Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Tiểu luận cao học, chất lượng công tác kiểm tra ở ủy ban kiểm tra tỉnh ủy thái bình trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.41 KB, 42 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: XÂY DỰNG ĐẢNG
Đề tài:
CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC KIỂM TRA Ở ỦY BAN KIỂM TRA TỈNH
ỦY THÁI BÌNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA
ĐẢNG...............................................................................................................4
1.1. Khái niệm và quan điểm về công tác kiểm tra của Đảng...........................4
1.1.1. Khái niệm................................................................................................4
1.1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác kiểm tra...........10
1.2. Tính tất yếu phải thực hiện cơng tác kiểm tra của Đảng..........................11
1.3. Chất lượng và tiêu chí đánh giá chất lượng công tác kiểm tra của đảng..16
1.3.1. Chất lượng cơng tác kiểm tra của Đảng...............................................16
1.3.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng công tác kiểm tra của Đảng...................17
Chương 2. CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC KIỂM TRA Ở UỶ BAN KIỂM
TRA TỈNH ỦY THÁI BÌNH THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
ĐẶT RA..........................................................................................................22
2.1. Thực trạng chất lượng công tác kiểm tra ở Ủy ban kiểm tra tỉnh ủy Thái
Bình.................................................................................................................22
2.1.1. Khái quát về Đảng bộ tỉnh Thái Bình...................................................22
2.1.2. Khái quát về Ủy ban kiểm tra tỉnh ủy Thái Bình...................................23
2.2. Những ưu điểm và hạn chế trong công tác kiểm tra................................25
2.2.1. Ưu điểm.................................................................................................25
2.2.2. Hạn chế.................................................................................................28
2.3. Nguyên nhân của ưu điểm và hạn chế......................................................31
2.2.1. Nguyên nhân của ưu điểm.....................................................................31
2.4. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm tra ở Ủy ban kiểm tra tỉnh


ủy Thái Bình trong giai đoạn hiện nay............................................................35
KẾT LUẬN.....................................................................................................39
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................40


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng, một bộ
phận quan trọng trong tồn bộ cơng tác xây dựng đảng. Lãnh đạo Đảng không
chỉ là việc xây dựng đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, là
việc tổ chức thực hiện và bố trí cán bộ, mà lãnh đạo cịn là kiểm tra. Đó là vấn
đề có tính nguyên tắc, vừa thể hiện chức năng lãnh đạo, vừa là trách nhiệm
nội dung phương pháp, quy trình lãnh đạo của Đảng. Lênin đã chỉ rõ: Khi
đường lối, chính sách đã được xác định, phương hướng đã được thông qua thì
nhiệm vụ tổ chức thực hiện phải được đặt lên hàng đầu và sự lãnh đạo phải
chuyển trọng tâm từ việc soạn thảo các sắc lệnh và mệnh lệnh sang việc lựa
chọn người và kiểm tra việc thực hiện.
Thực tiễn cách mạng nước ta, đặc biệt là từ khi Đảng ta thành lập và
lãnh đạo cho thấy kiểm tra là một chức năng lãnh đạo của Đảng, lãnh đạo thì
phải có kiểm tra. “lãnh đạo mà khơng có kiểm tra thì coi như khơng có lãnh
đạo”. Đồng thời kiểm tra là một nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của toàn
Đảng để chống chủ nghĩa cơ hội, quan liêu, tham nhũng, bè phái, vô tổ chức,
vô kỷ luật.
Nắm được tầm quan trọng của công tác kiểm tra, ngay từ khi mới thành
lập Đảng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến công tác
kiểm tra và giữ gìn kỷ luật trong Đảng. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng
khẳng định: “cơng tác kiểm tra có vị trí cực kỳ quan trọng trong toàn bộ hoạt
động lãnh đạo của Đảng, kiểm tra và giữ gìn kỷ luật là nhiệm vụ của đảng”

Do vậy, công tác kiểm tra đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện
các nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn cách mạng suốt hơn 80 năm qua,
đặc biệt cơng tác kiểm tra cịn đóng góp tích cực vào việc xây dựng Đảng
vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức làm cho Đảng ta ngày càng
trong sạch, vững mạnh, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã
hội mà Đảng và Bác Hồ kính yêu đã lựa chọn.


2

Trong giai đoạn hiện nay, công tác kiểm tra của Đảng đã đạt được những
thành tựu quan trọng góp phần bảo vệ đường lối, quan điểm, các nguyên tắc của
Đảng, thúc đẩy thực hiện các nhiệm vụ chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ đảng
viên trong sạch, vững mạnh góp phần đồn kết thống nhất trong Đảng, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng trong thời kỳ mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu trên thì “cơng tác kiểm tra trong
đảng cịn yếu, chất lượng và hiệu quả chưa cao; nhiều khuyết điểm, sai lầm
của đảng viên và tổ chức Đảng chậm được phát hiện và khắc phục; chưa coi
trọng kiểm tra, phòng ngừa, phát huy nhân tố tích cực. Nhiều cấp uỷ, tổ chức
Đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra và thi hành kỷ luật trong Đảng. Khi xử lý
kỷ luật hoặc khi các vụ việc xảy ra ở các đơn vị còn lúng túng, thiếu chủ động
cả về nội dung và phương pháp kiểm tra, thậm chí nhiều chủ trương, chính
sách, nghị quyết, chỉ thị của Đảng không được chấp hành nghiêm túc, bên
cạnh đó cịn xuất hiện một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên phai nhạt về
lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu, tha hố, biến chất, quan liêu, tham nhũng
ngày càng nghiêm trọng làm giảm sút lòng tin của nhân dân đói với sự lãnh
đạo của Đảng. Trước bối cảnh trên, việc tăng cường và đổi mới công tác kiểm
tra nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm tra và làm cho cán bộ, đảng viên
nhận thức rõ về vị trí, vai trị, mục đích, nội dung và ý nghĩa của công tác
kiểm tra là vấn đề cần thiết trong tồn bộ cơng tác xây dựng Đảng hiện nay.

Do đó, việc nâng cao chất lượng cơng tác kiểm tra của Đảng nói chung
và chất lượng cơng tác kiểm tra của Ủy ban kiểm tra tỉnh ủy nói riêng là u
cầu cấp thiết trong thời kì cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước hiện nay.
Vì thế tác giả chọn vấn đề “Chất lượng công tác kiểm tra ở Ủy ban kiểm tra
tỉnh ủy Thái Bình trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu môn học
Xây dựng Đảng của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ
2.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích đúng thực trạng chất lượng cơng tác kiểm tra của
ủy ban kiểm tra tỉnh ủy, từ đó đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm


3

nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của Ủy ban kiểm tra tỉnh ủy Thái Bình
trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích đề ra, đề tài cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và Đảng ta về công tác kiểm tra.
- Đánh giá đúng thực trạng chất lượng công tác kiểm tra của ủy ban
kiểm tra tỉnh ủy Thái Bình hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng công tác
kiểm tra của ủy ban kiểm tra tỉnh ủy Thái Bình trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động kiểm tra ở ủy ban kiểm
tra tỉnh ủy Thái Bình.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu chất lượng công tác kiểm

tra của ủy ban kiểm tra tỉnh ủy Thái Bình trong thời gian năm 2019.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của đề tài chủ yếu là phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu, tổng kết thực tiễn và các
phương pháp khác.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Đề tài được
kết cấu gồm 2 chương và 7 tiết.


4

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG

1.1. Khái niệm và quan điểm về công tác kiểm tra của Đảng
1.1.1. Khái niệm
* Kiểm tra
Theo từ điển Tiếng Việt-Trung tâm từ điển học viện ngôn ngữ học,
Nxb Đà Nẵng, trang 253 thì “Kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh
giá, nhận xét…”. Như vậy kiểm tra là việc xem xét lại những hoạt động của tổ
chức hoặc con người để nhận xét, đánh giá những kết quả đạt được so với yêu
cầu, mục đích đã được xác định qua đó tìm ra những kinh nghiệm trong đời
sống xã hội. Hoạt động của tổ chức muốn đạt được hiệu quả cao cần có sự
thống nhất, có kỷ luật nghiêm minh, có nguyên tắc tổ chức chặt chẽ và phải
có sự kiểm tra, giám sát. Việc đánh giá, nhận xét đúng, sai, tốt, xấu, ưu điểm
hay khuyết điểm, công hay tội… phải căn cứ vào những tiêu chí, văn bản quy
định hiện hành so với thực tế của đối tượng được kiểm tra.
Thực tiễn luôn luôn sống động, chúng ta phải giải quyết những mâu

thuẫn, vì nhận thức của con người là một quá trình từ thấp đến cao, từ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện. Trong q trình hành động những mâu thuấn ln
ln xuất hiện, buộc con người phải giải quyết để từng bước vươn lên, nhận
thức ngày càng đầy đủ hơn sự việc, để tiến tới mục tiêu đã định, để làm chủ
xã hội, tự nhiên và làm chủ bản thân. Những mâu thuẫn này làm cho khơng
phải việc gì con người đưa ra đều thực hiện theo ý muốn, thậm chí cịn bị thất
bại, trả giá. Để khắc phục những vấn đề này đòi hỏi phải kiểm tra, kiểm tra là
hoạt động ln gắn liền với tồn bộ hoạt động của con người, đồng thời là
hoạt động trong toàn bộ hoạt động của con người. Trong hoạt động của con
người và tổ chức đã tự bao hàm hoạt động kiểm tra, nhờ có hoạt động kiểm
tra mà con người và tổ chức do con người sáng lập hoạt động ngày càng sát
với thực tế khách quan.


5

Xét về chủ thể và phạm vi tiến hành thì hoạt động kiểm tra đa dạng hơn
thanh tra. Chủ thể tiến hành kiểm tra có thể là Nhà nước hoặc cũng có thể là
chủ thể phi nhà nước, chẳng hạn như là chủ thể kiểm tra của các tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (Đảng, Cơng đoàn, Đoàn thanh niên, Mặt
trận, Hội phụ nữ….). Trên một giác độ rộng hơn nữa kiểm tra có thể là sự
xem xét thực tế để đánh giá, nhận xét của bất kỳ một các nhân nào trong xã
hội trong một hoạt động nhất định. Khi con người biết lao động một cách có ý
thức thì đã xuất hiện một u cầu tất yếu là phải kiểm tra. Theo Ăngghen
“mỗi hoạt động có ý thức, có tổ chức của con người vừa chứa đựng trong đó
những yếu tố của kiểm tra” và “ đối với mỗi con người tự nhiên, mỗi cộng
đồng nguyên thủy, kiểm tra được xem như là phương thức hành động để thực
hiện mục đích”. Như vậy kiểm tra cũng xuất hiện trước thanh tra và xuất hiện
trước khi có sự ra đời của Nhà nước đầu tiên trong lịch sử.
Có thể khẳng định kiểm tra sẽ tồn tại cùng với loài người. Khi Nhà

nước tự tiêu vong thanh tra có thể sẽ mất đi nhưng kiểm tra thì vẫn tồn tại
cùng với “chức năng quản lý đơn thuần là chăm lo đến lợi ích của xã hội” như
Ăngghen đã chỉ ra. Tuy nhiên giữa kiểm tra và thanh tra có quan hệ gắn kết
về chủ thể đó là nhà nước, Đảng hay một tổ chức nhất định.
Qua kiểm tra có thể phân tích, đánh giá, theo dõi quá trình thực hiện
các mục tiêu, nhiệm vụ quản lý đặt ra. Kiểm tra gắn liền với công việc của
một tổ chức, một cán bộ công chức nhất định và thường theo hướng sau:
- Theo dõi để cho họat động của tổ chức phù hợp với chức năng, nhiệm
vụ và sự phân công giữa các đơn vị.
- Quan sát để bảo đảm rằng nhiệm vụ được giao có đủ điều kiện thực
hiện, phù hợp với thực tế. Hướng dẫn và điều chỉnh kịp thời để đảm bảo hiệu
xuất công việc của từng đơn vị.
- Kiểm tra kết quả cuối cùng, đánh giá hiệu quả thực tế của các hoạt
động theo kế hoạch đặt ra.


6

Về mặt quản lý chung, kiểm tra hướng đến việc xem xét tính hợp lý
hay khơng hợp lý của một chương trình cơng tác đã vạch ra, khả năng thực
hiện trong thực tế.
Trong quản lý hành chính nhà nước kiểm tra có mục tiêu là tìm kiếm
động cơ, ngun nhân cán bộ làm tốt hay không tốt nhiệm vụ được giao.
Như vậy, kiểm tra là hoạt động thường xuyên. Do có tính chất này mà
chúng ta khơng thể nói là đã có một hệ thống kiểm tra hữu hiệu nếu chỉ có
những người lãnh đạo tổ chức và những cán bộ tổ chuyên trách tham gia vào
hoạt động kiểm tra công việc. Điều quan trọng là phải thiết lập được một hệ
thống tự kiểm tra và một sự kiểm tra lẫn nhau trong nội bộ tổ chức và giữa hai
nhân tố chủ quan và khách quan trong tổ chức hoặc hai nhân tố khác nhau
trong cùng một việc.

* Kiểm tra Đảng
Kiểm tra Đảng là việc xem xét tình hình chấp hành Cương lĩnh chính
trị, Điều lệ Đảng, Nghị quyết, Chỉ thị của Nhà nước; việc thực hiện những
nhiệm vụ, quyền hạn hay một cơng việc được giao để từ đó đánh giá, nhận xét
về mỗi tổ chức Đảng, đảng viên một cách chính xác.
Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức chính trị thống nhất, chặt chẽ nhất,
giác ngộ nhất, do vậy công tác kiểm tra của Đảng không những là một tất yếu
khách quan mà còn là một sự tự giác, nghiêm túc. Mọi hoạt động của Đảng từ
khi ra Nghị quyết đến hoạt động tổ chức thực hiện vừa bao hàm hoạt động
kiểm tra vừa chịu sự kiểm tra của thực tiễn. Đảng phải tự kiểm tra chính ngay
trong những chủ trương, nghị quyết của mình đề ra, kiểm tra công việc, kiểm
tra con người, kiểm tra tổ chức đảng, kiểm tra đảng viên. Thực hiện nghiêm
túc công tác kiểm tra của Đảng là cơ sở để thực hiện thắng lợi các mục tiêu
kinh tế - xã hội – an ninh quốc phòng mà Đại hội và Hội nghị các cấp của
Đảng đã đề ra
Như vậy, kiểm tra đảng là việc chủ thể kiểm tra tiến hành xem xét tình
hình thực tế về ưu điểm, thiếu sót, khuyết điểm hoặc vi phạm (nếu có) của đối


7

tượng kiểm tra để giúp việc đánh giá, nhận xét và kết luận được chính xác
theo mục tiêu, yêu cầu đề ra.
* Công tác kiểm tra của Đảng
Công tác kiểm tra của đảng – đó là hoạt động của các cấp ủy, các ban
chức năng của đảng, các tổ chức cơ sở đảng và đảng viên, hướng vào việc xây
dựng và thực hiện các Nghị quyết, các chỉ thị, giải quyết các vấn đề trong sinh
hoạt và nội bộ của đảng, hồn thiện quy trình lãnh đạo, giữ gìn kỷ luật của
đảng với mục đích thực hiện thắng lợi những quyết định đã đề ra.
Từ khái niệm công tác kiểm tra ta thấy:

Công tác kiểm tra của đảng được tiến hành trong hệ thống tổ chức
Đảng, theo nguyên tắc của Đảng, theo quy trình và Điều lệ Đảng.
Cơng tác kiểm tra của Đảng là một bộ phận quan trọng, là nguyên tắc
chính của sự lãnh đạo của Đảng trong mọi thời kỳ cách mạng.
Công tác kiểm tra của Đảng như là một phương tiện nhằm đảm bảo vai
trò lãnh đạo tiên phong của Đảng, giúp cho Đảng ta ngày càng trong sạch.
Công tác kiểm tra của Đảng như là một phương tiện có hiệu quả dể
giải quyết các vấn đề trong xây dựng nội bộ Đảng nhằm tẩy rửa những “mủ
nhọt” khơng đáng có.
Khi tiến hành cơng tác kiểm tra Đảng có những đặc điểm cơ bản sau:
- Đối tượng kiểm tra và kỷ luật trong Đảng là cán bộ, đảng viên hoặc tổ
chức đảng khi được kiểm tra vừa là đối tượng, vừa là chủ thể kiểm tra. Đặc
điểm này quyết định bản chất, phương thức hoạt động, mục tiêu, yêu cầu, tác
dụng và hiệu quả của công tác kiểm tra, kỷ luật trong Đảng. Là đối tượng
kiểm tra, đảng viên và tổ chức đảng được kiểm tra phải chấp hành nghiêm túc
mọi nguyên tắc, yêu cầu, nội dung, quy trình, quy chế kiểm tra; là chủ thể
kiểm tra thì đảng viên hoặc tổ chức đảng khơng thụ động đứng ngoài cuộc mà
phải chủ động, tự giác tham gia thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm trong
cuộc kiểm tra. Do đó, đối tượng kiểm tra và kỷ luật trong Đảng là một đối
tượng đặc biệt, hoàn toàn khác với những đối tượng kiểm tra, điều tra, thanh


8

tra của cơ quan bảo vệ pháp luật. Tính đặc biệt thể hiện trước hết là ở tính
Đảng của cơng tác kiểm tra.
- Công tác kiểm tra, kỷ luật trong Đảng được tiến hành trong hệ thống
tổ chức đảng, theo đúng những nguyên tắc của Đảng, quy định của Điều lệ
Đảng. Mọi hoạt động kiểm tra và xử lý kỷ luật trong Đảng phải tiến hành
cơng khai, dân chủ, có sự lãnh đạo, chỉ đạo. Không một cá nhân nào dù giữ

bất kỳ cương vị công tác nào, được quyền đứng ngoài hoặc đứng trên tổ chức
Đảng để áp đặt kiểm tra; khơng được dùng biện pháp bí mật điều tra trong
Đảng. Mọi dấu hiệu, hành vi, vụ việc có liên quan đến đối tượng kiểm tra đều
được công khai xem xét để làm rõ sự thật, thể hiện minh bạch, khách quan
trong công tác kiểm tra Đảng. Công tác kiểm tra đảng có tính giáo dục cao
khơng chỉ là cảnh báo, răn đe về những nội dung sai lầm, vi phạm mà còn
thức tỉnh lương tâm, khơi dậy bản chất cộng sản, tính tiên phong gương mẫu
ở trong mỗi đảng viên, cán bộ để tự giác vươn lên.
- Kiểm tra và tự kiểm tra trong Đảng gắn bó chặt chẽ với nhau là đặc
điểm nổi bật trong công tác kiểm tra, kỷ luật và là nguyên tắc trong hoạt động
kiểm tra, kỷ luật trong Đảng. Phương pháp tiến hành hoạt động kiểm tra, kỷ
luật trong Đảng khác về bản chất với phương pháp hoạt động điều tra của các
cơ quan bảo vệ pháp luật.
Khi tiến hành kiểm tra không phải chỉ có tổ chức đảng kiểm tra đảng
viên hoặc tập thể kiểm tra cá nhân, cấp trên kiểm tra cấp dưới, mà cả chủ thể
và đối tượng cùng tiến hành kiểm tra, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt
động kiểm tra, kỷ luật trong Đảng bảo đảm tính cơng minh, chính xác. Tiến
hành kiểm tra mà khơng có sự kết hợp tự kiểm tra thì coi như hoạt động kiểm
tra có hiệu lực và kết quả đến đâu cũng không đem lại hiệu quả đúng với bản
chất và phương châm kiểm tra trong Đảng.
Kiểm tra trong Đảng khác với hoạt động điều tra của cơ quan bảo vệ
pháp luật còn thể hiện, cơ quan tư pháp khi tiến hành điều tra đối tượng có
dấu hiệu phạm pháp, phạm tội thì có thể coi là “ Những phần tử có nghi vấn”


9

và giữa cơ quan điều tra với đối tượng điều tra bắt buộc phải có ranh giới nhất
định; tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên khi tiến hành kiểm tra thì trái lại,
khơng được coi đối tượng kiểm tra như trên mà chỉ coi đó là cán bộ, đảng

viên có dấu hiệu vi phạm hoặc có khuyết điểm cần được xem xét làm rõ, mặc
dù có trường hợp đối tượng kiểm tra có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng, có
thể phải khai trừ ra khỏi Đảng, nhưng khi chưa có quyết định chính thức của
tổ chức đảng có thẩm quyền thì đối tượng kiểm tra vẫn là đảng viên, vẫn có
quyền sinh hoạt, hoạt động theo quy định của Đảng.
Hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật chủ yếu dùng biện pháp
đặc nhiệm hoặc có thể dùng trinh sát, đơn phương, độc lập điều tra và căn cứ
chủ yếu để kết luận vụ việc là chứng cứ thu thập được, trái lại hoạt động kiểm
tra của Đảng lại là hoạt động công khai, dân chủ, tập thể, song phương, đa
tuyến và căn cứ để kết luận hành vi, động cơ, mục đích của đối tượng kiểm
tra khơng chỉ đơn thuần chứng minh bằng chứng cứ vật thể, mà địi hỏi cao
hơn, tồn diện hơn ở sự chứng minh khoa học, bằng tư duy lãnh đạo và bằng
đạo đức của Đảng.
Khác với hoạt động điều tra của các cơ quan bảo vệ pháp luật, hoạt
động kiểm tra của Đảng khơng chỉ chờ khi có vụ việc phát sinh mới tiến
hành kiểm tra và không thể kết thúc kiểm tra ngay khi khẳng định được đối
tượng có sai phạm, tiêu cực, mà hoạt động kiểm tra trong Đảng phải gắn
liền, chủ động, thường xuyên với chức năng lãnh đạo của các tổ chức đảng,
cấp ủy Đảng.
- Tập trung dân chủ vừa là nguyên tắc cơ bản của Đảng nói chung và
cũng là một nguyên tắc xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động kiểm tra, kỷ luật
trong Đảng nói riêng. Hoạt động kiểm tra kỷ luật trong Đảng có hiệu quả chỉ
khi chấp hành nghiêm chỉnh nguyên tắc tập trung dân chủ. Có như vậy mới
khơng chệch hướng, khơng bị chi phối bởi sự độc đoán của cá nhân, hoặc bị
sức ép của dân chủ cực đoan, vơ chính phủ. Mặc dù chân lý không phải bao
giờ cũng thuộc về số đông, nhưng quy luật tạo nên sức mạnh để tiếp cận chân


10


lý thì bao giờ cũng thuộc về tài chí của nhiều người, của cả cộng đồng hoặc tổ
chức. Vì vậy, toàn bộ hoạt động kiểm tra, kỷ luật trong Đảng trong tình hình
mới tuyệt đại khơng được xa dời hoặc buông lỏng nguyên tắc tập trung dân
chủ. Tập trung dân chủ là một nguyên tắc bao trùm, xuyên suốt trong hoạt
động kiểm tra, kỷ luật trong Đảng.
- Mọi tổ chức đảng và đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của
Đảng và đều phải chịu sự kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật của Đảng,
khơng có ngoại lệ.
- Cơng tác kiểm tra của Đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng, của mọi tổ
chức Đảng và đảng viên theo quy định của Điều lệ Đảng. Quá trình kiểm tra
phải vận dụng đúng đắn giữa tự giác và bắt buộc, giữa tự phê bình và phê
bình, coi trọng cơng tác giáo dục tư tưởng trong công tác kiểm tra, giám sát;
lấy hiệu quả kiểm tra, giám sát là thước đo cho kết quả hoạt động.
1.1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác kiểm tra
Đảng ta khẳng định kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo
của Đảng, là việc tổ chức đảng xem xét, đánh giá, kết luận về ưu điểm, khuyết
điểm hoặc vi phạm của các cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên trong
việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết chỉ
thị của Đảng và pháp luật của nhà nước.
Bước vào thời kỳ đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, đã có một
số đảng viên giao động về tư tưởng, thiếu tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng. Đặc biệt còn xuất hiện tiêu cực về quan liêu, tham nhũng trên nhiều
lĩnh vực. Vì vậy Đảng tiếp tục đề ra nhiều quan điểm mới về công tác kiểm
tra và thi hành kỷ luật Đảng.
Trải qua các kỳ đại hội, Đảng đã bổ sung chức năng giám sát, tăng
thẩm quyền và trách nhiệm xem xét kỷ luật của cấp ủy và ủy ban kiểm tra các
cấp. Đồng thời ủy ban kiểm tra các cấp có yêu cầu các cấp ủy tổ chức đảng và
đảng viên phải giải trình các vấn đề thuộc thẩm quyền và trách nhiệm được
giao. Đảng cũng đưa ra quan điểm về kiện toàn hệ thống ủy ban kiểm tra các



11

cấp, tổ chức phối kết hợp giữa ủy ban kiểm tra các cấp với các tổ chức đảng
và cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc xem xét khiếu nại, tố cáo và xử lý kỷ
luật với cán bộ, đảng viên.
Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, đảng ta tiếp tục nhấn mạnh
vai trị quan trọng của cơng tác kiểm tra Đảng và khẳng định đó là chức năng
lãnh đạo không thể thiếu của công tác xây dựng Đảng.
Tóm lại, quan điểm xuyên suốt và nhất quán của Đảng ta luôn luôn
khẳng định: kiểm tra là nhiệm vụ tất yếu, là nhu cầu không thể thiếu được với
các tổ chức đảng và đảng viên từ đó xác định đúng mục đích, ý nghĩa, vị trí và
vai trị dặc biệt quan trọng của công tác kiểm tra và thi hành kỷ luật trong
Đảng. Nhiệm vụ của cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp luôn luôn được bổ
sung và khơng ngừng hồn thiện qua các thời kỳ Đại hội để phù hợp với bối
cảnh từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định kiểm tra là một chức
năng lãnh đạo quan trọng của lãnh đạo, nếu lãnh đạo mà khơng kiểm tra thì
coi như khơng lãnh đạo.
Bước vào giai đoạn mới, có rất nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn phát
sinh. Vì vậy, Đảng ta coi công tác kiểm tra là công việc , là nhiệm vụ trực tiếp
và thường xun của tồn Đảng. Cơng tác kiểm tra là “một bộ phận quan
trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng” là “biện pháp hiệu nghiệm để
khắc phục bệnh quan liêu”. Kỷ luật của Đảng là kỷ luật sắt, vừa tự giác vừa
nghiêm minh. Tất cả đảng viên và các tổ chức đảng phải tự giác chấp hành
nghiêm kỷ luật của Đảng, để góp phần xây dựng Đảng ta vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức.
1.2. Tính tất yếu phải thực hiện cơng tác kiểm tra của Đảng
Tính tất yếu phải thực hiện cơng tác kiểm tra của Đảng xuất phát từ ý
nghĩa, tầm quan trọng của công tác kiểm tra
Công tác kiểm tra của Đảng được tiến hành thường xuyên sẽ bảo đảm

cho Nghị quyết của cấp ủy các cấp được xác định đúng, chấp hành triệt để và
ngày càng hồn thiện. Nó góp phần nâng cao chất lượng lãnh đạo của cấp ủy,


12

làm cho sự lãnh đạo gắn với thực tiễn, bảo đảm sự thống nhất giữa nghị quyết
và việc chấp hành, giúp cho cấp ủy khắc phục được tư tưởng và hành động
nóng vội, chủ quan, bệnh hình thức, quan liêu trong lãnh đạo.
Kiểm tra còn là biện pháp hiệu quả để khắc phục bệnh quan liêu tham
nhũng, bảo đảm cho nguyên tắc tập trung dân chủ được thực hiện nghiêm túc,
củng cố đoàn kết thống nhất trong Đảng, giáo dục, bảo vệ đội ngũ cán bộ,
đảng viên, giữ nghiêm kỷ cương của Đảng. Kiểm tra còn là đòn bẩy thức đẩy
mạnh mẽ đến việc giải quyết các nhiệm vụ chính trị, kinh tế- xã hội và công
tác xây dựng Đảng.
Kiểm tra là một tất yếu khách quan, kiểm tra và giữ gìn kỷ luật trong
Đảng là nhiệm vụ của tồn Đảng
Kiểm tra là một phạm trù lịch sử gắn liền với lịch sử xã hội lồi người.
Cơng tác kiểm tra nói chung và cơng tác kiểm tra của Đảng ta nói riêng ln
phát triển và được bổ sung, hồn thiện với quá trình phát triển lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất xã hội… Đối với Đảng cộng sản Việt Nam, Đảng
duy nhất cầm quyền, trong bối cảnh quốc tế có nhiều nguy cơ khó lường tác
động lớn tới tình hình kinh tế xã hội, an ninh quốc phịng của đất nước trên cả
hai phương diện tích cực và tiêu cực; trong điều kiện nước ta xây dựng và
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; trong tình trạng
tham nhũng và suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên ngày càng nghiêm trọng;…thì công tác
kiểm tra cực kỳ quan trọng hơn bao giờ hết. Vì vậy phải thường xun thực
hiện: tăng cường cơng tác kiểm tra của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp, tập
trung vào các nội dung chủ yếu: thực hiện các nghị quyết, chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước; chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ và quy
chế làm việc; củng cố đoàn kết nội bộ, giáo dục và nâng cao phẩm chất đạo
đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.
Kiểm tra và giữ gìn kỷ luật là nhiệm vụ của tồn Đảng. Cơng tác kiểm
tra là cơng việc của tồn Đảng, trước hết của cấp ủy Đảng các cấp; cấp ủy


13

Đảng lãnh đạo công tác kiểm tra và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra của
tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị
quyết, chỉ thị của Đảng. Thực tiễn cách mạng đã chứng minh đường lối đổi
mới đảng khởi sướng và lãnh đạo hoàn toàn đúng đắn, vấn đề mấu chốt đảm
bảo thắng lợi của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay
là tổ chức thực hiện, lựa chọn cán bộ và kiểm tra. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành cơng hoặc thất bại của
chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi
kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vơ ích”
Cơng tác kiểm tra của Đảng, mà trước hết là của cấp ủy và ủy ban kiểm
tra có ý nghĩa vơ cùng quan trọng, bảo đảm cho đường lối, chính sách, nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, của các cấp ủy được xác định đúng, được chấp hành
nghiêm chỉnh và có kết quả trong cuộc sống. Các tổ chức đảng cần nhận thức
đúng đắn, đầy đủ, có trách nhiệm trong cơng tác kiểm tra; thường xuyên coi
trọng và chủ động tiến hành công tác kiểm tra theo nội dung, đối tượng thuộc
phạm vi phụ trách. Đặc biệt các cấp ủy Đảng vừa phải nắm chắc và thực hiện
tốt nhiệm vụ kiểm tra, có chương trình kế hoạch kiểm tra đối với từng nghị
quyết, từng cơ quan đơn vị…tuy nhiêm khi kiểm tra phải có trọng tâm, trọng
điểm đồng thời vẫn giữ nguyên nguyên tắc tất cả các nghị quyết đều phải
kiểm tra việc thực hiện. Làm được như vậy, kiểm tra sẽ thực sự là chức năng
lãnh đạo của Đảng; công tác kiểm tra mới thực sự giữ vị trí cực kỳ quan trọng

trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng, một nội dung quan trọng trong
công tác xây dựng Đảng đồng thời góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức đảng cũng như của tồn Đảng.
Tính tất yếu phải thực hiện cơng tác kiểm tra của Đảng cịn bắt nguồn
từ vị trí, vai trị của công tác kiểm tra.
Hoạt động của tổ chức đảng là hoạt động tự giác, có mục đích. Trước
khi hành động tổ chức đảng đã dân chủ thảo luận, xây dựng chương trình
hành động, mục tiêu, giải pháp thực hiện các công việc đều được xem xét, cân


14

nhắc kỹ lưỡng. Nhưng thực tiễn rất phong phú, đa dạng và ln ln vận
động, những dự kiến tính tốn của con người và tổ chức khi đưa vào thực tiễn
vẫn có thể sai sót, sơ hở khơng phù hợp với thực tế.
Hiện nay mặc dù xã hội đã phát triển, cơ cấu, trình độ và nhu cầu của
đội ngũ đảng viên đa dạng và cao hơn trước, vì vậy ở mỗi tổ chức, mỗi cơ
quan, đơn vị trình độ nhận thức và năng lực lãnh đạo không đồng đều. Có
người, có tổ chức nhận thức đúng đắn và thực hiện tốt chủ trương nghị quyết
của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Có người do nhận thức hạn chế mà thực
hiện sai lệch chủ trương, nghị quyết, quyết định hoặc vi phạm kỷ luật đảng,
pháp luật của nhà nước. Bên cạnh đó có những người có nhận thức khá tốt
vẫn vi phạm, làm trái và cố tình làm trái những quy định chung.
Để kịp thời phát hiện những sai sót trong chủ trương, uốn nắn lệch lạc
trong nhận thức và tổ chức thực hiện, phát hiện những điển hình tốt, những
sáng kiến hay, những giải pháp sáng tạo để bổ sung, hoàn thiện quyết định,
đánh giá đúng chất lượng đội ngũ đảng viên, phát huy ưu điểm, khắc phục
nhược điểm… Thì phải thường xun tiến hành cơng tác kiểm tra. Kiểm tra
trở thành một công việc thiết yếu trong hoạt động của mỗi tổ chức Đảng và
đảng viên.

Lãnh đạo là chức năng của tổ chức đảng, nhưng để lãnh đạo có hiệu
quả phải thực hiện đúng quy trình lãnh đạo đó là ra quyết định – tổ chức thực
hiện quyết định và kiểm tra việc thực hiện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “…
phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng…phải tổ chức sự thi hành cho
đúng…phải tổ chức sự kiểm soát” . Ba khâu trên hợp thành chính là chỉnh thể
của quy trình lãnh đạo. Kiểm tra khơng chỉ là khâu cuối cùng của quy trình
đó, mà đan xen vào tất cả các khâu. Vì thế có thể khẳng định rằng, sự lãnh
đạo của tổ chức đảng khơng chỉ là ra qut định, mà cịn là kiểm tra nhằm
hồn chỉnh quyết định, hồn thiện quy trình lãnh đạo, giáo dục đội ngũ đảng
viên và xây dựng đảng vững mạnh.


15

Khi Đảng ta chưa có chính quyền cơng tác kiểm tra giữ vai trò quan
trong trong việc thực hiện nhiệm vụ cách mạng của Đảng. Khi Đảng lãnh đạo
chính quyền cơng tác kiểm tra càng có tầm quan trọng đặc biệt. Lênin khẳng
định: “Điều chủ yếu là chuyển trọng tâm từ soạn thảo các sắc lệnh và mệnh
lệnh (đấy là chúng ta u mê đến ngu xuẩn) sang việc lựa chọn người và kiểm
tra sự thực hiện” . Như vậy, mấu chốt của công tác lãnh đạo là kiểm tra, nếu
bng lỏng khâu quan trọng này thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định chỉ
nằm trên trang giấy. Kiểm tra là một nội dung lãnh đạo của tổ chức đảng và là
bộ phận quan trọng trong công tác xây dựng đảng. Lãnh đạo mà buông lỏng
hoặc không kiểm tra thì cũng như khơng có lãnh đạo.
Như vậy, có thể thấy kiểm tra là một tất yếu khách quan trong hoạt
động lãnh đạo của Đảng ta nói chung và của Đảng bộ tỉnh Thái Bình nói riêng
bởi vì:
Kiểm tra giúp tổ chức đảng, cấp uỷ và đảng viên nhận thức được đầy
đủ hơn vị trí, vai trị, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác kiểm tra; bước đầu
tạo được nền nếp thực hiện chế độ công tác kiểm tra của tổ chức, cấp uỷ đảng

các cấp từ tỉnh đến cơ sở; đồng thời đã nâng cao được năng lực lãnh đạo, chỉ
đạo và điều hành thực hiện công tác kiểm tra theo chương trình kiểm tra hàng
năm của cấp uỷ các cấp, tạo được sự quan tâm và ý thức trách nhiệm của đa
số cán bộ, đảng viên đối với việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra.
Qua kiểm tra đã giúp cấp uỷ đánh giá một cách đầy đủ, khách quan, sát
thực hơn những ưu điểm, khuyết điểm về công tác lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng, thúc đẩy việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị,
góp phần đưa nghị quyết, chỉ thị của Đảng vào cuộc sống. Đặc biệt là thông
qua kiểm tra mới phát hiện rõ những tiêu cực, sai phạm của cán bộ, đảng viên
trong việc chấp hành các nghị quyết, chỉ thị, cơ chế chính sách, các quyết
định, quy định... để có biện pháp khắc phục, chấn chỉnh kịp thời. Ngồi việc
phát hiện, xử lý sai phạm, qua kiểm tra còn giúp cho cán bộ, đảng viên phụ
trách từng lĩnh vực, nhất là các đồng chí làm cơng tác quản lý kinh tế, tài


16

chính, đất đai, xây dựng cơ bản ở cơ sở biết được việc gì mình làm đúng, việc
gì làm chưa đúng, đã góp phần nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, quản
lý của cán bộ, đảng viên.
Kiểm tra giúp cấp uỷ đảng, chính quyền, ban, ngành chức năng thấy
được những sơ hở, thiếu sót trong một số chủ trương, cơ chế chính sách hoặc
một số quy định, quyết định, để chỉnh sửa, bổ sung kịp thời; nhờ đó đã khắc
phục được khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thực hiện.
Qua kiểm tra giúp cấp uỷ đảng nắm được tình hình tư tưởng của cán
bộ, đảng viên và nhân dân, giải đáp được những nghi ngờ, băn khoăn, thắc
mắc, tạo sự đoàn kết, thống nhất, củng cố niềm tin của quần chúng nhân dân
với Đảng, góp phần giữ vững ổn định, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh.
1.3. Chất lượng và tiêu chí đánh giá chất lượng công tác kiểm tra

của đảng
1.3.1. Chất lượng công tác kiểm tra của Đảng
- Chất lượng công tác kiểm tra của Đảng
Chất lượng công tác kiểm tra Đảng là hiệu quả, khả năng hồn thành
cơng việc, nhiệm vụ kiểm tra của Đảng nhằm xây dựng, tổ chức thực hiện
Nghị quyết, Chỉ thị, giải quyết các vấn đề trong sinh hoạt nội bộ đảng, giữ gìn
kỷ luật đảng. Đặc biệt đó cịn là mức độ trong việc hồn thành nhiệm vụ,
trong hoạt dộng lãnh đạo của công tác kiểm tra đảng. Chất lượng công tác
kiểm tra của đảng là muốn đề cập tới nội dung, phương pháp và kết quả của
công tác kiểm tra đồng thời muốn đề cập đến bản chất bên trong của sự việc
cứ khơng phải là hình thức bề ngồi.
Kiểm tra là một nhu cầu khơng thể thiếu của mỗi tổ chức đảng và đảng
viên trong hoạt động lãnh đạo; đặc biệt trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi vai
trò lãnh đạo của Đảng ngày càng tăng lên, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng phải ngày càng tăng lên, do đó chất lượng cơng tác kiểm tra có vị trí
và vai trị đặc biệt. Chất lượng cơng tác kiểm tra của Đảng nói chung và chất


17

lượng công tác của Ủy ban kiểm tra tỉnh ủy nói riêng tác động trực tiếp đến sự
lãnh đạo của Đảng và cơng tác xây dựng đảng. Góp phần nâng cao năng lực
lãnh đạo và uy tín của Đảng.
Chất lượng công tác kiểm tra phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhận thức
của cấp ủy Đảng, đảng viên về công tác kiểm tra, về nhiệm vụ của công tác
kiểm tra; vai trò tham mưu của đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra của ủy
ban kiểm tra. Bên cạnh đó chất lượng cơng tác kiểm tra của ủy ban kiểm tra
còn phụ thuộc vào phương thức lãnh đạo, cơ chế quản lý, ý thức tổ chức kỷ
luật của đảng viên và tổ chức đảng của đảng viên và tổ chức đảng trong toàn
đảng bộ và cả chất lượng các quyết định của tổ chức đảng; ngồi ra cịn phụ

thuộc vào sự phối kết hợp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra của các Ban với Ủy
ban kiểm tra tỉnh ủy; sự phối kết hợp giữa kiểm tra Đảng với thanh tra Nhà
nước, kiểm tra giám sát của các đoàn thể nhân dân với kiểm tra của Đảng.
Đánh giá chất lượng công tác kiểm tra của Ủy ban kiểm tra tỉnh ủy theo
tác giả được đánh giá trên cơ sở những tiêu chí cụ thể.
1.3.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng công tác kiểm tra của Đảng
Thứ nhất, hoạt động kiểm tra phải có chương trình, kế hoạch, có nền
nếp, thành chế độ để thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra theo quy định
Trong nhiệm kỳ công tác, hằng năm, Uỷ ban kiểm tra các cấp phải đề
ra phương hướng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch kiểm tra tổ chức đảng cấp
dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm
chất lượng, phù hợp với u cầu của nhiệm vụ chính trị, cơng tác xây dựng
Đảng, tình hình thực tế ở địa phương, đơn vị mình và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức thực hiện đạt kết quả cao nhất theo mục tiêu yêu cầu đã đề ra. Phương
hướng, nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch kiểm tra của Uỷ ban kiểm tra các
cấp phải được điều chỉnh, bổ sung kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tế
và u cầu của nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng của đảng bộ trong
từng thời kỳ. Để thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và
đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, vấn đề hết sức quan trọng và có ý nghĩa


18

quyết định là phải không ngừng giáo dục nâng cao nhận thức cho các cấp ủy,
tổ chức đảng và đảng viên về vai trị, vị trí, ý nghĩa của cơng tác kiểm tra nói
chung, kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm
nói riêng, tạo sự chuyển biến tích cực cả về nhận thức, ý chí và hành động
trong tồn Đảng về thực hiện nhiệm vụ trọng tâm này. Uỷ ban kiểm tra các
cấp có nhận thức đúng, với quyết tâm cao thì mới thực hiện có nền nếp cơng
tác kiểm tra. Xác định nhiệm vụ trọng tâm này phải trở thành chế độ và được

thực hiện thường xuyên, nghiêm túc trong Uỷ ban kiểm tra các cấp và các cấp
uỷ, tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghiêm túc khi được kiểm tra.
Thứ hai, hoạt động kiểm tra phải tiến hành tồn diện trên các mặt, các
lĩnh vực, có trọng tâm, trọng điểm.
Công tác kiểm tra phải được tiến hành toàn diện và thực hiện ở Uỷ ban
kiểm tra các cấp; có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, thống nhất, thường xuyên
của cấp uỷ, sự phối hợp chặt chẽ giữa Uỷ ban kiểm tra với các tổ chức đảng
và các cơ quan có liên quan, nhất là cơ quan Thanh tra nhà nước các cấp.
Chất lượng và kết quả thực hiện kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng
viên khi có dấu hiệu vi phạm của Uỷ ban kiểm tra các cấp ngày càng được
nâng lên qua từng cuộc kiểm tra, qua từng năm, từng nhiệm kỳ; phải bảo
đảm bám sát u cầu nhiệm vụ chính trị, cơng tác xây dựng Đảng, có trọng
tâm, trọng điểm trong từng thời kỳ và tình hình thực tế của tồn Đảng, phù
hợp với yêu cầu, điều kiện, đặc điểm của từng địa phương, đơn vị. Phải nắm
bắt tình hình thực tiễn một cách kịp thời, sâu sát, lựa chọn và quyết định nội
dung kiểm tra đáp ứng yêu cầu thực tế giải quyết được những vấn đề bức
xúc trong nhân dân, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo chỉ đạo của cấp uỷ và chính
quyền các cấp. Thực hiện tốt tư tưởng chỉ đạo công tác kiểm tra là: chủ
động, chiến đấu, giáo dục, hiệu quả. Số tổ chức đảng và đảng viên được
kiểm tra phù hợp với các vụ việc khi có dấu hiệu vi phạm phát sinh. Tức là
phải đáp ứng tương đối đầy đủ mục tiêu, yêu cầu đối với nhiệm vụ này trong
thực tế, khắc phục được các yếu kém.



×