Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

VAI TRÒ CỦA ĐTNN ĐÓNG GÓP VÀO SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI TRONG THỜI GIAN QUA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.47 KB, 39 trang )

CHƯƠNG I
VAI TRỊ CỦA ĐTNN ĐĨNG GĨP VÀO SỰ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ XÃ HỘI TRONG THỜI GIAN QUA

1, ĐTNN là nguồn bổ sung vốn quan trọng đáp ứng nhu cầu đầu tư phát
triển xã hội và tăng trưởng kinh tế
Vốn đầu tư là yếu tố quyết định đối với sự tăng trưởng của mỗi quốc gia
Mơ hình Harrod Domar chỉ ra rằng
ICOR = Vốn đầu tư tăng thêm/GDP tăng thêm
Hay = Đầu tư trong kỳ/GDP tăng thêm
Hệ số ICOR phản ánh khối lượng vốn đầu tư cần thiết để duy trì một tốc độ tăng
trưởng khơng đổi
Tác động đến tổng cầu AD
AD=C+I+G+NX
Nếu I tăng thì AD dịch phải từ DD’ kéo sản lượng và giá các yếu tố thay đổi
theo.Từ đó dẫn đến thay đổi trong điểm cân bằng của cả nền kinh tế
- Đầu tư tác động đến cung
Tổng cung AS gồm cung từ trong nước và cung từ nước ngoài.Bộ phận chủ yếu của
cung trong nước là hàm của các yếu tố sản xuất:Vốn,tài nguyên,lao động,công
nghệ….. Thể hiện qua phương trình
Q=F(K,L,T,R..)
Như vậy tăng qui mơ vốn đầu tư là nguyên nhân trực tiếp làm gia tăng tổng cung
của nền kinh tế,nếu các yếu tố khác không đổi.Mặt khác tác động của vốn đầu tư
cịn được thể hiện thơng qua hoạt động đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
đổi mới cơng nghệ….Do đó đầu tư lại gián tiếp làm gia tăng tổn vốn đầu tư của nền
kinh tế
Đóng góp của khu vực FDI vào GDP của nước chủ nhà thể hiện qua tỷ trọng và sự
đóng góp của nguồn vốn đầu tư vào tổng vốn đầu tư toàn xã hội
Mặt khác FDI gián tiếp làm tăng thêm phần tiết kiệm trong nước bởi tăng thu nhập
của người lao động sẽ khiến khoản tiết kiệm của cá nhân tăng thêm,bên cạnh đó
một phần thu nhập của nhà đầu tư nước ngoài được giữ lại để tiến hành tái đầu tư.




kết quả là thúc đẩy tăng trưởng đầu tư trong nước

2, ĐTNN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nâng cao năng lực sản xuất
công nghiệp
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được hiểu là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận cấu
thành nền kinh tế.Sự bổ sung của vốn đầu tư nước ngoài bao gồm cả ODA và FDI
đóng góp cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với quy luật và chiến lược
phát triển kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ,tạo ra sự cân đối mới trên
phạm vi nền kinh tế quốc dân và giữa các nghành và các vùng phát huy được nội
lực của nền kinh tế,trong khi vẫn coi trọng yếu tố ngoại lực
Đối với cơ cấu nghành đầu tư vốn vào ngành nào với quy mô bao nhiêu và việc sử
dụng vốn hiệu quả hay không đều ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng và khả năng
tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành tạo tiền đề về mặt vật chất để phát triển
các ngành mới Điều này giúp làm dịch chuyển cơ cấu nghành
Đối với cơ cấu vùng lãnh thổ hoạt động đầu tư có tác dụng gải quyết những mất cân
đối trong việc phát triển giữa các vùng
Hoạt động đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung vào những nơi địa bàn kinh tế phát
triển và hệ thống cơ sở hạ tầng được đầu tư hơn như Thành phố Hồ Chí Minh và
các địa bàn trọng điểm phía nam tập trung nhiều khu cơng nghiệp như Bình
Dương,Đồng Nai….
Đến nay khu vực có vốn đầu tư nước ngồi chiếm khoảng 35%giá trị sản xuất cơng
nghiệp của cả nước.Các lĩnh vực tập trung chủ yếu vào công nghiệp,dịch vụ kinh
doanh bất động sản...

3, ĐTNN thúc đẩy chuyển giao công nghệ
Công nghệ là yếu tố quyết định sự phát triển và tốc độ tăng trưởng của mỗi quốc gia
Các liên doanh nước ngoài đã đưa vào Việt Nam những công nghệ tiên tiến vào các
nghành như viễn thơng,thăm dị và khai thác đầu khí

ĐTNN đặc biệt là FDI là nguồn quan trọng để phát triển công nghệ của nước chủ
nhà. Qúa trình sử dụng và chuyển giao công nghệ từ các dự án FDI đã tạo ra các
mối liên kết cung cấp các dịch vụ và công nghệ từ các cơ sở nghiên cứu ứng dụng
trong nước .Bằng cách này,năng lực công nghệ trong nước được tăng cường


Bên cạnh đó các TNCs cịn góp phần tích cực nâng cao năng lực nghiên cứu và phát
triển của nước chủ nhà
Trình độ của các cơng nghệ là tương đương với các nước trong khu vực,các phương
thức quản lý tiên tiến được kết nối và chịu ảnh hưởng của hệ thống quản ký tiên tiến
của công ty mẹ
Thông qua sự liên kết giữa các doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các doanh nghiệp
trong nước thì cơng nghệ và năng lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang các doanh nghiệp trong nước
sự chuyển giao có thể theo chiều dọc giữa các cơng ty trong nghành hay chiều
ngang

4, Tác động lan toả của đầu tư nước ngoài đến các thành phần kinh tế
khác trong nền kinh tế.
Thông qua sự liên kêt giữa các doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các doanh nghiệp
trong nước thi công nghệ và năng lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh
nghiệp có vố đầu tư nước ngoai sang các doanh nghiệp trong nước. Sự liên kết này
diễn rất mạnh mẽ nó khơng chỉ diên ra giữa các doanh nghiệp trong ngành mà nó
cịn diễn ra giữa các doanh nghiệp hoạt động cùng nghành. Các doanh nghiệp trong
nước sẽ tiếp nhận được những công nghệ mới tiên tiến hơn phù hợp hơn, những kỹ
năng quản lý tơt hơn, bởi vì khi các doanh nghiệp nước ngoài thực hiện liên doanh
liên kêt thì đồng thời họ cũng đem theo những cơng nghệ mới và những kỹ năng
quản lý tiến bộ của mình theo.

5,ĐTNN đóng góp đáng kể vào thu ngân sách nhà nước và các cân đối vĩ

mô.
Trong những năm gần đây ĐTNN vào Việt Nam ngày càng nhiều và nó là một
nguồn thu không nhỏ của ngân sách nhà nước.Cùng với sự phát triển các doanh
nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam, mức đóng góp của khu vực kinh tế có vốn
ĐTNN vào ngân sách ngày càng tăng.Trong 5 năm (2001-2005), thu ngân sách
trong khối doanh nghiệp ĐTNN đạt gần đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân
24%/năm. Riêng năm 2007, nguồn thu ngân sách của khu vực ĐTNN vượt 1,5 tỷ
USD.


Ngồi ra, ĐTNN cũng tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như
cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh tốn quốc tế thơng qua
việc chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách
quốc tế, tiền thuê đất, tiền mua máy móc, nguyên vật liệu...
6,ĐTNN góp phần giúp Việt Nam tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế và năng
lực xuất khẩu.
ĐTNN sẽ giúp đẩy nhanh lền sản xuất trong nước và là một trong những thành phần
quan trọng của nền kinh tế để đẩy mạnh cán cân xuất nhập khẩu. Tốc độ tăng kim
ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng nhanh, cao hơn mức bình qn chung của
cả nước, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Thời kỳ 1996 - 2000, xuất khẩu của khu vực ĐTNN đạt 10,6 tỷ USD (không kể dầu
thô), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước, chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả nước;
năm 2000 chiếm 25%, năm 2003 chiếm 31%; tính cả dầu thơ thì tỷ trọng này đạt
khoảng 54% năm 2004 và chiếm trên 55% trong các năm 2005, 2006 và 2007.
Bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, hoạt động ĐTNN tại Việt Nam trong
thời gian qua vẫn còn một số tồn tại cần giải quyết. Vốn ĐTNN tăng nhanh, đặc biệt
là trong các năm trong năm 2006 và 2007, vốn thực hiện tăng qua các năm nhưng
chậm nên khoảng cách giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện ngày càng giãn ra;
ĐTNN trong lĩnh vực nơng, lâm, ngư nghiệp cịn thấp; đầu tư từ các nước phát triển
có thể mạnh về công nghệ như Hoa Kỳ, một số quốc gia thuộc EU... tăng chậm;

việc cung cấp nguyên liệu, phụ tùng của các doanh nghiệp trong nước cho các
doanh nghiệp có vốn ĐTNN cịn hạn chế; đầu tư vào lĩnh vực cơng nghệ cao tuy
ngày càng gia tăng nhưng vẫn chậm... Điều này địi hỏi nước ta cần phải có các giải
pháp tổng thể để khắc phục dần những tồn tại nêu trên trong thời gian tới.


CHƯƠNG 2
TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ NƯỚC NGỒI TRONG THỜI GIAN QUA
A. CÁC GIAI ĐOẠN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TỪ 1988 ĐẾN NAY
- Giai đoạn 1988-1990

Giai đoạn thăm dò sau khi luật đầu tư nước ngoài được ban hành.
Trong giai đoạn này số lượng vốn đầu tư vào Việt Nam còn ít mà chủ yếu mang
tính thăm dò thị trường mới .Trong 3 năm 1988-1990, mới thực thi Luật Đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Việt Nam nên kết quả thu hút vốn ĐTNN cịn ít (214 dự án với
tổng vốn đăng ký cấp mới 1,6 tỷ USD),Tính ra qui mơ vốn đầu tư bình quân đạt 7,5
triệu USD/dự án/năm.Các dự án có qui mơ nhỏ chủ yếu tới từ các nước là Đài Loan
và Hồng Cơng .Do vậy có thể thấy rằng ĐTNN chưa tác động đến tình hình kinh tếxã hội đất nước.
Trong giai đoạn này việc tăng vốn đầu tư của các doanh nghiệp hầu như khơng có
-Giai đoạn 1991-1996

Bùng nổ làn sóng đầu tư nước ngồi vào Việt Nam. Đây là làn sóng đầu tư nước
ngồi đầu tiên vào Việt Nam
Trong thời kỳ 1991-1995, vốn ĐTNN đã tăng lên (1.409 dự án với tổng vốn đăng
ký cấp mới 18,3 tỷ USD) và có tác động tích cực đến tình hình kinh tế-xã hội đất
nước. Thời kỳ 1991-1996 được xem là thời kỳ “bùng nổ” ĐTNN tại Việt Nam (có
thể coi như là “làn sóng ĐTNN” đầu tiên vào Việt Nam) với 1.781 dự án được cấp
phép có tổng vốn đăng ký (gồm cả vốn cấp mới và tăng vốn) 28,3 tỷ USD. Đây là
giai đoạn mà môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam đã bắt đầu hấp dẫn nhà
đầu tư do chi phí đầu tư-kinh doanh thấp so với một số nước trong khu vực; sẵn lực

lượng lao động với giá nhân công rẻ, thị trường mới, vì vậy, ĐTNN tăng trưởng
nhanh chóng, có tác động lan tỏa tới các thành phần kinh tế khác và đóng góp tích
cực vào thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội của đất nước. Năm 1995 thu hút được
6,6 tỷ USD vốn đăng ký, tăng gấp 5,5 lần năm 1991 (1,2 tỷ USD). Năm 1996 thu
hút được 8,8 tỷ USD vốn đăng ký, tăng 45% so với năm trước


-Giai đoạn 1997-2000

Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính 7/1997 taị Thái Lan ảnh hưởng tới dòng
vốn đầu tư nước ngồi vào Việt Nam.
Một số chính phủ các nước trong khu vực tạm thời ngừng việc đầu tư ra nước ngoài
để củng cố nền kinh tế trong nước đồng thời một số nhà đầu tư cũng phải tự giải
quyết khó khăn cho chính mình
-Trong giai đoạn từ 1997-1999 số lượng các dự án đầu tư có xu hướng giảm
dần ,vốn đăng lý của năm sau giảm so với năm trước
Vốn đăng ký năm 1998 chỉ bằng 81.8% so với năm 1997.Năm 1999 chỉ bằng 46.8%
so với năm 1998.Một số dự án
Trong 3 năm 1997-1999 có 961 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký hơn 13
tỷ USD; nhưng vốn đăng ký của năm sau ít hơn năm trước (năm 1998 chỉ bằng
81,8% năm 1997, năm 1999 chỉ bằng 46,8% năm 1998), chủ yếu là các dự án có
quy mơ vốn vừa và nhỏ. Cũng trong thời gian này nhiều dự án ĐTNN được cấp
phép trong những năm trước đã phải tạm dừng triển khai hoạt động do nhà đầu tư
gặp khó khăn về tài chính (đa số từ Hàn Quốc, Hồng Kông)
Từ năm 2000 vốn đầu tư có xu hướng phục hồi
-Giai đoạn 2001-2005
Vốn đăng ký có xu hướng tăng sau năm 2000
Vốn tăng nhanh trong năm 2003 trở về sau
Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu
phục hồi chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 triệu USD, tăng 21% so với

năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn đăng ký giảm,
chỉ bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003 (đạt 3,1 tỷ USD), tăng 6% so với năm
2002. Và có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5 tỷ USD) tăng 45,1% so với
năm trước; năm 2005 tăng 50,8%; năm 2006 tăng 75,4% và năm 2007 đạt mức kỷ
lục trong 20 năm qua 20,3 tỷ USD, tăng 69% so với năm 2006, và tăng hơn gấp đôi
so với năm 1996, năm cao nhất của thời kỳ trước khủng hoảng.
Trong giai đoạn 2001-2005 thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) đạt 20,8 tỷ
USD vượt 73% so với mục tiêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 của
Chính phủ , vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD tăng 30% so với mục tiêu. Nhìn chung


trong 5 năm 2001-2005, vốn ĐTNN cấp mới đều tăng đạt mức năm sau cao hơn
năm trước (tỷ trọng tăng trung bình 59,5%), nhưng đa phần là các dự án có quy mơ
vừa và nhỏ. Đặc biệt trong 2 năm 2006-2007, dòng vốn ĐTNN vào nước ta đã tăng
đáng kể (32,3 tỷ USD) với sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn đầu tư chủ yếu
trong lĩnh vực công nghiệp (sản xuất thép, điện tử, sản phẩm công nghệ cao,...) và
dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, du lịch-dịch vụ cao
cấp .v.v.).
Lượng vốn đầu tư năm sau luôn cao hơn năm trước
Điều này cho thấy dấu hiệu của “làn sóng ĐTNN” thứ hai vào Việt Nam.
Đây có thể coi là dấu hiệu của làn sóng đầu tư thứ 2 vào Việt Nam
Giai đoạn từ năm 2006-nay
Trong khoảng thời gian này chứng kiến nhưng kỷ lục về việc thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Việt Nam
Năm 2006, tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam theo dự án đạt 10,2 tỷ USD,
tăng 52% so với năm 2005, đạt mức cao nhất kể từ năm 1987 khi Việt Nam công bố
Luật Đầu tư nước ngoài. Đồng thời, tổng vốn đầu tư thực tế của nước ngoài vào
Việt Nam năm 2006 cũng lập kỷ lục cao mới, đạt 4,1 tỷ USD, tăng 24,2% so với
năm 2005
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đạt mức kỷ lục và được coi là điểm sáng nổi

bật trong bức tranh toàn cảnh nền kinh tế. Đáng chú ý là FDI có xu hướng dịch
chuyển từ lĩnh vực dịch vụ sang lĩnh vực công nghiệp nhờ 2 “siêu dự án” với tổng
vốn đăng ký là 14,097 tỷ USD. Đó là Cơng ty Gang thép Hưng Nghiệp Formosa do
Tập đoàn Formosa (Đài Loan) đầu tư gần 7,9 tỷ USD tại Vũng Áng (Hà Tĩnh) và
Liên doanh giữa Công ty lọc dầu Nghi Sơn với các tập đoàn của Nhật Bản và Côoét đầu tư 6,2 tỷ USD tại Thanh Hóa. Dự kiến, cả năm 2008, số vốn cam kết của
các dự án FDI có thể đạt trên 50 tỷ USD. Tuy nhiên, giải ngân vốn vẫn là vấn đề
còn tồn tại, đòi hỏi phải nỗ lực hơn nữa trong năng lực hấp thụ vốn dưới góc độ
tăng năng suất quốc gia. Triển vọng cả năm 2008 số vốn FDI thực hiện có thể đạt
hơn 10 tỷ USD. Hiện nay, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) vẫn là nguồn vốn
đầu tư quan trọng để phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, cải thiện môi trường ở Việt


Nam. Dự báo, tổng giá trị ODA ký kết năm 2008 sẽ đạt 3.107 triệu USD (trong đó
vốn vay là 2.515 triệu USD, viện trợ khơng hồn lại là 529 triệu USD)
Vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian (2002-2008)
Năm

Vốn đăng ký (tỷ USD)

2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008

2.86
3.029
4.329

6.84
12
20.27
50(dự kiến 2008)

%gia tăng so với năm
trước
100%
106%
142.9%
158%
175.4%
169%
246.7%

Cơ cấu vốn ĐTNN từ 1988 đến 2007:
ĐTNN phân theo ngành nghề:
- Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng:
Từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, Việt Nam đã chú trọng
thu hút ĐTNN vào lĩnh vực công nghiệp-xây dựng. Qua mỗi giai đoạn các lĩnh vực
ưu tiên thu hút đầu tư, các sản phẩm cụ thể được xác định tại Danh mục các lĩnh
vực khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư. Trong những năm 90 thực hiện
chủ trương thu hút ĐTNN, Chính phủ ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích
các dự án : (i) sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu, (ii) sản xuất hàng xuất
khẩu (có tỷ lệ xuất khẩu 50% hoặc 80% trở lên), (iii) sử dụng nguồn nguyên liệu
trong nước và có tỷ lệ nội địa hoá cao.
Sau khi gia nhập và thực hiện cam kết với WTO (năm 2006), Việt Nam đã
bãi bỏ các quy định về ưu đãi đối với dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao, không yêu cầu
bắt buộc thực hiện tỷ lệ nội địa hoá và sử dụng nguyên liệu trong nước. Qua các
thời kỳ, định hướng thu hút ĐTNN lĩnh vực cơng nghiệp- xây dựng tuy có thay đổi

về lĩnh vực, sản phẩm cụ thể nhưng cơ bản vẫn theo định hướng khuyến khích sản
xuất vật liệu mới, sản phẩm cơng nghệ cao, cơng nghệ thơng tin, cơ khí chế tạo,
thiết bị cơ khí chính xác, sản xuất sản phẩm và linh kiện điện tử... Đây cũng chính
là các dự án có khả năng tạo giá trị gia tăng cao và Việt Nam có lợi thế so sánh khi
thu hút ĐTNN. Nhờ vậy, cho đến nay các dự án ĐTNN thuộc các lĩnh vực nêu trên
(thăm dò và khai thác dầu khí, sản xuất các sản phẩm cơng nghệ cao, sản phẩm điện


và điện tử, sản xuất sắt thép, sản xuất hàng dệt may...) vẫn giữ vai trị quan trọng
đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và tạo nhiều việc làm và nguồn thu
nhập ổn định cho hàng triệu lao động trực tiếp. Cơ cấu đầu tư có chuyển biến tích
cực theo hướng gia tăng tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, lọc dầu và
công nghệ thông tin (IT) với sự có mặt của các tập đồn đa quốc gia nổi tiếng thế
giới: Intel, Panasonic, Canon, Robotech.v.v. Hầu hết các dự án ĐTNN này sử dụng
thiết bị hiện đại xấp xỉ 100% và tự động hoá đạt 100% cho sản lượng, năng suất,
chất lượng cao, do đó có ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu giá trị của tồn ngành.
Tính đến hết năm 2007, lĩnh vực cơng nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn
nhất với 5.745 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50 tỷ USD, chiếm 66,8%
về số dự án, 61% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện.
ST
T

Chuyên ngành

1
CN dầu khí
2
CN nhẹ
3
CN nặng

4
CN thực phẩm
5
Xây dựng
Tổng số

Số dự án Vốn đầu t ư (USD) Vốn thực hiện (USD)
38
2,542
2,404
310
451
5,745

3,861,511,815
13,268,720,908
23,976,819,332
3,621,835,550
5,301,060,927
50,029,948,532

5,148,473,303
3,639,419,314
7,049,365,865
2,058,406,260
2,146,923,027
20,042,587,769

- ĐTNN trong lĩnh vực dịch vụ:
Nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt

động kinh doanh dịch vụ phát triển từ khi thi hành Luật Đầu tư nước ngoài (1987).
Nhờ vậy, khu vực dịch vụ đã có sự chuyển biến tích cực đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống nhân dân, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng
kinh tế. Một số ngành dịch vụ (bưu chính viễn thơng, tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm, vận tải hàng khơng, vận tải biển, du lịch, kinh doanh bất động sản) tăng
trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động và thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với việc thực
hiện lộ trình cam kết thương mại dịch vụ trong WTO, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh
thu hút ĐTNN, phát triển các ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất và xuất
khẩu.


Trong khu vực dịch vụ ĐTNN tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động
sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phịng, phát triển khu đơ thị mới, kinh doanh hạ
tầng khu công nghiệp (42% tổng vốn ĐTNN trong khu vực dịch vụ), du lịch-khách
sạn (24%), giao thông vận tải-bưu điện (18%)
TT

Chuyên ngành

Số dự án

Vốn đầu tư
(triệu USD)

1

Giao thông vận tải-Bưu
điện ( bao gồm cả dịch vụ
logicstics)
Du lịch - Khách sạn

Xây dựng văn phòng, căn
hộ để bán và cho thuê
Phát triển khu đô thị mới
Kinh doanh hạ tầng KCNKCX
Tài chính – ngân hàng
Văn hố - y tế – giáo dục
Dịch vụ khác (giám định,
tư vấn, trợ giúp pháp lý,
nghiên cứu thị trường...)
Tổng cộng

208

4.287

Đầu tư đã thực
hiện
(triệu USD)
721

223
153

5.883
9.262

2.401
1.892

9

28

3.477
1.406

283
576

66
271
954

897
1.248
2.145

714
367
445

1.912

28.609

7.399

2
3
4
5

6
7
8

Trong năm 2007 tuy vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung vào lĩnh vực cơng
nghiệp (50,6%), nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực dịch
vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm 2006
(31,19%) với nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng
khu vui chơi, giải trí.v.v.
- ĐTNN trong lĩnh vực Nơng-Lâm-Ngư :
Dành ưu đãi cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực Nông Lâm ngư nghiệp đã
được chú trọng ngày từ khi có luật đầu tư nước ngồi 1987. Tuy nhiên đến nay do
nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rủi ro đầu tư cao trong lĩnh vực này, nên
kết quả thu hút ĐTNN vào lĩnh vực Nông – Lâm ngư chưa được như mong muốn.
Đến hết năm 2007, lĩnh vực Nơng- Lâm- Ngư nghiệp có 933 dự án cịn hiệu
lực, tổng vốn đăng ký hơn 4,4 tỷ USD, đã thực hiện khoảng 2,02 tỷ USD; chiếm
10,8% về số dự án ; 5,37% tổng vốn đăng ký và 6,9% vốn thực hiện, (giảm từ 7,4%
so với năm 2006). Trong đó, các dự án về chế biến nông sản, thực phẩm chiếm tỷ


trọng lớn nhất 53,71% tổng vốn đăng ký của ngành, trong đó, các dự án hoạt động
có hiệu quả bao gồm chế biến mía đường, gạo, xay xát bột mì, sắn, rau. Tiếp theo là
các dự án trồng rừng và chế biến lâm sản, chiếm 24,67% tổng vốn đăng ký của
ngành. Rồi tới lĩnh vực chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc chiếm 12,7%. Cuối
cùng là lĩnh vực trồng trọt, chỉ chiếm gần 9% tổng số dự án. Có 130 dự án thuỷ sản
với vốn đăng ký là 450 triệu USD,
Cho đến nay, đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào ngành
nông-lâm-ngư nghiệp nước ta, trong đó, các nước châu Á ( Đài Loan, Nhật Bản,
Trung Quốc, Hồng Kông,..) chiếm 60% tổng vốn đăng ký vào ngành nông nghiệp
(riêng Đài Loan là 28%). Các nước thuộc EU đầu tư vào Việt Nam đáng kể nhất

gồm có Pháp (8%), quần đảo British Virgin Islands (11%). Một số nước có ngành
nơng nghiệp phát triển mạnh (Hoa Kỳ, Canada, Australi)a vẫn chưa thực sự đầu tư
vào ngành nông nghiệp nước ta.
Các dự án ĐTNN trong ngành nơng-lâm-ngư nghiệp tập trung chủ yếu ở phía
Nam. Vùng Đông Nam Bộ chiếm 54% tổng vốn đăng ký của ngành, đồng bằng
sông Cửu Long 13%, duyên hải Nam Trung Bộ 15%. Miền Bắc và khu vực miền
Trung, lượng vốn đầu tư còn rất thấp, ngay như vùng đồng bằng sông Hồng lượng
vốn đăng ký cũng chỉ đạt 5% so với tổng vốn đăng ký của cả nước.
ST
T
1
2

Nông, lâm nghiệp Số dự án
Nông-Lâm nghiệp
Thủy sản
Tổng số

803
130
933

Vốn đăng ký (USD) Vốn thực hiện (USD)
4,014,833,499
450,187,779
4,465,021,278

1,856,710,521
169,822,132
2,026,532,653


ĐTNN phân theo vùng, lãnh thổ :
Qua 20 thu hút, ĐTNN đã trải rộng khắp cả nước, không còn địa phương
“trắng” ĐTNN nhưng tập trung chủ yếu tại các địa bàn trọng điểm, có lợi thế, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, làm cho các vùng này thực sự là
vùng kinh tế động lực, lôi kéo phát triển kinh tế-xã hội chung và các vùng phụ cận
(xem biểu 5).
Vùng trọng điểm phía Bắc có 2.220 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư trên
24 tỷ USD, chiếm 26% về số dự án, 27% tổng vốn đăng ký cả nước và 24% tổng


vốn thực hiện của cả nước; trong đó Hà Nội đứng đầu (987 dự án với tổng vốn đăng
ký 12,4 tỷ USD) chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn thực hiện cả vùng. Tiếp theo
thứ tự là Hải Phòng (268 dự án với tổng vốn đăng ký 2,6 tỷ USD), Vĩnh Phúc (140
dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD), Hải Dương (271 dự án với tổng vốn đăng
ký 1,7 tỷ USD), Hà Tây (74 dự án với tổng vốn đăng ký 1,5 tỷ USD), Bắc Ninh
(106 dự án với tổng vốn đăng ký 0,93 tỷ USD) và Quảng Ninh (94 dự án với tổng
vốn đăng ký 0,77 tỷ USD).
Vùng trọng điểm phía Nam thu hút 5.293 dự án với tổng vốn đầu tư 44,87 tỷ
USD, chiếm 54% tổng vốn đăng ký, trong đó, tp Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước
(2.398 dự án với tổng vốn đăng ký 16,5 tỷ USD) chiếm 36,9% tổng vốn đăng ký
của Vùng. Tiếp theo thứ tự là Đồng Nai (918 dự án với tổng vốn đăng ký 11,6 tỷ
USD) chiếm 25,9% vốn đăng ký của Vùng, Bình Dương (1.570 dự án với tổng vốn
đăng ký 8,4 tỷ USD) chiếm 18,8% vốn đăng ký của Vùng; Bà Rịa-Vũng Tàu (159
dự án với tổng vốn đăng ký 6,1 tỷ USD) chiếm 13,6% vốn đăng ký của Vùng; Long
An (188 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD) chiếm 4,1% vốn đăng ký của
Vùng. Điều này, minh chứng cho việc triển khai thực hiện Nghị quyết 09/2001/NQCP ngày 28/8/2001 của Chính phủ và Chỉ thị 19/2001/CT-TTg ngày 28/8/2001 của
Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả ĐTNN thời kỳ
2001-2005.
Chính vì vậy, ngồi một số địa phương vốn có ưu thế trong thu hút vốn

ĐTNN (Hà Nội, tp Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu, Hải
Phòng, Quảng Ninh) một số địa phương khác (Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Phú Yên, Hà
Tây..) do yếu tố tích cực của chính quyền địa phương nên việc thu hút vốn ĐTNN
đã chuyển biến mạnh, tác động tới cơ cấu kinh tế trên địa bàn. Năm 2004 cơng
nghiệp có vốn ĐTNN chiếm 86% giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh Bà Rịa-Vũng
Tàu, 81% của tỉnh Vĩnh Phúc, 70% của tỉnh Đồng Nai, 65% của tỉnh Bình Dương,
46% của Thành phố Hải Phòng, 35% của Thành phố Hà Nội và 27% của thành phố
Hồ Chí Minh. Đối với Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đang chuyển dần sang trở
thành trung tâm dịch vụ cao cấp của cả vùng (bưu chính, viễn thơng, tài chính, ngân
hàng..) cũng như hướng thu hút vốn ĐTNN vào các ngành công nghệ cao thông qua
một số khu công nghệ cao (Quang Trung, Hòa Lạc)


Vùng trọng điểm miền Trung thu hút được 491 dự án với tổng vốn đăng ký
8,6 tỷ USD qua 20 năm thực hiện Luật Đầu tư, chiếm 6% tổng vốn đăng ký của cả
nước, trong đó: Phú Yên (39 dự án với tổng vốn đăng ký 1,9 tỷ USD) hiện đứng đầu
các tỉnh miền Trung với dự án xây dựng nhà máy lọc dầu Vũng Rơ có vốn đăng ký
1,7 tỷ USD. Tiếp theo là Đà Nẵng (113 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD),
Quảng Nam (15 dự án với tổng vốn đăng ký 1,1 tỷ USD) đã có nhiều tiến bộ trong
thu hút vốn ĐTNN, nhất là đầu tư vào xây dựng các khu du lịch, trung tâm nghỉ
dưỡng, vui chơi đạt tiêu chuẩn quốc tế, bước đầu đã góp phần giảm tình trạng
“cháy” buồng, phịng cho khách du lịch, nhưng nhìn chung vẫn cịn dưới mức nhu
cầu và tiềm năng của vùng. Tây Nguyên cũng ở trạng thái thu hút vốn ĐTNN còn
khiêm tốn như vùng Đơng Bắc và Tây Bắc, trong đó, tuy Lâm Đồng (93 dự án với
tổng vốn đăng ký 318,4 triệu USD) đứng đầu các tỉnh khu vực Tây Nguyên nhưng
chỉ chiếm tỷ trọng 1% về số dự án. Đồng bằng sơng Cửu Long thu hút vốn ĐTNN
cịn thấp so với các vùng khác, chiếm 3,6% về số dự án và 4,4% về vốn đăng ký và
3,2% vốn thực hiện của cả nước.
Tuy Nhà nước đã có chính sách ưu đãi đặc biệt cho những vùng có điều kiện
địa lý-kinh tế khó khăn nhưng việc thu hút ĐTNN phục vụ phát triển kinh tế tại các

địa bàn này còn rất thấp.
ĐTNN phân theo hình thức đầu tư:
Tính đến hết năm 2007, chủ yếu các doanh nghiệp ĐTNN thực hiện theo
hình thức 100% vốn nước ngồi, có 6.685 dự án ĐTNN với tổng vốn đăng ký 51,2
tỷ USD, chiếm 77,2% về số dự án và 61,6% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức liên
doanh có 1.619 dự án với tổng vốn đăng ký 23,8 tỷ USD, chiếm 18,8% về số dự án
và 28,7% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh có 221
dự án với tổng vốn đăng ký 4,5 tỷ USD chiếm 2,5% về số dự án và 5,5% tổng vốn
đăng ký. Số còn lại thuộc các hình thức khác như BOT, BT, BTO. Có thể so sánh
tỷ trọng dự án hoạt động theo hình thức 100% vốn nước ngồi tính đến hết năm
2004 là 39,9%, theo hình thức liên doanh là 40,6% và theo hình thứuc hợp doanh là
19,5% để thấy được hình thức 100% vốn nước ngoài được các nhà đầu tư lựa chọn
hơn.
ĐTNN phân theo đối tác đầu tư:


Thực hiện phương châm của Đảng và Chính phủ “đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ hợp tác.. Việt Nam muốn làm bạn với các nước trong khu vực và thế
giới...” được cụ thể hóa qua hệ thống pháp luật ĐTNN, qua 20 năm đã có 81 quốc
gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký trên 83 tỷ đơ la Mỹ.
Trong đó, các nước Châu Á chiếm 69%, trong đó khối ASEAN chiếm 19% tổng
vốn đăng ký. Các nước châu Âu chiếm 24%, trong đó EU chiếm 10%. Các nước
Châu Mỹ chiếm 5%, riêng Hoa Kỳ chiếm 3,6%. Tuy nhiên, nếu tính cả số vốn đầu
tư từ các chi nhánh tại nước thứ 3 của các nhà đầu tư Hoa Kỳ thì vốn đầu tư của
Hoa Kỳ tại Việt Nam sẽ đạt con số trên 3 tỷ USD, đứng vị trí thứ 5 trong tổng số 80
quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam, ví dụ Tập đồn Intel không đầu
tư thẳng từ Mỹ vào Việt Nam mà thông qua chi nhánh tại Hồng Kông. Hai nước
châu Úc (New Zealand và Australia) chỉ chiếm 1% tổng vốn đăng ký (xem biểu 4).
Hiện đã có 15 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vốn đăng ký cam kết trên 1
tỷ USD tại Việt Nam (xem Phụ lục). Đứng đầu là Hàn Quốc vốn đăng ký 13,5 tỷ

USD, thứ 2 là Singapore 10,7 tỷ USD, thứ 3 là Đài loan 10,5 tỷ USD (đồng thời
cũng đứng thứ 3 trong giải ngân vốn đạt 3,07 tỷ USD), thứ 4 là Nhật Bản 9,03 tỷ
USD. Nhưng nếu tính về vốn thực hiện thì Nhật Bản đứng đầu với vốn giải ngân đạt
gần 5 tỷ USD, tiếp theo là Singapore đứng thứ 2 đạt 3,8 tỷ USD. Hàn Quốc đứng
thứ 4 với vốn giải ngân đạt 2,7 tỷ USD.
Trong nhưng năm đầu 90 thực hiện Luật Đầu tư, chủ yếu là dự án quy mô
nhỏ và từ các quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc châu Á, như Hồng Kông, Hàn Quốc
và Đài Loan. Cho tới hết năm 2007, vốn ĐTNN vào Việt Nam vẫn từ các nước châu
Á mặc dù Đảng và Chính phủ đã có Nghị quyết 09 đã đề ra ba định hướng thu hút
ĐTNN.
Tình hình phát triển các KCN, KCX, KCNC, KKT (gọi chung là KCN).
Cả nước hiện có 154 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên gần
33.000 ha, phân bổ trên 55 địa phương, 10 Khu kinh tế (KKT) được thành lập với
tổng diện tích đất tự nhiên xấp xỉ 550.000 ha và 2 KCNC (Hồ Lạc và tp Hồ Chí
Minh). Trong hơn 16 năm xây dựng và phát triển KCN, KCX và hơn 3 năm thành
lập KKT cho thấy khu vực này có đóng góp ngày càng quan trọng trong việc thu hút
vốn ĐTNN, đến cuối năm 2007 đã thu hút gần 2.700 dự án ĐTNN còn hiệu lực với


tổng vốn đăng ký khoảng 31 tỷ USD, chiếm 34% về số dự án và 37% tổng vốn đăng
ký của cả nước. Các dự án đầu tư công nghiệp đang có xu hướng tăng nhanh tại các
KCN-KCX. Các dự án đầu tư trong nước và nước ngoài trong KCN, KCX đa dạng
về hình thức đầu tư. (xem chi tiết tại Báo cáo đính kèm)
B- ĐÁNH GIÁ NHỮNG MẶT TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ CỦA DỊNG VỐN
ĐẦU TƯ NƯỚC NGỒI VÀO VIỆT NAM
Mặt tích cực:
Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ngày càng khẳng định vai trò quan trọng
trong nền kinh tế Việt Nam, là khu vực có tốc độ phát triển năng động nhất.
Về mặt kinh tế:
- ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng nhu

cầu đầu tư phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế:
Đóng góp của ĐTNN trong tổng vốn đầu tư xã hội có biến động lớn, từ tỷ
trọng chiếm 13,1% vào năm 1990 đã tăng lên mức 32,3% trong năm 1995. Tỷ lệ
này đã giảm dần trong giai đoạn 1996-2000, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính khu vực (năm 2000 chiếm 18,6%) và trong 5 năm 2001-2005 chiếm khoảng
16% tổng vốn đầu tư xã hội; hai năm 2006-2007 chiếm khoảng 16% (Theo Niên
giám Thống kê cơ cấu vốn đầu tư thực hiện của khu vực ĐTNN năm 2003 là 16%,
năm 2004 là 14,2%, năm 2005 là 14,9% và năm 2006 là 15,9%, ước năm 2007 đạt
trên 16%).
Vốn ĐTNN đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Từ năm
1991-2000, GDP tăng liên tục qua các năm với tốc động tăng bình qn mỗi năm
7,56%, trong đó: (i) 5 năm 1991-1995: tăng 8,18% (nông lâm ngư tăng 2,4%; công
nghiệp xây dựng tăng 11,3%, dịch vụ tăng 7,2%); (ii) 5 năm 1996-2000: tăng 6,94%
(nông lâm ngư tăng 4,3%; công nghiệp xây dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng 5,75%).
Nhờ vậy, đến năm 2000 tổng sản phẩm trong nước tăng gấp hơn 2 lần năm 1990:
(iii) 5 năm 2001-2005: tốc độ tăng GDP đạt 7,5% (nông lâm ngư tăng 3,8%; công
nghiệp xây dựng tăng 10,2%, dịch vụ tăng 7%; (iv) Năm 2006 đạt 8,17% (nông lâm
ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây dựng tăng 10,37%, dịch vụ tăng 8,29% và (iv)
Năm 2007 đạt 8,48% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây dựng tăng 10,6%,
dịch vụ tăng 8,6%.


- ĐTNN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng
cao năng lực sản xuất cơng nghiệp:
Trong 20 năm qua ĐTNN đóng một vai trị quan trọng cho sự tăng trưởng
của nền kinh tế nói chung và cho ngành cơng nghiệp nói riêng, trong đó từng bước
trở thành nguồn đầu tư quan trọng của Quốc gia, góp phần phát triển các ngành
cơng nghiệp và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Nhiều công trình lớn đã
hồn thành đưa vào sản xuất, phát huy hiệu quả đầu tư, nhiều cơng trình trọng điểm
làm cơ sở cho tăng trưởng giai đoạn sau đó được khởi cơng và đẩy nhanh tiến độ,

nhất là các cơng trình điện, dầu khí, cơng nghiệp nặng, cơng nghiệp phục vụ xuất
khẩu...
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cao hơn
mức tăng trưởng cơng nghiệp chung của cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), tăng tỷ trọng
của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong ngành cơng nghiệp qua các năm (từ
23,79% vào năm 1991 lên 40% năm 2004, 41% năm 2005 và năm 2006).
Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong 5 năm
qua chiếm trung bình 42,5% giá trị sản xuất cơng nghiệp của cả nước. Cụ thể tỷ
trọng trên tăng từ 41,3% vào năm 2000 lên 43,7% vào 2 năm 2004 và 2005. Đặc
biệt, một số địa phương (Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc..) tỷ lệ này đạt đến 6570% giá trị sản xuất công nghiệp của địa bàn.
ĐTNN đã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực của
nhiều ngành cơng nghiệp như dầu khí, cơng nghệ thơng tin, hóa chất, ơ tơ, xe máy,
thép, điện tử và điện tử gia dụng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da
giày, dệt may… Hiện ĐTNN đóng góp 100% sản lượng của một số sản phẩm cơng
nghiệp (dầu khí, thiết bị máy tính, máy giặt, điều hịa), 60% cán thép, 33% hàng
điện tử, 76% dụng cụ y tế chính xác, 49% sản phẩm da giày, 55% sản lượng sợi,
25% hàng may mặc.
ĐTNN đã góp phần hình thành và phát triển trong cả nước hệ thống các khu
công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao tương đối đồng bộ và hiện đại, đem
lại hiệu quả sử dụng đất cao hơn ở một số địa phương đất đai kém màu mỡ.
- ĐTNN thúc đẩy chuyển giao công nghệ:


ĐTNN góp phần thúc đẩy chuyển giao cơng nghệ tiên tiến vào Việt Nam,
phát triển một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viễn thơng, thăm dị và
khai thác dầu khí, hố chất, cơ khí chế tạo điện tử, tin học, ô tô, xe máy... Nhất là
sau khi Tập đồn Intel đầu tư 1 tỷ đơ la Mỹ vào Việt Nam trong dự án sản xuất linh
kiện điện tử cao cấp, đã gia tăng số lượng các dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghệ
cao của các tập đồn đa quốc gia (Canon, Panasonic, Ritech.v.v)

Nhìn chung, trình độ cơng nghệ của khu vực ĐTNN cao hơn hoặc bằng các
thiết bị tiên tiến đã có trong nước và tương đương các nước trong khu vực. Hầu hết
các doanh nghiệp có vốn ĐTTNN áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, được kết
nối và chịu ảnh hưởng của hệ thống quản lý hiện đại của công ty mẹ.
Trong nông-lâm-ngư nghiệp, ĐTNN đã tạo ra một số sản phẩm mới có hàm
lượng kỹ thuật cao và các cây, con giống mới.
- Tác động lan tỏa của ĐTNN đến các thành phần kinh tế khác trong nền
kinh tế:
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ĐTNN được nâng cao qua số lượng
các doanh nghiệp tăng vốn đầu tư, mở rộng quy mơ sản xuất. Đồng thời, có tác
động lan tỏa đến các thành phần khác của nền kinh tế thông qua sự liên kết giữa
doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các doanh nghiệp trong nước, công nghệ và năng
lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Sự lan tỏa này có
thể theo hàng dọc giữa các doanh nghiệp trong ngành dọc hoặc theo hàng ngang
giữa các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành. Mặt khác, các doanh nghiệp ĐTNN
cũng tạo động lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước nhằm thích ứng
trong bối cảnh tồn cầu hóa.
- ĐTNN đóng góp đáng kể vào NSNN và các cân đối vĩ mô:
Cùng với sự phát triển các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam, mức
đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào ngân sách ngày càng tăng. Thời kỳ
1996-2000, không kể thu từ dầu thô, các doanh nghiệp ĐTNN đã nộp ngân sách đạt
1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005, thu ngân sách trong
khối doanh nghiệp ĐTNN đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân 24%/năm. Riêng 2
năm 2006 và 2007 khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã nộp ngân sách đạt trên 3 tỷ
USD, gấp đôi thời kỳ 1996-2000 và bằng 83% thời kỳ 2001-2005.


ĐTNN tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối
ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc
chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách quốc

tế, tiền thuê đất, tiền mua máy móc và nguyên, vật liệu...
- ĐTNN góp phần giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế
quốc tế:
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng nhanh, cao hơn
mức bình qn chung của cả nước, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước. Thời kỳ 1996-2000, xuất khẩu của khu vực ĐTNN
đạt 10,6 tỷ USD (không kể dầu thô), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước, chiếm 23%
kim ngạch xuất khẩu cả nước; năm 2000 chiếm 25%, năm 2003 chiếm 31%; tính cả
dầu thơ thì tỷ trọng này đạt khoảng 54% năm 2004 và chiếm trên 55% trong các
năm 2005, 2006 và 2007.
ĐTNN chiếm một tỷ trọng cao trong xuất khẩu một số sản phẩm: 100% dầu
khí, 84% hàng điện tử, máy tính và linh kiện, 42% sản phẩm da giày, 35% hàng
may mặc… Thông qua mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn xuyên quốc gia, nhiều
sản phẩm sản xuất tại Việt Nam đã tiếp cận được với các thị trường trên thế giới.
Trong lĩnh vực khách sạn và du lịch, ĐTNN đã tạo ra nhiều khách sạn cao
cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế 4, 5 sao cũng như các khu du lịch, nghỉ dưỡng đáp ứng
nhu cầu khách du lịch quốc tế, góp phần gia tăng nhanh chóng xuất khẩu tại chỗ.
Bên cạnh đó, ĐTNN cịn góp phần đưa nền kinh tế nước ta từng bước hội
nhập với kinh tế thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Về mặt xã hội:
- ĐTNN góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng năng suất lao
động, cải thiện nguồn nhân lực:
Đến nay, khu vực có vốn ĐTNN đã tạo ra việc làm cho trên 1,2 triệu lao
động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp khác theo kết quả điều tra của WB cứ
1 lao động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho từ 2-3 lao động gián tiếp phục vụ trong khu
vực dịch vụ và xây dựng, góp phần nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống một
bộ phận trong cộng đồng dân cư, đưa mức GDP đầu người tăng lên hàng năm.
Thông qua sự tham gia trực tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp có vốn



ĐTNN, Việt Nam đã từng bước hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, cơng nhân kỹ
thuật có trình độ cao, có tay nghề, từng bước tiếp cận được với khoa học, kỹ thuật,
cơng nghệ cao và có tác phong cơng nghiệp hiên đại, có kỷ luật lao động tốt, học
hỏi được các phương thức, kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam cũng đã thúc
đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới công nghệ, phương thức
quản lý để nâng cao hơn chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ trên
thị trường trong nước và quốc tế. Đặc biệt, một số chuyên gia Việt Nam làm việc tại
các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã dần thay thế các chuyên gia nước ngoài trong
đảm nhiệm các vị trí quản lý doanh nghiệp cũng như điều khiển các quy trình cơng
nghệ hiện đại.
- ĐTNN góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế
với khu vực và thế giới:
ĐTNN đã góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ cấm vận của Hoa Kỳ đối
với Việt Nam, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng đa phương
hóa và đa dạng hóa, thúc đẩy Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới, đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại và đầu tư. Đến nay, Việt Nam là
thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO. Nước ta cũng đã ký kết
51 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, trong đó có Hiệp định thương mại
Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA), Hiệp định tự do hố, khuyến khích và bảo hộ đầu tư với
Nhật Bản. Thơng qua tiếng nói và sự ủng hộ của các nhà đầu tư nước ngồi, hình
ảnh và vị thế của Việt Nam không ngừng được cải thiện.


Về mặt môi trường:
Theo kết quả điều tra năm 2002 (của Viện Quản lý kinh tế trung ương), đa số
các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tuân thủ các tiêu chuẩn mơi trường Việt Nam và có
kết quả mơi trường tốt hơn so với số đông các doanh nghiệp trong nước (có 77%
doanh nghiệp có kết quả về các thơng số gây ô nhiễm môi trường thấp hơn tiêu
chuẩn cho phép của Việt Nam). Đáng chú ý là 60% doanh nghiệp ĐTNN trong lĩnh

vực chế biến thực phẩm đã lắp đặt thiết bị xử lý nước thải đúng tiêu chuẩn (so sánh
với tỷ lệ 10% của các doanh nghiệp trong nước). Khơng có doanh nghiệp ĐTNN
nào được điều tra vi phạm tiêu chuẩn môi trường Việt Nam.
Mặt hạn chế:
Tuy đạt được những kết quả quan trọng nêu trên, nhưng hoạt động ĐTNN tại
Việt Nam còn những mặt hạn chế như sau:
- Sự mất cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ:
Mục đích cao nhất của các nhà đầu tư là lợi nhuận. Do đó những lĩnh vực, ngành,
dự án có tỷ suất lợi nhuận cao đều được các nhà đầu tư quan tâm, còn những dự án,
lĩnh vực mặc dù rất cần thiết cho dân sinh, nhưng không đưa lại lợi nhuận thỏa đáng
thì khơng thu hút được đầu tư nước ngoài.
Các nhà ĐTNN trong khi lựa chọn địa điểm để triển khai dự án đầu tư
thường tập trung vào những nơi có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi, do đó
các thành phố lớn, những địa phương có cảng biển, cảng hàng khơng, các tỉnh đồng
bằng là nơi tập trung nhiều dự án ĐTNN nhất. Trong khi đó, các tỉnh miềm núi,
vùng sâu, vùng xa, những địa phương cần được đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế,
mặc dù chính phủ và chính quyền địa phương có những ưu đãi cao hơn nhưng
khơng được các nhà đầu tư quan tâm.
Tình trạng đó đã dẫn đến một nghịch lý, những địa phương có trình độ phát
triển cao thì thu hút được ĐTNN nhiều, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt quá
tốc độ tăng trưởng trung bình của cả nước. Trong khi đó, những vùng có trình độ
kém phát triển thì có ít dự án ĐTNN, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp.
Đối với các ngành nghề cũng xảy ra tình trạng tương tự, các nhà ĐTNN chỉ
đầu tư vào các ngành có khả năng sinh lợi cao, rủi ro thấp, còn các ngành, lĩnh vực
có khả năng sinh lời thấp, rủi ro cao khơng được sự quan tâm của các nhà ĐTNN.



×