Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Sân khấu hóa mô hình dạy học trả tác phẩm về cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.58 KB, 31 trang )

Hoạt động này trong phương pháp đặc biệt dạy và học Văn học – ‘Trả tác phẩm
về cho học sinh’. Phương pháp này đã được áp dụng tại trường THPT Chuyên
Ngoại ngữ Hà Nội hơn 10 năm qua nhằm khơi dậy niềm yêu thích văn chương
nghệ thuật, tạo ra cuộc chơi đầy tính sáng tạo. Qua đó, học sinh được hóa thân
thành nhân vật, hình tượng trong tác phẩm văn học.
‘Trả tác phẩm về cho học sinh’ là một trong những hình thức của chương
trình sân khấu hóa các mơn học xã hội. Thay vì những giờ giảng 'thầy đọc, trò
chép', những tiết mục như thế này thật sinh động, khiến các em dễ học, dễ nhớ,
nhập tâm hơn với những tác phẩm văn học.
Sân khấu khóa tác phẩm văn học là một trong những hình thức dạy học đa
dạng được áp dụng tại trường THCS & THPT Đào Duy Từ trong nhiều năm
trở lại đây. Hoạt động này được tổ chức nhằm khơi dậy trong các em học
sinh tình yêu đối với tác phẩm văn chương, đồng thời tạo ra một cuộc chơi
để các em học sinh thỏa sức sáng tạo.
Có một nhà văn từng nói: “Văn là người. Học văn là để học làm người. Làm
người hơn muôn lồi ở chổ có cảm xúc, biết u thương cái đẹp, ghét chê cái
xấu, cảm thông chia sẻ, biết rơi lệ trước nổi đau, biết cười trong cuộc sống…”
Nhưng làm thế nào để học sinh có thể cảm được những cái hay, cái đẹp trong
môn Văn? Làm thế nào để các em u thích mơn Văn trong bối cảnh xã hội hiện
đại ngày nay? Đó là điều mà các thầy cơ trong tổ bộ mơn Khoa học xã hội nói
riêng và thầy cơ trường THCS Đào Duy Từ nói chung ln trăn trở.
Kể từ khi TS. Nguyễn Quang Trung tìm ra một phương pháp dạy văn mới và đặt
tên cho đứa con tinh thần ấy là “TRẢ TÁC PHẨM CHO HỌC SINH” - tức là trả
tình yêu văn học cho các em, các thầy cô trong tổ bộ môn Ngữ Văn trường Trung
học Đào Duy Từ đã áp dụng các phương pháp dạy học mới vào các giờ dạy của
mình tạo hứng thú cho các em học sinh trong những giờ giảng văn.
“Trả tác phẩm về cho học sinh” là một trong những hình thức của chương trình
sân khấu hóa các mơn học xã hội. Thay vì những giờ giảng “thầy đọc, trị chép”,
những tiết mục sân khấu hố sinh động đã khiến các em dễ học, dễ nhớ, nhập tâm
hơn với những tác phẩm văn học.
Có một lực lượng diễn viên phong phú, đa dạng, giàu khả năng sáng tạo và say


sưa biểu diễn ở bất cứ sân khấu nào: trên bục giảng, ngoài sân trường, hay cả
những sân khấu tự tạo..., chẳng cần cát xê, chẳng cần quảng cáo, cũng chẳng cần
đánh bóng tên tuổi mà vẫn thu hút được tất cả các đối tượng khán giả.
Hình thức dạy học này thực sự mang đến những cảm xúc khó qn trong lịng
mỗi học sinh sau mỗi giờ học Văn. Trong thời gian hoạt động hè 2016 vừa qua,
các bạn HS lớp 6 đã được trải nghiệm những giờ học Văn dưới hình thức sân
khấu hố vơ cùng thú vị.


Học sinh Minh Châu: “Con hỗ trợ nhóm làm đạo cụ diễn xuất và chuẩn bị về
trang phục, con rất thích hoạt động nhóm như thế này trong mỗi giờ học văn. Các
bạn khen con vẽ đẹp, trang trí đẹp. Con thấy vui lắm ạ!”
Học sinh Văn Hùng: “Mỗi giờ học văn như thế này, con thấy hiểu hơn về bài học
mà cơ giáo muốn truyền tải.”
Học sinh Lê Hồng: “Con được các bạn tin tưởng chọn đóng vai chính, là Sẻ Nâu
trong câu chuyện Sẻ nâu & Vẹt con. Con đã khóc khi diễn trước lớp, vì con thấy
thực sự có cảm xúc. Con tập kịch với các bạn, con được hóa thân vào nhân vật…”
Như vậy, mỗi buổi học sẽ đem lại cho cả thầy cô và học trò nhiều cảm xúc, ký ức
đẹp của tuổi học trò. Giờ học văn có thể sẽ trở thành niềm vui của các con.

oạt động ngoại khóa trong nhà trường nói chung và hoạt động ngoại khóa
văn học nói riêng là một việc làm cần thiết, rất bổ ích và khơng thể thiếu
trong quá trình dạy học. Bởi lẽ, đây là dịp để học sinh khắc sâu kiến thức,
rèn kỹ năng cảm thụ tác phẩm, kỹ năng “hóa thân” vào nhân vật văn học để
đi đến mục tiêu đạt được là giúp học sinh khắc sâu kiến thức, tạo yếu tố say
mê, hứng thú, tích cực chủ động, sáng tạo trong học tập và ngày càng u
thích bộ mơn Ngữ văn nhiều hơn. Xuất phát từ mục đích đó, chiều ngày 21
tháng 3 năm 2015, tại Trường TH&THCS Thủy Tân (thị xã Hương Thủy,
Thừa Thiên Huế), tổ Xã hội của Trường đã tổ chức chuyên đề ngoại khóa
“Chuyển thể tác phẩm văn học trong nhà trường theo hình thức sân khấu

hóa” năm học 2014-2015.
Trên cơ sở kinh nghiệm của hiệu quả đạt được trong hoạt động ngoại khóa văn
học dân gian dành cho học sinh khối 6 năm học trước, hoạt động ngoại khóa lần
này có quy mơ rộng hơn về đối tượng tham gia, phong phú hơn về các đề tài, thời
kì giai đoạn văn học trong các tác phẩm tự sự được trải đều trên tất cả các khối
lớp cấp THCS. Để phù hợp với nội dung chương trình của các khối lớp, phù hợp
với tâm sinh lý từng lứa tuổi của học sinh, các thầy cơ nhóm bộ môn Ngữ văn đã
định hướng cho các em lựa chọn tác phẩm để chuyển thể, theo đó: khối 6 được
tiếp tục lựa chọn chủ đề Truyện dân gian, cụ thể là Truyền thuyết thời đại Hùng
Vương với hai truyện quen thuộc Bánh chưng, bánh giầy và Sơn Tinh, Thủy Tinh;
khối 7 với tác phẩm văn học cận hiện đại Sống chết mặc bay (Phạm Duy Tốn) và
truyện ngắn đương đại có tính nhật dụng Cuộc chia tay của những con búp bê
(Tạ Duy Anh); khối 8 là hai đoạn trích trong hai tác phẩm kinh điển của dòng văn
học hiện thực phê phán 1930-1945 Trong lịng mẹ (trích “Những ngày thơ ấu”
của Nguyên Hồng) và Tức nước vỡ bờ (trích “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố); khối 9
với một truyện Trung đại Việt NamChuyện người con gái Nam Xương (trích
“Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ) và một truyện hiện đại thuộc văn học nước
ngoài (Văn học Pháp) Bố của Xi-mông (Guy đơ Mô-pac-xăng).
Trên cơ sở nền tảng cốt truyện của các tác phẩm kết hợp sự tưởng tượng phong
phú phù hợp với nội dung chương trình; bằng lối diễn xuất tự nhiên và việc nhập
vai khá tốt, các em đã đem đến những tác phẩm chuyển thể mang đậm tính nghệ


thuật, gây được cảm xúc cho người xem và điều quan trọng là học sinh được hiểu
và cảm nhận sâu sắc hơn về các tác phẩm văn học. Đồng thời giáo dục học sinh
tình yêu quê hương đất nước, yêu cội nguồn dân tộc, tình yêu thương con người,
biết quý trọng những giá trị truyền thống tốt đẹp của cha ông, của nhân loại, biết
lẽ phải, biết phân biệt giữa cái xấu và cái tốt, bởi các tác phẩm văn học được đưa
vào nhà trường khơng chỉ có giá trị thẩm mĩ văn chương mà cịn hàm chứa trong
đó những giá trị tốt đẹp đầy tính nhân văn.

Tác phẩm chuyển thể "Chuyện người con gái Nam Xương"của lớp 9.1
Tác phẩm chuyển thể "Sự tích bánh chưng, bánh giầy"của lớp 6.2
Tác phẩm chuyển thể "Tức nước vỡ bờ"của lớp 8.1
Kết thúc buổi ngoại khóa, nhà trường đã trao thưởng cho các tập thể lớp có tác
phẩm đạt chất lượng tốt nhất trên tổng số tám tác phẩm tham gia. Với sự chuẩn bị
khá cơng phu trong tập luyện, hóa trang và lối diễn xuất khá tốt, tác
phẩm Chuyện người con gái Nam Xương (trích “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn
Dữ) do lớp 9.1 thể hiện đạt giải Nhất; Bánh chưng, bánh giầy của tập thể lớp 6.2
đạt giải Nhì và Tức nước vỡ bờ (trích “Tắt đèn” của Ngơ Tất Tố) đến từ lớp 8.1
dành giải Ba.
Đại diện BGH và BGK trao thưởng các lớp đạt giải cao và chụp ảnh lưu niệm
Lê Văn Được - Nguyễn Văn Quang

CÁC TIN LIÊN QUAN
Bằng hình thức sân khấu hóa tác giả, tác phẩm văn học, các học sinh chuyên
và không chuyên Văn Trường THPT chuyên Lương Văn Chánh đã chuyển
tải đến người xem cách tiếp cận và học văn một cách bổ ích, lý thú.
SÂN KHẤU HĨA TÁC PHẨM VĂN HỌC
Má hồng, mơi đỏ, xiêm y sặc sỡ, nhìn cậu học trị lớp 10 Văn Lê Quốc Hiếu vào
vai Thị Mầu ai cũng không nhịn được cười. Ngược lại với Hiếu, cô nữ sinh Võ
Tơ Uyển Nhi, vào vai cha Thị Mầu thì phải gắn râu… Chỉ nhìn vào sự “tráo đổi”
này cũng đã kích thích sự tị mị của nhiều khán giả có mặt tại Nhà Văn hóa Diên
Hồng theo dõi chương trình Khúc giao mùa do Câu lạc bộ Văn học Trường THPT
chuyên Lương Văn Chánh tổ chức.
Lê Quốc Hiếu cho biết: “Chúng em tập gần cả tháng mới hoàn chỉnh được phần
trích đoạn “Nỗi oan Thị Mầu”. Khi được hóa thân vào nhân vật Thị Mầu, em tự
cảm nhận, tự suy nghĩ về tâm lý nhân vật, về bối cảnh, diễn biến câu chuyện và
rộng hơn là bối cảnh đất nước. Qua đó, em hiểu sâu hơn khi học tác phẩm văn



học này”. Cịn Uyển Nhi thì cho rằng thơng qua hình thức trình diễn, các tác
phẩm văn học như “sống lại” và “sáng lên” ở nhiều khía cạnh khác nhau mà trong
những giờ giảng trên lớp của giáo viên, học sinh chưa cảm nhận được. Bằng cách
sân khấu hóa tác phẩm, các em khơng chỉ có được một sân chơi trải nghiệm bổ
ích, mà cịn tạo cho các em sự hứng thú trong học tập đối với bộ môn Ngữ Văn.
Bên cạnh các nội dung như hát, múa, kịch vui, một trò chơi thu hút rất nhiều học
sinh hào hứng tham gia đó là Xem phim, đốn tên phim, tên tác phẩm văn học.
Hễ một đoạn phim vừa được trích lên màn hình là đã có hàng trăm cánh tay học
sinh tham gia dự đoán. Điều này cho thấy, các em rất thích các tác phẩm văn học
như Vợ chồng A Phủ, Đất rừng phương Nam... khi được chuyển thể thành phim.
Em Phạm Minh Nhật, học sinh lớp 12 Toán 2, bày tỏ: “Thế mạnh của em là các
môn khoa học tự nhiên, nhưng em rất thích học văn. Đặc biệt là cách học văn
thơng qua hình thức sân khấu hóa mà Câu lạc bộ Văn học của trường hay làm.
Việc xem phim, đoán tên phim, tên tác phẩm văn học sẽ kích thích và tạo cho các
em thói quen đọc tác phẩm nhiều hơn”.
KHƠI GỢI KỸ NĂNG HỌC VĂN
Nhà giáo Ưu tú Đặng Thị Xuân Hương, Tổ trưởng Tổ Ngữ văn Trường THPT
chuyên Lương Văn Chánh, cho biết: Hoạt động ngoại khóa trong nhà trường nói
chung và hoạt động ngoại khóa Văn học nói riêng là một việc làm cần thiết, rất bổ
ích và khơng thể thiếu trong q trình dạy học. Vậy nên, năm học nào, Câu lạc bộ
Văn học của trường cũng tổ chức hoạt động ngoại khóa theo nhiều hình thức khác
nhau. Hình thức sân khấu hóa sẽ giúp học sinh khắc sâu kiến thức, rèn kỹ năng
cảm thụ tác phẩm, kỹ năng “hóa thân” vào nhân vật văn học để đạt được mục tiêu
là tạo yếu tố say mê, hứng thú, tích cực chủ động, sáng tạo trong học tập của học
sinh.
Quả thật, trên cơ sở nền tảng cốt truyện của các tác phẩm, kết hợp sự tưởng tượng
phong phú phù hợp với nội dung chương trình, bằng lối diễn xuất tự nhiên và việc
nhập vai khá tốt, các học sinh chuyên Văn và không chun mơn học này đã đem
đến những trích đoạn chuyển thể như “Chí Phèo”, “Nỗi oan Thị Mầu”, mang đậm
tính sáng tạo, gây được cảm xúc cho người xem và điều quan trọng là học sinh

được hiểu và cảm nhận sâu sắc hơn về các tác phẩm văn học. Em Nguyễn Minh
Anh, một thành viên tham gia tiểu phẩm kịch “Chí Phèo”, cho hay: “Thay vì cho
học sinh thảo luận, trao đổi, giáo viên bình luận như dạy thơ hay văn xi, thì
thầy cơ chỉ cần tạo điều kiện cho chúng em được học tập theo từng nhóm, chuẩn
bị một cách kỹ lưỡng để nhập vào vai diễn thì tụi em sẽ nhớ rất lâu thông điệp mà
tác phẩm mang lại. Khi đã thành cơng trong vai diễn của mình, các em sẽ có ý
thức, khám phá sâu hơn về tác giả, tác phẩm”.
Lâu nay, vấn đề dạy và học môn Ngữ văn luôn thu hút sự quan tâm của dư luận
xã hội, và một thực tế đáng buồn là học sinh khơng thích học văn, thậm chí có em
cịn gần như quay lưng với môn học, dẫn đến hổng kiến thức, phải học tủ, học để
đối phó khi kiểm tra, thi cử. Bất cập nêu trên càng lộ rõ, khi Bộ GD-ĐT chủ
trương đổi mới cách ra đề, cách đánh giá môn Ngữ văn. Từ khi thực hiện đổi mới
chương trình và nội dung sách giáo khoa, các tác phẩm văn chương đưa vào giảng


dạy ở bậc phổ thơng (có tính kế thừa và phát triển) cũng có phần đa dạng, phong
phú hơn. Nhà giáo Ưu tú Đặng Thị Xuân Hương chia sẻ: Không có một phương
pháp nào chung cho tất cả giáo viên dạy môn Ngữ văn, các giờ học văn mà phải
phối hợp linh hoạt nhiều phương pháp và tùy vào đặc trưng của tác phẩm văn học
để tổ chức một tiết học hiệu quả. Muốn học sinh có hứng thú học tác phẩm thì
giáo viên phải khơi gợi được cho các em ý muốn tìm hiểu về tác giả, hồn cảnh
sáng tác tác phẩm; giải thích được các thơng điệp mà tác giả, tác phẩm muốn
chuyển tải. Để làm được điều này, giáo viên cần kết hợp được một cách linh hoạt
nhiều phương pháp khác nhau để bài dạy không đơn điệu, tẻ nhạt, đặc biệt là phát
huy tác dụng của phương pháp học sáng tạo.
Cơ Hương khẳng định, cái đích cuối cùng của một giờ học văn đó là hình thành
trong học sinh năng lực cảm nhận. Và để sự cảm nhận đó được thăng hoa thì học
sinh rất cần có những hoạt động ngoại khóa theo hình thức sân khấu hóa. Đây
khơng chỉ là sân chơi mà cịn giúp các em khám phá thế giới văn chương vốn đa
chiều, phong phú…

Sau 3 năm đi vào hoạt động, Câu lạc bộ “Sân khấu hóa tác phẩm văn học”
tại Trường THPT chuyên Vị Thanh, TP.Vị Thanh đã tạo được một phong
trào mạnh mẽ, kích thích niềm đam mê học văn đối với học sinh tại trường.
“Sân khấu hóa tác phẩm văn học” là một hoạt động ngoại khóa thu hút học sinh
tham gia nghiên cứu và hóa thân vào từng nhân vật văn học trong các tác phẩm
văn chương, sau đó tái hiện nhân vật thông qua một vở kịch, vở tuồng, hoạt cảnh,
ca múa, hát dân ca,… do chính các em dàn dựng và trình diễn trên sân khấu.

Các em học sinh Trường THPT chuyên Vị Thanh tái hiện nhân vật Hoạn Thư
(trích truyện Kiều) qua tiểu phẩm “Hoạn Thư thời hiện đại”.
Thầy Võ Minh Hải, giáo viên dạy văn Trường THPT chuyên Vị Thanh, cho biết:
“Muốn nâng cao chất lượng mơn học thì trước tiên phải tạo được niềm đam mê
cho các em về mơn học đó. Việc cho học sinh trải nghiệm nhân vật trên sân khấu
sẽ giúp cho các em hiểu sâu, nhớ lâu về nhân vật và tác phẩm văn học. Từ đó kích
thích được niềm đam mê và nâng cao chất lượng học văn đối với học sinh. Từ khi
thành lập đến nay, câu lạc bộ đã thu hút một lượng lớn học sinh tham gia sinh
hoạt. Để học sinh đam mê học văn, cần lôi cuốn học sinh vào tác phẩm, rung cảm
trước niềm vui, nỗi buồn,… của nhân vật trước một hình ảnh, một câu thơ hay.
Muốn làm được điều đó, trước hết học sinh phải đọc kỹ tác phẩm để hiểu đúng và
cảm nhận hết những vấn đề được phản ánh trong tác phẩm. Đó khơng chỉ đơn
thuần là kiến thức, mà còn là những giá trị tốt đẹp nhất của cuộc sống được kết
tinh vào trong mỗi tác phẩm và tất cả những điều đó do chính các em học sinh
nghiên cứu, phát hiện và cảm nhận. Em Nguyễn Thị Kim Ngọc, lớp 11V-AV
(văn - Anh văn), Trường THPT chuyên Vị Thanh, cho biết: “Tham gia câu lạc bộ,
em học được rất nhiều điều từ thầy, cô, bạn bè về kiến thức, tự tin trước đám
đơng, tính tập thể,… tất cả sẽ giúp cho em rất nhiều trong hiện tại và sau này. Khi


tham gia vào câu lạc bộ, chúng em được tìm hiểu sâu về nhân vật, tác phẩm và
cùng trình bày tất cả sự hiểu biết của mình trên sân khấu. Qua đó, chúng em cịn

thỏa sức sáng tạo như trang phục, cách diễn,… nhưng không sai lệch giá trị nhân
vật, cũng như tác phẩm trong quá trình thể hiện nhân vật trên sân khấu”. Học văn
với hoạt động ngoại khóa như hiện nay, giáo viên sẽ khắc phục được những khó
khăn trong chương trình giảng dạy về thời gian cho phép và khối lượng kiến thức
cần truyền đạt. Thông qua hoạt động ngoại khóa thì giáo viên và học sinh có thể
mở rộng và đào sâu những nội dung quan trọng và bổ sung những vấn đề chưa
được đặt ra trong thời gian học trên lớp. Qua đó, học sinh sẽ được mở mang thêm
nhiều kiến thức, có cách nhìn, cách hiểu sâu hơn về những giá trị văn hóa của
nhân loại. Từ đó, bồi đắp những tình cảm nhân văn cao đẹp, định hướng nhận
thức về những giá trị trong cuộc sống. Em Trương Gia Linh, lớp 10VL (vật lý),
cho biết: “Tham gia vào đây, em được tự mình khám phá những kiến thức mới và
cảm nhận được điều đó. Đây cịn là một sân chơi mang tính chất vừa chơi vừa
học cho nên em không bị áp lực trong q trình học, bù vào đó là một cảm giác
thích thú và sảng khối”.
Trước thị hiếu các mơn học tự nhiên được học sinh chú trọng thì “Sân khấu hóa
tác phẩm văn học” là một phương pháp mang tính hiệu quả cao trong việc thu hút
và nâng cao nhận thức học văn đối với học sinh. Do đó, cần nhân rộng mơ hình
hoạt động này trên phạm vi rộng hơn nhằm hướng tới một bầu khơng khí học văn
hấp dẫn, vui nhộn và hiệu quả.
Bài, ảnh: NGUYỄN NHẪN
Phương pháp sân khấu hóa
Sân khấu hóa là gì?
Là những hoạt động đại chúng (chính trị, văn hóa, giáo dục…) được tiến hành
theo đặc trưng của nghệ thuật sân khấu. Các nội dung sinh hoạt (có chủ đề) được
chuyển tải liên tục, chặt chẽ bằng nghệ dàn cảnh và biểu diễn.
Sân khấu hóa có thể mang tính chun nghiệp hoặc khơng chun.
I. Giới thiệu những loại hình sân khấu hóa thường gặp trong sinh hoạt của
Đồn:
1. Hoạt cảnh truyền thống:
Là hình thức tái hiện một sự kiện lịch sử, hình tượng nhân vật lịch sử, quá trình

hình thành một dân tộc, vùng đất hay một tổ chức xã hội… để giáo dục truyền
thống và ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người, đất nước.
Hình thức sân khấu hóa thường bao gồm 2 nội dung:
 Cảnh diễn: là hình tượng của sự kiện, của nhân vật.
 Lời thoại: để thuyết minh cho cảnh diễn.


2. Sân khấu hóa lễ hội:
Một lễ hội thường bao gồm 2 nội dung: phần lễ và phần hội:
Hình thức sân khấu:
 Phần lễ: việc tái hiện sự kiện, hình tượng nhân vật được lấy làm tinh thần của
ngày lễ (ở lễ hội truyền thống dân gian thì đây là phần nghi lễ mang yếu tố tâm
linh, thiêng liêng đã được thiết lập, quy định từ lâu – còn ở lễ hội hiện đại thì
phần sân khấu nghi lễ thường mang tính sáng tạo, tượng trưng và mới lạ…).
 Phần hội: hướng dẫn người tham dự sinh hoạt và có hành động hưởng ứng
như: múa hát, diễu hành, vẫy cờ, trị chơi.
3. Sân khấu hóa thơng tin báo cáo:
- Nội dung: nhằm thông tin, báo cáo, tổng lết một quá trình hoạt động tới đơng
đảo thành viên (trong tổ chức) hoặc rộng rãi quần chúng trong xã hội.
- Hình thức: là một tiểu phẩm kịch trọn vẹn (có thể là tấu hài) có đầy đủ các
nhân vật để xử lý nội dung báo cáo thông qua việc xây dựng, giải quyết các
mâu thuẫn giữa các nhân vật.
4. Sân khấu hóa thông tin tuyên truyền:
- Là những tiểu phẩm kịch ngắn nhằm tuyên truyền, cổ động các vấn đề xã hội
như: kế hoạch hóa gia đình, phịng chống ma túy – AIDS, phát động phong trào,
bảo vệ mơi trường, chăm sóc trẻ em…
- Thông qua câu chuyện sân khấu để phân tích, thuyết phục những mặt trái, mặt
phải – cái lợi, cái hại… của những vấn đề được nêu lên.
- Chương trình thường được kết hợp với phần tuyên truyền miệng của tuyên
truyền viên và các hình thức tuyên truyền khác như panơ, áp phích, tờ bướm.

- Sân khấu thơng tin tun truyền ln mang tính nhanh nhạy kịp thời…, dễ
hiểu, dễ cảm nhận và ngắn gọn.
Ví dụ: Tuyên truyền chiến dịch “Ngày chủ nhật xanh”, sân khấu khai thác sự đối
lập giữa tác hại và lợi ích xã hội của công tác vệ sinh môi trường, xây dựng
những nhân vật đại diện cho hai phía (bên tả - bên hữu) để thuyết phục lẫn
nhau…
5. Sân khấu hóa diễn đàn:
- Diễn đàn: là nơi mọi người công khai bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình về
những vấn đề đang được nêu ra.
- Tác phẩm: là dạng kịch minh họa vấn đề đang được nêu ra trong buổi diễn đàn
(có thể chỉ là một tình huống của sự việc) giúp mọi người hiểu rõ vấn đề, cũng có
thể lấy tiểu phẩm đó làm dẫn chứng cho những lý lẽ của mình.


Ví dụ:
+ Diễn đàn “Sống trung thực”.
Có thể xây dựng tiểu phẩm câu chuyện về một chiến sĩ hải quan: Trước mắt là
những đồng tiền mua chuộc, dụ dỗ… Sau lưng là cuộc sống khó khăn… Vậy nên
hay khơng nên nhận (đồng tiền mua chuộc)? Sự “phân vân” của nhân vật là tình
huống “có vấn đề” cho diễn đàn.
II. Những bước tiến hành xây dựng một tác phẩm sân khấu hóa:
1. Một vài yếu tố cần xác định trước khi soạn thảo chương trình, nội dung
tác phẩm:
 Xác định:
- Nội dung, đề tài: phải xác định được mục đích, ý nghĩa của buổi sinh hoạt, từ
đó xác định ln mục đích ý nghĩa của nội dung tác phẩm sân khấu.
- Nghiên cứu đối tượng: (khán giả và những người tham gia chương trình) phải
nắm được số lượng người tham dự, trình độ, năng khiếu…
- Cơ sở vật chất cần thiết phải có: khơng gian, sân khấu; hệ thống âm thanh, ánh
sáng; vật liệu trang trí, hóa trang, đạo cụ…; kinh phí thực hiện; thời gian dành

cho việc sáng tác kịch bản và tập diễn…; nhân lực tham gia: số lượng, trình độ,
năng khiếu; thời lượng chương trình.
Đó là những yếu tố cần xác định trước khi tiến hành viết kịch bản, hình thành tác
phẩm sân khấu.
2. Viết kịch bản:
 Kịch bản: là nội dung câu chuyện sân khấu (chuyển tải nội dung buổi sinh
hoạt) trong đó có: nhân vật, hồn cảnh câu chuyện, “hành động” của nhân vật
trong từng tình cảnh câu chuyện… được trình bày bằng ký tự văn học.
Mỗi kịch bản sân khấu bao giờ cũng phải có:
Loại hình (kịch nói – cải lương – kịch hát…) 
Tựa đề: tên của vở kịch. 
Khơng gian, thời gian, hồn cảnh câu chuyện bắt đầu xảy ra tới kết thúc. 
Ví dụ: Khi truyện kể “ngày xửa ngày xưa tại một làng nọ…” – thì trên sân khấu
khơng gian, thời gian đó được thể hiện qua nghệ thuật hội họa, điêu khắc, trang
trí…
Để cơng việc dễ dàng hơn khi sáng tạo kịch bản chúng ta nên đi theo thứ tự: 


- Xác định nhân vật điển hình: hình tượng xuyên suốt kịch bản, làm nổi bật ý
nghĩa tư tưởng mà ta xác định ban đầu.
- Hồn cảnh điển hình.
- Nhân vật phụ: có tác dụng bổ sung, làm nổi rõ tính cách số phận,… của nhân
vật điển hình.
- Minh họa âm thanh – ánh sáng – hóa trang – hành động… (trong kịch bản thì
phần minh họa nằm trong dấu đóng mở đơn () để phân biệt).
- Viết lời thoại (lời bạt trong hoạt động truyền thống).
3. Sáng tạo hành động cho nhân vật:
Công việc của người đạo diễn và người diễn viên khi chuyển thể kịch bản thành
tác phẩm sân khấu. 
Hành động sân khấu được chia ra 3 loại cơ bản sau: 

+

Hành động tâm lý: (là linh hồn).

+

Hành động ngơn ngữ: (là quan trọng).

+

Hành động hình thể: (dùng làm thủ thuật để hoàn thành hành động tâm lý).

Ví dụ:
+

Hành động tâm lý: cầu khẩn, van lơn…

+

Hành động ngơn ngữ: cho tơi xin…

+

Hành động hình thể: qùy vái…

Hành động sân khấu là ngôn ngữ nghệ thuật của người diễn viên.
Muốn điều hành phương thức khai thác hành động trên sân khấu, phải trả lời 5
câu hỏi sau:
+


Tôi (nhân vật) là ai? (phải tìm hiểu lý lịch, số phận, tính cách của nhân
vật…).

+

Tơi (…) đang trong hồn cảnh nào? (đi sâu tìm hiểu, phán đốn tình cảnh
được viết ra trong kịch bản).

+

Tơi phải làm gì? (xác định đặc trưng của hành động: tâm lý, ngơn ngữ,hình
thể…).

+

Vì sao? Vì mục đích gì? (xác định ngun nhân của hành động).

+

Phải làm như thế nào? (phương thức hành động).


Người đạo diễn nhất thiết phải hiểu rõ và sẵn sàng trả lời tất cả câu hỏi trên một
cách logic, sáng tạo (do đó, cần thiết phải có kịch bản phân cảnh của đạo diễn).
Người diễn viên phải sử dụng phép nhập vai biến chúng thành chuỗi hành động
tích cực cho mình thơng qua sự “tưởng tượng” sau đó thể hiện bằng kỹ thuật nội
tâm, hình thể một cách liên tục, nhịp nhàng, chính xác.
Để có sự sáng tạo trong hành động, địi hỏi người “nghệ sĩ” phải có một tình cảm
đặc biệt dành cho nhân vật của mình, đó là tình cảm đã sống (đã tích lũy được),
do trí tưởng tượng, do liên tưởng và sự kích thích của quy định tình cảnh (Ví dụ:

trong hồn cảnh éo le, tột cùng đau khổ thì bật khóc cho nhân vật…), đó là sự giả
định – NẾU – của sân khấu tạo nên.
4. Tập diễn kịch:
Khi kịch bản đã phân chia cảnh diễn hợp lý (bao nhiêu lớp, màn bao nhiêu cảnh)
và đạo diễn đã quy định những hành động cơ bản cho nhân vật, việc tập kịch phải
theo từng bước sau: 
- Chọn diễn viên, phân vai diễn.
- Phát kịch bản hoặc trình bày nội dung kịch bản cho tất cả diễn viên.
- Với sân khấu (kịch nói, hát…) diễn viên phải thuộc lời thoại, lời hát…
- Tập thứ tự từng cảnh một (từ đầu tới cuối).
- Tập theo từng nhóm: có thể có nhiều nhóm tham gia như trong hoạt cảnh
truyền thống, lễ hội (hát, múa, diễn kịch, âm thanh, ánh sáng…)
- Ln có sự kết hợp âm thanh ánh sáng trong khi tập để tạo ra sự sáng tạo hợp
lý, tăng thêm hấp dẫn, đồng thời dễ nhớ cảnh diễn của người diễn viên.
- Tổng dợt chương trình: kết hợp từng cảnh, từng nhóm thành một tác phẩm
hồn chỉnh.
- Có thể thêm, bớt một vài chi tiết khơng phù hợp trong khi chạy chương trình
hồn chỉnh.
Phối hợp âm thanh – ánh sáng – hóa trang đạo cụ.
 Chú ý: Đầu tư về thời gian cho công việc tập luyện, cố gắng không thay đổi
nhiều về nội dung đã tập. Người đạo diễn phải tham gia toàn bộ khâu hóa trang,
đạo cụ, âm thanh, ánh sáng… Tác phẩm nhuần nhuyễn, hoàn chỉnh mới đưa ra
sân khấu.


Tìm hiểu về nghệ thuật Sân Khấu
Sân khấu là loại hình nghệ thuật tổng hợp. Ở sân khấu hàm chứa cả văn học, âm
nhạc, hội họa, điêu khắc, múa, điện ảnh và nghệ thuật biểu diễn của diễn viên,
cùng sự tham gia trực tiếp của khán giả. Nó mang trong mình những nội dung
phong phú, đa dạng về cuộc sống, từ triết học, mỹ học, sử học, dân tộc học, xã

hội học đến chính trị, đạo đức, tơn giáo....với bao niềm vui, nỗi buồn, thương,
yêu, hờn, giận, khát vọng, ước mơ và hi vọng của con người....
Nghệ thuật sân khấu là toàn bộ thế giới tinh thần và vật chất của con người, được
thể hiện bằng sáng tạo của nghệ sĩ ở trên sân khấu trước khán giả xem trực tiếp và
khán giả cũng sáng tạo trực tiếp cùng với nghệ sĩ. Chính vì vậy, khán giả tiếp
nhận những bài học đạo đức và nhận thức rõ ràng về những gì mà vở diễn đem
tới.
Cuộc sống ở trong nghệ thuật sân khấu là hiện thực ở cuộc đời, được bắt nguồn từ
thực tiễn cuộc sống, phụ thuộc vào quy luật của thực tiễn và được các nghệ sĩ
khái quát, sáng tạo để nói về cuộc đời.
Thơng qua nghệ thuật sân khấu, người ta hiểu hơn về cái đẹp, cái xấu, cái thiện,
cái ác, cái thực, cái giả, cái cũ, cái mới, cái yêu, cái ghét.... Giúp con người có sức
mạnh, niềm tin để vươn lên cái cao cả, hoàn thiện cuộc đời.
Nghệ thuật sân khấu mở cho ta thấy cuộc sống tinh thần và cảm xúc phong phú
của con người, khiến con người giao cảm với cái đẹp, với một hình thức đặc biệt,
hết sức đậm đà, sinh động và khối cảm. Nếu khơng có khối cảm giải trí thì nghệ
thuật sân khấu mất đi sức mạnh đặc biệt của mình và nó như cái xác khơng hồn.
Nhưng khối cảm giải trí của nghệ thuật sân khấu bao giờ cũng mang tính thẩm
mĩ và tính giáo dục cao.
Nghệ thuật sân khấu dùng mọi phương tiện và các loại hình nghệ thuật khác để hỗ
trợ cho mình nhưng phải sử dụng một cách hợp lý, có chọn lọc với liều lượng vừa
đủ để tạo hiệu quả tốt nhất cho vở diễn.
Các nhân vật trong nghệ thuật sân khấu không phải được trình bày bằng những
nhân vật u thương và hịa bình với nhau mà luôn đấu tranh, thuyết phục lẫn
nhau, thậm chí loại trừ nhau để bảo vệ mục đích và tư tưởng của mình.
Như chúng ta đã biết, mọi sáng tác văn học nghệ thuật đều hướng tới người xem,
người thưởng thức. Tuy nhiên cách thưởng thức lại rất khác nhau giữa nghệ thuật
sân khấu và các loại hình nghệ thuật khác.
Người xem hay người thưởng thức nghệ thuật sân khấu lại là người đang được
sống ở cái khoảnh khắc hiện tại, chứng kiến cái đang xảy ra. Khán giả khơng chỉ

nghe kể lại mà cịn được thấy nó đang diễn ra.
Diễn viên là trung tâm của nghệ thuật sân khấu và nghệ thuật sân khấu đã mang
theo ngôn ngữ hành động của họ thành đặc trưng cơ bản so với các loại hình nghệ
thuật khác. Vì vậy chúng ta hãy tìm hiểu đơi nét về nghệ thuật biểu diễn của
người diễn viên. Bởi vì nhờ có sự hiện diện của họ mà những điều còn như manh


nha và mơ hồ trong tác phẩm văn học trở nên rõ ràng qua tài nghệ biểu diễn của
họ.

Hình ảnh trong vở kịch: Duyên lạ hồn hoang (nguồn sưu tầm )
Người diễn viên đóng vai trong vở diễn được gọi là nhân vật. Một vở diễn có thể
có từ một đến nhiều nhân vật. Khán giả được thấy như cuộc sống thật đang diễn
ra trước mắt họ. Họ chứng kiến các nhân vật xuất hiện một cách sinh động với
diện mạo, cử chỉ, giọng nói và những xúc cảm thật của con người.
Trên sân khấu, người dễn viên có nắm vững hành động sân khấu, thực hiện hành
động một cách chính xác, sâu sắc, rõ rệt và đẹp đẽ mới mơ tả được nhân vật, khắc
họa được tính cách và biểu đạt được tư tưởng tới người xem một cách hiệu quả.
Hành động sân khấu chính là phương tiện nghệ thuật của người diễn viên.
Sân khấu là loại hình nghệ thuật mà trong đó con người vừa là đối tượng sáng tạo,
vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là phương tiện để thực hiện sáng tạo và đồng thời
cũng là đối tượng thưởng thức sáng tạo của chính mình.
Diễn viên là tác giả của nhân vật. Họ cho nhân vật mượn cơ thể, tình cảm của
mình, cho tác giả, đạo diễn mượn tài năng hoạt động của mình để làm cầu nối
giữa nghệ thuật sân khấu với khán giả, giữa người xem với nhân vật, giữa cuộc
đời với nghệ thuật.
Trên sân khấu người diễn viên chính là người đóng vai trò kể lại câu chuyện kịch
bằng vận động tâm lý và hình thể của chính bản thân mình có sự hỗ trợ của các
mơn nghệ thuật khác.
Tóm lại nghệ thuật sân khấu là môn nghệ thuật tổng hợp phản ánh thực tại bằng

ước lệ nghệ thuật. Mô phỏng hiện thực thơng qua phương pháp trình diễn của
diễn viên.


Sân khấu là một nhánh của nghệ thuật trình diễn. Một sự trình diễn mang tính
kịch tạo ra sự ảo tưởng trong khán giả. Sân khấu đã tồn tại từ buổi bình minh của
lồi người như một sự phát triển của quá trình kể ch
Lịch sử sân khấu dân tộc và nhân loại xưa nay đã chỉ ra rằng các đề tài
thuộc về đời sống đương đại và đề tài lịch sử đều là những mảnh đất
màu nuôi dưỡng và phát triển nghệ thuật sân khấu, đồng thời, tạo sinh ra
những tài năng nghệ thuật sân khấu. Chẳng hạn, thiên tài sân khấu
Uyliam Sêchxia (1564-1616) ở nước Anh, thời đại Phục hưng, chẳng đã
có gần một nửa số vở kịch về đề tài lịch sử trong sự nghiệp sáng tác
biên kịch của mình đó sao! Cịn ở Việt Nam, sự nghiệp sáng tác kịch của
Nguyễn Huy Tưởng không quá mười vở thì ba vở nổi tiếng nhất của ơng
là “Vũ Như Tô”, “Bắc Sơn”, “Lũy hoa” đều thuộc về đề tài lịch sử;
Nguyễn Đình Thi có ba vở nổi tiếng thì hai vở: “Nguyễn Trãi ở Đơng
Quan” và “Rừng trúc” cũng thuộc về đề tài lịch sử. Trong sự nghiệp
cách tân chèo của mình, cố NSND Tào Mạt có bộ ba vở chèo nổi tiếng
“Bài ca giữ nước”, cũng là đề tài lịch sử. Tác giả – Tiến sĩ Trần Đình
Ngơn viết hơn trăm kịch bản, hầu hết được dựng trên sân khấu, thì
khoảng một phần ba trong số đó được khai thác từ đề tài lịch sử. Có thể
nói, sân khấu cách mạng nước ta, từ 1945 đến nay, không một kịch tác
gia của bất cứ thể loại nào (tuồng, chèo, cải lương, kịch nói), đều khơng
ít nhiều viết kịch bản về đề tài lịch sử.
Bởi thế, đề tài lịch sử cịn là động cơ, là bệ phóng và là những vấn đề
“ẩn dụ bổ sung” làm đối sánh cho những vấn đề đương đại được nhận
thức và phản ánh trong các tác phẩm sân khấu của ngày hôm nay. Và các
nhà biên kịch chân chính, nhạy cảm của ngày hơm nay ln ln có ý
thức tìm cho những vấn đề lịch sử những mối dây liên hệ khá chính xác

với những vấn đề nổi trội, bức xúc của đời sống xã hội ngày nay mà
nhân dân đang quan tâm.
2. Tính hiện đại ln ln là linh hồn của mọi tác phẩm sân khấu. Một
tác phẩm sân khấu dù là đề tài hiện đại hay đề tài lịch sử, nếu khơng có
tính hiện đại, thì cũng hồn tồn vơ giá trị. Bởi vậy, trong nghệ thuật
sân khấu xưa nay, cuộc đấu tranh chống “bình cũ rượu mới” và “gọt
chân để xỏ vừa giầy” luôn luôn diễn ra và không bao giờ có sự khoan
nhượng. Sân khấu chỉ khai thác những vấn đề thuộc đề tài lịch sử theo
quan điểm lấy xưa là vì nay. Tác giả, đạo diễn, diễn viên… sân khấu
ngày nay chỉ chọn những vấn đề lịch sử nào có thể tìm được mối dây
liên hệ với đời sống hôm nay để phản ánh trong tác phẩm của mình. Do
đó, vấn đề thuộc về lịch sử phải được lý giải theo quan điểm của ngày
hôm nay, nhưng tương thích với lịch sử, khơng xun tạc lịch sử. Phải
trung thành và chân thực với sự kiện lịch sử, lý tưởng, đạo dức và tư
tưởng của nhân vật lịch sử, nhưng bộ mặt tâm lý (đặc biệt là tính cách),
bộ mặt hình thể và một phần bộ mặt xã hội của nhân vật lịch sử, nhất là
ba khả năng của nhân vật lịch sử: khả năng tiếp thu ngoại giới, khả năng
cảm xúc, khả năng hành động; thì nhà sử học và lịch sử không thể và
chẳng bao giờ có thể ghi lại, nên tác giả sân khấu, khi phản ánh vấn đề
lịch sử phải bằng trí tưởng tượng của mình mà đốn định, hư cấu, phục


hồi, tái hiện hoặc tái tạo lại đời sống của nhân vật lịch sử một cách thích
hợp, đầy đủ, sinh động theo tinh thần “có thể là như thế”. Rõ ràng, sân
khấu phản ánh hiện thực, nhất là hiện thực lịch sử, không chỉ những vấn
đề đang xảy ra, mà cả những vấn đề, những hành động “có thể xảy ra”.
Bởi thế, tính hiện đại của một tác phẩm sân khấu về đề tài lịch sử chỉ
có, khi vấn đề lịch sử được lý giải theo quan điểm hiện đại, phù hợp với
nguyện vọng của nhân dân và quy luật phát triển tất yếu của lịch sử. Và
ngược lại, vấn đề thuộc đề tài hiện đại phản ánh trong tác phẩm sân

khấu, nhưng được lý giải theo quan điểm cũ, quan điểm đã quá thời, thì
tác phẩm đề tài hiện đại ấy cũng khơng có tính hiện đại.
Khi viết vở Quang Trung, tác giả Trúc Đường đã hư cấu nên một chi
tiết, rằng vua Quang Trung đến làng Ngọc Hà thấy đào nở đẹp, bèn thân
hành bứng một cây đào đầy nụ, đầy hoa, sai người tâm phúc đi ngày đi
đêm, mang về Phú Xuân tặng cho Công chúa Ngọc Hân tỏ nhiều ý,
nghĩa, tình khác nhau. Về nghệ thuật sân khấu, đây là một khoảng trống
thích hợp, một mảnh đất màu cho sáng tạo và diễn xuất của diễn viên
đóng nhân vật Quang Trung và Cơng chúa Ngọc Hân. Về lịch sử, đây là
một sự việc “có thể xảy ra”. Nhiều nhà viết sử hiện đại đã coi sự việc
này dường như là “có thật”.
3. Tác phẩm sân khấu trung thành với vấn đề lịch sử không phải là bê
nguyên si lịch sử. Thật ra, lịch sử ngoài những sự kiện, những ý kiến
nhận xét (lời bàn), những ý nghĩa được xác định ngắn gọn, trừu tượng
của nhà sử học hoặc “dân gian” ra, có gì đâu nữa mà bê vào vở kịch;
trong khi một vở kịch là một câu chuyện về đời sống những con người –
nhân vật, mà lịch sử thì chẳng khắc họa gì về đời sống con người –
những nhân vật lịch sử ở ba bộ mặt và ba khả năng của chúng. Rõ ràng,
nhà biên kịch, đạo diễn, diễn viên… phải sáng tác, tưởng tượng và hư
cấu nên đời sống của các nhân vật lịch sử ở thời đại của họ. Đây, đồng
thời cũng là việc nghệ sĩ sân khấu bổ sung, tái hiện, tái tạo nhân vật lịch
sử và bổ sung cho lịch sử, sinh động hóa lịch sử. Khơng có tài, khơng
am hiểu lịch sử… thì người làm sân khấu cũng khơng thể trung thành
với lịch sử. Vấn đề ở đây là đoán định lịch sử và con người lịch sử về
linh cảm, tưởng tượng và khoa học.
Tác phẩm sân khấu trung thành với lịch sử là cấm kỵ tô hồng hoặc bôi
đen vấn đề lịch sử, sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử… Song, đánh giá lại
vấn đề lịch sử, sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử một cách khoa học, có
căn cứ xác đáng, để trả lại giá trị chân chính của sự thật lịch sử, lại là
trách nhiệm của các nghệ sĩ sân khấu, khi phản ánh những vấn đề thuộc

đề tài lịch sử. Trong thực tế lịch sử, khơng ít những vấn đề bị những góc
khuất, những lý do bất khả kháng của thời cuộc, của những tình huống
chính trị… khiến chúng tạm thời chưa thể bộc lộ đúng bản chất của
mình, và đến lượt mình, nhà sử học, cũng như công chúng đương thời
càng chưa thể nhận thức được sự thật lịch sử hiện hữu ở chúng, mà có
khi phải đợi đến vài trăm năm, thậm chí cả ngàn năm sau mới nhận ra
đúng những sự thật lịch sử ấy trong những tác phẩm văn học, nghệ
thuật, trong sự đánh giá lại của các nhà sử học thuộc những đời sau.


Đánh giá lại lịch sử, các nhân vật lịch sử không đồng nghĩa với việc
xuyên tạc, bôi nhọ các vị anh hùng lịch sử đã được cả dân tộc tôn vinh.
Tuy nhiên, nếu có trường hợp nào đó, tác phẩm sân khấu mạnh dạn nhận
thức, đánh giá lại… trường hợp “nhầm lẫn” nào đó của lịch sử, khiến
cơng chúng ngày nay bức xúc, phản ứng quyết liệt, nhất là hậu duệ của
nhân vật lịch sử bị tác phẩm sân khấu đánh giá lại ấy. Trường hợp này,
không nên vội vàng kết luận theo dư luận cơng chúng, mà hãy bình tĩnh
tìm hiểu và khơng một sớm, một chiều có thể làm rõ được vấn đề. Xin
hãy để các nhà phê bình, các nhà sử học, các nhà hoạt động xã hội có
kinh nghiệm vào cuộc và lên tiếng. Trong thực tế sáng tác sân khấu, trừ
những kẻ phản bội Tổ quốc, chống đối cách mạng, còn lại, những nghệ
sĩ chân chính hiểu biết sâu sắc nhiệm vụ nghệ thuật, ln luôn xem phát
hiện lịch sử là trách nhiệm công dân của mình.
4. Sân khấu tìm tịi, khám phá, phát hiện, nhận thức và phản ánh đề tài
lịch sử không chỉ là “chân thực hóa” lịch sử, bồi đắp văn hóa cho vấn đề
lịch sử được phản ánh, tạo cầu nối liền mạch cho lịch sử từ quá khứ đến
hiện tại và tương lai, thực hiện sự kế thừa lịch sử, phát huy và phát triển
lịch sử; mà còn phát hiện những hạn chế của vấn đề lịch sử mà tác phẩm
sân khấu phản ánh.
5. Sự giống nhau và khác nhau của tư duy lịch sử và tư duy sáng tạo

hình tượng nghệ thuật sân khấu từ một vấn đề thuộc đề tài lịch sử nhiều
khi cũng dẫn đến sự nhận thức phức tạp và chưa dễ thống nhất của công
chúng. Tư duy lịch sử là tư duy khoa học, tư duy nghệ thuật sân khấu là
tư duy hình tượng, giống nhau ở chỗ cùng bắt đầu từ vấn đề hiện thực
hiện hữu trong đời sống (đề tài) lịch sử bằng giai đoạn “quan sát sống”
(cảm giác, tri giác, biểu tượng), nhưng sang giai đoạn thứ hai thì nhà sử
học đi vào kết luận, rút ra những khái niệm trừu tượng, thể hiện những
sự kiện, những nhân vật, những sự thật lịch sử, những lời bình bằng
ngơn ngữ trừu tượng hóa những tri thức lịch sử đã khái quát được, trong
quá trình tư duy, nhà sử học khơng cần để ý đến tính chất thẩm mỹ, và
sự thăng hoa của cảm xúc đối với những vấn đề, những sự thật lịch sử
mà mình nghiên cứu; cịn nghệ sĩ sân khấu thì suốt trong quá trình
nghiên cứu vấn đề, sự kiện, hiện tượng hiện thực lịch sử từ giai đoạn
“quan sát sống” đến hết giai đoạn hai, nghệ sĩ không bao giờ thốt ly
khỏi vấn đề… hiện thực lịch sử trong tồn bộ chân – thiện – mỹ của nó
và những cảm xúc thăng hoa, xuất thần khi linh ứng và ứng linh diễn ra
trong tưởng tượng và khi dẫn đến kết luận phải bằng những hình tượng
nghệ thuật hiện thân của những con người – nhân vật với toàn bộ đời
sống của chúng được hiện ra bằng hành động, thể hiện ba bộ mặt: xã
hội, tâm lý, hình thể; và ba khả năng: tiếp thu ngoại giới, cảm xúc và
hành động quy tụ về hạt nhân của mỗi nhân vật, đó là mục đích (lý
tưởng, khát vọng, dục vọng…) sống (hay nhiệm vụ tối cao) của mỗi
nhân vật. Sự giống nhau và khác nhau ấy của tư duy lịch sử và tư duy
sáng tạo nghệ thuật sân khấu đã xác định rõ tính chất của mối quan hệ
này là: Sản phẩm của tư duy lịch sử, cung cấp cho tư duy sáng tạo
những tài liệu căn bản, đáng tin cậy, để trên cơ sở đó, tư duy sảng tạo


nghệ thuật sân khấu dựng thành một con người bằng xương bằng thịt, có
đời sống, có số phận riêng và nhiễm sâu sắc tính chất chân – thiện – mỹ,

hiện thân là một hình tượng nghệ thuật. Vũ Như Tơ của Nguyễn Huy
Tưởng, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Lý Chiêu Hồng của Nguyễn Đình
Thi, Hề Hoạn của NSND Tào Mạt, Nguyễn Bỉnh Khiêm của Trần Đình
Ngơn, Trần Thủ Độ của Anh Biên, Bác Hồ trong “Đêm trắng” của Lưu
Quang Hà… đều là những nhân vật từ lịch sử bước lên sân khấu hóa
thành những hình tượng nghệ thuật cao đẹp, sống mãi trong lòng người
xem.
Ngày nay con người thường tiếp nhận văn học dân gian dưới dạng những vãn bản
để đọc. Nhưng xưạ kia văn học dân gian chỉ được truyền miệng, trong hình thức
phí văn bản. Với dân gian khơng có khái niệm đọc mà chỉ cỏ kệ, ca, diễn mà thôi.
Khái niệm kể dùng chp tất, cả các truyện cổ.dân gian như thần thoại, truyền
thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn… Khái niệm .cạ để dùng cho các tác
phẩm thờ ca dân gian. Còn diễn là dành cho các tích truyện và những tác phẩm
sân khấu dân gian. Dường như văn học dân gian sinh ra là để diễn và biểu diễn
chính là phương thức tồn tại của văn học dân gian. Nhờ quá trình biểu diễn mà
tác phẩm văn học dân gian được sáng tạo thêm một lần nữa, dược thăng hoa rồi
khảm sâu vào trí nhớ con người.
Có nhà nghiên cứu, trong khi quá nhấn mạnh đặc trưng biểu diễn của văn học dân
gian đã cho rằng: lọại trừ khâu diễn xướng, tác phẩm văn học dân gian chỉ cịn là
cái xác khơng hồn.
Xin lưu ý một điều rằng: biểu diễn ở đây cũng thật đặc biệt, khác xa quan niệm
của người đương đại. Đó là kiểu biểu dịễn nhiều khi không cần cả họá trang, phục
trang sân khấu, ánh sáng đèn màu, âm nhạc và thường là biểu diễn không tự giặc.
Biểu diễn rất đơn giản, có khi chỉ qua giọng điệu, hình thể, ánh mắt, vẻ. mặt. Biểu
diễn là một nhu cầu của người sáng tác, người trình diễn, người thưởng thức, từ
đó xoá đi khoảng cách và tạo cho họ một sự đồng cảm đặc biệt, tạo nên tính dân
chủ đậm nét cho văn học dân gian. Biểu diễn trong dân gian là hệ thống mở đầy
tính ngẫu hứng, điều này đã làm cho văn học dân gian hết sức hổn nhiên, tạo nện
nét khá.c biệt ,sọ với tính khn mẫu của văn học thành văn. Mức độ diễn ở mỗi
thể loại cũng khác nhau, Tục ngữ thể hiện chỉ ở ngữ điệu và được lồng vào trong

lời ăn tiếng nói hàng ngày, ngược lại chèo là sự kết hợp nhịp nhàng giữa rất nhiều
yếu tố: âm nhạc, lời ca, hoá trang, phục trang… và thường được diễn trên các
hình thức sân khấu dân gian.
Theo quan niệm biểu diễn ntộc như trên thì ở tất cả các trị chơi dân gian, trẻ đã
tham gia biểu diễn, thậm chí nhiều khi cịn biểu diễn ‘rất hết rhình (đa số khơng
tứ giác). Chẳng hạn: khi chơi trò Nu ná nu nống, các em ngồi xếp hàng ngang,
duỗi chân thẳng. Một em cât tiếng hát (họặc tất cả hoà giọng hát):
Nu na nu nống Cái bống,nằm trong Cái ong nằm ngoàị Củ khoai chạm rnật Phật
ngồi phật khóc Đồng thời lấy tay đập nhẹ lần lượt vào chân từng em, cứ hát dừng
lại đến đâu| chạm vào chân em nago, em ấy rụt chân lại.


Khi kể chuyện thần thoạij bổ tích, truyền thuyết, truyện ngụ ngôn, truyện cười, kể
vè, kể khàn,..các nghệ nhân đều đã biễu diễn môt cách rất say sưa.
“Ngày xửa ngày xưa, có hai anh em nhà kia, cha mẹ mất sớm.,. ”
Kèm theo lời kể lên bổng xuống trầm, lúc to lúc nhỏ lúc bắt chước giọng nhân vật
này, khi giả giọng nhân vật khác, có lúc lại làm điệu bộ để gây nên sự hấp dẫn đối
với người nghe, người kể đã thực sự tham gia biểu diễn. Hiện nay người ta rất
quan tâm đến việc kể truyện cổ tích cho trẻ em ỏ các lớp mẫu giáo hay trên nhiều
phương tiện thông tin đại chúng, Các em thường thích nghe kể hơn đọc truyện cổ
tích, bởi vì nhè biểu diễn mà tác phẩm trở nên có hồn, có khả năng tác động tới
nhiều giác quan nên rõ ràng thú vị hơn đọc trên văn bản. Đó là cách cảm thụ trực
tiếp, qua nghệ thuật biểu diễn sinh đông đầy ngẫu hứng và sáng tạo của ngưòi kể
chuyện.
AuthoradminPosted onOctober 18, 2014
………………………………..
Chương 10.
KỊCH BẢN VĂN HỌC.
1. Kịch bản văn học và nghệ thuật sân khấu.


TOP

Không nên đồng nhất kịch và kịch bản văn học. Nói đến kịch là nói đến
một loại hình của nghệ thuật sân khấu mang tính chất tổng hợp bao gồm nhiều
hoạt động của diễn viên, đạo diễn, hóa trang, ánh sáng, âm thanh... Kịch bản văn
học chỉ là một yếu tố, dù đó có thể là một trong những yếu tố đầu tiên và quan
trọng nhất của kịch
Là một trong 3 loại chính của văn học, kịch bản trước hết tự nó phải là một
tác phẩm hoàn chỉnh và độc lập, thể hiện đầy đủ những đặc điểm của một tác
phẩm văn học. Tuy nhiên, kịch bản văn học được viết ra chủ yếu là để diễn trên
sân khấu trước một tập thể khán giả trong một thời gian nhất định nên nghệ thuật
sân khấu qui định hết sức chặt chẽ quá trình sáng tác kịch bản văn học của nhà
văn. Sự qui định đó có thể được thể hiện ở nhiều mặt. Trước hết là về dung lượng
phản ánh của kịch bản văn học. Nhà văn không thể xây dựng kịch bản với một
thời gian quá dài với nhiều nhân vật qua những không gian rộng lớn như trong
tiểu thuyết. Ngồi ra, nhân vật cịn phải "sân khấu hóa" tất cả những gì được miêu
tả. Những sự kiện, diễn biến của cốt truyện phải được xây dựng thế nào cho phù
hợp với việc thể hiện một cách trực tiếp trên sân khấu thông qua hành động, ngơn
ngữ của diễn viên. Như vậy, có thể nói, kịch bản là một tác phẩm văn học hoàn
chỉnh nhưng đồng thời gắn bó chặt chẽ với nghệ thuật sân khấu. Chính nghệ thuật
này đã qui định những đặc điểm của kịch bản văn học.


2. Xung đột kịch.

TOP

Kịch bắt đầu từ xung đột. "Xung đột là cơ sở của kịch" (Pha đê ép). Hiểu
theo nghĩa hẹp, xung đột trong tác phẩm kịch là sự phát triển cao nhất sự mâu
thuẫn của hai hay nhiều lực lượng đối lập thông qua một sự kiện hay một diễn

biến tâm lí cụ thể được thể hiện trong mỗi màn, mỗi hồi kịch. Có thể có rất nhiều
loại xung đột khác nhau. Có xung đột biểu hiện của sự đè nén, giằng co, chống
đối giữa các lực lượng, có xung đột được biểu hiện qua sự đấu tranh nội tâm của
một nhân vật, có xung đột là sự đấu trí căng thẳng và lí lẽ để thuyết phục đối
phương giữa hai lực lượng...Do tính chất sân khấu qui định cho nên trong khi
phản ánh hiện thực, tác giả kịch bản buộc phải bước vào những mâu thuẫn trong
cuộc sống đã phát triển đến chỗ xung đột, đòi hỏi phải được giải quyết bằng cách
này hay cách khác. Vì vậy, có thể nói, xung đột là đặc điểm cơ bản của kịch.
Hégel cho rằng "tình thế giàu xung đột là đối tượng ưu tiên cảu nghệ thuật kịch".
Xung đột kịch cần phải phản ánh những mâu thuẫn cơ bản của xã hội và
thời đại, nói cách khác là ln mang tính lịch sử cụ thể. Ơí những thời đại khác
nhau có những xung đột khác nhau. Ở thời cổ đại, đó là sự xung đột giữa thế giới
quan thần linh, tư tưởng định mệnh với khát vọng làm chủ thiên nhiên, làm chủ
bản thân của con người. Trong xã hội nơ lệ, đó là xung đột giữa những người nô
lệ muốn đấu tranh giành lại tự do với bọn chủ nơ. Trong xã hội phong kiến, đó là
xung đột giữa một bên là uy quyền của vua chúa, quan lại với người dân bị áp
bức và đòi được giải phóng. Trong thời kì hiện đại, các xung đột thưịng xoay
quanh những vấn đề cách mạng và phản cách mạng, cái thiện, cái ác, cái mới, cái
cũ, cái tốt, cái xấu...
Xung đột kịch do tính chất sân khấu qui định đồng thời xung đột làm cho
kịch có tính sân khấu. Sức hấp dẫn của một vở kịch là ở chỗ nhà văn phải phát
hiện, nêu ra và giải quyết các xung đột lớn nhỏ trong vở kịch. Các yếu tố khác
của kịch phải góp phần tơ đậm xung đột và dẫn đến một kết cục sâu sắc, gần gũi
với những vấn đề của cuộc sống
3. Hành động kịch.

TOP

Xung đột kịch được triển khai thông qua các hành động. Hành động là cơ
sở của tác phẩm kịch. Hành động là những hoạt động bao gồm cả ngôn ngữ, cử

chỉ, thái độ, quan hệ...của con người trong cuộc sống xung quanh. Trong kịch,
hành động được thể hiện qua suy nghĩ của nhân vật, qua hành vi, động tác, ngôn
ngữ của họ.


Trong mỗi vở kịch, mỗi diễn viên sẽ có một hệ thống hành động chính gọi
là hành động xuyên nhằm thể hiện tư tưởng trọng tâm của nhân vật. Trong
Roméo và Juliette của Shakespeare tất cả những động tác, cử chỉ, lời nói của hai
nhân vật ln gắn liền với ý thức bảo vệ và hy sinh cho tình yêu. Qua hàng loạt
các hành động của các tính cách, các xung đột của vở kịch được bộc lộ.
4. Nhân vật kịch.

TOP

Một vở kịch được diễn trên sân khấu, chỉ có nhân vật đi lại, nói năng, hoạt
động. Trong kịch bản văn học, ngồi nhân vật, cịn có những lời chỉ dẫn về cảnh
vật, con người thường được in nghiêng được tác giả viết nhằm gợi ý cho sự dàn
dựng của nhà đạo diễn chứ khơng phải cho người xem. Vì vậy, có thể nói trên sân
khấu chỉ có nhân vật hành động. Tất cả mọi sự việc đều được bộc lộ thông qua
nhân vật.
Ðiểm khác nhau cơ bản giữa tác phẩm kịch với tác phẩm tự sự và kí là
kịch khơng có nhân vật người kể chuyện. Maxim Gorki cho rằng : "Kịch, bi kịch,
hài kịch là thể loại khó nhất trong văn học, khó là vì một vở kịch đòi hỏi mỗi
nhân vật trong vở kịch phải thể hiện tính cách bằng lời nói và hành động khơng
có lời mách bảo, gợi ý của tác giả. Các nhân vật kịch được hình thành là do lời
lẽ của họ và tuyệt đối chỉ do những lời lẽ ấy mà thôi nghĩa là tác giả xây dựng
nhân vật bằng ngôn ngữ hội thoại chứ không phải bằng ngôn ngữ miêu tả".
Tác phẩm kịch được viết ra chủ yếu là để diễn trên sân khấu, bị hạn chế
bởi không gian và thời gian nên số lượng nhân vật không thể quá nhiều như trong
các tác phẩm tự sự và cũng không được khắc họa tỉ mỉ, nhiều măt. Do đó, tính

cách nhân vật trong kịch tập trung, nổi bật và xác định nhằm gây ấn tượng mãnh
liệt và sâu sắc cho khán giả. Hiển nhiên sự nổi bật, tập trung đó khơng có nghĩa là
đơn giản, một chiều. Xoay quanh một nét tính cách khác, vừa liên đới, vừa biến
thái làm cho gương măt của nhân vật sinh động và đa dạng.
Nhân vật của kịch thường chứa đựng những cuộc đấu tranh nội tâm. Do
đặc trưng của kịch là xung đột nên khi đứng trước những xung đột đó, con người
bắt buộc phải hành động và vì vậy, con người khơng thể không đắn đo, suy nghĩ,
cân nhắc, băn khoăn, dằn vặt...Dĩ nhiên đặc trưng này cũng được thể hiện trong
các loại văn học khác nhưng rõ ràng được thể hiện tập trung và phổ biến nhất
trong kịch. Chính từ đặc điểm này, nhiều tác giả kịch đã dùng biện pháp lưỡng
hóa nhân vật nhằm biểu hiện cuộc đấu tranh nội tâm của chính nhân vật đó.
5. Ngơn ngữ kịch.

TOP


Một phương tiện rất quan trọng để bộc lộ hành động kịch là ngơn ngữ.
Trong kịch khơng có nhân vật người kể chuyện nên khơng có ngơn ngữ người kể
chuyện. Vở kịch được diễn trên sân khấu chỉ có ngơn ngữ nhân vật. Có thể nói
đến 3 dạng ngơn ngữ nhân vật trong kịch: đối thoại, độc thoại và bàng thoại.
Ðối thoại là nói với nhau, là lời đối đáp qua lại giữa các nhân vật. Ðây
là dạng ngôn ngữ chủ yếu trong kịch. Các lời đối thoại trong kịch phải sắc sảo,
sinh động và có tác dung hỗ tương với nhau nhằm thể hiện kịch tính.
Ðộc thoại là lời nhân vật tự nói với mình, qua đó bộc lộ những dằn vặt
nội tâm và những ý nghĩa thầm kín. Ðây là biện pháp quan trọng nhất nhằm biểu
hiện nội tâm nhân vật nhưng không phải là biện pháp duy nhất. Ðể biểu hiện nội
tâm, bên cạnh độc thoại, người ta có thể thay thế bằng những phút yên lặng,
những tiếng vọng, tiếng đế...
Bàng thoại là nói với khán giả. Có khi đang đối đáp với một nhân vật
khác, bỗng dưng nhân vật tiến gần đến và hướng về khán giả nói vài câu để phân

trần, giải thích một cảnh ngộ, một tâm trạng cần được chia xẽ, một điều bí mật:
loại này chiếm tỉ lệ thấp trong ngơn ngữ kịch.
Các dạng ngơn ngữ của kịch địi hỏi phải mang tính khấu ngữ, động tác hóa
và tính cách hóa. Trước hết, đó là những lời đối thoại thơng thường trong cuộc
ssống, phải có tác dụng khắc họa tính cách, nghề nghiêp, tuổi tác, trình độ văn
hóa...của nhân vật. Nó mang sắc thái riêng của từng tình cách, do từ miệng nhân
vật nói ra, chứ khơng phải do tác giả. Ngơn ngữ trong kịch đòi hỏi phải gắn liền
mật thiết với động tác, điều này íup người xem hiểu được những suy nghĩ, tâm tư
nhân vật. Ngay trong trường hợp chỉ nghe kịch trong radio, người nghe cũng cảm
được sắc mặt, họat động và trạng thái tâm lí của nhân vật.
Ngơn ngữ nhân vật kịch địi hỏi người viết phải có một vốn hiểu biết phong
phú và sâu rộng về quàn chúng, nắm được cách nói đa dạng cảu quần chúng, điều
này quan trọng đối với mọi nhà văn nói chung nhưng đặc biệt là đối với người
viết kịch.
6. Phân loại kịch.

TOP

Có nhiều cách phân loại kịch khác nhau. dựa trên phương thức biểu diễn, có thể
phân ra các loại: ca kịch, vũ kịch, kịch nói, kịch câm...Dựa trên dung lượng, ta có
kịch ngắn, kịch dài..Cách phân loại phổ biến nhất là dựa trên đặc điểm và nội
dung của xung đột kịch. Theo cách phân loại này, ta có bi kịch, hài kịch và chính
kịch (kịch drame).



×