
đời sống, sản xuất kinh doanh của các cá nhân, doanh nghiệp tham gia bảo hiểm,
thậm chí gây thiệt hại về tính mạng con người. Hoạt động bảo hiểm trước hết là
nhằm khắc phục hậu quả của rủi ro và các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới sẽ đảm
bảo cho người tham gia bảo hiểm được trợ cấp hoặc bồi thường về vật chất để khắc
phục hậu quả, ổn định cuộc sống, sản kinh doanh trở về bình thường.
Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới khơng chỉ có vai trị to lớn đối với người bị
thiệt hại mà còn cả xã hội, là tấm lá chắn vững chắc cho các chủ xe khi tham gia
giao thông.
- Tạo tâm lý yên tâm, thoải mái khi điều khiển các phương tiện giao thông.
- Bồi thường chủ động, kịp thời cho chủ cho khi phát sinh TNDS, trong đó có
lỗi của chủ xe thì cơng ty bảo hiểm nơi mà chủ xe tham gia bảo hiểm tiến hành bồi
thường nhanh chóng để chủ xe phục hồi lại tinh thần, ổn định sản xuất, giảm thiểu
tối đa thiệt hại về kinh tế cho chủ xe.
- Xoa dịu, làm giảm căng thẳng giữa chủ xe và nạn nhân. Đây là mục đích cao
cả trong nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
Góp phần đề phóng và hạn chế tổn thất, giúp cho cuộc sống của con người an
toàn hơn, xã hội trật tự hơn, giảm bớt nỗi lo của mỗi cá nhân, doanh nghiệp.

Hoạt động bảo hiểm khơng chỉ nhằm mục đích bồi thường thiệt hại mà các
doanh nghiệp bảo hiểm còn góp phần tích cực trong cơng tác đề phịng, hạn chế tổn
thất cho các đơn vị tham gia bảo hiểm. Hàng năm các doanh nghiệp bảo hiểm đã

Bùi Thị Thu Phương

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52 A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

9

GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
cho một lượng kinh phí khá lớn cho cơng tác tun truyền và đề phịng hạn chế tổn
thất.
Góp phần ổn định chi tiêu cho ngân sách nhà nước
Với quỹ bảo hiểm do các thành viên tham gia đóng góp, cơng ty bảo hiểm sẽ
trợ cấp hoặc bồi thường tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia để họ
khôi phục đời sống kinh doanh. Như vậy, ngân sách Nhà nước không phải chi trả
cho các các nhân, doanh nghiệp khi gặp rủi ro trừ trường hợp tổn thất mang tính
chất thảm họa, mang tính xã hội rộng lớn.
Bảo hiểm xe cơ giới góp phần huy động vốn để đầu tư phát triển kinh tế xã hội.
Với việc thu phí theo ngun tắc ứng trước, các cơng ty bảo hiểm sở hữu một
quỹ tiền tệ rất lớn thể hiện sự cam kết của nhà bảo hiểm với khách hàng nhưng tạm
thời là quỹ nhàn rồi. Do vậy, các công ty bảo hiểm đã trở thành các nhà đầu tư lớn,
quan trọng cho các hoạt động kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân.
1.2. Nội dung của bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
1.2.1. Đối tượng bảo hiểm
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới là bảo hiểm trách nhiệm bồi

thường thiệt hại cho người thứ ba khi xe cơ giới hoạt động gây ra tai nạn. Nói khác
đi, bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới là biện pháp kinh tế huy động sự
đóng góp của các chủ phương tiện hình thành nên quỹ bảo hiểm. Quỹ đó được sử
dụng để bồi thường cho các chủ xe trong thời hạn hợp đồng bảo hiểm lưu hành xe
gây tai nạn phát sinh trách nhiệm dân sự chủ xe.
Người tham gia bảo hiểm thơng thường là chủ xe, có thể là cá nhân hay đại
diện cho một tập thể. Công ty bảo hiểm chỉ nhận bảo hiểm cho phần trách nhiệm
dân sự của chủ xe phát sinh do sự hoạt động và điều khiển của người lái xe. Như
vậy, đối tượng được bảo hiểm là trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với
người thứ ba. Trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là trách
nhiệm hay nghĩa vụ bồi thường ngoài hợp đồng của chủ xe hay lái xe cho người thứ
ba khi xe lưu hành gây tai nạn.
Đối tượng được bảo hiểm không được xác định trước. Chỉ khi nào việc lưu
hành xe gây tai nạn có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ ba

Bùi Thị Thu Phương

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52 A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

10

GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
thì đối tượng này mới được xác định cụ thể. Các điều kiện phát sinh trách nhiệm
dân sự của chủ xe đối với người thứ ba bao gồm:
- Điều kiện thứ nhất: có thiệt hại về tài sản, tính mạng hoặc sức khỏe của bên
thứ ba.
- Điều kiện thứ hai: chủ xe (lái xe) phải có hành vi trái pháp luật. Có thể do vơ

tình hay cố ý mà lái xe vi phạm luật giao thông đường bộ hoặc vi phạm các quy
định khác của Nhà nước…
- Điều kiện thứ ba: phải có mối qian hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật
của chủ xe (lái xe) với những thiệt hại của người thứ ba.
- Điều kiện thứ tư: chủ xe (lái xe) phải có lỗi.
Thực tế chỉ cần đồng thời xảy ra ba điều kiện thứ nhất, thứ hai và thứ ba là phát
sinh trách nhiệm dấn sự đối với người thứ ba của chủ xe (lái xe). Nếu thiếu một
trong ba điều kiện đó, trách nhiệm dân sự của chủ xe sẽ không phát sinh và do đó
khơng phát sinh trách nhiệm của bảo hiểm. Điều kiện thứ tư có thể có hoặc khơng,
vì nhiều khi tai nạn xảy ra là do nguồn nguy hiểm cao độ mà khơng hồn tồn do lỗi
của chủ xe (lái xe). Ví dụ: Xe đang chạy bị nổ lốp, lái xe mất khả năng điều khiển
nên đã gây tai nạn. Trong trường hợp này, trách nhiệm dân sự vẫn có thể phát sinh
nếu có đủ ba điều kiện đầu tiên.
Chú ý rằng, bên thứ ba trong bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới là những người
trực tiếp bị thiệt hại do hậu quả của vụ tai nạn, nhưng loại trừ:
1.2.2.

Lái, phụ xe, người làm công cho chủ xe;
Những người lái xe phải nuôi dưỡng như cha, mẹ, cợ, chồng, con cái…
Hành khách, những người có mặt trên xe;
Tài sản, tư trang, hành lý của những người nêu trên;
Phạm vi bảo hiểm

Công ty bảo hiểm nhận bảo đảm cho các rủi ro bất ngờ không lường trước được
gây ra tai nạn và làm phát sinh TNDS của chủ xe. Cụ thể, các thiệt hại nằm trong
phạm vi trách nhiệm của công ty bảo hiểm bao gồm:
-

Thiệt hại về tính mạng và tình trạng sức khỏe của bên thứ ba;
Thiệt hại về tài sản, hàng hóa…của bên thứ ba;

Thiệt hại tài sản làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh hoặc giảm thu nhập;

Bùi Thị Thu Phương

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52 A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

11

GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
- Các chi phí cần thiết và hợp lý để thực hiện các biện pháp ngăn ngừa, hạn
chế thiệt hại; các chi phí thực hiện biện pháp đề xuất của cơ quan bảo hiểm (kể cả
biện pháp không mang lại hiệu quả);
- Những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của những người tham gia cứu chữa,
ngăn ngừa tai nạn, chi phí cấp cứu và chăm sóc nạn nhân.
Cơng ty bảo hiểm không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các vụ tai
nạn mặc dù có phát sinh trách nhiệm dân sự trong các trường hợp sau:
- Hành động cố ý của chủ xe, lái xe và người bị thiệt hại;
- Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an tồn để tham gia giao thơng
theo quy định của điều lệ trật tự an tồn giao thơng vận tải đường bộ;
- Chủ xe hoặc lái xe vi phạm nghiêm trọng trật tự an tồn giao thơng đường bộ
như:
Xe khơng có giấy phép lưu hành, giấy chứng nhận an tồn kiểm định và mơi
trường.
Lái xe khơng có bằng lái hoặc bằng lái bị tịch thu, bằng không hợp lệ.
Lái xe bị ảnh hưởng bởi các chất kích thích như: rượu, bia, ma túy…
Xe chở chất cháy, chất nổ trái phép.
Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, đua xe trái phép, chạy thử sau khi sửa

chữa.
Xe đi vào đường cấm, đi đêm khơng có đèn hoặc chỉ có đèn bên phải,
Xe khơng có hệ thống lái bên phải.
- Thiệt hại do chiến tranh, bạo động.
- Thiệt hại gián tiếp do tai nạn như giảm giá trị thương mại, làm định trệ sản
xuất kinh doanh.
- Thiệt hại đối với tài sản bị cướp, mất cắp trong tai nạn.
- Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ quốc gia, trừ khi có thỏa thuận khác.
Ngồi ra, cơng ty bảo hiểm cũng không chịu trách nhiệm đối với tài sản đặc biệt
như vàng, bạc, đá quý, tiền, đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm, thi hài, hài cốt.
1.2.3. Số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm là khoản tiền được xác định trong HĐBH thể hiện giới hạn
trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm. Điều đó có nghĩa là, trong bất kỳ trường
hợp nào, số tiền bảo hiểm hay số tiền chi trả cao nhất của doanh nghiệp bảo hiểm
cũng chỉ bằng STBH.
Bùi Thị Thu Phương

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52 A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

12

GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
Trong bảo hiểm tài sản, STBH được xác định theo ba trường hợp:
- STBH < GTBH: Được gọi là bảo hiểm dưới giá trị. Ví dụ, chủ một xe ơ tô
chỉ tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới cho phần thân, vỏ xe, lúc này STBH được
xác định căn cứ vào phần thân vỏ xe nhỏ hơn giá trị của chiếc xe được bảo hiểm.
- STBH = GTBH: Được gọi là bảo hiểm ngang giá trị.

- STBH > GTBH: Được gọi là bảo hiểm trên giá trị.
Trên thực tế, hầu hết mọi trường hợp người tham gia bảo hiểm thường tham gia
dưới giá trị hoặc ngang giá trị. Còn trong trường hợp bảo hiểm trên giá trị thường
chỉ xảy ra khi có thỏa thuận trước giữa cơng ty bảo hiểm và người tham gia bảo
hiểm, hay gặp trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu.
Đối với bảo hiểm con người, STBH được xác định dựa trên sự thỏa thuận của
hai bên và khả năng tài chính của người tham gia bảo hiểm. Còn trong bảo hiểm
TNDS, STBH thường được xác định đưa trên sự thỏa thuận.
Trong loại hình bảo hiểm TNDS nói chung, STBH bao giờ cũng biểu hiện hạn
mức trách nhiệm của nghiệp vụ. Hạn mức này cao hay thấp hoàn toàn phụ thuộc
vào điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong mỗi thời kỳ cụ thể. Ở Việt Nam
hiện nay, STBH trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba được
giới hạn ở mức 50 triệu đồng/người/vụ tai nạn; Mức trách nhiệm bảo hiểm đối với
thiệt hại về tài sản do xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy và các loại
xe cơ giới tương tự (kể cả xe cơ giới dùng cho người tàn tật) gây ra là 30 triệu đồng/
1 vụ tai nạn; Mức trách nhiệm bảo hiểm đối với thiệt hại về tài sản do xe ô tô, máy
kéo, xe máy thi công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp và các loại xe đặc chủng
khác sử dụng vào mục đích an ninh, quốc phịng (kể cả rơ-mc và sơ mi rơ-mc
được kéo bởi xe ơ tơ hoặc máy kéo) gây ra là 50 triệu đồng/1 vụ tai nạn. Tài sản ở
đây được hiểu là tài sản vật chất và mức độ thiệt hại kinh doanh.
Phí bảo hiểm (cịn được gọi là giá cả của sản phẩm bảo hiểm) là số tiền mà
người tham gia bảo hiểm phải trả cho công ty bảo hiểm để đổi lấy sự đảm bảo
trước các rủi ro chuyển sang cho công ty bảo hiểm. Thuật ngữ “phí bảo hiểm”
thường được dùng trong các doanh nghiệp bảo hiểm. Trong khi đó các tổ chức hay
hội tương hỗ sử dụng thuật ngữ “mức đóng góp”. Cơ cấu phí bảo hiểm gồm 2 phần:
P=f+d
Trong đó: P: Phí bảo hiểm tồn bộ
f: Phí thuần

Bùi Thị Thu Phương


Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52 A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

13

GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
d: Phụ phí
Trong bảo hiểm TNDS, phí bảo hiểm được tính theo đầu phương tiện. Người
tham gia bảo hiểm đóng phí bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
theo số lượng đầu phương tiện của mình. Mặt khác, các phương tiện khác nhau về
chủng loại, về độ lớn có xác suất gây ra tai nạn khác nhau nên phí bảo hiểm được
tính riêng cho từng loại phương tiện (hoặc nhóm phương tiện). Phí bảo hiểm tính
cho mỗi đầu phương tiện đối với mỗi loại phương tiện (thường tính theo năm) là: P
= f + d.
Trong đó: P – Phí bảo hiểm/đầu phương tiện
f – Phí thuần
d – Phụ phí (được quy định là tỷ lệ phần trăm nhất định so với
tổng phí bảo hiểm).
Phí thuần được xác định theo cơng thức:

Trong đó:
Si – Số vụ tai nạn có phát sinh TNDS của chủ xe được bảo hiểm bồi thường
trong năm i.
Ti – Số tiền bồi thường bình qn 1 vụ tai nạn có phát sinh TNDS trong
năm i.
Ci – Số đầu phương tiện tham gia bảo hiểm TNDS trong năm i.
n – Số năm thống kê, thường từ 3-5 năm, i=

Như vậy, f thực chất là số tiền bồi thường bình quân trong thời kỳ n năm cho
mỗi đầu phương tiện tham gia bảo hiểm trong thời kỳ đó. Đây là cách tính bảo hiểm
cho các phương tiện thông dụng trên cơ sở quy luật số đông. Đối với các phương
tiện không thông dụng, mức độ rủi ro lớn hơn như xe kéo romooc, xe chở hàng
nặng,…thì tính thêm tỷ lệ phụ phí so với mức phí cơ bản. Ở Việt Nam hiện nay
thường cộng thêm 30% mức phí cơ bản.
Đối với các phương tiện hoạt động ngắn hạn (dưới một năm), thời gian tham
gia bảo hiểm được tính trịn tháng và phí bảo hiểm được xác định như sau:
Bùi Thị Thu Phương

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52 A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

14

GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường

Phíngắn hạn =
Hoặc:
Phíngắn hạn = Phínăm x Tỷ lệ phí ngắn hạn theo tháng
Trường hợp đã đóng phí (tham gia bảo hiểm) cả năm, nhưng vào một thời điểm
nào đó phương tiện không hoạt động nữa hoặc chuyển sở hữu mà khơng chuyển
quyền bảo hiểm thì chủ phương tiện sẽ được hồn phí bảo hiểm tương ứng với số
thời gian cịn lại của năm (làm trịn tháng) nếu trước đó chủ phương tiện chưa có
khiếu nại và được bảo hiểm bồi thường. Số phí được hồn lại được xác định như
sau:
Phíhồn lại


=

Phí năm x số tháng khơng hoạt động
12 tháng

Nộp phí bảo hiểm là trách nhiệm của chủ phương tiện. Tùy theo số lượng phương
tiện, công ty bảo hiểm sec quy định thời gian, số lần nộp và mức phí tương ứng có
xét giảm phí theo tỷ lệ tổn thất và giảm phí theo số lượng phương tiện tham gia bảo
hiểm (tối đa thường giảm 20%). Nếu không thực hiện đúng quy định sẽ bị phạt. Ví
dụ:
Chậm từ 01 ngày đến 02 tháng phải nộp thêm 100% mức phí cơ bản.
Chậm từ 02 đến 04 tháng nộp thêm 200% mức phí cơ bản.
Chậm từ 04 tháng trở lên nộp thêm 300% mức phí cơ bản…
Hoặc hủy hợp đồng bảo hiểm.
1.3. Quy trình triển khai bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối
với người thứ ba
1.3.1. Công tác khai thác
Quá trình khai thác có hệ thống có thể nói đó là khâu đầu tiên và là khâu quan
trọng nhất của một chu kỳ kinh doanh bảo hiểm. Đặc biệt nó lại càng có ý nghĩa đối
với nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm của chủ xe cơ giới. Thực chất của quá trình
khai thác nghiệp vụ bảo hiểm này là bằng mọi biện pháp để khuyến khích đoọng
viên các chủ xe tham gia bảo hiểm một cách tối ưu. Quá trình khai thác có vai trị

Bùi Thị Thu Phương

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52 A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp


15

GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định chủ yếu tới nghiệp vụ kinh doanh bảo
hiểm, bởi vì có tổ chức khai thác tốt thì mới thu được nhiều phí bảo hiểm của các
chủ xe để hình thành nên các quỹ bảo hiểm, từ đó dùng để chi trả bồi thường, bù
đắp các chi phí, trích lập các quỹ thực nghiệm của cơng ty.
Bên cạnh đó do đặc điểm của hoạt động kinh doanh kinh doanh bảo hiểm thì
các khoản thu từ phí bảo hiểm gốc lại là phần chủ yếu trong thu nhập của nghiệp vụ
bảo hiểm này.
Nhận biết được đây là khâu then chốt trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Cơng ty bảo hiểm Tồn cầu đã mở rộng địa bàn hoạt động nhằm khai thác một cách
triệt để các khách hàng. Trưởng phòng cùng với cán bộ cơng nhân viên trong phịng
Phi hàng hải lập một kế hoạch khai thác cụ thể rõ ràng. Những cán bộ phụ trách kế
toán, thủ quỹ, thống kê thường xuyên ở tại phòng phục vụ bán bảo hiểm cho các
chủ xe trực tiếp đến tham gia tại các văn phòng cịn những cán bộ khai thác khác
được phân cơng cụ thể đến từng địa bàn thành phố cũng như các doanh nghiệp, xí
nghiệp lắp ráp phụ tùng ơ tơ - xe máy, bến xe... để liên hệ, chỉ rõ cho các chủ xe
thấy được quyền lợi khi tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ phương tiện.
Tích cực tuyên truyền về nội dung, ý nghĩa mục đích của chế độ bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba để chủ xe hiểu được quyền lợi
và nghĩa vụ của họ khi tham gia bảo hiểm. Hơn thế nữa, phòng còn tổ chức thực
hiện việc thu phí và cấp giấy chứng nhận bảo hiểm nhanh, gọn, tạo điều kiện cho
các chủ xe tham gia bảo hiểm được thuận lợi và dễ dàng. Đồng thời phịng cịn có
mối quan hệ tốt, tranh thủ được sự ủng hộ của huyện uỷ, UBND, các cấp, các ngành
trong địa bàn các Tỉnh, thành phố để phục vụ một cách tốt nhất được đến " tận tay"
các đối tượng bảo hiểm.
Nói tóm lại, trong những năm gần đây, về khâu khai thác ở GIC đã đạt được kết
quả khả quan. Phần lớn là khai thác lượng xe ô tô lưu hành trên địa bàn. Số lượng
xe máy khai thác được qua các năm tăng lên rõ rệt. Tuy nhiên, trong thời gian tới,

cơng ty vẫn phải có những biện pháp để có thể khai thác triệt để lưu lượng xe trên
địa bàn, nhất là xe máy.

1.3.2. Công tác giám định

Bùi Thị Thu Phương

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52 A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

16

GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
Công tác giám định tổn thất nhằm xác định mức độ thiệt hại của bên thứ ba và
mức độ lỗi của các chủ phương tiện đồng thời xác định xem nguyên nhân xảy ra tai
nạn và xem xét nguyên nhân đó có thuộc phạm vi bảo hiểm hay khơng.
Trong cơng tác giám định phải có sự chứng kiến của ba bên: chủ xe, người thứ
ba hoặc là địa diện hợp pháp của bên thứ ba, bên bảo hiểm. Nếu chủ xe hoặc người
thứ ba không thống nhất về mức độ thiệt hại do doanh nghiệp bảo hiểm xác định,
hai bên sẽ thỏa thuận chọn giám định viên chuyên nghiệp giám định lại. Kết luận
này sẽ là kết luận cuối cùng.
Nếu kết luận của giám định viên có sai khác lớn với kết quả giám định của cơng
ty bảo hiểm thì cơng ty sẽ chịu chi phí, ngược lại thì chủ xe hoặc người thứ ba phải
chịu.
Xác định thiệt hại thực tế của bên thứ ba
Thơng thường thì thiệt hại thực tế của bên thứ ba bao gồm:
-


Thiệt hại về tài sản.
Thiệt hại về con người.

Đối với thiệt hại về tài sản
Thiệt hại về tài sản bao gồm 2 trường hợp:
Trường hợp 1: Tài sản bị mất, bị hư hỏng hoặc hủy hoại không thể sửa chữa
được. Trong trường hợp này thiệt hại ề tài sản sẽ được xác định bằng giá mua của
tài sản cùng loại trên thị trường.
Trường hợp 2: Tài sản có thể sửa chữa được, thiệt hại là chi phí hợp lý để sửa
chữa nó. Nếu phải thay thế mới phải trừ đi giá trị khấu hao. Cần lưu ý thiệt hại về
tài sản khơng tính đền những thiệt hại về những hư hỏng phát sinh trong q trình
sửa chữa mà khơng liên quan đến tai nạn.
Đối với thiệt hại về người
-

Trong trường hợp bị thương:
Các chi phí cần thiết và hợp lý cho cơng việc cứu chữa, bồi dường phục hồi
sức khỏe và chức năng bị mất như: chi phí cấp cứu, tiền hao phí vật chất và các chi
phí y tế khác (thuốc men, dịch truyền,…).

Bùi Thị Thu Phương

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52 A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

17

GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường

Các chi phí hợp lý và phần thu nhập bị mất của người chăm sóc nạn nhân,
khoản tiền cấp dưỡng cho người mà bệnh nhân có nghĩa vụ ni dưỡng.
Khoản thu nhập bị giảm sút hay bị mất của người đó.
Khoản tiền bù đắp những tổn thất về tinh thần
- Trong trường hợp nạn nhân bị chết:
Chi phí hợp lý, chăm sóc và cứu chữa cho người thứ ba trước khi chết.
Chi phí hợp lý cho việc mai táng (những chi phí hủ tục khơng được thanh tốn).
Tiền trợ cấp cho những người mà người thứ ba phải nuôi dưỡng (vợ,
chồng, con cái, cha, mẹ…)
Như vậy tổng thiệt hại của bên thứ ba = Thiệt hại về tài sản+Thiệt hại về người
1.3.3. Công tác bồi thường
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại:
Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Mức bồi thường và hình
thức bồi thường do hai bên thoả thuận với nhau trong biên bản hoà giải hoặc do
tồn án phán quyết.
Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu do lỗi vô ý mà gây ra
thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình. Khi q mức
bồi thường khơng cịn phù hợp với thực tế thì hai bên có quyền u cầu tồ án hoặc
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.
Tính tốn mức bồi thường của người gây thiệt hại:
Mức bồi thường thiệt hại phụ thuộc vào mức độ lỗi của người gây thiệt hại và
thiệt hại của nạn nhân. Trường hợp tai nạn xảy ra hoàn toàn do lỗi của người gây
thiệt hại thì họ có nghĩa vụ bồi thường toàn bộ thiệt hại cho nạn nhân.
Trường hợp cả bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại cùng có lỗ thì bên gây thiệt
hại vẫn phải bồi thường phù hợp với mức độ lỗi của họ. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn
toàn do lỗi của một người nào khác thì người này phải bồi thường. Nếu lỗi của
người này và lỗi của phía xe cơ giới đều là nguyên nhân gây tai nạn thì hai bên đều
phải liên đới bồi thường cho nạn nhân theo mức độ lỗi của mình.
Trách nhiệm bồi thường của mỗi bên bằng thiệt hại của nạn nhân và mức độ lỗi
của từng bên.

Quy trình và hồn chỉnh hồ sơ:
Bùi Thị Thu Phương

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52 A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

18

GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
Khi xảy ra tai nạn thuộc phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm, người bảo hiểm
phải hướng dẫn và giúp chủ xe hồn chỉnh hồ sơ bồi thường. Thơng thường trong
một bộ hồ sơ chủ xe phải cung cấp cho nhà bảo hiểm những giấy tờ tài liệu sau:
-

Tờ khai tai nạn của chủ xe
Bản sao giấy chứng nhận bảo hiểm
Biên bản khám nghiệm hiện trường
Biên bản khám nghiệm xe
Bản kết luận điều tra tai nạn (nếu có)
Biên bản hồ giải hoặc quyết định của toà án

Các chứng từ liên quan đến tổn thất, những khiến nại của nạn nhân như các hố
đớn chứng từ về viện phí, các chi phí y tế, tiền tàu xe, mai táng phí, hố đơn sửa
chữa mua mơi tài sản .v.v…
Xác định số tiền bồi thường của nhà bảo hiểm:
Căn cứ vào hồ sơ tai nạn, căn cứ vào việc tính tốn trách nhiệm bồi thường của
người được bảo hiểm, căn cứ vào han mức trách nhiệm đã thoả thuận trong hợp
đồng bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm, nhà bảo hiểm có thể tính tốn số

tiền bồi thường. Nhà bảo hiểm có thể bồi thường cho chủ xe hoặc có thể yêu cầu họ
bồi thường trực tiếp cho nạn nhân.
Trường hợp tai nạn xảy ra do lỗi của một người nào đó, sau khi bồi thường, nhà
bảo hiểm sẽ thay chủ xe khiếu nại người có lỗi này. Trường hợp hai xe cùng chủ
đâm vào nhau, thiệt hại của hai xe không phát sinh trách nhiệm bồi thường của nhà
bảo hiểm, tuy nhiên nhà bảo hiểm sẽ phải bồi thường nếu vụ tai nạn này làm thiệt
hại cho một người thứ ba nào khác.
Nhà bảo hiểm sẽ từ chối bồi thường trong trường hợp người được bảo hiểm vì áp
lực, vì dễ dãi đã thoả hiệp với nạn nhân dù khơng có cơ sở. Nhà bảo hiểm cũng sẽ
từ chối bồi thường nếu có bằng chứng chứng minh được sự thơng đồng gian lận
giữa nạn nhân và người được bảo hiểm.
Việc bồi thường của nhà bảo hiểm được tiến hành trong một lần, tuy nhiên có
những trường hợp để giảm bớt những khó khăn về tài chính cho chủ xe, nhà bảo
hiểm có thể cho chủ xe ứng trước một số tiền bồi thường. Sau khi đã hoàn chỉnh hồ

Bùi Thị Thu Phương

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52 A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

19

GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
sơ, tính tốn số tiền bồi thường cụ thể, nhà bảo hiểm sẽ trừ đi số tiền mà chủ xe đã
ứng trước này.
Trường hợp có bảo hiểm trùng, người được bảo hiểm có thể được những quyền
lợi từ các hợp đồng đã ký song tổng số tiền bồi thường của các nhà bảo hiểm cũng
không vượt quá trách nhiệm bồi thường của người được bảo hiểm đối với người thứ

ba.
Toàn bộ thiệt hại thực tế của bên thứ ba được tính như sau:
Thiệt hại thực tế của bên thứ ba bằng thiệt hại về tài sản công thiệt hại về tính
mạng, sức khoẻ bằng thiệt hại về tài sản cộng chi phí về nạn nhân cộng thu nhập
của giảm sút hoặc bị mất.
Khi có tai nạn xảy ra phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe thuộc phạm vi
trách nhiệm của bảo hiểm, số tiền bảo hiểm bồi thường được tính tốn dự trên 2 cơ
sở yếu tố:
-

Thiệt hại thực tế của bên thứ ba
Mức độ lỗi của chủ xe trong vụ tai nạn

Trên cơ sở đó số tiền bồi thường được tính tốn theo cơng thức sau:
Số tiền bồi thường = lỗi của chủ xe x thiệt hại bên thứ ba + bồi thường nhân
đạo
Bồi thường nhân đạo: Được áp dụng trong các trường hợp thiệt hại không thuộc
phạm vi bồi thường của công ty, mặc dù xe gây tai nạn có tham gia bảo hiểm. Được
áp dụng cho các trường hợp sau:
- Nạn nhân có thu nhập bị mất, giảm nhưng khơng địi bồi thường về mất giảm
thu nhập.
- Nạn nhân có thu nhập thấp thuộc các đối tương chính sách Nhà nước (người
hưởng lương hưu, trợ cấp xã hội) mặc dù thu nhập không bị mất, giảm.
- Nạn nhân khơng có thu nhập như: trẻ em chưa đến tuổi lao động, ngưịi già
khơng cịn sức lao động, người tàn tật.
- Nạn nhân bị chết nhưng gia đình nạn nhân khơng được hưởng về bồi thường
mất, giảm thu nhập, vì khi cịn sống nạn nhân khơng phải ni dưỡng hay trợ cấp
cho gia đình.

Bùi Thị Thu Phương


Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52 A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

20

GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
- Nạn nhân bị tai nạn ô to nhưng ô tô gây tai nạn bỏ chạy hoặc chủ xe chưa
tham gia bảo hiểm hoặc bảo hiểm đã hết hiệu lực.
- Nạn nhân thuộc các đối tượng nói trên bị thương tật từ 61% trở lên hoặc bị
chết được hưởng mức trợ cấp cao nhất.
1.3.4. Cơng tác đề phịng, hạn chế rủi ro
Cơng tác đề phịng và hạn chế tổn thất không những chỉ mang lại cho công ty về
hậu quả kinh doanh mà nó cịn thực hiện mục tiêu cao cả và mang lại sự an toàn cho
xã hội, tạo điều kiện cho con người luôn được yên tâm trong sản xuất kinh doanh.
Nắm bắt được ý nghĩa đó, Bảo Hiểm Toàn cầu thường cử cán bộ, nhân viên xuống
các đơn vị tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người
thứ ba để cơng tác này ngày càng đóng vai trị hết sức quan trọng.
Nhận rõ được tầm quan trọng của công tác đề phòng và hạn chế tổn thất trong
mấy năm qua công ty đã áp dụng nhiều biện pháp nhằm giảm tối đa số vụ tai nạn có
thể xảy ra cũng như thiệt hại của nó: Đặt các panơ, áp phích, biển báo tại các đầu
mối giao thông hay tại một số đoạn đường nguy hiểm thường xảy ra tai nạn. Phối
hợp cùng các ngành chức năng tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân về luật lệ giao
thông nhằm nâng cao ý thức chấp hành luật lệ an tồn giao thơng của người dân.
Ngồi ra, phịng bảo hiểm số 2 cịn áp dụng các biện pháp thưởng, phạt đối với
những xe chấp hành tốt hoặc không đúng luật lệ giao thông. Hơn thế nữa, thỉnh
thoảng phòng còn tổ chức các hội nghị khách hàng với mục đích nhằm khuyến
khích và giáo dục các chủ xe ln có ý thức trách nhiệm khi hoạt động xe của mình.

Trong phạm vi kinh phí được duyệt, công ty luôn cố gắng làm hết sức mình để người
tham gia bảo hiểm có ý thức, trách nhiệm tốt hơn trong cơng tác đề phịng và hạn
chế tổn thất.
1.4. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả việc triển khai
bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại
công ty CP bảo hiểm Toàn cầu – GIC
Việc sử dụng các chỉ tiêu là để đánh giá kết quả và hiệu quả là để phân tích hoạt
động kinh doanh của cả doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và của từng nghiệp vụ
bảo nói riêng. Vì các chỉ tiêu này là cơ sở chính xác, thực tế để xem xét q trình
kinh doanh. Dựa trên kết quả phân tích, chung ta đánh giá được tình hình thực hiện
kế hoạch, phương hướng và mục tiêu mà doanh nghiệp bảo hiểm đặt ra đối với mỗi

Bùi Thị Thu Phương

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52 A



×