Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Đánh giá môi trường kinh doanh ảnh hưởng đến hoạt động bancassurance tại bảo việt nhân thọ và một số ý kiến đề xuất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.48 KB, 53 trang )

Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài:
Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh luôn gắn liền với nhiều rủi ro
tiềm ẩn nh: rủi ro lÃi suất, rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro mất khả năng thanh toán
Vì vậy việc đổ vỡ và phá sản của các tổ chức tín dụng hoạt động yếu kém là điều
khó tránh khỏi. Đối với nền kinh tế, việc xử lý những hậu quả do quá trình kinh
doanh không thành công của các tổ chức tín dụng không đơn giản chỉ là tuyên bố
phá sản tổ chøc nµy hay tỉ chøc kia mµ tríc hÕt no làm tổn thơng đến niềm tin của
dân chúng. Nếu không có những biện pháp thích hợp sẽ còn gây ra những bất ổn
khôn lờng về kinh tế chính trị, xà hội, gây hoang mang giao động trong dân chúng
và tạo ra tâm lý bất lợi cho hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng. Chính vì
thế, bên cạnh sự ổn định về chính trị xà hội thì việc bảo đảm cho một nền kinh tế
phát triển an toàn, lành mạnh luôn là một mục tiêu và là nhiệm vụ quan trọng đối
với mỗi quốc gia. Vậy vấn đề đặt ra là làm sao giữ đợc lòng tin của dân chúng? làm
sao giữ đợc ổn định cho hoạt động tín dụng?
Nhận thức rõ đợc tầm quan trọng đó, Nhà nớc ta đà đa ra những chính sách
cũng nh ban hành các văn bản pháp luật nhằm tạo ra một môi trờng lành mạnh, an
toàn cho hoạt động tài chính tiền tệ. Riêng đối với ngành ngân hàng, bên cạnh
việc hoàn thiện các quy định pháp luật về ngân hàng, Chính phủ cũng đà ban hành
những văn bản pháp lt míi ®Ĩ ®iỊu chØnh mét nghiƯp vơ míi ë Việt Nam, đó là
nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi. Qua việc học hỏi kinh nghiệm về mô hình, tổ chức
quản lý về bảo hiểm tiền gửi của các quốc gia trên thế giới, lần đầu tiên tổ chức bảo
hiểm tiền gửi ở Việt Nam đợc thành lập theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg
ngày 09/11/1999 của Thủ tớng chính phủ. Tổ chức b¶o hiĨm tiỊn gưi ViƯt Nam thùc
hiƯn nhiƯm vơ b¶o hiểm trên cơ sở pháp lý là Nghị định 89/1999/NĐ-CP ngày
01/09/1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi và nghị định 109/2005/NĐ-CP
ngày 24/08/2005 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
89/1999/NĐ-CP, cùng các văn bản hớng dẫn. Trong thời gian qua, cơ sở pháp lý
cho sự hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi đà thể hiện đợc nhiều u điểm. Tuy
nhiên trong điều kiện hiện nay, khi nền kinh tế thế giới đang ngày càng có sự liên
kết, hội nhập, kinh tế đất nớc đang ngày càng phát trển, đời sống nhân dân đợc nâng


caothì Nghị định của Chính Phủ số 89/1999/NĐ-CP, Nghị định số 109/2005/NĐCP và các văn bản hớng dẫn vẫn còn những điểm cần đợc sửa đổi bổ sung để hoàn
thiện hơn trong thời gian tới. Đặc biệt khi Việt Nam là thành viên của tổ chức thơng
mại thế giới (WTO) thì riêng đối với ngành ngân hàng, yêu cầu an toàn, phát triển
lành mạnh, ổn định lại càng cần phải đợc đặt ra. Việc nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực tiễn pháp lý của hoạt động bảo hiểm tiền gửi mang một ý nghĩa thời sự
nóng bỏng. Bởi lý do trên mà tôi quyết định chọn vấn đề chế độ bảo hiểm tiền gửi
1


ở Việt Nam, thực trạng và phơng hớng hoàn thiện làm đề tài cho luận văn tốt
nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài:
- Với việc quyết định lựa chọn đề tài, tôi muốn nghiên cứu sâu những nội
dung cơ bản của chế độ bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam từ khi ra đời cho tới nay.
- Tìm hiểu và đánh giá về vai trò của bảo hiểm tiền gửi đối với hoạt động tài
chính-ngân hàng nói riêng và đối với sự phát triển kinh tế-xà hội nói chung.
- Nghiên cứu thực trạng của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam để thấy đợc những
thành tựu và tồn tại cần khắc phục để từ đó đa ra những phơng hớng cả về lý luận và
thực tiễn nhằm góp phần hoàn thiện chế độ bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu cơ chế pháp lý điều chỉnh hoạt động bảo hiểm
tiền gửi ở Việt Nam hiện nay và thực trạng của hoạt động bảo hiểm tiền gửi, đồng
thời tìm hiểu pháp luật bảo hiểm tiền gửi ở một số nớc trên Thế giới để từ đó so
sánh, đánh giá nhằm tìm ra phơng hớng để hoàn thiện chế độ bảo hiểm tiền gửi ở
Việt Nam.
4. Phơng pháp nghiên cứu đề tài:
Trong quá trình thực hiện luận văn, đà sử dụng phơng pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac-Lênin làm cơ sở lý luận.
Ngoài ra để thực hiện luận văn này, những phơng pháp đợc sử dụng kết hợp
nh: phơng pháp so sánh, phơng pháp hệ thống, phơng pháp phân tích và tổng hợp,

phơng pháp thống kê và phơng pháp quy nạp.
5. Kết cấu của luận văn:
Ngoài hai phần mở đầu và kết luận chung, luận văn chế độ bảo hiểm tiền
gửi ở Việt Nam, thực trạng và phơng hớng hoàn thiện đợc trình bày theo hai chơng
sau:
Chơng I: Những vấn đề chung về bảo hiểm tiền gửi.
Chơng II: Thực trạng pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam và phơng hớng hoàn thiện.
Trong khuân khổ của một luận văn tốt nghiệp, cùng với vốn hiểu biết có hạn
của một sinh viên, nên bản luận văn này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì
vậy tôi rất mong đợc sự góp ý của các thầy giáo, cô giáo cùng các bạn sinh viên để
giúp tôi hoàn thiện kiến thức bản thân.

2


Chơng I
Những vấn đề chung về BHTG
và chế độ BHTG ở Việt Nam.
1.1. Những vấn đề chung về BHTG:
1.1.1. Khái niệm chung về BHTG:
BHTG đà xuất hiện rất lâu trên thế giới, từ năm 1829, hoạt động BHTG đợc
thực hiện tại Mỹ nhằm phòng ngừa sự đổ vỡ mang tính chất dây chuyền của ngân
hàng vào thế kỷ 19. MÃi đến năm 1934, cơ quan BHTG công khai của Nhà nớc Mỹ
mới ra đời (FDIC) nhằm củng cố lòng tin của nhân dân vào hệ thống ngân hàng,
bảo vệ ngời gửi tiền. Từ đó cho đến nay, các quốc gia trên thế giới cùng lần lợt cho
ra đời các tổ chøc BHTG nh»m b¶o vỊ ngêi gưi tiỊn tríc nguy cơ phá sản của các tổ
chức tài chính, đảm bảo ổn định của hệ thống ngân hàng và hạn chế các cuộc khủng
hoảng tài chính. Vậy BHTG là gì? có thể hiểu BHTG là loại hình bảo hiểm với
những đặc điểm riêng so với loại hình bảo hiểm khác nh thế nào? Đó là vấn đề hiện
nay đợc các nhà nghiên cứu quan tâm.

Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu, thì BHTG đợc hiểu là: một cơ
chế có giới hạn nhng hình thức cung cấp sự bảo đảm mang tính pháp lý cho các
khoản gốc (và thờng cả lÃi) của các khoản tiền gửi, hay BHTG là chính sách bảo
đảm tất cả hoặc một phần tiền gửi cùng lÃi nhập gốc trên tài khoản tiền gửi sẽ đợc

3


thanh toán cho ngời gửi tiền khi ngân hàng nhận tiền gửi bị phá sản hay mất khả
năng thanh toán. 1
Một số quan điểm khác cho rằng: BHTG là loại hình bảo hiểm theo đó bảo
đảm nghĩa vụ chi trả trong tơng lai các khoản tiền gửi cho ngời gửi tiền tại các tổ
chức tham gia BHTG, khi các tổ chức này gặp rủi ro dẫn đến tình trạng không có
khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn bị buộc giải thể hoặc phá sản.
Với các quan điểm nghiên cứu trên đây cho thấy BHTG có thể đợc thực hiện
trong phạm vi hạn chế (các khoản tiền gửi đợc bảo hiểm đến một giới hạn nhất
định) hoặc đợc bảo hiểm hoàn toàn (mọi ngời gửi tiền và tất cả các khoản tiền gửi
đều đợc bảo hiểm) phụ thuộc vào ®iỊu kiƯn kinh tÕ- x· héi cđa tõng níc, trong từng
giai đoạn khác nhau. Ví dụ, vào thời kỳ nền kinh tế ổn định, thị trờng tài chính phát
triển, các quốc gia thờng áp dụng cơ chế bảo hiểm có giới hạn các khoản tiền gửi
nhằm củng cố lòng tin của công chúng vào hệ thống tài chính, duy trì sự ổn định
hoạt động của hệ thống này. Khi nền kinh tế bị khủng hoảng, các quốc gia lại áp
dụng cơ chế bảo hiểm hoàn toàn nhằm ngăn chặn một cách hữu hiệu hiện tợng rút
tiền đồng loạt, bởi lẽ ngời gửi tiền trong trờng hợp nay hoàn toàn tin tởng rằng
BHTG sẽ bảo vệ quyền lợi của họ một cách triệt để khi ngân hàng nào đó bị đổ vỡ.
1.1.2. Đặc điểm của BHTG:
- BHTG là loại nghiệp vụ bảo hiểm phi thơng mại, tính phi thơng mại của
BHTG thể hiện ở chỗ: hoạt động BHTG không nhằm mục tiêu sinh lời mà nhằm
mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngời gửi tiền, thực hiện những mục
tiêu xà hội, vì mục đích của cộng đồng.

ở một số nớc, BHTG là loại nghiệp vụ bảo hiểm mang tính thơng mại, thực
hiện theo nguyên tắc hạch toán. Chẳng hạn ở Đức, quỹ BHTG do Hiệp hội ngân
hàng thơng mại Đức tổ chức. Nó đợc thành lập, hoạt động nh là một tổ chức phi
Chính phủ nhằm tạo ra tính liên kết, tơng trợ giữa các ngân hàng hội viên nhằm bảo
đảm an toàn cho cả hệ thống. Các hội viên đóng góp tiền theo quy định vào quỹ bảo
hiểm. Khi quỹ tạm thời nhàn rỗi, số tiền trong quỹ sẽ đợc tận dụng một cách hợp
pháp để tạo khả năng sinh lời. Quỹ bảo hiểm lập ra nhằm hai mục đích là phòng
ngừa các rủi ro bằng cách quỹ giúp đỡ các thành viên khi gặp khó khăn về khả năng
thanh toán và để thanh toán cho khách hàng khi ngân hàng là thành viên bị phá sản2
- Chủ thể tham gia BHTG chỉ có thể là tổ chức tài chính có nhận tiền gửi của
cộng đồng dới các hình thức nhất định. Với hệ thống BHTG công khai thì sự tham
gia của tổ chức này là bắt buộc nhằm tạo sân chơi bình đẳng giữa các tổ chức này,
tạo nguồn vốn hoạt động cho tổ chức BHTG.
Bài viết Mô hình BHTG trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế TS. Lê Thị Thu Thuỷ trang 6,7 ( tạp chí luật học số
12/2007-Trờng đại học luật Hà Nội)
2 Trang 116 Giáo trình luật ngân hàng Việt Nam-NXB công an nhân dân năm 2007.
1

4


- Phí BHTG là khoản phí do pháp luật quy định, các bên tham gia quan hệ
BHTG không thể thoả thuận về mức phí.
Theo điều 1 khoản 4 điểm 2 Nghị định 109/2005/NĐ-CP của Chính phủ sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 89/1999/NĐ-CP ngày 24/08/2005 quy định:
Tổ chøc tham gia BHTG ph¶i nép phÝ BHTG theo møc 0,15%/năm tính trên số d
tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi đợc bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG.
Nh vậy theo quy định này, mức phí BHTG đà đợc pháp luật ấn định sẵn là
0,15%/năm tính trên sè d tiỊn gưi, c¸c chđ thĨ tham gia quan hƯ BHTG (tỉ chøc
nhËn BHTG, tỉ chøc tham gia BHTG và ngời gửi tiền) không đợc quyền thoả thuận

mức phí bảo hiểm.
Trên thế giới, pháp luật về BHTG ở hầu hết các nớc đều quy định về mức phí
bảo hiểm ấn định sẵn nh: ở Mỹ, pháp luật BHTG quy định tổ chức BHTG của Mỹ
thu phí bảo hiểm là 23 xu cho mỗi trăm đô la tiền gửi mỗi năm 1. ở Nhật Bản, luật
BHTG ban hành ngày 01/04/1971 quy định về mức phí BHTG áp dụng với tỷ lệ
đóng hàng năm là 0,008% trên số d tiền gửi đợc bảo hiểm2. ở Indonesia, theo quy
định tại điều 15 Luật BHTG 2004 quy định: các thành viên đóng phí đồng hạng 6
tháng 1 lần là 0,1% trên tổng số tiền gửi (0,2%/năm). Tỷ lệ phí cố định có thể ®ỵc
®iỊu chØnh sang hƯ thèng phÝ theo møc ®é rđi ro. Trong trờng hợp thiết lập hệ thống
phí điều chỉnh theo mức độ rủi ro, chênh lệch giữa các hạng phí cao nhất không đợc
vợt quá 0,5%3.
- Đối tợng đợc bảo hiểm của BHTG rất đặc biệt, đó là nghĩa vụ thanh toán
các khoản tiền gửi của tổ chức nhận tiỊn gưi ®èi víi ngêi gưi tiỊn. Ngêi nép phÝ
BHTG tách rời ngời thụ hởng bảo hiểm. Có thể nói rđi ro tiỊn gưi cã mèi liªn quan
mËt thiÕt víi hoạt động của các tổ chức nhận tiền gửi. Việc xác định loại tiền gửi
nào đợc bảo hiểm là cơ sở tính phí BHTG định kỳ, phụ thuộc vào chính sách tiền tệ
của mỗi quốc gia.
1.1.3. Vai trò của BHTG :
An toàn trong kinh doanh là yêu cầu bức thiết đối với hoạt động của các
TCTD. Do hoạt động của các TCTD là hoạt động kinh doanh có độ rủi ro cao, hËu
qu¶ cđa rđi ro mang tÝnh ph¶n øng dây chuyền; vì vậy ở các quốc gia hoạt động tín
dụng đợc đặt trong một hành lang pháp lý chặt chẽ với những điều khoản đặc biệt,
nhằm hạn chế tới møc thÊp nhÊt nh÷ng rđi ro. ë ViƯt Nam hiƯn nay, hoạt động của
các TCTD đợc điều chỉnh bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD
ngày 15/06/2004.
Bài viết Tiền tệ - Ngân hàng và Thị trêng tµi chÝnh – trang 294 – Ferederic S-mishkin” (Nhµ xuất bản công an
nhân dân năm 2004).
2 Bài viết Thực hiện triển khai chính sách BHTG ở Nhật Bản T.S. Nguyễn Thị Kim Oanh giám đốc chi nhánh
BHTG Việt Nam khu vực Hà Nội trang 108 (Tạp chí ngân hàng số 1+2 tháng 01/2009).
3 Bài viết Luật BHTG Indonesia kinh nghiệm nào cho Việt Nam của tác giả Thuý Sen đăng trên trang web:

www.div.gov.vn
1

5


Tại điều 20 khoản 1, khoản 7 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các
TCTD ngày 15/06/2004 quy định:
TCTD là doanh nghiệp đợc thành lập theo quy định của Luật các TCTD và
các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng
với nội dung thờng xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và
cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Theo những quy định này, cho thấy TCTD là doanh nghiệp có hoạt động kinh
doanh chính, chủ yếu, thờng xuyên và mang tính nghề nghiệp là hoạt động ngân
hàng. Vậy nội dung hoạt động chủ u cđa TCTD lµ nhËn tiỊn gưi vµ sư dơng tiền
gửi để cấp tín dụng, cung cấp các dịch vụ thanh toán. Qua nội dung hoạt động chủ
yếu này, cho thấy các TCTD luôn có 2 t cách vừa là chủ nợ xong lại vừa là ngời
đi vay. Với t cách chủ nợ họ thờng đặt ra cho khách hàng những yêu cầu nhằm
đảm bảo cho các khoản vay, vì vậy khách hàng muốn vay tiền tại các TCTD thì đều
phải có tài sản đảm bảo hay nói cách khác các TCTD luôn tìm cách nắm đằng
chuôi trong các giao dịch cho vay. Vì vậy khi đến hạn khách hàng không trả đợc
nợ họ sẽ áp dụng một loạt các biện pháp nh: sử dụng lÃi suất nợ quá hạn cao hơn
mức lÃi suất cho vay,thậm trí xử lí tài sản đảm bảo của khách hàng để thu hồi vốn.
Xong với t cách là ngời đi vay thì các TCTD chỉ có một đảm bảo duy nhất đối với
khách hàng là uy tín của mình. Vậy khi TCTD hoạt động không hiệu quả bị giải
thể,phá sản thì những ngời gửi tiền có đợc trả lại số tiền đà gửi hay không? Bởi họ
là những chủ nợ không có bảo đảm nên theo thứ tự chi trả khi TCTD bị phá sản
thì họ sẽ là những ngời cuối cùng đợc thanh toán sau khi đà thanh toán hết cho các
chủ nợ có bảo đảm của TCTD, và nh thế những ngời gửi tiền có thể chỉ nhận đợc

một ít hoặc thậm trí là mất trắng số tiền họ đà tiết kiệm, giành dụm để gửi vào ngân
hàng. Do tâm lý nh vậy, chỉ cần một tác động hay một thông tin nhỏ, họ sẽ rút số
tiền đà gửi tại ngân hàng đồng loạt, và nh vậy các ngân hàng lại dễ rơi vào tình
trạng mất khả năng thanh toán, nguy cơ đổ vỡ là khó tránh khỏi. Ngoài ra, mục đích
huy động một số lợng lớn vốn nhàn rỗi trong dân c của các ngân hàng cũng không
đạt đợc.
Chính vì điều đó mà đặt ra vấn đề là phải tìm một giải pháp, một biện pháp
tối u, an toàn để vừa tạo ra đợc niềm tin cho ngời gửi tiền yếu tố quan trọng
vừa là một biện pháp để giúp cho các TCTD huy động đợc nhiều hơn lợng tiền nhàn
rỗi vốn đợc xem là lớn trong dân c, qua đó giúp cho nền kinh tế quốc gia đợc ổn
định. Mô hình BHTG trên thế giới lần đầu tiên xuất hiện ở Mỹ vào năm 1934, sau
những vụ vỡ nợ ngân hàng hàng loạt vào những năm 1930 1933. BHTG đợc
thành lập nh một cơ quan thực hiện việc bảo hiểm đối với hoạt động ngân hàng.
BHTG tạo lập và duy trì niềm tin của công chúng vào ngành ngân hàng thông qua
6


việc bảo hiểm có mức độ đối với tiền gửi của công chúng trong hệ thống ngân hàng.
BHTG là sản phẩm của nền kinh tế thị trờng và chỉ xuất hiện trong nền kinh tế thị
trờng.
Vai trò của BHTG xuất phát từ bản chất của hoạt động tài chính là luôn gắn
liền với yếu tố niềm tin và mang tính nhạy cảm, lan truyền cao. Mặc dù mỗi quốc
gia có mô hình tổ chức BHTG khác nhau nhng bản chất hoạt động BHTG đều hớng
tới mục tiêu chung. BHTG trớc hết là vì mục tiêu bảo vệ quyền lợi của ngời gửi
tiền. Khi có ngân hàng hay TCTD nào đó bị phá sản, nếu ngân hàng đó tham gia
vào cơ chế BHTG hoặc đợc Chính phủ tuyên bố chi trả BHTG thì những ngời gửi
tiền tại ngân hàng phá sản đó có cơ hội đợc trả một phần hay toàn bộ số tiền gửi của
mình. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là BHTG sẽ làm cho tâm lý của ngời gửi tiền
không bị hoang mang, mất lòng tin và ngời ta sẽ không nghĩ đến việc phải vội vÃ
rút tiền từ các ngân hàng, điều đó tránh đợc sự đổ vỡ mang tính dây chuyền có thể

xảy ra đối với hệ thống ngân hàng. Việc trả BHTG khi TCTD bị phá sản chỉ là giải
pháp cuối cùng nhằm bảo vệ quyền lợi của ngời gửi tiền.
Cần phải nhấn mạnh rằng, với sự tham gia BHTG, các TCTD sẽ có lợi thế
hơn nhiều trong huy động vốn từ tiền gửi và tính an toàn tín dụng, an toàn hệ thống
đợc nâng lên rất nhiều, đó thực sự là cái lợi không nhìn rõ đợc của BHTG đối với
các TCTD. Do vậy, BHTG không chỉ dừng lại ở mục tiêu bảo vệ quyền lợi trực tiếp
của ngời gửi tiền ở ngân hàng, TCTD bị phá sản mà nó còn là một sợi dây vô hình
bảo đảm an toàn tín dụng, hạn chế rủi ro và tránh đợc sự đổ vỡ có tính dây chuyền
của hệ thống tín dụng, từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách vững chắc.
Theo Hiệp hội BHTG quốc tế, tính đến thời điểm này đà có gần 100 quốc gia có hệ
thống BHTG 1. và xu hớng này đang gia tăng với thực tế là nhiều nớc, nhất là các nớc đang phát triển thành lập hệ thống BHTG. Sự ra đời của cơ quan BHTG đà thực
sự đánh dấu một bớc ngoặt mới, BHTG đà trở thành chỗ dựa vô cùng quan trọng
cho các TCTD trong việc củng cố, duy trì và làm tăng niềm tin của công chúng
trong việc mở rộng hoạt động huy động vốn.
1.2: Chế độ BHTG ở Việt Nam:
1.2.1. Khái niệm và đặc trng của chế độ BHTG ở Việt Nam:
1.2.1.1. Khái niệm chế độ BHTG ở Việt Nam:
BHTG là một loại hình bảo hiểm đối với hoạt động ngân hàng, đợc thực hiện
từ rất sớm ở nhiều nớc. BHTG hiện nay có một vị trí, vai trò quan trọng đối với hoạt
động của các TCTD. Thực tế ở các nớc cho thấy nhờ có BHTG đà ngăn chặn sự đổ
vỡ mang tính dây chuyền trong hệ thống ngân hàng, góp phần duy trì sự phát triển
ổn định, an toàn cho các TCTD. Nhờ có BHTG mà quyền và lợi ích hợp pháp của
1

Số liệu thống kê của BHTG quốc tế(IADI)năm 2007 trên trang web: www.iadi.org

7


ngời gửi tiền đợc bảo đảm và từ đó các TCTD đà tạo dựng đựơc niềm tin cho ngời

gửi tiền, góp phần tăng hiệu quả hoạt động cho hệ thống ngân hàng.
ở nớc ta, năm 1988 là năm đánh dấu sự chuyển mình trong hoạt động của hệ
thống ngân hàng Việt Nam sang cơ chế mới cơ chế thị trờng có sự điều tiết của
Nhà nớc theo định hớng XHCN. Nhà nớc tiến hành cải cách thí điểm hệ thống ngân
hàng theo mô hình ngân hàng hai cấp phù hợp với nền kinh tế vận hành theo cơ chế
thị trờng. Bên cạnh hệ thống ngân hàng của Nhà nớc có thêm loại hình TCTD ngoài
quốc doanh nh: Quỹ tín dụng nhân dân, Hợp tác xà tín dụng ở đô thị Tuy nhiên,
khi chuyển sang cơ chế mới, bộ máy cũ vẫn cha bắt kịp với những đòi hỏi của thực
tế, những ảnh hởng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung vẫn còn, thêm vào đó những
thiết chế pháp lý đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của các TCTD không
đợc đặt ra. Vì thế, sau hơn một năm hoạt động đà xuất hiện những hiện tợng thiếu
khả năng trả nợ, khả năng thu hồi nợ
Cuối năm 1989, xảy ra vụ vỡ nợ dây chuyền của hàng loạt TCTD ngoài quốc
doanh. Điều này gây ảnh hởng xấu cho nền kinh tế, làm giảm sút niềm tin của
khách hàng đối với Quỹ tín dụng nhân dân, Hợp tác xà tín dụng. Ngày 23/05/1990,
Hội đồng Nhà nớc ban hành Pháp lệnh ngân hàng, Hợp tác xà tín dụng và công ty
tài chính. Sự ra đời của Pháp lệnh này đà tạo ra một môi trờng pháp lý thuận lợi cho
sự tồn tại, hoạt động và sự phát triển của hệ thống ngân hàng và TCTD ở Việt Nam.
Năm 1993, Quỹ tín dụng nhân dân đợc thành lập theo Quyết định số 390/TTg của
Thủ tớng Chính phủ ngày 27/03/1993. Theo Quyết định này, Quỹ tín dụng nhân
dân đợc thừa nhận là một tổ chức thuộc sở hữu tập thể, tồn tại dới hình thức Hợp tác
xÃ, hoạt động theo nguyên tắc chung của TCTD Việt Nam. Ngoài các biện pháp an
toàn đợc áp dụng trong hoạt động kinh doanh tiỊn tƯ cđa TCTD nãi chung, ChÝnh
phđ cßn rÊt quan tâm đến sự bảo đảm đối với tiền gửi của khách hàng khi tham gia
Quỹ tín dụng nhân dân.
BHTG bắt đầu đợc áp dụng vào năm 1994 theo Quyết định số 101/ TC-QĐ
ngày 01/02/1994 của Bộ trởng Bộ tài chính về việc ban hành các quy tắc bảo hiểm
trách nhiệm của Quỹ tín dụng nhân dân đối với các khoản tiền gửi có kì hạn. Tuy
nhiên, BHTG theo Quyết định của Bộ trởng Bộ tài chính số 101/TC-QĐ chỉ là một
trong những nghiệp vụ kinh doanh bảo hiểm do các doanh nghiệp bảo hiểm thực

hiện theo nguyên tắc tự nguyện. Phạm vi BHTG còn rất hạn hẹp vì đối tợng tham
gia bảo hiểm chỉ là các Quỹ tín dụng nhân dân và tiền gửi đợc bảo hiểm chỉ với các
khoản tiền gửi có kỳ hạn bằng đồng Việt Nam. Nhận thức đợc tầm quan trọng của
BHTG đối với hoạt động ngân hàng trong thời kỳ mới, ngày 12/12/1997, Quốc hội
đà ban hành Luật các TCTD, trong đó có quy định: TCTD có trách nhiệm tham
gia tổ chức bảo toàn hoặc BHTG, mức bảo toàn hoặc BHTG do Chính phủ quy
8


định 1. Với quy định này đà tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho sự ra đời chế độ
BHTG mới ở nớc ta. Ngày 01/09/1999, Chính phủ đà ban hành Nghị định số
89/1999/NĐ-CP về BHTG, quy định mục đích, tính chất của BHTG, đối tợng tham
gia BHTG, các loại tiền gửi đợc bảo hiểm, phí bảo hiểm Ngày 09/11/1999, Thủ t ớng Chính phủ đà ký Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg về việc thành lập Tổ chức
BHTG Việt Nam một tổ chức độc lập chuyên thực hiên nghiệp vụ BHTG. Ngày
07/10/2000, BHTG Việt Nam chính thức đi vào hoạt động. Tổ chức BHTG Vịêt
Nam có tên giao dịch quốc tế Deposit Insurance of Vietnam (viết tắt là DIV) là mét
tỉ chøc tµi chÝnh Nhµ níc, do Nhµ níc thµnh lập, đợc Nhà nớc cấp vốn, Nhà nớc bổ
nhiệm ngời quản trị điều hành. Tổ chức BHTG ở Việt Nam hoạt động không vì mục
tiêu lợi nhuận nhng phải đảm bảo an toàn vốn và sự bù đắp chi phí, đợc miễn nộp
các loại thuế. BHTG là loại hình bảo hiểm theo đó bảo đảm nghĩa vụ chi trả trong tơng lai các khoản tiền gửi cho ngời gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG, khi các
tổ chức này gặp rủi ro dẫn đến tình trạng không có khả năng thanh toán các khoản
nợ đến hạn bị buộc giải thể hoặc phá sản. Tập hợp các quy phạm pháp luật, điều
chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực BHTG tạo thành chế độ pháp lý về
BHTG.
Theo các quy định hiện hành thì BHTG là một loại hình bảo hiểm phi thơng
mại, theo đó TCTD và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng, có nhận tiền gửi
bằng đồng Việt Nam của khách hàng là cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh
nghiệp t nhân và công ty hợp danh thì bắt buộc phải tham gia ®ãng phÝ BHTG cho
tỉ chøc BHTG ViƯt Nam theo quy định. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm thì tổ chøc
BHTG ViƯt Nam sÏ cã tr¸ch nhiƯm thay tỉ chøc nhận tiền gửi đó trả các khoản tiền

gửi đợc bảo hiểm của các khách hàng gửi tiền ở tổ chức tham gia bảo hiểm đó.
1.2.1.2. Đặc trng của chế độ BHTG Việt Nam:
Sự hình thành và phát triển của chế độ BHTG Việt Nam còn non trẻ. Tuy mới
ra đời không lâu, nhng BHTG Việt Nam đà thể hiện mụa đích, vai trò to lớn của
mình là bảo vệ ngời gửi tiền, đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính - ngân hàng
quốc gia. Chế độ BHTG Việt Nam có những đặc trng cơ bản sau:
- BHTG ở nớc ta, xét về tính chất là loại hình bảo hiểm bắt buộc. Pháp luật về
BHTG có quy định về điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm mà các TCTD tham
gia quan hƯ b¶o hiĨm cã nghÜa vơ ph¶i thùc hiện. Việc áp dụng chế độ bảo hiểm bắt
buộc đối víi tiỊn gưi kh«ng chØ nh»m xư lý rđi ro của tổ chức nhận tiền gửi, bảo vệ
lợi ích của ngời gửi tiền mà còn bảo vệ sự an toàn cho cả hệ thống TCTD, sự ổn
định của tiền tệ quốc gia. Đồng thời nó còn tạo ra sự bình đẳng, công bằng giữa các
tổ chức có hoạt động ngân hàng, góp phần nâng cao uy tín của các TCTD đối với
ngời dân trong giai đoạn hiện này nhằm khai thác tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi để
1

Điều 17 luật các tổ chức tín dụng-NXB chính trị quôc gia-xuất bản năm 2008.

9


tập trung cho đầu t phát triển kinh tế. Việc quy định bắt buộc tham gia BHTG đối
với các TCTD đợc áp dụng ở nhiều nớc.
- BHTG ở nớc ta là loại hình bảo hiểm trách nhiệm pháp lý dân sự. Nếu xét
về đối tợng bảo hiểm thì BHTG thuộc loại bảo hiểm trách nhiệm dân sự phát sinh
trong hợp đồng. Đối tợng của BHTG chính là nghĩa vụ hoàn tr¶ tiỊn gưi c¶ l·i lÉn
gèc cđa tỉ chøc nhËn tiền gửi đối với ngời gửi tiền. Pháp luật BHTG ở nớc taxác
định rõ: ngời tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm là tổ chức đợc
phép nhận tiền gửi của các cá nhân bằng đồng Việt Nam, còn ngời đợc hởng quyền
lợi bảo hiểm là ngời gửi tiền tại tổ chức tham gia bảo hiểm.

- Về b¶n chÊt: BHTG ë ViƯt Nam mang b¶n chÊt cđa loại hình bảo hiểm phi
thơng mại. Nó không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật kinh doanh bảo hiểm mà
đợc điều chỉnh bằng một quy chế pháp lý riêng. Tính phi thơng mại của BHTG thể
hiện ở chỗ, bên bảo hiểm là tổ chức BHTG Việt Nam- đây là một tổ chức tài chính
Nhà nớc, mục tiêu hoạt động không nhằm mục đích lợi nhuận mà nhằm mục đích
bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của ngời gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của
các TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh hoạt động ngân hàng.
1.2.2. Nội dung cơ bản của chế độ BHTG ở Việt Nam:
Do nhận thức đợc đặc điểm, tính chất phức tạp về hoạt động của các TCTD
ngoài quốc doanh, và bài học kinh nghiệm từ sự đổ vỡ dây chuyền của hàng loạt các
TCTD ngoài quốc doanh cuối năm 1989, đồng thời để lấy lại niềm tin của ngời gửi
tiền đối với các Quỹ tín dụng nhân dân, các Hợp tác xà tín dụng. Ngày 23/05/1990,
Hội đồng Nhà nớc ban hành Pháp lệnh ngân hàng, Hợp tác xà tín dụng, công ty tài
chính; đó chính là cơ sở pháp lý quan trọng cho sự tồn tại, hoạt động và phát triển
của hệ thống ngân hàng và các TCTD ở Việt Nam. Nhng Pháp lệnh này cha có quy
định về tổ chức và hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân. Năm 1993, Quỹ tín dụng
nhân dân chính thức đợc thành lập theo Quyết định số 390/TTg ngày 27/07/1993
của Thủ tớng Chính phủ. ở đây Quỹ tín dụng nhân dân đợc thừa nhận là một tổ
chức thuộc sở hữu tập thể, tồn tại dới hình thức Hợp tác xÃ, hoạt động theo các
nguyên tắc chung của các TCTD Việt Nam.
Để đảm bảo an toàn cho hoạt động của các Quỹ tín dụng nhân dân, đồng thời
bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của ngời gửi tiền, ngày 01/02/1994, díi sù
ủ qun cđa ChÝnh phđ, Bé trëng Bé tài chính ra Quyết định số 101/TC-QĐ về
việc ban hành quy tắc bảo hiểm, trách nhiệm của Quỹ tín dụng nhân dân đối với
khoản tiền gửi có kỳ hạn của khách hàng. Quyết định nêu rõ các vấn đề về phạm vi
bảo hiểm, về hình thức pháp lý của BHTG, trách nhiệm của chủ thể trong việc
BHTG, phí bảo hiểm1 Các Quỹ tín dụng nhân dân tham gia BHTG của cơ quan
Bài viết Một số vấn đề về BHTG ở quỹ tín dụng nhân dân TS. Trơng Thị Kim Dung trang 7 ( tạp chí luật học số 6
tháng 12/1996-Trờng đại học luật Hà Nội.)
1


10


bảo hiểm Việt Nam (gọi tắt là Bảo Việt) có tác dụng khôi phục lòng tin và thu hút
đợc tiền gửi trong các tầng lớp dân c, trong khi các TCTD khác cha thực hiện.
Tuy nhiên, vấn đề cần quan tâm là theo quy định của Quyết định số 101/TCQĐ của Bộ trởng Bộ tài chính thì việc BHTG chi đặt ra đối với Quỹ tín dụng nhân
dân, Bảo Việt chỉ bảo hiểm đối với tổng các khoản tiền gửi có kỳ hạn tại Quỹ tín
dụng nhân dân. Các ngân hàng thơng mại không đặt ra vấn đề BHTG; do đó, nếu
ngân hàng thơng mại có sự phá sản hoặc giải thể thì khoản tiền gửi của khách hàng
ở các ngân hàng này sẽ có nguy cơ bị mất trắng. Nh vậy, tâm lý ngời gửi tiền chỉ
yên tâm khi tham gia quan hƯ gưi tiỊn víi Q tÝn dơng nhân dân, tại đây họ sẽ đợc
an toàn và đợc bồi thờng BHTG khi có rủi ro và đến lúc nào đó ngân hàng thơng
mại sẽ không có khách hàng tham gia quan hệ gửi tiền nhàn rỗi của mình.
Sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong những năm tiếp theo đà đặt ra
yêu cầu cần phải có những quy định chặt chẽ và kịp thời đối với hoạt động ngân
hàng của các TCTD. Khi Quốc hội thông qua hai đạo luật quan trọng trong lĩnh
vực ngân hàng vào tháng 12/1997 là Luật ngân hàng Nhà nớc và Luật các TCTD thì
vấn đề BHTG đà đợc quan tâm sâu sắc hơn. Sự cụ thể hoá Luật các TCTD bằng việc
Chính phủ đà ban hành Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 về BHTG.
Nghị định là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động BHTG ở Việt Nam. Theo đó
các TCTD và tổ chức không phải là TCTD đợc phép thực hiện một số hoạt động
ngân hàng theo quy định của Luật các TCTD phải tham gia BHTG bắt buộc. Đây là
một chủ trơng chính sách lớn của Đảng và Nhà nớc ta trong việc điều hành chính
sách tiền tệ, góp phần bảo vệ tốt ngời gửi tiền, tạo ổn định cho hoạt động tài chính
ngân hàng của quốc gia. Song sau gần 6 năm đi vào thực tiễn áp dụng, do những
chuyển biến không ngừng của nền kinh tế xà hội, việc áp dụng những quy định của
Nghị định 89/1999/NĐ-CP của Chính phủ đà cho thấy một số quy định không còn
phù hợp với thực tế (nh: về hạn mức chi trả, ngời đợc hởng quyền lợi bảo hiểm).
Để khắc phục những hạn chế này, ngày 24/08/2005, Chính phủ đà ban hành Nghị

định số 109/2005/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 89/1999/NĐCP. Tổ chức BHTG Việt Nam chính thức đợc thành lập theo Quyết định số
218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tớng Chính phủ, đồng thời quy định rõ
mục tiêu của tổ chức BHTG ViƯt Nam lµ tỉ chøc tµi chÝnh Nhµ níc, nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các
tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và sự phát triển an tồn lành mạnh hoạt động
ngân hàng.. Cã thĨ nói các văn bản pháp luật trên và một số văn bản khác có liên
quan là cơ sở pháp lý quan trọng quy định việc tổ chức, hoạt động của tổ chức
BHTG ở Việt Nam.
1.2.2.1. Phạm vi áp dụng:
11


a/ Chđ thĨ quan hƯ BHTG:
Chđ thĨ nhËn b¶o hiĨm là tổ chức BHTG Việt Nam có tên giao dịch quốc tế
là Deposit Insurance of Vietnam ( viết tắt là DIV), là tổ chức tài chính Nhà nớc đợc
thành lập theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tớng
Chính phủ và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 07/07/2000. BHTG Việt Nam có
t cách pháp nhân, có vốn ®iỊu lƯ do Nhµ níc cÊp lµ 1.000 tû ®ång Việt Nam và đợc
bổ sung từ nguồn thu phí hàng năm. Với quy định nh vậy, cơ quan bảo hiềm tiền
gửi Việt Nam sẽ đợc độc lập về tài chính và đợc tự chủ trong quá trình hoạt động.
Đây là mét tỉ chøc do Nhµ níc thµnh lËp vµ cÊp vốn, hoạt động không vì mục tiêu
lợi nhuận mà nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của ngời gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn
định của các tổ chức tham gia bảo hiềm tiền gửi và sự phát triển an toàn lành mạnh
cho hoạt động ngân hàng. Tổ chức bảo hiềm tiền gửi đợc miễn các loại thuế theo
quy định của pháp luật, đợc mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nớc, Kho bạc Nhà nớc, tại TCTD Nhà nớc và nớc ngoài theo quy định của pháp luật; có bảng cân đối tài
khoản và đợc lập các quỹ phù hợp với quy định của pháp luật.
Để thực hiện mục tiêu mà Nhà nớc đề ra, tổ chức bảo hiỊm tiỊn gưi ViƯt Nam
ngoµi viƯc thùc hiƯn nghiƯp vơ bảo hiểm đối với các tổ chức tham gia bảo hiềm tiền
gửi, còn phải thực hiện một số nhiệm vụ khác đợc quy định tại Quyết định số
218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 cđa Thđ tíng ChÝnh phđ vỊ viƯc thµnh lËp

BHTG ViƯt Nam nh sau:
- Thu phÝ b¶o hiỊm tiỊn gưi cđa các tổ chức tham gia bảo hiềm tiền gửi theo
quy định.
- Chi trả các khoản tiền gửi đợc bảo hiểm cho ngời gửi tiền trong phạm vi
mức bảo hiểm tối đa theo quy định.
- Theo dõi, giám sát và kiểm tra việc chấp hành các quy định tại Nghị định
của Chính phủ về bảo hiềm tiền gửi và các quy định về an toàn trong hoạt động của
các tổ chức tham gia bảo hiềm tiền gửi.
- Hỗ trợ cho các tỉ chøc tham gia b¶o hiỊm tiỊn gưi khi cã nguy cơ mất khả
năng chi trả nhng cha đến mức phải đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt.
- Tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG bị phá sản.
- Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nớc và các cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền
về việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các chủ trơng chính sách về BHTG.
- Tuyên truyền về bảo hiềm tiền gửi đối với công chúng, tổ chức tập huấn,
đào tạo và t vấn về nghiệp vụ liên quan đến BHTG.
- Hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nớc nhằm tăng cờng năng lực hoạt
động của bảo hiềm tiền gửi Việt Nam và của các tổ chức tham gia b¶o hiỊm tiỊn
gưi.
12


- Thực hiện các nhiệm vụ khác khi đợc Thủ tớng Chính phủ giao.1
Trên thế giới, có nớc áp dụng mô hình thuộc sở hữu Nhà nớc, có nớc đợc
thành lập bởi Hiệp hội các ngân hàng mang tính chất thơng mại nh ở Đức. Do
hoạt động ngân hàng thờng mang tính rủi ro rất cao và những rủi ro luôn mang tính
dây chuyền. Do đó, hình thức bảo hiểm do t nhân thành lập ít khả thi hơn so với
hình thức thuộc sở hữu Nhà nớc. Việc thành lập tổ chức BHTG thuộc sở hữu Nhà nớc với khả năng tài chính và uy tín của tổ chức công quyền chắc chắn sẽ đem lại
niềm tin lớn hơn với ngân hàng và cả ngời gửi tiền 2. ở Việt Nam, việc thành lập tổ
chức BHTG thuộc sở hữu Nhà nớc là phù hợp với điều kiện của Việt Nam hiện nay.
Trong điều kiện của hệ thống ngân hàng, TCTD cha thực sự lớn mạnh và còn nhiều

rủi ro, vai trò của Hiệp hội ngân hàng cha thực sự đủ mạnh đứng ra để liên kết với
các ngân hàng trong cơ chế tự bảo vệ, lòng tin của ngời dân vào hệ thống tín dụng
ngân hàng cha cao thì Nhà nớc phải đứng ra thành lập tổ chức BHTG để chi trả cho
ngời dân là một mô hình hợp lý.
Ngời tham gia bảo hiểm: tại điều 17 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật các TCTD ngày 15/06/2004 quy định: TCTD có trách nhiệm tham gia tổ
chức bảo toàn hoặc BHTG, mức bảo toàn hoặc bảo hiểm do Chính phủ quy định.
Tại Nghị định số 109/2005/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều Nghị định của Chính phủ số 89/1999/NĐ-CP ngày 24/08/2005 quy định: đối tợng tham gia tổ chức BHTG Việt Nam là các TCTD và tổ chức không phải là TCTD
đợc phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật các TCTD
có nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân phải tham gia BHTG bắt buộc3.
TCTD theo Luật các TCTD đà sửa đổi bổ sung ngày 15/06/2004 là doanh
nghiệp đợc thành lập theo quy định của Luật các TCTD và các quy định khác của
pháp luật để hoạt động ngân hàng4. Theo các quy định của pháp luật hiện hành, ở
Việt Nam hiện nay các loại hình TCTD đợc sắp xếp theo theo các loại sau:
- Nếu căn cứ vào hoạt động ngân hàng mà TCTD đợc thực hiện thì các TCTD
đợc phân chia thành 2 loại: các TCTD là ngân hàng và TCTD phi ngân hàng.
+TCTD là ngân hàng theo quy định tại điều 20 khoản 2 Lt sưa ®ỉi, bỉ sung
mét sè ®iỊu cđa Lt các TCTD ngày 15/06/2004 bao gồm các loại hình:
Ngân hàng thơng mại
Ngân hàng phát triển
Ngân hàng đầu t
Điều 5 Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tíng ChÝnh phđ vỊ viƯc thµnh lËp BHTG ViƯt
Nam.”
2 Bµi viết Mô hình BHTG trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế TS. Lê Thị Thu Thuỷ-trang 72 (tạp chí luật học số
12/2007 Trờng đại học luật Hà Nội).
3 Điều 1 khoản 1 điểm 1 Nghị định số 109/2005/NĐ-CP của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị
định của Chính Phủ số 89/1999/NĐ-CP ngày 24/08/2005.
4 Điều 20 khoản 1 Luật sửa đổi bổ sung Luật các tổ chức tín dụng ngày 15/06/2004 . NXB Chính trị quốc gia, năm
2008.

1

13


Ngân hàng chính sách
Ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác
+ TCTD phi ngân hàng (là loại hình TCTD đợc thực hiện một số hoạt động
ngân hàng nh là nội dung kinh doanh thờng xuyên nhng không đợc nhận tiền gửi
không kỳ hạn, không làm dịch vụ thanh toán. Theo điều 20 khoản 3 Luật sửa đổi bổ
sung Luật các TCTD ngày 15/06/2004 quy định TCTD phi ngân hàng bao gồm:
Công ty tài chính; Công ty cho thuê tài chính và các TCTD phi ngân hàng khác.
- Căn cứ vào tính chất sở hữu vốn điều lệ, các TCTD ở Việt Nam đợc chia
thành các loại sau:
+TCTD Nhà nớc.
+TCTD cổ phần.
+TCTD hợp tác.
+TCTD có vốn đầu t nớc ngoài.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc các TCTD, tổ chức không phải
là TCTD đợc pháp thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật
các TCTD. Việc tham gia BHTG phải đợc thực hiện một cách công khai bằng cách
niêm yết về việc tham gia bảo hiểm tại trụ sở và các điểm giao dịch.
Ngời đợc hởng quyền lợi bảo hiểm: theo quy định tại điều 3 của Nghị định số
89/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngời đợc hởng quyền lợi bảo hiểm là cá nhân bao
gồm ngời c trú và ngời không c trú gửi tiền bằng đồng Việt Nam tại tổ chức tham
gia BHTG. Nh vậy theo quy định này chỉ khách hàng là cá nhân mới đợc hởng
quyền lợi bảo hiểm khi gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG.
Nghị định của Chính phủ số 109/2005/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định 89/1999/NĐ-CP ngày 24/08/2005 quy định theo hớng mở rộng hơn
phạm vi ngời đợc hởng quyền lợi bảo hiểm so với Nghị định 89/1999/NĐ-CP của

Chính phủ nh sau: ngời đợc hởng quyền lợi bảo hiểm là các khách hàng gửi tiền
bằng đồng Việt Nam tại c¸c tỉ chøc tham gia BHTG bao gåm: ngêi gưi tiền là cá
nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp t nhân và công ty hợp danh, trừ một số
trờng hợp sau:
+Ngời gửi tiền là cổ đông sở hữu trên 10% vốn điều lệ hoặc nắm giữ trên
10% vốn cỉ phÇn cã qun bá phiÕu cđa tỉ chøc tham gia BHTG đó.
+Ngời gửi tiền là thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám
đốc (giám đốc),phó Tổng giám đốc (phó giám đốc) của tổ chức tham gia BHTG đó.
+Ngời ký gửi tiền để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của họ1.
b/ Loại tiền đợc bảo hiểm :

Điều 1 khoản 2 Nghị định 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ về việc sửa đổi một số điều của Nghị
định sè 89/1999/N§-CP
1

14


Hiện nay, pháp luật các nớc có quy định các loại tiền đợc bảo hiểm. Tuy
nhiên, việc quy định chủng loại đợc bảo hiểm có loại khác nhau. Chẳng hạn Anh,
Nhật, Bỉ, Pháp tiền gửi đợc bảo hiểm chỉ là đồng bản tệ; còn ở một số nớc khác
nh Mỹ , Đức, Hà Lan lại quy định tiền gửi đ ợc bảo hiểm bao gồm cả đồng bản tệ
và ngoại tệ1.
Theo quy định tại điều 3 Nghị định 89/1999/NĐ-CP của Chính phủ: Tiền
gửi đợc bảo hiểm là Đồng Việt Nam của các cá nhân gửi tại tổ chức tham gia
BHTG , theo quy định này BHTG Việt Nam chỉ bảo hiểm cho loại tiền bản tệ là
đồng Việt Nam. Nghị định Chính phủ số 109/2005/NĐ-CP về việc sửa đổi một số
điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP quy định tại điều 1 khoản 2: Tiền gửi đợc
bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của ngời gửi tiền là cá nhân, hộ gia đình,
tổ hợp tác, doanh nghiệp t nhân và công ty hợp danh gửi tại tổ chức tham gia

BHTG”. Nh vËy ViƯt Nam theo nhãm níc chØ b¶o hiểm đồng bản tệ, và đồng bản tệ
đợc bảo hiểm này là Đồng Việt Nam. Song một điểm mới của Nghị định Chính phủ
số 109/2005/NĐ-CP so với Nghị định 89/1999/NĐ-CP của Chính phủ là đà mở rộng
đối tợng đợc hởng quyền lợi bảo hiểm, cụ thể: theo quy định của Nghị định
89/1999/NĐ-CP của Chính phủ, ngời đợc hởng quyền lợi bảo hiểm chỉ có thể là cá
nhân gửi tiền bằng đồng Việt Nam tại các tổ chức tham gia BHTG. Song Nghị định
Chính phủ số 109/2005/NĐ-CP đà quy định ngời đợc hởng quyền lợi bảo hiểm
ngoài cá nhân còn có hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp t nhân, công ty hợp
danh gửi tiền bằng đồng Việt Nam tại tỉ chøc tham gia BHTG. Cïng víi viƯc më
réng ®èi tợng đợc hởng quyền lợi bảo hiểm, Nghị định 109/2005/NĐ-CP của Chính
phủ còn quy định những trờng hợp tiền gửi không đợc bảo hiểm bao gồm :
-Tiền gửi của ngời gửi tiền là cổ đông sở hữu trên 10% vốn điều lệ hoặc
nắm giữ trên 10% vốn cổ phần có qun bá phiÕu cđa tỉ chøc tham gia BHTG ®ã.
-TiỊn gửi của ngời gửi tiền là thành viên Hội đồng quản trị, ban kiểm soát,
tổng giám đốc (giám đốc), phó tổng giám đốc (phó giám đốc) của tổ chức tham gia
BHTG đó.
- Tiền gửi dùng để đảm bảo thực hiện nghÜa vơ cđa ngêi gưi tiỊn.
-TiỊn mua c¸c giÊy tê cã gi¸, trõ mét sè giÊy tê cã gi¸ theo hớng dẫn của
Ngân hàng nhà nớc Việt Nam.2
Việc bổ sung quy định này là rất phù hợp để nhằm hạn chế việc những ngời
trực tiếp hoặc gián tiếp có quyền Quyết định sự tồn tại của tổ chức tham gia BHTG
lợi dụng quyền hạn để thực hiện những mục đích cá nhân, gây ảnh hởng đến ngời
gửi tiền và tổ chức BHTG Việt Nam.
Trang 118,119 giáo trình Luật ngân hàng Việt Nam trờng đại học Luật Hà Nội (Nhà xuất bản Công an nhân
dân,năm 2008.)
2 Điều 1 khoản 2 điểm a,b,c,d Nghị định 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ về việc sửa đổi một số
điều của Nghị định số 89/1999/N§-CP .
1

15



Có thể thấy ở Việt Nam quy định chỉ bảo hiểm đối với đồng Việt Nam vì đây
là đồng tiền đợc phép lu hành trên thị trờng Việt Nam. Thực chất của việc quy định
này là nhằm bảo vệ chủ quyền tiền tệ quốc gia. Mặt khác, đây cũng chính là việc
thực hiện cơ chế quản lý ngoại hối của Nhà nớc. Tuy nhiên, khi Việt Nam đang hội
nhập vào nỊn kinh tÕ khu vùc vµ thÕ giíi, sù tham gia của các nhà đầu t nớc ngoài
tại Việt Nam ngày một đông đảo. Việc họ đem theo những đồng ngoại tệ tới Việt
Nam và sử dụng các dịch vụ của ngân hàng nh mở tài khoản, sử dụng các dịch vụ
thanh toán của ngân hàng bằng đồng ngoại tệ để phục vụ cho hoạt động đầu t sẽ
ngày càng phổ biến. Điều này đặt ra yêu cầu cần mở rộng thêm đối tợng tiền gửi đợc bảo hiểm là đồng ngoại tệ. Việc mở rộng này không những góp phần bảo vệ các
nhà đầu t nớc ngoài,khuyến khích họ tới đầu t tại Việt Nam, mà còn tạo điều kiện
để các TCTD trong nớc huy động nhiều hơn lợng vốn nhàn rỗi trong xà hội.
c/ Số tiền bảo hiểm:
Tại điều 4 khoản 1 Nghị định 89/1999/NĐ-CP của Chính phủ về BHTG quy
đinh : Số tiền bảo hiểm đợc trả cho tất cả các khoản tiền gửi (gồm cả gốc và lÃi)
của một cá nhân tại một tổ chức tham gia BHTG, tối đa là 30 triệu đồng Việt
Nam. Song do cơ sở kinh tế-xà hội của những quy định pháp luật thay đổi, cụ thể
là đời sống nhân dân ngày một tăng lên, số ngời gửi tiền vào các TCTD ngµy mét
nhiỊu vµ sè tiỊn hä gưi cịng ngµy mét lín h¬n. Sè ngêi gưi tiỊn cã sè d dới 30 triệu
đồng đà trở thành số ít, và khi đó việc pháp luật quy định giới hạn số tiền bảo hiểm
tối đa 30 triệu đồng đà không còn phù hợp với thực tế. Nghị định Chính phủ số
109/2005/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
89/1999/NĐ-CP đà quy định về giới hạn số tiền bảo hiểm tại điều 1 khoản 3 nh sau:
Số tiền bảo hiểm đợc trả cho tất cả các khoản tiền gửi bao gồm cả gốc và lÃi của
một ngời gửi tiền (một cá nhân hoặc một ngời đại diện hợp pháp) tại một tổ chức
tham gia BHTG thuộc đối tợng quy định tại Điều 3 của Nghị định này, tối đa là 50
(năm mơi) triệu đồng.
Với mức BHTG tối đa ở Việt Nam đợc quy định 50 triệu đồng vào thời điểm
ban hành Nghị định 109/2005/NĐ-CP của Chính phủ là phù hợp với mức tăng trởng

của nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu ngời của Việt Nam, là møc võa ®đ cao
®Ĩ khun khÝch ngêi gưi tiỊn, cã khả năng ngăn chặn đợc sự rút tiền hàng loạt khi
ngân hàng có sự cố, nhng cũng vừa đủ thấp để ngời gửi tiền phải thận trọng, cân
nhắc khi gửi tiền và buộc các TCTD phải hoạt động an toàn, có hiệu quả. Nhng
trong tơng lai gần, khi kinh tế đất nớc phát triển, đời sống nhân dân ngày một nâng
cao thì hạn mức chi trả tối đa có thể sẽ cần đợc điều chỉnh.
Việc thay đổi số tiền bảo hiểm tối đa trên là do Chính phủ Quyết định trên cơ
sở đề nghị của tổ chức BHTG và ý kiến của Ngân hàng Nhà nớc, Bộ tài chính. Đối
với số tiền gửi vợt quá 50 triệu đồng đợc tổ chøc BHTG chi tr¶ cho ngêi gưi tiỊn
16


trong quá trình thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG phù hợp với quy định
của Luật phá sản doanh nghiệp. Việc quy định mức tiền gửi đợc bảo hiểm tối đa thờng đợc xác định trên cơ sở:
- Thu nhập bình quân đầu ngời (GDP/ngời);
- Mức độ rđi ro trong nỊn kinh tÕ cịng nh trong ho¹t động ngân hàng;
- Khả năng tích luỹ của tổ chức BHTG;
- Thực trạng kinh tế tài chính của quốc gia;
- Tỉ lệ số ngời gửi tiền đợc bảo hiểm.
Theo thông lệ các nớc trên thế giới thì giới hạn số tiền bảo hiểm thờng ở mức
từ 2-3 lần GDP/ngời; ở Việt Nam, mức giới hạn tối đa số tiền bảo hiểm hiện gấp 5-6
lần GDP/ngời1.
Việc quy định về giới hạn số tiền bảo hiểm không chỉ ở pháp luật nớc ta mà
có ở hầu hết các nớc. Chẳng hạn nh ë Mü lµ 100.000 USD; ë NhËt lµ 10.000.000
JPY; ë BØ lµ 50.000.000 BEF; ë Anh lµ 20.000 GBP; Canada là 60.000 USD; Pháp
là 1.000.000 FRF 2. Việc quy định số tiền bảo hiểm tối đa luôn luôn là động thái
giúp củng cố niềm tin cho ngời gửi tiền vào hệ thống tài chính quốc gia, góp phần
giảm thiểu lạm phát và tăng trởng kinh tế.
1.2.2.2.Phí BHTG:
Phí BHTG là khoản tiền mà tổ chức tham gia BHTG phải nộp cho tổ chức

nhận BHTG để thực hiện bảo hiểm cho số tiền gửi của khách hàng khi có sự kiện
bảo hiểm.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, hàng năm tổ chøc tham gia BHTG
ph¶i nép cho BHTG ViƯt Nam mét khoản phí bằng 0,15% tính trên số d tiền gửi
bình quân của các loại tiền đợc bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG. Số phí bảo
hiểm đợc tính và thu 4 lần trong một năm. Việc thu phí đợc thực hiện theo quý, và
số tiền phí của mỗi quý đợc nộp vào ngày cuối của tháng đầu quý tiếp theo. Tỉ chøc
tham gia BHTG nÕu vi ph¹m thêi h¹n nộp phí bảo hiểm theo quy định thì ngoài việc
nộp đủ số phí còn thiếu phải chịu phạt mỗi ngày nép chËm b»ng 0,1% sè tiÒn nép
chËm. NÕu sau thêi hạn nộp phí 30 ngày, tổ chức tham gia BHTG cha nộp phí
BHTG, kể cả tiền phạt, tổ chức BHTG có quyền: yêu cầu Ngân hàng Nhà nớc, Kho
bạc Nhà nớc, TCTD nơi tổ chức tham gia BHTG mở tài khoản, trích tiền trên tài
khoản của tổ chức đó để nộp phí, tiền phạt. Trong trờng hợp trên tài khoản của tổ
chức tham gia BHTG không đủ số d để thực hiện việc trích nộp trên thì BHTG Việt
Nam yêu cầu Ngân hàng Nhà nớc, TCTD hoặc Kho bạc Nhà nớc trích để nộp phí
BHTG trớc và nộp tiền phạt sau, đồng thời thông báo bằng văn bản cho tổ chức
tham gia BHTG yêu cầu nộp phần còn thiếu.
Bài viết BHTG duy trì ổn định hệ thống tài chính-ngân hàng TS. Lê Thị Kim Xuân- trang 4 (tạp chí phát triển
kinh tế tháng 7/2008).
2 Trang 120, Giáo trình luật ngân hàng Việt Nam trờng đại học luật Hà Nội-NXB Công an nhân dân,năm 2008.
1

17


Nếu quá thời hạn nộp phí BHTG 90 ngày (kể cả ngày nghỉ cuối tuần và ngày
nghỉ lễ tết) theo quy định của pháp luật mà tổ chức tham gia BHTG vẫn không nộp
đủ phí BHTG thì tổ chức BHTG Việt Nam có quyền:
- Ra Quyết định chấm dứt BHTG và thông báo trên các phơng tiện thông tin
đại chúng.

- Đề nghị Ngân hàng Nhà nớc ra Quyết định ngừng huy động tiền gửi cá
nhân của tổ chức đó.
Việc thu phí BHTG đợc thực hiện thông qua hội sở của các tổ chức tham gia
BHTG hoặc theo phơng thức khác do BHTG Việt Nam và tổ chức tham gia BHTG
thoả thuận.
Phần lớn các quốc gia có hệ thống BHTG, phí BHTG là tài chính quan trọng
để đảm bảo cho tổ chức BHTG thực hiện hoạt động của mình, thông thờng xây
dựng phí BHTG phải đáp ứng một số yêu cầu nh:
- Phí BHTG đợc thu từ các tổ chức có hoạt động kinh doanh ngân hàng (cụ
thể là hoạt động nhận tiền gửi) nhằm đáp ứng chi phí trả tiền BHTG trong trờng hợp
tổ chức tham gia BHTG giải thể, phá sản.
- Khuyến khích việc huy động tiền gửi của TCTD.
- Cân đối giữa trách nhiệm đóng góp tài chính và quyền lợi mà tổ chức tham
gia BHTG nhận đợc.
- Tiện lợi, khả thi và giảm thiểu những rủi ro cho tỉ chøc tham gia BHTG
thùc hiƯn nghÜa vơ ®ãng góp tài chính này.
Một nghiên cứu cho thấy, hạn mức chi tr¶ b¶o hiĨm cđa BHTG ViƯt Nam cao
thø 5/35 nớc có đặc điểm tơng đối tơng đồng trong xác định phí bảo hiểm và việc
áp dụng chi trả bảo hiểm đợc nghiên cứu gấp 5-6 lần so với thu nhập bình quân đầu
ngời. Trong khi đó, mức phí bảo hiĨm chØ xÕp thø 14 tÝnh tõ níc cã møc phí thấp
nhất 1. Điều này thể hiện chính sách BHTG Việt Nam rất quan tâm tới quyền lợi của
ngời gửi tiền và có tác động tích cực tới việ tăng huy động tiền gửi vào TCTD.
1.2.2.3. Sự kiện bảo hiểm và việc chi trả các khoản tiền gửi đợc bảo
hiểm:
Theo quy định của pháp luật hiện hành, tổ chức BHTG có trách nhiệm chi
trả tiền bảo hiểm cho ngời gửi tiền tại tổ chức tham gia bảo hiểm trong phạm vi giới
hạn đợc pháp luật quy định khi tổ chức tham gia BHTG bị cơ quan Nhà nớc có thẩm
quyền xác định là không có khả năng thanh toán đợc các khoản nợ đến hạn, trong
vòng 60 ngày kể từ ngày cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền có văn bản yêu cầu tổ
chức này chấm dứt các giao dịch để tiến hành thanh lý các tài sản hoặc kể từ ngày

Toà án thông báo Quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản theo quy định của pháp
Bài viết Một số vấn đề pháp lí về BHTG ở Việt Nam Th.S Phạm Nguyệt Thảo trang 53 (tạp chí luật học số
12/2007-trờng đại học luật Hà Nội).
1

18


luật về phá sản. Nh vậy, sự kiện bảo hiểm trong BHTG đợc xác định dựa trên cơ sở
có đồng thời cả hai căn cứ sau:
- Một là, tổ chức tham gia BHTG bị cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền xác
định là không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
- Hai là, cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền, có văn bản yêu cầu tổ chức này
chấm dứt các giao dịch để tiến hành thanh lý các tài sản (giải thể) hoặc Toà án
thông báo Quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản theo quy định của pháp luật về
phá sản.
Nếu nh TCTD chỉ mới ở tình trạng có nguy cơ mất khả năng chi trả nhng cha
đến mức đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt, TCTD đó sẽ đợc tổ chức BHTG áp
dụng biện pháp hỗ trợ nh:
- Cho vay hỗ trợ để chi trả tiền gửi đợc bảo hiểm.
- Bảo lÃnh cho các khoản vay đặc biệt để có nguồn chi trả tiền gửi đợc bảo
hiểm.
- Mua lại nợ trong trờng hợp khoản nợ đó có tài sản bảo đảm.
Khi có sự kiƯn b¶o hiĨm x¶y ra, tỉ chøc BHTG ViƯt Nam có trách nhiệm chi
trả số tiền đợc bảo hiểm cho những ngời gửi tiền hoặc ngời đại diện, ngời thừa kế
của ngời gửi tiền theo quy định của pháp luật, căn cứ vào danh sách những ngời gửi
tiền do tổ chức tham gia BHTG lập, đợc tổ chức tham gia BHTG xét duyệt trên cơ
sở các chứng từ hợp lệ. Sè tiỊn chi tr¶ b¶o hiĨm cđa tỉ chøc BHTG cho ngêi gưi tiỊn
lµ sè tiỊn mµ ngêi gưi tiỊn ®· gưi t¹i tỉ chøc tham gia BHTG ®ã, bao gồm cả tiền
gốc và tiền lÃi tính đến thời điểm có sự kiện bảo hiểm, nhng không vợt quá giới hạn

tối đa số tiền bảo hiểm 50 triệu mà pháp luật đà quy định. Việc chi trả tiền bảo
hiểm cho ngêi gưi tiỊn do tỉ chøc BHTG trùc tiÕp tiÕn hành hoặc uỷ quyền cho
TCTD thực hiện trên cơ sở hợp đồng uỷ quyền theo quy định của pháp luật.
BHTG ViƯt Nam chØ chi tr¶ cho ngêi gưi tiỊn khi có đủ điều kiện sau:
- Ngời đó phải có tên trong danh sách đợc phê duyệt;
- Ngời đó phải có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hợp pháp đối với các
khoản tiền của mình tại tổ chức tham gia BHTG cùng chứng minh nhân dân hoặc
hộ chiếu;
- Trờng hợp ngời gửi tiền đánh mất các giấy tờ nh sổ tiÕt kiƯm, chøng chØ tiỊn
gưi cã ghi danh, giÊy tê có giá, hộ chiếu, chứng minh nhân dân thì việc chi trả
tiền bảo hiểm cho ngời gửi tiền hoặc xử lý theo híng dÉn cđa BHTG ViƯt Nam.
ViƯc chi tr¶ tiền bảo hiểm cho ngời gửi tiền đợc tiến hành theo trình tự, thủ
tục sau: trong vòng 15 ngày kể từ ngày có sự kiện bảo hiểm xảy ra, tổ chức tham
gia BHTG phải lập xong bảng kê danh sách ngời gửi tiền tại tổ chức mình và gửi
cho cơ quan BHTG. C¬ quan BHTG cïng víi tỉ chøc tham gia BHTG tiến hành tra
bảng kê danh sách và số tiền mà BHTG Việt Nam phải trả đối với từng ngêi göi
19


tiền. Sau khi thống nhât danh sách ngời gửi tiền, tổng số tiền mà BHTG phải trả
theo quy định để trình Hội đồng quản trị BHTG Việt Nam phê duyệt làm cơ sở triển
khai việc chi trả. Sau đó cơ quan BHTG phải thông báo trên các phơng tiện thông
tin đại chúng và niêm yết danh sách ngời gửi tiền đợc chi trả tại trụ sở chính, chi
nhánh, văn phòng đại diện của cơ quan BHTG. Ngời gửi tiền sẽ thực hiện việc đăng
ký nhận tiền bảo hiểm gồm nội dung nh: địa điểm nhận tiền, phơng thức thanh
toán cơ quan BHTG thực hiện việc chi trả tiền gửi đ ợc bảo hiểm cho ngời gửi tiền
sau khi đà hoàn tất các thủ tục nêu trên và ngời gửi tiền đà có đủ điều kiện mà pháp
luật quy định. Trờng hợp vì lý do khách quan, ngời đợc nhận tiền bảo hiểm có thể
uỷ quyền cho ngời khác đến nhận. Ngời đợc uỷ quyền phải có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ, phải xuất trình giấy uỷ quyền có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền

theo pháp luật Việt Nam cùng với giấy chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu. Nếu
ngời gửi tiền xuất cảnh để định c ở nớc ngoài hoặc chết thì BHTG Việt Nam sẽ tiến
hành thủ tục chi trả theo sự uỷ quyền của chủ sở hữu và theo quy định của pháp luật
Việt Nam về thừa kế tài sản.
Sau thời gian 10 ngày kể từ ngày tổ chức BHTG có thông báo đầu tiên vê việc
chi trả tiền bảo hiểm, những khoản tiền bảo hiểm không có ngời nhận sẽ đợc bổ
sung vào nguồn vốn hoạt động của tổ chức BHTG và ngời có quyền sở hữu khoản
tiền gửi đợc bảo hiểm sẽ không còn quyền đòi tổ chức bảo hiểm chi trả số tiền bảo
hiểm đó.
Tổ chức BHTG sau khi thực hiện việc chi trả số tiền bảo hiểm sẽ trở thành
chủ nỵ cđa tỉ chøc tham gia BHTG víi sè tiỊn bảo hiểm đà chi trả và đợc tham gia
vào quá trình quản lý, thanh lý, phân chia giá trị tài s¶n cđa tỉ chøc tham gia BHTG
theo thø tù thanh toán nh đối với ngời gửi tiền khác theo quy định của pháp luật về
giải thể, phá sản. Số tiền thu hồi đợc từ việc thanh lý tài sản của tổ chức tham gia
BHTG bị buộc giải thể do không có khả năng thanh toán đợc các khoản nợ đến hạn
hoặc bị phá sản sẽ đợc bổ sung vào nguồn vốn hoạt động của tổ chức BHTG.
1.3: Pháp luật về BHTG ở một số nớc trên thế giới:
1.3.1. Pháp luật BHTG ở Mỹ:
BHTG đối với Việt Nam còn là một loại hình bảo hiểm rất mới mẻ nhng trên
thế giới đà có nhiều nớc thành lập cơ quan BHTG để nhằm đảm bảo an toàn cho
hoạt động ngân hàng của các TCTD cũng nh tạo niềm tin cho ngời gửi tiền.
Sau một loạt vụ phá sản của các ngân hàng ở Mỹ vào những năm 1930
1933, trong đó những mãn nỵ tiỊn tiÕt kiƯm cđa nhiỊu ngêi gưi tiỊn của các ngân
hàng thơng mại bị mất trắng. Để ngăn ngừa những tổn thất trong tơng lai của ngời
gửi tiền do những vụ vỡ nợ hệ thống ngân hàng nhận tiền gửi; năm 1934, công ty
BHTG liên bang (Federal Deposit Insurance Corporation FDIC) của Hoa Kỳ đợc
thành lập.
20




×