Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

tieu luan: thanh tuu van minh An Do pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.39 KB, 26 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội loài người phát triển từ thuở hoang dã cho đến ngày nay, có thể
ước chừng 10.000 năm trong một không gian rộng lớn của Trái Đất và được
các nhà khoa học chia ra nhiều thời đại: Cổ Đại, Trung Cổ, Cận Đại và Hiện
Đại. trong mỗi thời đại, xã hội loài người nổi lên một số vùng, mà ở đó xã
hội cư dân ở điểm tập hợp được các giá trị tiên tiến vượt trội trong nhiều lĩnh
vực – hình thành nền văn minh. Riêng thời Cổ Đại có tám nền văn minh lớn
được thống kê (các học giả vẫn tranh cãi về số lượng) gồm: nền văn minh Ai
Cập Cổ Đại, nền văn minh Hy Lạp, nền văn minh La Mã, nền văn minh Tây
Á, nền văn minh Ấn Độ, nền văn minh Trung Hoa, nền văn minh Maya và
nền văn minh Andes.
Trong đó, nền văn minh Ấn Độ nổi tiếng về những nền văn minh cổ
nhất thế giới. Trải qua một giai đọan lịch sử dài từ thời Cổ Đại cho đến
Trung Đại, văn minh Ấn Độ đã phát triển và đạt được những thành tựu rực
rỡ trên tất cả các mặt : chữ viết, khoa học, tư tưởng, tôn giáo, đặc biệt là các
lĩnh vực nghệ thuật. Tìm hiểu về nền văn minh Ấn Độ Cổ Trung Đại sẽ giúp
chúng ta hiểu nhiều hơn về nền văn minh này không chỉ đối với đất nước Ấn
Độ nói riêng mà còn ảnh hưởng đến thế giới, trong đó có Việt Nam. Nghiên
cứu về vấn đề này, em xin chọn đề tài cho bài tập của minh như sau: “Vai
trò và ý nghĩa của những thành tựu chủ yếu của văn minh Ấn Độ thời Cổ
Trung Đại.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nền văn minh cổ xưa trên lưu vực sông Ấn (3.000-1.800 TCN)
Trang 1
Các nhà khảo cổ đã tìm ra cái nôi đầu tiên của Ấn Độ tại lưu vực sông
Ấn. Tại đây người ta tìm thấy những pho tượng một người đàn ông trong tư
thế suy tưởng gợi đến môn phái yoga. Rất nhiều hiện vật được tìm thấy ở
khu vực Harappa và Mohenjo có niên đại từ 3.000 đến 1.800 TCN. Những
tìm tòi gần đây hé mở phần nào về sự lan tỏa của nền văn minh lưu vực sông
Ấn rộng lớn về miền Bắc và miền Tây xa xôi cùng với cư dân lưu vực sông


Ấn lại có quan hệ gần gũi với văn hóa Dravidian, từng phồn thịnh từ rất lâu
ở miền Nam Ấn Độ trước khi người Aryan đặt chân đến.
Nền văn minh Vệ Đà (1.600- thế kỷ I TCN)
Ở khoảng thời gian 100 đến 1.600 TCN, một chi của dòng họ Aryan
rộng lớn, thường được gọi là người Indo-Aryan, di cư đến Ấn Độ. Họ đem
theo cùng với họ là tiếng Phạn và một tôn giáo dựa trên nghi lễ hiến tế các vị
thần tượng trưng cho các thế lực của thiên nhiên như Indra, thần mưa và
thần sấm, thần Agni (lừa) và Varuma, chúa tể của các sông biển và mùa
màng. Những bài ca ngợi vị thần ấy được tập hợp lại thành bốn tập kinh Vệ
Đà. Lâu đời nhất là tập Rigveda (1.500-1.200 TCN). Đặc điểm của kinh
Veda là hướng con người đến tư tưởng cao cả, văn phong đẹp đẽ và bước
chuyển những nghi thức từ bên ngoài vào kinh nghiệm nội tại. Thời kì này
chính là thời kì có thuyết nói rằng cùng với nó là sự ra đời của Đức Phật.
Vào năm 326 TCN Alexandros người Macedonia vượt sông Indus và
đánh thắng một trận quyết định và rút về. Cuộc xâm lăng của ông đã để lại
dấu ấn của thế giới Hy Lạp, nâng cao văn hóa Ấn Độ lên một tầm cao mới.
Vào năm 320 TCN. Chandragup-ta Maurya (hoàng đế Maurya) thống
nhất trở lại toàn bộ các bộ lạc rời rạc và thành lập chế độ tập quyền, kinh đô
được đặt tại Pataliputra (bang Bihar ngày nay).
Trang 2
Đế chế Gupta
Thời kì hoàng kim của nền văn minh Ấn Độ thuộc vào thời kì triều đại
Gupta. Thời kì này có nhiều thành tựu nổi bật về văn hóa trồng trọt. Thời kì
này nền văn minh Ấn Độ đã để lại cho nhân loại một khối lượng di sản
khổng lồ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu về vai trò và ý nghĩa của những thành tựu nền văn minh
Ấn Độ cổ trung đại.
- Tổng quan về Ấn Độ.
- Những yếu tố ảnh hưởng đến nền văn minh, những phát minh, vai trò

và ý nghĩa của những phát minh ấy.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài : Ấn Độ thời kì cổ trung đại.
- Ngoài còn đề xuất một số ý kiến về việc lưu giữ và bảo tồn các nền
văn minh ấy.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp xã hội học: quan sát và tiếp cận.
- Phương pháp điều tra khảo sát.
- Phương pháp lịch sử.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp.
5. Những đóng góp của đề tài
Qua quá trình học tập, tìm hiểu và nghiên cứu về những thành tựu chủ
yếu của nền văn minh Ấn Độ thời cổ trung đại em đã một phần hiểu được
những giá trị lịch sử của các thành tựu này và được biết thêm về những vai
trò và ý nghĩa lớn lao của những thành tựu đó đối với nền văn minh nhân
Trang 3
loại nói chung và đất nước Ấn Độ nói riêng. Trên cơ sở đó đề xuất
những ý kiến về việc khắc phục và bảo tồn các di sản văn hóa thế giới.
Đề tài còn cung cấp thêm tư liệu cho những ai muốn tìm hiểu về nền
văn minh cổ đại này.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung đề
tài còn được triển khai theo hai chương:
Chương một: Những cơ sở tạo nên nền văn minh Ấn Độ.
Chương hai: Vai trò và ý nghĩa của những thành tựu chủ yếu của văn
minh Ấn Độ thời cổ trung đại.
II. NỘI DUNG
Chương 1: Những cơ sở tạo nên nền văn minh Ấn Độ.
1.1. Khái niệm chung về văn minh Ấn Độ
Văn minh là trạng thái tiến bộ về cả hai mặt vật chất và tinh thần của xã
hội loài người, tức là trạng thái phát triển cao của nền văn hóa.

Ấn Độ là một trong những nền văn minh rực rỡ ở phương Đông nói
riêng và là một trong những đỉnh cao của văn minh nhân loại nói chung.Nền
văn minh Ấn Độ nảy nở từ rất sớm với những thành tựu hết sức quý giá,
trong đó có những thành tựu tiêu biểu về các lĩnh vực như: chữ viết, văn
học, nghệ thuật, khoa học tự nhiên và tư tưởng, tôn giáo…
1.2. Cơ sở hình thành nền văn minh Ấn Độ
1.2.1. Điều kiện tự nhiên, dân cư
Trang 4
Bán đảo Ấn Độ thuộc Nam Á gần như hình tam giác. Ở phía bắc, bán
đảo bị chắn bởi dãy núi Hymalaya. Từ bên ngoài vào Ấn Độ rất khó khăn,
chỉ có thể qua các con đèo nhỏ ở tây - bắc Ấn. Đông nam và tây nam Ấn Độ
giáp Ấn Độ dương.
Hằng năm tới mùa tuyết tan, nước từ dãy Hymalaya theo hai con sông
Ấn (Indus) và sông Hằng (Ganges) lại đem phù sa tới bồi đắp cho những
cánh đồng ở Bắc Ấn.
Nền văn minh Ấn Độ thời cổ đại gồm cả vùng đất ở các nước Ấn Độ,
Pakixtan, Nêpan, Bănglađét ngày nay.
Về dân cư, người dân xây dựng nên nền văn minh cổ xưa nhất ở Ấn Độ
ven bờ sông Ấn là những người Đraviđa. Ngày nay những người Đraviđa
chủ yếu cư trú ở miền nam bán đảo Ấn Độ. Khoảng 2000 năm TCN đến
1500 năm TCN có nhiều tộc người Aria tràn vào xâm nhập và ở lại bán đảo
Ấn. Sau này, trong quá trình lịch sử còn có nhiều tộc người khác như người
Hy Lạp, Hung Nô, Arập, Mông Cổ xâm nhập Ấn Độ do đó cư dân ở đây có
sự pha trộn khá nhiều dòng máu.
1.2.2. Các giai đoạn lịch sử chính
Thời kì văn minh lưu vực sông Ấn (Khoảng 3000 năm đến 1500 năm
TCN):
Đây là thời kì người Đraviđa đã xây dựng nên những nền văn minh đầu
tiên ở lưu vực sông Ấn. Trước kia người ta cũng không biết nhiều về giai
đoạn lịch sử này. Mãi đến năm 1920, nhờ phát hiện dấu tích hai thành phố

cổ ở Harappa và Môhenjô Đarô người ta mới biết về nó. Ở đây, qua các di
vật khảo cổ người ta có thể suy ra phần nào sự phát triển kinh tế, văn hóa, và
Trang 5
đây là thời kì đã xuất hiện bộ máy nhà nước. Còn về lịch sử tương đối cụ thể
của nó thì chưa biết. Người ta tạm đặt cho nó cái tên là nền văn hóa Harappa
– Môhenjô Đarô. Có người gọi đây là nền văn minh sông Ấn
Thời kì Vêđa (khoảng 1500 năm TCN đến thế kỉ VI TCN):
Đây là thời kì những bộ lạc du mục người Aria từ Trung Á tràn vào
xâm nhập Bắc Ấn. Thời kì này được phản ánh trong bộ kinh Vêđa cho nên
được gọi là thời kì Vêđa. Đây là thời kì có hai vấn quan trọng ảnh hưởng lâu
dài đến lịch sử Ấn Độ sau này: đó là vấn đề đẳng cấp (Vacna) và đạo
Bàlamôn.
Giai đoạn từ thế kỉ VI TCN đến hết thế kỉ XII:
Từ thế kỉ VI TCN Ấn Độ mới có sử sách ghi chép. Lúc đó, ở miền Bắc
Ấn có tới 16 nước trong đó vương quốc Mađaga ở hạ lưu sông Hằng là nước
hùng mạnh nhất. Năm 327 TCN, Ấn Độ bị quân đội của Alếchxănđrơ xâm
lược trong một thời gian ngắn.
Ấn Độ từ thế kỉ XIII đến thế kỉ XIX:
Trong giai đoạn này, Ấn Độ bị người Apganixtan theo đạo Hồi xâm
nhập, sau đó, thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII lại bị người Mông Cổ xâm lược.
Người Mông Cổ đã lập ra ở đây triều Môgôn. Đến giữa thế kỉ XĨ, Ấn Độ bị
Anh xâm lược tới năm 1950 mới giành độc lập.
Chương2: Vai trò và ý nghĩa của những thành tựu chủ yếu của
văn minh Ấn Độ thời Cổ trung đại.
2.1. Thành tựu chính của văn minh Ấn Độ
2.1.1. Chữ viết
Thời đại Harappa-Môhenjô Đarô, ở miền Bắc Ấn đã xuất hiện một loại
Trang 6
chữ cổ mà ngày nay người ta còn lưu giữ được khoảng 3000 con dấu có
khắc những kí hiệu đồ họa.

Thế kỉ VII TCN, ở đây đã xuất hiện chữ Brami, ngày nay còn khoảng
30 bảng đá có khắc loại chữ này. Trên cơ sở chữ Brami, thế kỉ V TCN ở Ấn
Độ lại xuất hiện chữ San-scrit, đây là cơ sở của nhiều loại chữ viết ở Ấn Độ
và Đông Nam Á sau này.
2.1.2. Văn học
Hai tác phẩm văn học nổi bật thời cổ đại là Mahabharata và Ramayana.
Mahabharata là bản trường ca gồm 220.000 câu thơ. Bản trường ca này nói
về một cuộc chiến tranh giữa các con cháu Bharata. Bản trường ca này có
thể coi là một bộ “bách khoa toàn thư” phản ánh mọi mặt về đời sống xã hội
Ấn Độ thời đó.
Ramayana là một bộ sử thi dài 48.000 câu thơ, mô tả một cuộc tình giữa
chàng hoàng tử Rama và công chúa Xita(con của nữ thần mẹ đất). Thiên tình
sử này ảnh hưởng tới văn học dân gian một số nước Đông Nam Á. Riêmkê ở
Campuchia, Riêmkhiêm ở Thái Lan chắc chắn có ảnh hưởng từ Ramayana.
Thời cổ đại ở Ấn Độ còn có tâp ngụ ngôn Năm phương pháp chứa đựng
rất nhiều tư tưởng được gặp lại trong ngụ ngôn của một số dân tộc thuộc hệ
ngôn ngữ Ấn-Âu.
2.1.3. Nghệ thuật
Ấn Độ là nơi có nền nghệ thuật tạo hình phát triển rực rỡ, ảnh hưởng tới
nhiều nước Đông Nam Á. Nghệ thuật Ấn Độ cổ đại hầu hết đều phục vụ một
tôn giáo nhất định, do yêu cầu của tôn giáo đó mà thể hiện. Có thể chia ra ba
dòng nghệ thuật: Ấn Độ giáo, Phật giáo, Hồi giáo.
Có rất nhiều chùa tháp Phật giáo, nhưng đáng kể đầu tiên là dãy chùa
Trang 7
hang Ajanta ở miền trung Ấn Độ. Đây là dãy chùa được đục vào vách núi,
có tới 29 gian chùa, các gian chùa thường hình vuông và nhiều gian mỗi
cạnh tới
20m. Trên
vách hang
có những

bức tượng
Phật và
nhiều bích
hoạ rất đẹp.
Tháp Sanchi
Các công trình kiến trúc Ấn Độ giáo được xây dựng nhiều nơi trên đất
Ấn Độ và được xây dựng nhiều vào khoảng thế kỉ VII - XI. Tiêu biểu cho
các công trình Ấn Độ giáo là cụm đền tháp Khajuraho ở Trung Ấn, gồm tất
cả 85 đền xen giữa những hồ nước và những cánh đồng.
Trang 8
Quần thể kiến trúc đền đài ở Khajuraho
Những công trình kiến trúc Hồi giáo nổi bật ở Ấn Độ là tháp Mina,
được xây dựng vào khoảng thế kỉ XIII và lăng Taj Mahan được xây dựng
vào khoảng thế kỉ XVII.
Toàn cảnh Tháp Qutb Minar
Trang 9
Lăng Taj Mahan
Về nghệ thuật tạo hình, vì đạo Phật trong thời kì đầu phản đối việc thờ thần
tượng và hình ảnh, nên nghệ thuật tạc tượng bị hạn chế trong thời gian dài.
Mãi đến khi phái Phật giáo Đại thừa ra đời, chủ trương đó mới thay đổi, do
vậy từ thế kỉ I về sau, tượng Phật mới được tạo nên ngày một nhiều, trong đó
tiêu biểu nhất là pho tượng bằng đá ở Ganđara.
Trang 10
Tượng Phật bằng đá ở Ganđara.
2.1.4. Khoa học tự nhiên
Về thiên văn và lịch pháp
Ần Độ là quê hương của các tôn giáo và tôn giáo đã chi phối rất lớn đến
tư tưởng, hành động của người dân Ấn Độ. Họ tin vào các vị thần linh, tin
vào trời, họ thờ phụng các vì tinh tú nên đã quan sát bầu trời, quan sát các vì
sao để cúng tế…Từ đó dần dần họ có các kiến thức về thiên văn.Như vậy,

“thiên văn là đứa con ngẫu nhiên của môn chiêm tinh” (Will Durant-Lịch sử
văn minh Ấn Độ). Các nhà thiên văn Ấn Độ cổ đại đã biết quả đát và mặt
trăng đều hình cầu, biết được quỹ đạo của mặt trăng và tính được các kỳ
trăng tròn, trăng khuyết. Họ tính được trực kính của mặt trăng, các ngày nhật
thực, nguyệt thực,vị trí của các lưỡng cực. Họ biết được năm hành tinh:
Thuỷ, Hoả, Mộc, Kim, Thổ. Họ còn biết được một số chòm sao và sự vận
Trang 11
hành của một số vì sao chính. Về sau, Aryabhata (thế kỷ V) có giảng về nhật
thực, nguyệt thực, hạ chí, đông chí, xuân phân, thu phân. Ông còn biết được
Trái Đất tự quay quanh trục: “Thiên cầu đứng yên vì quả đất quay chung
quanh trục của nó nên ta thấy các tinh tú mọc mỗi ngày mỗi đêm”. Điều đó
cho thấy người Ấn Độ khá hiểu biết về thiên văn và ngày càng phát triển.
Tác phẩm thiên văn cổ nhất của Ấn Độ được biết đến ngày nay là quyển
Siddhantas (khoảng 425 TCN). Trên cơ sở hiểu biết về thiên văn, người Ấn
Độ cũng đã sớm đặt ra lịch. Họ chia một năm thành mười hai tháng, mỗi
tháng ba mươi ngày, mỗi ngày ba mươi giờ. Cứ năm năm thì có một tháng
nhuận. Lịch có vai trò rất quan trọng trong đời sống của người dân Ấn Độ,
nhất là trong sản xuất nông nghiệp.
Về toán học
Ấn Độ cũng có nhiều phát minh về toán học tương đối toàn diện. Về số
học: thành tựu nổi bật của họ là phát minh ra hệ thống các con số gồm mười
chữ số (các con síp-chiffre). Trong đó phát minh vĩ đại nhất là số 0. Nhờ nó
mà người ta biểu thị được tất cả các số lượng. Tuy nhiên, người ta thường
lầm lẫn và quen gọi các con số này là số A rập vì người ta tìm thấy chúng
đầu tiên ở các tài liệu của người A rập. Nhưng thực tế, các con số đó đã
được khắc trên phiến đá của Asoka sớm hơn nhiều (256 TCN) và người ta
đã thừa nhận phát minh ra số 0 là thành tựu của người Ấn Độ. Đánh giá về
thành tự vĩ đại này, nhà bác họ Pháp Laplace (1749-1827) viết: “Chính nhờ
Ấn Độ mà chúng ta biết được phương pháp tài tình chỉ dùng mười chữ số
mà viết đủ các số, mỗi chữ số vừa có một giá trị tuyệt đối vừa có một giá trị

số tuỳ theo vị trí của nó. Ý đó tế nhị mà quan trọng, ngay nay chúng ta cho
Trang 12
là đơn giản quá nên không thấy được công lao của người Ấn Độ. Mà chính
nhờ nó đơn giản mà làm toán hoá ra hết sức dễ dàng và hệ thống số học
đáng được kể là sang kiến ích lợi nhất. Nếu có nghĩ rằng hai vị thiên tài bậc
nhất thời cổ đại là Achimede và Apollonius mà cũng không tìm ra được hệ
thống đó thì mới nhận định nổi sang kiến của người Ấn Độ tài tình đến thế
nào”.
Về đại số: người Ấn Độ đã có ý niệm về số âm, đặt ra các quy tắc về hoán
vị, tổ hợp, tính được căn bậc hai của số 2, họ còn sáng tạo nên các bài toán
về đại số rất hay…
Về hình học, người Ấn Độ tính được số pi (π = 3,1416), tính được diện tích
hình vuông, hình chữ nhật, tam giác, đa giác; biết được mối quan hệ các
cạnh của tam giác vuông…
Về vật lí
Bên cạnh các thành tựu về thiên văn và toán học, người Ấn Độ còn đạt
được một số thành tựu rất quý giá trên lĩnh vực vật lí học.
Các nhà khoa học kiêm triết học Ấn Độ đã sớm nêu ra thuyết nguyên
tử.Kanada, người sáng lập triết lí Vaisheshika cho rằng vạn vật do các
nguyên tử tạo nên, mỗi hành (như ngũ hành của Trung Hoa: nước, lửa,
đất…) có một thứ nguyên tử khác nhau, tạo nên sự khác nhau của vật chất.
Còn các nhà triết học đạo Jain cho rằng nguyên tử nào cũng như nhau, chỉ có
cách tổ hợp là khác nhau nên tác động khác nhau.
Người Ấn Độ cũng sớm có hiểu biết về quang, nhiệt học: Kanada cho rằng
ánh sáng và nhiệt là một biến thể của một bản thể. Udayana thì cho rằng mọi
sức nóng đều do Mặt trời phát ra. Vachaspati lại cho rằng ánh sáng gồm
những phần tử li ti từ các vật phát ra và đập vào mắt ta. Đây là một sự hiểu
Trang 13
biết rất tiến bộ, giống với ngày nay.Người Ấn Độ còn sớm có ý niệm về
sóng cơ học (các dao động cơ học của sợi dây đàn): Trong các sách âm nhạc

cổ của người Ấn Độ có ghi họ có đo các sợi dây đàn từ chỗ cột đến chỗ có
phím đàn và đã nhận thấy dây càng ngắn thì số rung càng nhiều và nốt nhạc
càng cao. Ngoài ra người Ấn Độ còn biết xác định phương hướng bằng la
bàn. Họ còn biết được thuyết trọng lực: trong sách Siddhantas có ghi: “Quả
đất, do trọng lực của nó, hút tất cả mọi vật về nó”.
Về y học
Người Ấn Độ cũng đã sớm hiểu biết và có nhiều phát minh về y dược
học. Từ thế kỉ VI TCN, các y sĩ Ấn Độ đã mô tả các dây gân, cách chắp
xương sọ, thần kinh tùng, cân mạc, chi võng, màng hoạt dịch…Họ hiểu kỹ
bộ tiêu hoá, các dịch vị, hiểu thức ăn biến hoá ở bao tử, rồi biến thành dưỡng
trấp ra sao, rồi dưỡng trấp hấp thụ vào máu như thế nào.
Họ có nhiều cách xem bệnh và chữa bệnh rất phong phú. Đặc biệt đã biết
xem bệnh bằng nước tiểu. Họ có nhiều cách trị bệnh khác nhau: có cách trị
bệnh rất lạ lung như nhịn ăn bảy ngày, có khi chưa đến ngày thứ bảy thì
bệnh đã hết. Nếu sau bảy ngày mà chưa hết thì họ mới cho bệnh nhân dùng
thuốc, nhưng rất ít. Họ trông cậy vào cách nhịn ăn, tắm rửa, tẩy, xông, chích
máu bằng đỉa hoặc bấu giác hơn là trông vào thuốc. Người Ấn Độ cũng đã
biết về vi trùng gây bệnh, chữa bệnh bằng thôi miên. Người Ấn Độ rất giỏi
về giải độc rắn cắn.
2.1.5. Tư tưởng, tôn giáo
Ấn Độ là nơi sản sinh ra nhiều tôn giáo như đạo Bàlamôn, đạo Phật,
đạo Jain và đạo Xích.
Đạo Bàlamôn ra đời vào khoảng thế kỉ XV TCN, trong hoàn cảnh đang
Trang 14
có sự bất bình đẳng rất sâu sắc về đẳng cấp và đạo này chứng minh cho sự
hợp lí của tình trạng bất bình đẳng đó.
Đạo Bàlamôn không có người sáng lập, không có giáo chủ. Đạo
Bàlamôn thờ thần Brama (thần Sáng tạo), Visnu (thần bảo vệ), Siva (thần
hủy diệt, có hủy diệt cái cũ thì mới có thể sáng tạo cái mới)…Về mặt xã hội,
đạo Bàlamôn là công cụ để bảo vệ chế độ đẳng cấp. Giáo lí quan trọng nhất

của đạo Bàlamôn là thuyết luân hồi mà sau này nhiều tôn giáo khác chịu ảnh
hưởng. Trong quá trình phát triển, đạo Bàlamôn có thể chia làm 3 giai đoạn:
giai đoạn Vêđa (thế kỉ XV TCN – thế kỉ V TCN), giai đoạn Bàlamôn (thế kỉ
V TCN – đầu CN), giai đọan Hinđu (đầu CN – nay).
Đạo Phật ra đời vào khoảng giữa thiên niên kỉ I TCN do thái tử
Xitđacta Gôtama, hiệu là Sakya muni (Thích Ca Mâu Ni) khởi xướng. Các
tín đồ Phật giáo lấy năm 544 TCN là năm thứ nhất theo Lịch Phật, họ cho
đây là năm Đức Phật nhập niết bàn. (Vì vậy, những người châu Á theo Phật
trước kia vẫn để ý đến ngày qua đời hơn ngày ra đời, khác hẳn những người
theo đạo Thiên Chúa).
Giáo lí cơ bản của đạo Phật là Tứ diệu đế ( bốn điền suy xét kì diệu):
• Khổ đế (suy xét về sự khổ cực, luân hồi, nghiệp báo)
• Nhân đế - Tập đế (nguyên nhân của sự khổ là dục – lòng ham muốn)
• Diệt đế (con đường tiết dục, diệt dục để trừ nghiệp báo)
• Đạo đế (con đường để giải thoát khỏi sự luân hồi, nghiệp báo)
Đức Phật còn đề ra tám con đường chính trực để tu hành – Bát chánh:
• Chánh kiến: Phải có tín ngưỡng đúng đắn.
• Chánh tư duy: Phải có suy nghĩ đúng đắn.
• Chánh ngữ: Phải có lời nói đúng đắn.
Trang 15
• Chánh nghiệp: Phải có hành động đúng đắn.
• Chánh mệnh: Phải có cuộc sống đúng đắn.
• Chánh tinh tiến: Phải có những ước mơ đúng đắn.
• Chánh niệm: Phải có những điều tưởng nhớ đúng đắn.
• Chánh định: Phải tập trung tư tưởng mà suy nghĩ.
Đạo Phật còn đề ra Ngũ giới:
• Bất sát sinh: Không giết hại các động vật.
• Bất đạo tặc: Không trộm cướp.
• Bất vọng ngữ: Không nói dối.
• Bất tà dâm: Không tham vợ hay chồng của người khác.

• Bất ẩm tửu: Không uống rượu.
Về mặt thế giới quan, nội dung cơ bản của đạo Phật là thuyết duyên
khởi. Do quan niệm duyên khởi sinh ra vạn vật nên đạo Phật chủ trương Vô
tạo giả, Vô ngã, Vô thường.
Trong hoàn cảnh xã hội đầy rẫy bất công do chế độ đẳng cấp gây ra, thì
đạo Phật lại chủ trương không phân biệt đẳng cấp, kêu gọi lòng thương
người (từ bi hỉ xả), tránh điều ác, làm điều thiện. Những lời kêu gọi sự công
bằng, lòng nhân đức đó đã được đông đảo người dân hưởng ứng.
Đạo Jain – Kỳ Na cũng xuất hiện vào khoảng thế kỉ VI TCN. Đạo này
chủ trương bất sát sinh một cách cực đoan và nhấn mạnh sự tu hành khổ
hạnh.
Đạo Sikh – Xích xuất hiện ở Ấn Độ vào khoảng thế kỉ XV. Giáo lí của
đạo Xích có sự kết hợp giáo lí của đạo Hinđu và giáo lí của đạo Islam. Tín
đồ đạo Xích tập trung rất đông ở bang Punjap và ngôi đền thiêng liêng của
họ là ngôi đền Vàng ở Punjap.
Trang 16
2.2. Vai trò và ý nghĩa của những thành tựu văn minh Ấn Độ
2.2.1. Vai trò của những thành tựu văn minh Ấn Độ
Bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào cũng có cơ sở hình thành, quá trình
phát triển rồi đến diệt vong. Văn minh cổ đại phương Đông nói chung và
văn minh Ấn Độ nói riêng cũng không nằm ngoài quy luật phát triển chung
ấy. Qua mọi thời kỳ thăng trầm của lịch sử, nền văn minh Ấn Độ vẫn toả
sáng. “Chiếc nôi” văn hoá cổ đại phương Đông vẫn có sức lan toả mạnh mẽ
ra các khu vực xung quanh: Nhiều yếu tố văn hoá Ấn Độ được truyền bá
sang Đông Nam Á, Tây Tạng, Bắc Á, Đông Bắc Á và các khu vực khác trên
thế giới; văn hoá Trung Quốc, đặc biệt là Nho giáo, có ảnh hưởng mạnh mẽ
đến Nhật Bản, Korea, Việt Nam và các nước khác; Văn hoá Ai Cập - Lưỡng
Hà mặc dù tồn tại không lâu song những thành tựu của nó không chỉ có ảnh
hưởng trong khu vực mà còn toả sáng ra các khu vực khác của thế giới, v.v.
Cùng với sự lan toả của các nền văn hoá cổ đại là sự xuất hiện của các nền

văn hoá mới như Arập, Nhật Bản, Korea, v.v. Bức tranh văn hoá Ấn Độ, do
vậy càng phong phú, đa dạng, nhiều sắc vẻ. Thêm nữa, vừa đấu tranh chống
lại sự đô hộ của chủ nghĩa tư bản phương Tây, Ấn Độ vừa tiếp thu những
yếu tố văn hoá mới, tiến bộ từ phương Tây để làm giàu cho vườn hoa văn
hoá của dân tộc mình. Bức tranh văn hoá Ấn Độ từ đây càng ngày càng rực
rỡ sắc màu. Trong giai đoạn hiện nay, những giá trị của văn minh Ấn Độ vẫn
còn đang lan tỏa rộng khắp. Những giá trị ấy như một liều thuốc tinh thần để
con người Ấn Độ quay về với cội nguồn, quay về tìm hiểu quá khứ rực rỡ
của ông cha, cũng như làm cơ sở cho việc tiếp thu những giá trị mới của nền
văn minh nhân loại.
2.2.2. Ý nghĩa của những thành tựu văn minh Ấn Độ
Trang 17
Nền văn minh Ấn Độ đã đạt được những thành tựu hết sức rực rỡ, đa
dạng trên tất cả các lĩnh vực. Các thành tựu về chữ viết, văn học, nghệ thuật,
khoa học tự nhiên và các tư tưởng, tôn giáo…đã góp phần làm nên nền văn
minh Ấn Độ, đưa văn minh Ấn Độ lên đỉnh cao của văn minh nhân loại.
Việc tìm hiểu về nền văn minh Ấn Độ cổ đại có một ý nghĩa to lớn,
giúp chúng ta hiểu rõ bản sắc văn hóa truyền thống cũng như sự phát triển
của lịch sử của đất nước này. Ngoài ra, nó còn mang một ý nghĩa vô cùng
quan trọng trong tiến trình hội nhập của khu vực nói chung và đất nước nói
riêng trong thời đại ngày nay.
2.3. Vấn đề khắc phục và bảo tồn những thành tựu văn minh Ấn Độ và thế
giới
Nói đến Di sản văn hoá là đề cập đến một lĩnh vực rộng lớn, đó là tất
cả những thành quả lao động tiêu biểu của con người qua các thời kỳ xây
dựng lên (còn tồn tại hoặc đã biến mất), nó còn bao gồm cả những danh lam
thắng cảnh do bàn tay của tạo hoá nhào nặn ra. Ta thấy Thạch Đàn
Stonehenge ở Vương quốc Anh, được xây dựng khoảng năm 1.900 trước
công nguyên, với rất nhiều khối đá nặng trên 40 tấn, lại cách xa hơn 20 km,
làm cách nào con người thời đó có thể vận chuyển về để xây dựng lên một

kiệt tác của nhân loại? Và những Kim tự tháp Ai Cập, là Vườn treo Babylon,
nhiều những công trình tiêu biểu khác và đặc biệt là các công trình nghệ
thuật độc đáo của văn minh Ấn Độ thời cổ trung đại như các chùa hang
Ajanta, lăng mộ Taj Mahal, pháo đài cổ Arga Thật may mắn cho nhân loại
là vào những năm đầu thế kỷ XXI vẫn được tận mắt thưởng ngoạn những
công trình được xây dựng lên từ chính sức lao động của các thế hệ tiền nhân
Trang 18
vẫn trường tồn với thời gian, nhưng có ai còn được thấy Vườn treo Babylon
hay tượng Thần Dớt Hy Lạp ? Những kỳ quan đó, chúng ta chỉ được biết
qua truyền thuyết, tất cả những di tích đó đều biểu thị những quan niệm,
những khát vọng và lý tưởng của con người dưới dạng cảm thấy được, cho
tới nay trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng còn rất nhiều di tích
đã tồn tại qua nhiều thế kỷ, vẫn giữ được những nét mang thuộc tính thời đại
lịch sử đã sản sinh ra nó.
Trường tồn cùng các công trình chính là mối đe doạ trạng thái bảo
quản các di sản văn hoá đó, do rất nhiều yếu tố, có thể là do sự huỷ hoại của
thiên nhiên. Nhưng cũng có thể còn do yếu tố tăng dân số cơ học và nhịp độ
phát triển vũ bão của nền kinh tế toàn cầu gây ra. Chúng ta phải nhìn nhận là
một trong những yếu tố cơ bản nhất, nó đe doạ và trực tiếp huỷ hoại các di
sản văn hoá, đó còn là do công tác bảo vệ và quản lý không theo kịp trình độ
phát triển xã hội. Chính vì lẽ đó, công tác bảo tồn di sản văn hoá được đặt ra
như một vấn đề cấp thiết ở mọi thời đại, nó đóng một vai trò ngày càng tích
cực trong việc truyền bá những kiến thức về tự nhiên và xã hội trong lĩnh
vực phong phú đa dạng này. Bảo tồn Di sản văn hoá, tức là quản lý và phát
huy các giá trị của lịch sử phát triển văn hoá vật chất, bao gồm những di tích
lịch sử, những di chỉ khảo cổ, những công trình kiến trúc nghệ thuật, những
danh lam thắng cảnh và cả những di sản văn hoá phi vật thể.
Các công tác bảo tồn cần tích cực phát huy tiềm năng thế mạnh bảo vệ,
quản lý và khai thác giá trị di sản văn hoá. Việc tu bổ tôn tạo di tích cần
được quan tâm hơn nữa để nâng cao giá trị và giá trị sử dụng các di tích, làm

tốt việc tuyên truyền phổ biến pháp luật về di sản văn hoá để khai thác mọi
Trang 19
nguồn lực cả vật chất và tinh thần từ các cá nhân, các tổ chức xã hội. Phối
hợp chặt chẽ với các ban ngành, nhất là với chính quyền địa phương các cấp,
quản lý và kịp thời xử lý các hành vi xâm hại di tích, giữ gìn vốn di sản văn
hoá vô giá cho các thế hệ mai sau.
Trang 20
III. Kết luận
Những trang lịch sử của đất nước Ấn Độ thời cổ trung đại đã cho ta
thấy được một thời kì hào hùng, đẫm máu và nước mắt của các cuộc đấu
tranh giành quyền lực, mở mang bờ cõi và các cuộc chiến chống lại các thế
lực xâm lăng. Một thời kì bi thương nhưng rất đổi hào hùng và trong giai
đoạn khó khăn đó ta vẫn thấy ngời lên một nền văn minh rực rỡ - văn minh
sông Ấn đặc sắc với rất nhiều thành tựu để lại đến muôn đời. Và đó cũng
chính là một trong những ngọn nguồn của văn minh nhân loại. Nhân dân Ấn
Độ sớm đạt được những thành tựu to lớn về chữ viết, văn học, nghệ thuật,
khoa học tự nhiên, tư tưởng tôn giáo…tất cả những thành tựu đó mang một
giá trị lớn lao về lịch sử và ít nhiều cũng ảnh hưởng đến đời sống và văn hóa
Ấn Độ nói riêng và thế giới nói chung, trong đó có Việt Nam. Việc phát hiện
ra những thành tựu văn hóa đó giúp chúng ta hiểu thêm về đất nước Ấn Độ
và có những hiểu biết về những bước tiến của xã hội loài người. Chính
những thành tựu như thế đã khẳng định sự tồn tại và phát triển của loài
người từ buổi sơ khai cho đến nay.
Ông cha ta ngày xưa đã làm nên những thành tựu, nhiệm vụ của chúng
ta ngày nay là phải biết trân trọng, lưu giữ để những thành tựu ấy mãi được
lưu truyền và không bị mai mọt theo thời gian. Trên cơ sở đó chúng ta cũng
phải biết phát huy những giá trị lịch sử ấy để tạo ra những thành tựu mới
góp phần làm phong phú thêm cho kho tàng văn minh của nhận loại.
Trang 21
 Tài liệu tham khảo:

• Giáo trình Lịch sử văn minh thế giới- Vũ Dương Ninh. Nhà xuất bản
giáo dục. Hà Nội (2007).
• Almanach những nền văn minh thế giới. Nhà xuất bản Văn hóa –
Thông tin. Hà Nội. (1999).
• Lịch sử thế giới cổ đại- Lương Ninh. Nhà xuất bản giáo dục .(09-
2007).
• Lịch sử thế giới trung đại- Nhiều tác giả. Nhà xuất bản giáo dục. (04-
2008).
• Website:
Trang 22
MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU Trang
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………….1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề……………………………………………… 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………… 3
4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………….3
5. Đóng góp của đề tài……………………………………………………….3
6. Bố cục đề tài………………………………………………………………4
II. NỘI DUNG
Chương 1: Những cơ sở tạo nên nền văn minh Ấn Độ
1.1. Khái niệm chung về văn minh Ấn Độ………………………………….4
1.2. Cơ sở hình thành nền văn minh Ấn Độ…………………………………4
Chương 2: Vai trò và ý nghĩa của những thành tựu chủ yếu của nền văn
minh Ấn Độ
2.1. Thành tựu chính của văn minh Ấn Độ………………………………….6
2.2. Vai trò và ý nghĩa của của những thành tựu văn minh Ấn Độ…… …17
2.3. Vấn đề khắc phục và bảo tồn các thành tựu văn minh Ấn Độ và thế
giới………………………………………………………………………….18
III. KẾT LUẬN…………………………………………………21
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………….22

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
HỌC PHẦN: LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
(Bài tiểu luận kết thúc học phần)
Đề tài: Vai trò và ý nghĩa của những thành tựu chủ yếu
của văn minh Ấn Độ thời cổ trung đại.
Giảng viên hướng dẫn : Th.s. Hoàng Hoài Thương.
Sinh viên thực hiện :…………………………… .
Mã phách :……………………………
Đà Nẵng, 12/2011
Họ và tên sinh viên : Ngô Thị Hồng Phương. Phách:……….
Ngày sinh : 14/1/1992.
Lớp : 11CVH1.
Tên tiểu luận : VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA NHỮNG THÀNH
TỰU CHỦ YẾU CỦA VĂN MINH ẤN ĐỘ THỜI CỔ TRUNG ĐẠI.
Học phần : Lịch sử văn minh thế giới.
Giảng viên phụ trách: Th.s Hoàng Hoài Thương.
Sinh viên kí tên

×