Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Đánh giá đáp ứng miễn dịch đàn gà, vịt sau tiêm phòng vắc xin cúm gia cầm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.44 KB, 48 trang )

Báo cáo tốt nghiệp

Nguyễn Thị Hà, lớp TY40

1. PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh cúm gia cầm thể độc lực cao (High Pathogenicity Avian Influenza HPAI) là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, có tốc độ lây lan rất nhanh với tỷ lệ
chết cao trong đàn gia cầm nhiễm bệnh, gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi.
Tổ chức thú y thế giới (OIE) đã xếp bệnh vào bảng A (Bảng danh mục các bệnh
truyền nhiễm nguy hiểm nhất).
Bệnh xảy ra ở nhiều nước trên thế giới, có nguy cơ bùng phát thành đại dịch
do khả năng biến chủng và lây lan nhanh. Ở Châu Á, bệnh bùng phát ở Hàn
Quốc tháng 12/2003, đến tháng 12/2006, đã có 55 nước và vùng lãnh thổ bùng
phát dịch cúm gia cầm với hơn 250 triệu gia cầm bị chết hoặc bị tiêu hủy bắt
buộc, có 258 người bị nhiễm cúm gia cầm (154 người chết) [26]. Ở Việt Nam,
dịch cúm gia cầm xuất hiện vào tháng 12/2003 và nhanh chóng lan ra 57/64 tỉnh
thành. Riêng 4 tháng đầu đã có trên 40 triệu gia cầm bị bệnh và nằm trong vùng
dịch phải tiêu hủy, thiệt hại ước tính 1.300 tỷ đồng [21].
Nhiều biện pháp đã được áp dụng nhằm khống chế dịch như chẩn đốn phát
hiện bệnh, cách ly triệt để tồn bộ khu vực có dịch, tiêu hủy tồn bộ gia cầm
mắc đang nuôi trong đàn xuất hiện bệnh, vệ sinh tiêu độc tồn bộ khu vực có
dịch, tun truyền cho người chăn ni biết cách phát hiện và phịng chống bệnh
cúm gia cầm, tiêm phòng vắc xin [5].
Từ năm 2005 đến nay nước ta đã thực hiện chương trình “sử dụng vắc xin
nhằm khống chế và thanh toán bệnh cúm gia cầm thể độc lực cao”. Mỗi năm có
2 đợt tiêm phịng vào thời điểm dịch cúm gia cầm có nguy cơ bùng phát cao
nhất là tháng 4-5, tháng 9-10 và một số đợt tiêm phòng bổ sung [42]. Trong thực
tế, tiêm phòng đã phát huy tác dụng ngăn chặn dịch bệnh cúm gia cầm chủng
độc lực cao H5N1 ở nước ta. Báo cáo của Cục Thú y cho biết các ổ dịch xảy ra
chủ yếu trên đàn gia cầm không tiêm phòng (44,59%), đàn mới tiêm phòng một
mũi chiếm 16,21%, số cịn lại 29,2% khơng rõ thơng tin; theo đối tượng chăn


1


Báo cáo tốt nghiệp

Nguyễn Thị Hà, lớp TY40

nuôi 21,62% số ổ dịch ở gà, 52,70% ở thủy cầm và 25,67% ở những đàn nuôi
hỗn hợp cả thủy cầm và gà; ở loại hình chăn ni hỗn hợp, bệnh thường phát ra
ở thủy cầm và lây nhiễm cho gà [11]. Rõ ràng, cùng một loại vắc xin nhưng hiệu
quả khác nhau ở các đối tượng và quy mô chăn nuôi khác nhau. Đó cũng là yếu
tố quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả tiêm phòng trên gia cầm.
Việc đánh giá đáp ứng miễn dịch của gia cầm sau khi sử dụng vắc xin là yêu
cầu cần thiết và lâu dài nhằm tìm hiểu hiệu quả sử dụng vắc xin, từ đó có thể
giúp đưa ra những chiến lược phù hợp. Do vậy, chúng tôi thực hiện đề tài:
“Đánh giá đáp ứng miễn dịch của gà, vịt sau tiêm phòng vắc xin cúm gia
cầm”.
Mục tiêu của đề tài:
Đánh giá đáp ứng miễn dịch của đàn gà, vịt sau tiêm phòng vắc xin cúm gia
cầm trên địa bàn nghiên cứu.

2


Báo cáo tốt nghiệp

Nguyễn Thị Hà, lớp TY40

2. PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Khái niệm và lịch sử bệnh cúm gia cầm

2.2. Khái niệm
Bệnh cúm gia cầm (trước đây còn được gọi là bệnh dịch tả gà-Fowl plague)
là một bệnh truyền nhiễm gây ra bởi vi rút cúm type A thuộc họ
Orthomyxoviridae với nhiều type phụ khác nhau [5].
Các vi rút cúm type A gây nhiễm cho gia cầm được chia làm hai nhóm:
Nhóm vi rút gây bệnh cúm gia cầm thể độc lực cao (Highly Pathogenic AvianHPAI) có tỷ lệ chết cao (có thể lên đến 100%) chủ yếu ở các phân type H5 và
H7. Nhóm vi rút cúm gia cầm thể độc lực thấp (Lowly Pathogenic Avian-LPAI)
gây ra bệnh có triệu chứng nhẹ, chủ yếu ở đường hô hấp [7].
Bệnh cúm gia cầm thể độc lực cao (HPAI) là một trong những bệnh đầu tiên
do vi rút gây ra được mô tả ở gia cầm [6]. Đây là một bệnh truyền nhiễm cấp
tính lây lan rất mạnh ở gia cầm. Bệnh được tổ chức Thú y thế giới (OIE) xếp
vào bảng A - bảng danh mục các bệnh nguy hiểm nhất ở động vật. Bệnh xảy ra
ở nhiều nơi trên thế giới và gây thiệt hại rất lớn về kinh tế cũng như đời sống xã
hội [11].
2.2.1. Lịch sử bệnh
Năm 412 trước công lịch, lần đầu tiên bệnh giống như cúm được Hypocrates
mô tả rất kỹ. Năm 1680, một vụ đại dịch cúm cũng được đề cập và từ đó đến
nay đã xảy ra 31 vụ đại dịch.
Năm 1901, Centanni và Savunozzi đã chứng minh đến các ổ dịch ở gia cầm
được gây ra bởi vi rút qua lọc (Filterable agent).
Trong hơn 100 năm qua đã xảy ra 4 vụ đại dịch cúm vào các năm 1878 tại
Italia [11, 25], 1918-1919 tại Tây Ban Nha do H1N1 [33], 1957-1958 do H2N2
và 1968-1969 do H3N2 [5].

3


Báo cáo tốt nghiệp

Nguyễn Thị Hà, lớp TY40


Năm 1955 vi rút gây bệnh mới được Achafer xác định là vi rút thuộc type A
(H7N1 và H7N7) gây chết nhiều gà, gà tây và các loài gai cầm khác [11, 25].
Cuối thập niên 60, các nghiên cứu cho biêt vi rút cúm gia cầm có thể truền
lây từ chim sang thú và ngược lại. Vi cúm type A phân type H1N1 ở lợn truyền
lây cho gà tây với triệu trứng hô hấp và giảm đẻ. Một số chủng vi rút cúm type
A gây bệnh điển hình ở gia cầm được phát hiện trong các ổ dịch động vật có vú
như hải cẩu, chồn và cá voi. Vi rút cúm phân type H1N1 gây bệnh ở vịt truyền
lây bệnh sang lợn [11].
Vi rút cúm ở gia cầm đồng thời tồn tại ở nhiều loài chim hoang dã tại nhiều
vùng khác nhau trên thế giới. Người ta đã chứng minh có sự lây nhiễm vi rút từ
chim hoang dã sang gia cầm nuôi, tại những vùng có tỷ lệ nhiễm cao ở một số
loài thủy cầm di trú Hầu hết các ổ dịch nghiêm trọng ở gia cầm do vi rút thuộc
phân type H5 và H7 như ở Scotland năm 1959 do vi rút cúm A- H5N1, dịch ở
Mỹ 1983-1984 do vi rút cúm A phân nhóm H5N2 [11].
Năm 1997, tại Hồng Kơng lần đầu tiên phát hiện sự truyền lây trực tiếp từ
gia cầm sang người làm cho dịch bệnh trở nên nghiêm trọng hơn. Tại vụ dịch
này, trong số 18 người mắc bệnh 6 người bị thiệt mang, hàng triệu gia cầm bị
bệnh va giết hủy [2], [53].

2.3. Tình hình bệnh cúm gia cầm
2.3.1. Tình hình dịch cúm gia cầm trên thế giới
Bệnh cúm gia cầm xảy ra nhanh và mạnh trên đàn gia cầm, làm chết và tiêu
hủy với số lượng lớn.
Vụ dịch đầu tiên được ghi nhận vào năm 1878 tại Italia với tỷ lệ chết cao ở
đàn gia cầm và được gọi tên là “dịch tả gà”.
Năm 1959, bệnh xảy ra trên đàn gia cầm tại Scotland do H5N1 gây ra [11].

4



Báo cáo tốt nghiệp

Nguyễn Thị Hà, lớp TY40

Năm 1983-1984, vi rút cúm gia cầm chủng H5N2 gây ra vụ dịch ở
Pensylvania, bang New Jersay, Virginia Mỹ làm chết hơn 10 triệu gà, thiệt hại
60 triệu đơ la. Chính phủ Mỹ cịn phải chi 349 triệu đơ la cho cơng tác chẩn
đốn, tiêu độc mơi trường và hỗ trợ thiệt hại cho các cơ sở chăn nuôi phải tiêu
hủy đàn gà [52].
Năm 1997, ở Hồng Kông dịch cúm gia cầm xảy ra do chủng vi rút H5N1
gây ra, làm tiêu hủy gần như toàn bộ đàn gia cầm. Điều quan trọng là người có
khả năng nhiễm chủng vi rút cúm Hồng Kơng/1997 ở dạng cấp tính và tỷ lệ tử
vong cao [49].
Năm 2000, dịch cúm gia cầm lại tái phát ở vườn thú Hồng Kông [12].
Từ cuối năm 2003 bệnh cúm A, H5N1 đã xảy ra với quy mô lớn và tốc độ
bùng phát rất nhanh ở các nước châu Á. Đến cuối tháng 2/2004 đã có 11 nước
và vùng lãnh thổ công bố dịch cúm gia cầm do vi rút H5N1 gây ra, bao gồm:
Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Campuchia, Lào, Indonesia, Malaysia, Trung
Quốc, Hồng Kông, Mông Cổ và Việt Nam [11] [8, 21, 35].
Ngồi ra, cịn có các ổ dịch cúm gia cầm do các chủng khác như H5N2 ở
Nhật Bản, Zimbabue (H5N2), Mỹ (H3N2), Canada (H7N3), Pakistan (H7N3 và
H9N2), Italia (H5N2), Mêhico (H5N2), Triều Tiên (H7N7) [36].
Người bị phơi nhiễm chủng vi rút cúm gia cầm H7N7 (A/H7) từ gà, vịt tại
các nông trang nhiễm. Từ tháng 2 đến tháng 6/2003 Navani đã đánh giá trên
3410 trường hợp có nguy cơ lây nhiễm bệnh cúm gia cầm, 453 nguyên nhân
chết khác nhau, 349 trường hợp viêm kết màng mắt, 90 trường hợp ốm giống
bệnh cúm và 67 trường hợp khác. Tại phịng thí nghiệm dịch swab được khẳng
định bằng RT-PCR tỷ lệ dương tính lần lượt là 23%, 7,8% và 6,0% [48].
Tính từ năm 2003-2005 đã có 55 nước và vùng lãnh thổ bị dịch cúm gia cầm

bùng phát làm 250 triệu con gia cầm chết hoặc tiêu hủy bắt buộc, có 258 người

5


Báo cáo tốt nghiệp

Nguyễn Thị Hà, lớp TY40

nhiễm cúm gia cầm, trong đó 154 người chết [26]. Cho đến nay dịch cúm gia
cầm đã bùng phát và diễn ra ở hầu khắp quốc gia trên các châu lục [51].
2.3.2. Tình hình dịch cúm gia cầm tại Việt Nam
Theo báo cóa của Cục Thú Y, dịch cúm gia cầm được ghi nhận tại nước ta
vào cuối năm 2003; diễn biến tình hình dịch cúm gia cầm ở Việt Nam được chia
nhiều giai đoạn [20].
Đợt dịch thứ nhất: Từ cuối tháng 12/2003 đến hết tháng 01/2004: Dịch xuất
hiện đầu tiên tại trại gà giống của công ty C.P ở xã Thuỷ Xuân Tiên, huyện
Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây, gây ốm chết 8.000 con gà trong 4 ngày. Ngày
02/01/2004, Công ty tiến hành tiêu huỷ 100.000 gà. Trong thời gian này dịch
xảy ra ở hai tỉnh Tiền Giang và Long An, đồng thời lan nhanh sang các tỉnh An
Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, Đồng Tháp, Cần Thơ, Hậu Giang [4].
Giữa tháng 01/2004, dịch lan rộng khắp cả nước: Thành phố Hồ Chí Minh,
các tỉnh miền Đơng Nam Bộ (Bình Dương, Tây Ninh, Đồng Nai), các miền Bắc
(Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định, Sơn La, Hịa Bình, Thanh Hóa, Hà Nam, Phú
Thọ), tiếp đó là các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên.
Đợt dịch thứ hai: Đợt cao điểm từ ngày 01/02 đến ngày 10/02/2004: Trong
những ngày đầu tháng 2 dịch bùng phát rất nhanh, xảy ra trên quy mơ lớn và
diễn biến phức tạp. Bình quân mỗi ngày có khoảng 150-230 xã, 15-20 huyện
phát sinh ổ dịch mới trên phạm vi cả nước. Ngày cao điểm thứ nhất có 27 xã, 20
huyện thị mới phát sinh dịch. Số gia cầm phải tiêu hủy hàng ngày từ 2-3 triệu

con, ngày cao điểm nhất phải tiêu hủy 4 triệu con (ngày 06/02).
Đợt dịch thứ ba: từ ngày 11/02 đến ngày 27/02/2004:
- Từ ngày 11-20/02 dịch có chiều hướng giảm dần, khơng có huyện, tỉnh
mới phát sinh ổ dịch. Bình qn mỗi ngày có từ 20-30 xã phát sinh ổ dịch mới.

6


Báo cáo tốt nghiệp

Nguyễn Thị Hà, lớp TY40

Số gia cầm phải tiêu hủy hàng ngày giảm chỉ còn từ 0,2-0,7 triệu con (cao nhất
ngày 11/02 là 0,84 triệu con, thấp nhất ngày 15/02 là 17.864 con).
- Từ ngày 21/02 dịch cơ bản đã được khống chế, chỉ phát sinh thêm một vài
thôn ấp của một số xã đã phát dịch trước đây, số gia cầm phải tiêu hủy giảm rõ
rệt (ngày 25/02 là 1.438 con, ngày 26/02 chỉ còn 45 con).
- Tính đến ngày 27/02, dịch bệnh đã xảy ra ở 2.574 xã, phường (24,6% số xã
phường), 381 huyện, thị (60% số huyện, thị) thuộc 57 tỉnh, thành phố ở đồng
bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Hồng. Dịch xảy ra nặng ở
các tỉnh: Long An (185 xã), Tiền Giang (135 xã), An Giang (145 xã), Đồng
Tháp (116 xã), Hà Tây (134 xã), Hải Dương (144 xã). Một số tỉnh xuất hiện ở
diện hẹp như: Cao Bằng, Lai Châu (2 xã), Hà Tĩnh (5 xã), Hịa Bình, Bình
Phước (6 xã), Lạng Sơn (8 xã), Kiên Giang (9 xã).
Tình hình dịch gia cầm trong năm 2005
Trong năm 2005 tổng số gà, vịt, ngan mắc bệnh, chết, tiêu huỷ hơn 4,78
triệu (trong đó có 2,38 triệu con tiêu huỷ trong ổ dịch, 2,42 triệu con tiêu huỷ tự
nguyện do không tiêu thụ được hoặc thuỷ cầm phải tiêu huỷ bắt buộc do ấp nở
trái phép ở đợt dịch thứ 3) chiếm 2,17% tổng đàn, trong đó gà chiếm 1,816 triệu
con, thuỷ cầm chiếm 2,968 triệu con. Ngồi ra cịn có hơn 1 triệu con chim các

loại khác chết và tiêu huỷ [20].
Năm 2006 ở cả 3 miền không xảy ra dịch, do sự chỉ đạo quyết liệt của Chính
phủ, Ban chỉ đạo quốc gia và hiệu quả chiến dịch tiêm phòng đợt 2 năm 2005 và
đợt 1 năm 2006 [20].
Tình hình dịch cuối năm 2006-đầu năm 2007
Dịch xảy ra ở mức độ và địa bàn ít hơn nhiều các năm trước. Các ổ dịch xảy
ra chủ yếu trên đàn vịt chăn nuôi nhỏ lẻ, dưới 3 tháng tuổi, ấp nở trái phép và
chưa được tiêm phòng vắc xin. Trừ Cà Mau, Bạc Liêu, ở các địa phương khác

7


Báo cáo tốt nghiệp

Nguyễn Thị Hà, lớp TY40

dịch lây lan chậm, quy mô dịch nhỏ, được bao vây và dập tắt ngay (kể cả Hải
Dương, Hà Tây) do có sự chủ động phát hiện dịch và tiêm phòng tốt. Tuy nhiên,
việc để dịch tái phát do cơng tác tiêm phịng đợt 2 năm 2006 chưa được triệt để,
việc tiêm phòng bổ sung không được thực thi nghiêm túc nên dịch xảy ra trên
các đàn chưa tiêm phòng [20].
- Đợt 1: Từ 06/12/2006 đến 07/03/2007 dịch xảy ra trên 83 xã, phường của
33 huyện, quận thuộc 11 tỉnh. Tổng số gia cầm mắc bệnh, chết và tiêu huỷ
103.094 con, trong đó gà 13.622 con, vịt, ngan: 89.472 con. Nặng nhất ở Cà
Mau, Bạc Liêu, các tỉnh khác dịch xảy ra lẻ tẻ và dập tắt nhanh chóng.
- Đợt 2: Từ 01/05 đến 23/08/2007 dịch xảy ra ở 167 xã, phường của 70
huyện, thị thuộc 23 tỉnh, thành phố. Tổng số gia cầm mắc bệnh, chết và tiêu hủy
là 294.849 con (215 gà chiếm 7,31%, 264.549 vịt chiếm 89,71% và 8.775 ngan
chiếm 2,98%). Dịch nặng tỉnh Nghệ An, Nam Định và Điện Biên.
Sau hơn một tháng khống chế thành công dịch cúm gia cầm trong phạm vi

cả nước, từ ngày 01/10/2007 dịch đã tái phát ở 15 xã, phường của 9 huyện, thị
thuộc 6 tỉnh là Trà Vinh, Quảng Trị, Nam Định, Cao Bằng, Hà Nam và Bến Tre.
Tổng số gia cầm mắc bệnh, chết và tiêu hủy là 8.850 con (1.024 gà chiếm 12%,
7.826 vịt chiếm 88%). Dịch dây dưa, kéo dài ở các tỉnh Quảng Trị, Trà Vinh và
Cao Bằng, còn các tỉnh khác dịch chỉ xảy ra ở hộ nhỏ lẻ và được dập tắt ngay.
Tình hình dịch cúm gia cầm từ đầu 2008 đến nay
Năm 2008 quy mô dịch bệnh khơng cịn bùng phát mạnh như trước mà các ổ
dịch chủ yếu là nhỏ lẻ [20].
Từ cuối năm 2003 đến nay dịch cúm gia cầm đã xảy ra trên diện rộng và
ln có nguy cơ bùng phát dịch bệnh. Vì vậy, việc tiêm vắc xin và chương trình
giám sát dịch bệnh được coi là một biện pháp có hiệu quả để phòng chống bệnh
cúm gia cầm. Các nghiên cứu giám sát sự lưu hành vi rút cúm và xác định khả

8


Báo cáo tốt nghiệp

Nguyễn Thị Hà, lớp TY40

năng đáp ứng miễn dịch của các loài gia cầm sau khi tiêm phòng vắc xin được
nhiều tác giả thực hiện ở nhiều nơi trong cả nước như tại Hà Nội, Thái Nguyên,
Bắc Giang, Đồng Tháp, Phú Thọ, Bình Dương...Các kết quả cho thấy ở các địa
phương khác nhau, kết quả cũng khác nhau và gà đáp ứng miễn dịch tốt hơn vịt
[13, 24, 27, 30, 40, 41, 43, 44].
Năm 2008-2009, để đánh giá hiệu quả của vắc xin phòng bệnh cúm gia cầm
nhiều tác giả đã tiến hành kiểm nghiệm và khảo nghiệm các loại vắc xin lưu
hành trên thị trường và sử dụng trong thực địa, kết quả cho thấy chúng đảm bảo
các tiêu chí của nhà sản xuất và các yêu cầu khác [14, 18, 34, 43], [15] .
Mặt khác, các phương pháp chẩn đoán bệnh hiện đại cũng được áp dụng.

Năm 2007, việc phát triển phương pháp RT-PCR một bước đã làm giảm thời
gian tiến hành phản ứng chẩn đoán mầm bệnh và giảm nguy cơ tạp nhiễm chéo
thường xảy ra với phương pháp RT-PCR hai bước [23].
Năm 2009, Phạm Hồng Sơn đã nghiên cứu tạo kháng nguyên ngưng kết
hồng cầu gắn vi rút cúm A và ứng dụng chẩn đoán bệnh cúm gia cầm. Phương
pháp này cho phép phát hiện kháng nguyên vi rút cúm A trên bề mặt niêm mạc
gia cầm bệnh [31].

Vi rút cúm gia cầm
2.3.3. Tên gọi của vi rút
Tên gọi của vi rút được đặt theo quy ước quốc tế bắt đầu bằng type vi rút, và
subtype (nghĩa là theo tên gọi của protein HA và NA).
Tên của từng chủng vi rút được viết bắt đầu từ tên type, tên loài động vật mà
từ đó vi rút được phân lập, tên địa phương nơi phân lập được (tên nước, tên tỉnh
hoặc tên bang) sau đó ký hiệu riêng của phịng thí nghiệm nơi phân lập được,
năm phân lập và để trong ngoặc tên chung của vi rút [9].
Ví dụ: A/Dk/VNM/405/06[H5N1]

9


Báo cáo tốt nghiệp

Nguyễn Thị Hà, lớp TY40

2.3.4. Hình thái và cấu trúc của vi rút cúm type A
Vi rút cúm có màng lipid bọc bên ngồi, chủ yếu là lipid có gốc phosphor,
số cịn lại là cholesterol, glucolipid và một ít hydrate carbon gồm các loại
galactose, ribose, fructose, glucosamin [25]. Trên màng này có 2 loại protein là
Hemagglutinine (HA) và Neuraminidase (NA).

Bên trong vi rút có 2 thành phần gồm RNA và protein (chủ yếu là
glycoprotein). RNA của vi rút cúm là loại sợi đơn có cấu trúc đa hình dễ thay
đổi, có vỏ bọc, có kích thước từ 80-120nm. RNA của vi rút chiếm 0,8-1,1%;
protein chiếm 70-75%; lipid chiếm 20-24%; hidrate carbon chiếm 5-8% khối
lượng hạt vi rút [25]. Bộ gen RNA của vi rút cúm type A có 8 phân đoạn mã hố
cho 10 loại protein khác nhau. Các phân đoạn gen RNA của vi rút cúm được xác
định đặc tính bởi các cầu nối phân đoạn ở đầu 5' và đầu 3' [2]. RNA được bao
bọc bởi các protein, chủ yếu là NP (nucleoprotein) và protein M (Matrix) tạo ra
nucleocapsid.
Các protein của vi rút bao gồm và có chức năng sau:
- HA: là một trimer có bản chất glycoprotein type I có chức năng bám dính
vào thụ thể tế bào.
- NA: là một tetramer, có nhiêm vụ cắt acid sialic, giúp HA gắn vào thụ thể
và giúp giải phóng RNA từ endosome (thể nội bào) và tạo hạt vi rút mới.
- M2: là tetramer có chức năng tạo khe H+ nhằm giúp cởi vỏ vi rút.
- M1: tập hợp (assembly) các thành phần của vi rút và gây ra hiện tượng nảy
chồi (budding) để giải phóng vi rút mới hình thành.
- PB1, PB2, NP và PA: có nhiệm vụ bảo vệ, sao chép và biên dịch RNA.
- NS2: kết hợp với M1 có nhiệm vụ chuyển RNA từ trong nhân tế bào ra
ngoài nguyên sinh chất.

10


Báo cáo tốt nghiệp

Nguyễn Thị Hà, lớp TY40

- NS1: là protein không cấu trúc (không là đơn vị tạo thành hạt vi rút) được
tổng hợp trong quá trình nhân lên của vi rút và có nhiệm vụ cắt RNA và kích

thích sự phiên mã trong q trình nhân lên của vi rút [9].

Hình 2.01. Vi rút H5N1 (cytokinestorm.com)
2.3.5. Tính đa dạng và độc lực của vi rút
Các vi rút cúm type A gây nhiễm cho gia cầm được chia làm hai nhóm: Loại
vi rút có độc lực thấp-LPAI và chủng vi rút có độc lực cao-HPAI bao gồm các vi
rút thuộc phân type H5 và H7 [7]. Độc lực của các phân type vi rút cúm A trên
gia cầm thay đổi tuỳ theo loài vật chủ (gà, vịt, chim hoang dại...), và có thể biến
chuyển mức độ độc lực theo thời gian hoặc khi xảy ra hiện tượng tái tổ hợp gen
với các phân type vi rút cúm khác [17].
Hiện nay, vi rút cúm A có tất cả 16 kháng nguyên H (H1-H16) và 9 kháng
nguyên N (N1-N9) và hầu hết chúng đều liên quan đến động vật. Chúng có thể
tạo ra 144 chủng vi rút cúm và hơn 256 dạng cúm. Tuy nhiên, trong những năm

11


Báo cáo tốt nghiệp

Nguyễn Thị Hà, lớp TY40

gần đây, subtype vi rút cúm A H5N1 có độc lực đã gây nhiễm chéo giữa các lồi
và có thể gây nhiễm cho người [23, 25, 26].
Độc lực của vi rút cúm gia cầm được đánh giá bằng cách gây bệnh cho gà 46 tuần tuổi: tiêm vào tĩnh mạch cánh 0,2 ml nước trứng đã được gây nhiễm vi
rút với tỷ lệ pha lỗng 1/10, sau đó đánh giá mức độ bệnh của gà để cho điểm.
- Loại vi rút có độc lực cao: Sau 10 ngày tiêm tĩnh mạch cho gà, vi rút phải
làm chết 75-100% số gà thực nghiệm. Sau khi phân lập vi rút từ gà bệnh thì vi
rút phải phát triển tốt và gây bệnh tích tế bào đặc trưng trong mơi trường ni
cấy tế bào khơng có Trypsine.
- Loại vi rút có độc lực trung bình: Là những chủng vi rút gây bệnh với triệu

chứng lâm sàng rõ rệt nhưng không chết quá 15% gà bị nhiễm bệnh tự nhiên
hoặc không quá 20% số gà mẫn cảm thực nghiệm.
- Loại vi rút có độc lực thấp (nhược độc): Là những vi rút phát triển tốt
trong cơ thể gà, có thể gây ra dịch cúm nhưng khơng triệu chứng lâm sàng rõ
rệt, khơng tạo bệnh tích đại thể và không làm chết gà.
2.3.6. Sức đề kháng của vi rút
Điều kiện ngoại cảnh có ảnh hưởng rõ rệt tới sức đề kháng của vi rút cúm
H5N1. Vi rút thường sống lâu hơn trong khơng khí ở độ ẩm tương đối thấp,
trong phân ở điều kiện nhiệt độ thấp và độ ẩm cao.
Vi rút có thể sống trong chuồng gà tới 35 ngày, trong phân gia cầm bệnh tới
3 tháng.
Vi rút cúm dễ dàng bị tiêu diệt ở nhiệt độ 60-700C trong 5 phút. Trong tủ
lạnh và tủ đá, vi rút sống được hàng tháng.
Những chất sát trùng thông thường đều diệt được vi rút cúm gia cầm như:
Xút 2%, Formol 3%, Crezin 5%, Chloramin B 3%, cồn 70-900, vôi bột hoặc
nước vơi 10%, nước xà phịng đặc...Người ta có thể dùng các chất này để tổng

12


Báo cáo tốt nghiệp

Nguyễn Thị Hà, lớp TY40

tẩy uế chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi và các thiết bị chăn nuôi khi cơ sở bị đe
dọa [2, 28].

2.4. Miễn dịch chống vi rút cúm
Hệ thống miễn dịch đóng vai trị quan trọng trong phòng chống bệnh ở gia
súc, gia cầm, giúp cơ thể động vật có khả năng chống lại mầm bệnh và các chất

ngoại lai khác xâm nhập vào cơ thể ở một mức độ nhất định. Hệ thống miễn
dịch có các cơ chế tấn cơng lại vi rút ở tất cả các giai đoạn trong vòng đời của
một vi rút bao gồm cơ chế miễn dịch không đặc hiệu và cơ chế miễn dịch đặc
hiệu [38].
2.4.1. Đáp ứng miễn dịch không đặc hiệu
Đáp ứng miễn dịch không đặc hiệu (miễn dịch bẩm sinh hoặc miễn dịch tự
nhiên) là hàng rào phịng ngự đầu tiên nhưng lại khơng có khả năng nhận biết
mầm bệnh và không tạo được đáp ứng miễn dịch phòng hộ đặc hiệu để ngăn cản
sự tái nhiễm của mầm bệnh [39].
Đáp ứng miễn dịch không đặc hiệu gồm phản ứng viêm, sự thực bào các tế
bào bị nhiễm vi rút, sốt và sự sản sinh interferon có tác dụng hạn chế sự lây lan
của vi rút tới các tế bào chưa bị nhiễm vi rút [38].
Interferon được giải phóng từ tế bào vật chủ bị nhiễm vi rút trong vòng một
vài giờ sau khi vi rút xâm nhập vào cơ thể và đạt cao nhất sau vài ngày bị nhiễm,
trong lúc đó các đáp ứng miễn dịch khác vẫn chưa phát triển.
Có 3 loại interferon: alpha (từ các tế bào bạch cầu bị nhiễm vi rút), beta (từ
các tế bào xơ bị nhiễm vi rút) và gamma (từ lympho T được kháng nguyên gây
kích thích). Chúng kết gắn với các thụ cảm quan đặc hiệu có trên các tế bào liền
kề và bảo vệ các tế bào đó chống lại sự xâm nhiễm của vi rút [38].
Ngồi ra cịn có sự tham gia của các tế bào thực bào và bổ thể, các tế bào
diệt tự nhiên (Natural Killer Cells) vào quá trình tiêu diệt mầm bệnh.

13


Báo cáo tốt nghiệp

Nguyễn Thị Hà, lớp TY40

2.4.2. Đáp ứng miễn dịch đặc hiệu

Miễn dịch dịch thể kháng vi rút
Đáp ứng miễn dịch dịch thể ở gia cầm khi nhiễm tự nhiên AIV bao gồm tạo
kháng thể hệ thống cũng như kháng thể ở niêm mạc [6]. Kháng thể bảo vệ sự
xâm nhập vi rút vào tế bào bằng cách phong tỏa, hấp thụ vi rút được bao bọc đến
tế bào đích và bằng cách thực bào vi rút, trung hòa vi rút chúng làm giảm bớt tế
bào bị nhiễm vi rút.
Các globulin miễn dịch có liên quan đến sự trung hịa vi rút gồm có: IgG,
IgM trong huyết thanh và IgA trong dịch tiết [29].
Miễn dịch qua trung gian tế bào
Miễn dịch qua trung gian tế bào được coi là con đường quan trọng nhất để
kiểm soát các bệnh vi rút. Các kháng nguyên vi rút được biểu lộ trên bề mặt của
tế bào bị nhiễm khá lâu trước khi vi rút được nhân lên. Các tế bào bị nhiễm vi
rút có thể nhận biết vật thể lạ và bị loại trừ giống cơ chế loại trừ mảnh ghép.
Kháng thể và bổ thể có thể đóng vai trị quan trọng kết hợp với gây tính độc
qua trung gian tế bào lympho T thơng qua đó sự phá hủy mới thành công.
Lympho T gây độc nhận biết kháng nguyên vi rút trong sự liên kết với phức hợp
tương đồng tổ chức chủ yếu (MHC) và kháng nguyên lớp 1.
Các tế bào NK là một quần thể lympho gây độc và được hoạt hóa bởi sự có
mặt của interferon. Chúng có thể nhận biết và phá hủy tế bào bị nhiễm vi rút.
Miễn dịch nhận được qua trung gian tế bào bởi đại thực bào từ gà do
interferon gamma được hoạt hóa [29].

2.5. Sinh bệnh học, triệu chứng và bệnh tích
2.5.1. Cơ chế sinh bệnh
Quá trính sinh sản của vi rút được Kingsbury 1985, Fener và cộng sự mơ tả
tóm tắt như sau: Vi rút được hấp thu vào bề mặt tế bào nhờ có cơ quan cảm thụ

14



Báo cáo tốt nghiệp

Nguyễn Thị Hà, lớp TY40

(receptor) mà bản chất là glycoprotein chứa axit sialic, vi rút chui qua màng tế
bào nhờ loại men đặc biệt để vào trong nguyên sinh chất và nhân tế bào. Tại đây
vi rút sinh trưởng nhanh chóng và phát triển theo hướng tự nhân đơi [25].
Vị trí đầu tiên của nhiễm vi rút cúm là biểu mô đường hô hấp. Trong tế bào
bị nhiễm, vi rút nhân lên trong khoảng 4-6 giờ, sau đó được giải phóng để lây
nhiễm cho tế bào bên cạnh hay gần đó và lan đến một số lượng lớn tế bào đường
hô hấp sau vài giờ [10].
2.5.2. Triệu chứng bệnh
Sự lây nhiễm vi rút cúm ở gia cầm gây ra nhiều triệu chứng lâm sàng khác
nhau bao gồm nhiễm không biểu hiện triệu chứng, bệnh đường hô hấp từ nhẹ
đến nặng, giảm sức sản xuất [6].
Thời kỳ ủ bệnh ngắn: Chỉ vài giờ đến 3 ngày sau khi vi rút cúm xâm nhập
vào cơ thể.
Triệu chứng bệnh phụ thuộc rất nhiều yếu tố như: Độc lực, khối lượng vi
rút, tuổi gà, tính biệt, sức khỏe đàn gà, mật độ, tiểu khí hậu chuồng ni.
Các triệu chứng hơ hấp thường xuất hiện đầu tiên và điển hình như: Khẹt,
lắc đầu, vảy mỏ, chảy nước mũi, nước mắt, khó thở..., mí mắt bị viêm, sưng
mọng. Mào và tích dày lên do thủy thũng, có nhiều điểm hoặc đám xuất huyết,
nhiều trường hợp thấy hoại tử ở mào và tích. Thịt gà bị bệnh thân xám, xuất
huyết dưới da vùng chân.
Các biểu hiện thần kinh thể hiện: đi lại khơng bình thường, chuệnh choạng,
run rẩy, mệt mỏi, nằm li bì tụm đống với nhau.
Gà bị tiêu chảy, phân loãng trắng hoặc trắng xanh.
Bệnh lây lan nhanh, năng suất trứng giảm rõ rệt [25].
2.5.3. Bệnh tích
Bệnh tích đại thể


15


Báo cáo tốt nghiệp

Nguyễn Thị Hà, lớp TY40

Trường hợp bệnh nhẹ:
- Viêm mũi từ thể cata, serofibrin đến nhầy mủ (mucopurulent) và bị casein
hóa gây tịt mũi, thối mí mắt.
- Khí quản phù nề, đọng nhiều dịch rỉ (exudate), viêm sero đến casein, nhiều
đờm.
- Túi khí dày lên, có nhiều casein bám dính.
- Phúc mạc bị viêm nặng từ cata đến fibrin.
- Buồng trứng bị viêm xuất huyết, trứng non dập vỡ, ống dẫn trứng viêm
dịch rỉ đến casein.
- Ruột bị viêm xuất huyết từ cata đến fibrin. Nặng nhất là vùng ruột non,
ruột thừa và hậu môn.
Trường hợp bệnh nặng:
Một số chết q nhanh khơng để lại bệnh tích điển hình, nhưng đại bộ phận
những gà khác thì các biến đổi đại thể lại thể hiện khá rõ.
- Mũi bị viêm tịt.
- Mào tích thâm tím, sưng dày lên, xuất huyết điểm và hoại tử. Khi cắt đôi
mào hoặc tích thấy chúng có màu vàng xám, óng ánh như gelatin.
- Mí mắt và mặt phù nề, đầu sưng to.
- Xuất huyết dưới da: chân, kẽ móng chân, lưng, đùi...
- Xác gà béo nhưng thịt thâm và khô.
- Viêm teo, xuất huyết và gây hoại tử ở gan, lách, thận.
Các bệnh tích khác

Ở gà: Dạ dày tuyến, van hồi manh tràng, niêm mạc hậu môn bị viêm xuất
huyết, tụy teo do mất nước, bao tim tích nước vàng, xuất huyết điểm, viêm dính
phúc mạc và túi khí, xuất huyết dưới da và cơ ở vùng đùi, ngực, bụng, bao tim

16


Báo cáo tốt nghiệp

Nguyễn Thị Hà, lớp TY40

màng treo ruột và niêm mạc khí quản. Trong khí quản thường chứa nhiều đờm,
dãi.
Ở ngan, vịt: Một trong hai lá phổi luôn bị viêm xuất huyết nặng, gan hóa
(khi bỏ vào nước thì phổi bị chìm: > 2/3 nằm dưới mặt nước), bao tim tích nước
vàng và bị xuất huyết điểm nặng, xuất huyết bên trong lồng ngực, đường ruột
chứa rất ít thức ăn.
Bệnh tích vi thể:
Các biến đổi đặc trưng bao gồm: phù nề, xung huyết, xuất huyết, thâm nhập
lympho đơn nhân ở cơ vân, cơ tim, lách, phổi, mào tích, gan, thận, mắt và thần
kinh. Ngoài tế bào lympho đơn nhân hình thái cịn có tế bào đặc trưng cho phản
ứng viêm hoại tử [25].

2.6. Dịch tễ học
2.6.1. Động vật cảm nhiễm
Vi rút cúm type A gây bệnh chủ yếu cho gia cầm (đặc biệt ở gà), người và
động vật có vú khác.
Phần lớn các lồi gia cầm non đều mẫn cảm với vi rút cúm type A (từ 4-66
tuần tuổi). Tuổi mắc bệnh sớm nhất ở gà, vịt, ngan theo thứ tự là 26, 28, 24 ngày
tuổi. Đồng thời tuổi mắc bệnh cao nhất theo thứ tự là 10, 18, 14 tháng tuổi. Ở

vịt, tuổi mắc bệnh tập trung vào 2-11 tháng tuổi [25]. Gia cầm có sức sản suất
càng cao thì càng mẫn cảm với bệnh cúm gà. Gia cầm mái dễ bị cúm hơn so với
con trống.
Vịt ni cũng bị cảm nhiễm vi rút cúm nhưng ít phát bệnh do vịt có sức đề
kháng với vi rút bệnh, kể cả những chủng có độc lực cao gây bệnh nặng cho gà,
gà tây. Tuy nhiên, năm 1961, ở Nam Phi đã phân lập được vi rút cúm type A
(H5N1) gây bệnh cho cả gà và vịt. Hiện nay đã phân lập được vi rút cúm từ vịt
bầu, ngỗng, chim cút, gà Nhật, gà gô, gà lôi...[1].

17


Báo cáo tốt nghiệp

Nguyễn Thị Hà, lớp TY40

Ngoài ra, vi rút cúm type A cịn gây bệnh cho nhiều lồi động vật có vú như
lợn, ngựa, chồn, hải cẩu và thú hoang dã ở nhiều nơi trên thế giới.
Lợn mắc bệnh cúm thường do phân type H1N1 và H3N2.
Loài chồn cảm nhiễm cao với vi rút cúm. Trong một ổ dịch tại một trại nuôi
chồn ở Thụy Điển, đã phân lập được vi rút cúm type A (H4N1). Phân type này
cũng đang lưu hành trong quần thể gia cầm [1].
2.6.2. Động vật mang vi rút
Hầu hết các loài chim hoang dã như: vịt trời, thiên nga, hải cẩu, vẹt,
mòng biển, diều hâu, chim sẻ... đều mang vi rút cúm. Tuy nhiên, tần suất và số
lượng vi rút cúm phân lập ở các loài thuỷ cầm cao hơn ở các loài khác. Kết quả
điều tra thuỷ cầm di trú ở Bắc Mỹ cho thấy trên 60% chim con bị nhiễm vi rút
do tập hợp đàn trước khi di trú. Trong các lồi thuỷ cầm di trú thì vịt trời có tỉ lệ
nhiễm cao hơn các loài khác [1]. Những vi rút này không gây độc đối với vật
chủ mà được nhân lên trong đường hơ hấp và tiêu hóa, sau đó vi rút được bài

thải ra ngồi; nó trở thành nguồn gieo rắc vi rút cho các loài khác, đặc biệt là gia
cầm [35].
Vịt bài thải một số lượng lớn vi rút (10 3.5-105.5/ml) theo đường hô hấp cũng
như theo phân. Lượng vi rút H5N1 bài thải từ vịt đủ để lây truyền trực tiếp vi rút
từ vịt có biểu hiện lâm sàng khoẻ mạnh sang gà. Lượng vi rút bài thải ở vịt ni
có biểu hiện khoẻ mạnh cũng xấp xỉ với lượng vi rút do gà bệnh và gà có biểu
hiện ốm bài thải. Điều này cho thấy vịt là vật chủ tàng trữ “thầm lặng” đối với vi
rút cúm H5N1 gây bệnh thể độc lực cao cho gà [36].
Vi rút cúm H5N1 hiện đang lưu hành ở châu Á đã tăng độc lực của nó với
gà và chuột, đồng thời mở rộng phổ vật chủ của nó trên các động vật có vú như
các động vật họ mèo, lợn, ngựa, hải cẩu, chồn. Vì vậy các động vật trên đóng
vai trị quan trọng trong việc tàng trữ và phát tán mầm bệnh [36].

18


Báo cáo tốt nghiệp

Nguyễn Thị Hà, lớp TY40

2.6.3. Chất chứa mầm bệnh
Vi rút có trong hầu hết các cơ quan nội tạng của động vật mắc bệnh kể cả
máu và tủy xương, nước dãi, phân, lơng...Ngồi ra vi rút cũng có trong thức ăn,
nước uống, dụng cụ chăn ni, quần áo, dụng cụ bảo hộ,… khu vực xung quanh
có động vật mang mầm bệnh [16].
2.6.4. Phương thức lây lan
Khi gia cầm nhiễm cúm, vi rút được nhân lên trong đường hơ hấp và đường
tiêu hố. Sự truyền lây bệnh được thực hiện theo 2 phương thức là trực tiếp và
gián tiếp.
- Truyền trực tiếp giữa con mắc bệnh và con khoẻ mạnh. Lây trực tiếp do

con vật mẫn cảm tiếp xúc với con vật mắc bệnh thông qua các hạt khí dung
được thải ra từ đường hơ hấp hoặc qua phân, thức ăn và nước uống có chứa
mầm bệnh.
- Lây gián tiếp thơng qua khơng khí, gió đưa bụi phân có chứa vi rút đi xa,
dụng cụ chăn ni, thức ăn nước uống, xe vận chuyển, côn trùng, chim, chuột,
vật nuôi, phân rác hoặc tay chân, giày dép của người có tiếp xúc gia cầm mắc
bệnh và vơ tình truyền mầm bệnh đi nơi khác [2].
Đối với gia cầm nuôi, nguồn dịch đầu tiên thường thấy là:
- Từ các loại gia cầm nuôi khác nhau ở trong cùng một trang trại hoặc trang
trại khác liền kề như vịt lây sang gà hoặc từ gà tây sang gà.
- Từ gia cầm nhập khẩu.
- Từ chim di trú, đặc biệt thủy cầm được coi là đối tượng chính dẫn nhập vi
rút vào đàn gia cầm nuôi.
- Từ người và các động vật có vú khác. Phần lớn các ổ dịch cúm gia cầm
gần đây đã có sự lây lan thứ phát thơng qua con người [1].

19


Báo cáo tốt nghiệp

Nguyễn Thị Hà, lớp TY40

2.6.5. Mùa vụ phát bệnh
Bệnh cúm xảy ra quanh năm nhưng cũng chịu tác động thúc đẩy bởi các yếu
tố stress có hại như sự thay đổi đột ngột về thời tiết, thức ăn, nước uống... [25].
Mùa đông xuân với nhiệt độ trung bình và độ ẩm khơng khí thấp hơn có thể
là một yếu tố làm tăng nguy cơ mắc cúm cả trên gia cầm và người. Dịch cúm gia
cầm có thể bùng phát vào những tháng nóng nếu có điều kiện phù hợp [22].
2.6.6. Phân bố dịch bệnh

Vi rút cúm gia cầm phân bố khắp thế giới trong các loài gia cầm, dã cầm,
động vật có vú. Sự phân bố và lưu hành của vi rút cúm gia cầm rất khó xác định
chính xác, bị ảnh hưởng của cả lồi vật nuôi và hoang dã, tập quán chăn nuôi gia
cầm, đường di trú của dã cầm, mùa vụ và hệ thống báo cáo dịch bệnh. Sự lưu
hành cũng bị ảnh hưởng của các nguyên nhân tương tự và sự sai khác của các
quốc gia và hệ thống, phương pháp nghiên cứu [1].
Một số vùng có nguy cơ cao phát sinh dịch bệnh:
(1) Vùng chăn ni gà và các lồi gia cầm với mật độ cao, trong khi vẫn duy
trì tập quán chăn thả tự do (vịt chạy đồng trong mùa thu hoạch, gà thả vườn...).
(2) Vùng có tập qn chăn ni gà và gia cầm khác một cách nhỏ lẻ, nằm
ngay trong khu dân cư, nơi gia cầm luôn sống chung gần gũi với con người.
(3) Vùng đồng bằng, nơi có nhiều sông rạch, đầm hồ, bãi lầy... thuận tiện
cho chăn nuôi thủy cầm địa phương và di trú của thủy cầm hoang dã.
(4) Vùng dân cư có đời sống khó khăn, dân trí cịn thấp, ít tiếp cận với các
thơng tin về phòng chống dịch bệnh cúm gia cầm, vẫn thường xuyên ăn thịt gia
cầm ốm, chết.
(5) Các vùng từng có dịch cúm gia cầm cũ hoặc từng có bệnh nhân mắc,
chết do cúm A/H5N1 (vùng có ổ dịch cũ) [1].

20



×