Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Sáng kiến tập làm văn lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.05 KB, 40 trang )

1
MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

I .Sơ lược lý lịch tác giả.

4

II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị:

4

Tên sáng kiến.
Lĩnh vực .
III. Mục đích yêu cầu của sáng kiến:

5
5

1.Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến
2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến

6
7-18

3. Nội dung sáng kiến
IV. Hiệu quả đạt được

18



V. Mức độ ảnh hưởng:

19

1. Khả năng ứng dụng triển khai.

19

2. Những điều kiện cần thiết để sử dụng các mảnh ghép thời gian , sự kiện và nhân
vật lich sử vào học môn lịch sử lớp 5.

19-20

. VI. Kết luận

20

Lời kết

21

DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

1. Giáo viên chủ nhiệm
2. Học sinh

: GVCN

: HS


3. Kiến thức, kĩ năng: KT-KN
4. Năng lực, phẩm chất: NL-PC


2

BÁO CÁO SÁNG KIẾN
“MỘT VÀI KINH NGHIỆM GIÚP LÀM TỐT BÀI VĂN TẢ NGƯỜI QUA MỘT
SỐ THAO TÁC VÀ KHAI THÁC MÔN HỌC KHÁC ĐỐI VỚI HỌC SINH
LỚP 5 ”
I- Sơ lược lý lịch tác giả:
- Họ và tên: ……

Nam, nữ: ……..

- Ngày tháng năm sinh: ……………
- Nơi thường trú: …………….
- Đơn vị công tác: ……………………..
- Chức vụ hiện nay: Giáo viên
- Trình độ chun mơn: Đại học
- Lĩnh vực công tác: Giáo viên Tiểu học.
II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị:
1. Đặc điểm tình hình:
- Tồn trường có 35 viên chức và người lao đợng với 609 học sinh gồm 24 lớp. Hằng
năm đều được công nhận công tác PCGD-ĐĐT. Người dân đa số sống bằng nghề
nông, mợt số ít nghề ni cá và bn bán nhỏ. Trình đợ dân trí của người dân cịn
thấp so với mặt bằng chung toàn huyện.
2 . Số liệu năm học 2022-2023
2.1. Học sinh:

- Tổng số: 24 lớp; 609/298 nữ Chia ra:
Khối

Số lớp

Số học sinh

Kế hoạch

Thực hiện

Kế hoạch

Thực hiện

Nữ

Tỷ lệ

1

5

5

113

122

63


107,96

2

4

4

115

96

39

83,47

3

5

5

129

131

65

101,55


4

5

5

126

124

60

98,41

5

5

5

138

136

71

97,84

Tổng

cộng

24

24

621

609

298

98,07


3

- Bình quân số HS/lớp: 25,37 em/lớp
(Phụ lục danh sách HS các lớp)
2.2. Số liệu Cán bô, giáo viên, nhân viên
- Tổng số cán bộ, giáo viên, nhân viên: 35/17 nữ ; Trong đó:
+ CBQL: 02
+ Giáo viên chủ nhiệm: 23
+ Giáo viên dạy Thể dục 02; giáo viên dạy tiếng Anh: 01; giáo viên dạy Mỹ thuật:
01; giáo viên dạy Âm nhạc: 01; Cán bộ TV-TB: 01.; Nhân viên KT-YTHĐ: 01;
Giáo viên TPT Đợi: 01)
Bình qn GV/lớp: 1,2
(Phụ lục bảng phân công CBGVNV)
- Người lao động: 02
3. Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học

- Tổng số lớp: 24 lớp; tổng số phòng: 22 phòng
- Tỷ lệ phòng học/lớp: 0,92 ; Văn phòng: 01, ; phòng TV-TB: 01
(Phụ lục Sơ đồ bố trí phịng học, phịng chức năng)
- Thiết bị dạy học tối thiểu theo quy định 1 bộ/ lớp, làm đồ dùng dạy học ít nhất 1
sản phẩm / 01GV/ 01 học kỳ.
3. Thuận lợi, khó khăn
3.1 Những thuận lợi
- Được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Phòng Giáo dục Đào tạo Châu Phú, cùng
các loại văn bản hướng dẫn của sở, phòng GDĐT Châu Phú trong việc thực hiện
công tác giáo dục.
- Trường tiểu học B Mỹ Phú trong nhiều năm liền duy trì trường đạt danh hiệu
“Trường học văn hóa”, “Trường học thân thiện học sinh tích cực”, Nề nếp giảng
dạy của giáo viên và hoạt động học tập của học sinh dần đi vào ổn định. Cơ sở vật
chất được quan tâm đầu tư từng bước làm cho cảnh quan sư phạm nhà trường
thêm khang trang so với các năm về trước.
- Đội ngũ GV có tinh thần xây dựng, đồn kết thống nhất cao, một số Giáo viên
vững về nghiệp vụ sư phạm. Trình đợ chun mơn của GV hằng năm được nâng
dần từ Trung học sư phạm; Cao đẳng lên Đại học, hiện nay GV đạt chuẩn chuyên
môn 28/30 giáo viên đạt chuẩn, đạt tỉ lệ: 93,33% giáo viên đạt chuẩn.


4

- Đời sống kinh tế của gia đình học sinh từng bước ổn định; phần đông nhận thức,
thái độ quan điểm của quần chúng nhân dân trong việc chăm lo cho sự nghiệp GD
được từng bước nâng lên.
- Chính quyền địa phương đã quan tâm hỗ trợ đúng mức. Công tác XHHGD được
cợng đồng quan tâm thực hiện có hiệu quả trong đó việc chăm lo phát triển CSVC
tạo vẽ mỹ quan trường học được đặt lên hàng đầu.
- Ban đại diện cha mẹ học sinh quan tâm chăm lo đến CSVC, dụng cụ học tập của

học sinh, nhất là học sinh nghèo; cận nghèo, học sinh có hồn cảnh khó khăn.
- Lực lương cốt cán của trường vững vàng về tinh thần thái độ và trách nhiệm
trong công tác. Tận tụy đồn kết nhất trí, thống nhất về quan điểm làm việc.
3.2 Những khó khăn, vướng mắc:
- Phịng học chưa đáp ứng yêu cầu theo tỉ lệ 1/1.
- Một vài giáo viên lớn tuổi khả năng tiếp cận công nghệ thơng tin đưa vào cơng tác
soạn giảng có phần cịn hạn chế nên ảnh hưởng mợt phần đến việc đầu tư giảng
dạy.
- Mợt bợ phận học sinh gia đình nghèo, phải phụ tiếp gia đình nên ảnh
hưởng khơng nhỏ đến việc học tập.
- Thiết bị dạy học còn thiếu nên ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học theo
phương pháp đổi mới (đèn chiếu…).
- Đời sống kinh tế của mợt bợ phận cha mẹ học sinh học cịn khó khăn phải đi làm
thuê, mướn khỏi địa phương gửi con cho ơng bà chăm sóc nên việc quan tâm việc
học của các em chưa thật sự chu đáo. Tư tưởng cịn khốn trắng học tập con em
cho nhà trường.
- Tình hình các dịch bệnh vẫn cịn diễn biến phức tạp, trong đó dịch bệnh
Covid-19.
.Tên sáng kiến: Sử dụng“Mợt vài kinh nghiệm giúp làm tốt bài văn tả người qua
một số thao tác và khai thác môn học khác đối với học sinh lớp 5 ”
. Lĩnh vực: Tập làm văn Tiểu học.
III. Mục đích yêu cầu của sáng kiến:
1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến
Qua nắm bắt tình hình và trao đổi với đồng nghiệp về việc giảng dạy tập làm văn tả
người có liên quan đến“Một vài kinh nghiệm giúp làm tốt bài văn tả người qua một
số thao tác và khai thác môn học khác đối với học sinh lớp 5” bản thân tôi nhận
thấy:


5


Từ xa xưa đất nước Việt Nam ta vốn có truyền thống hiếu học. Bao tấm gương hiếu học
và đã trở thành những nhà bác học thiên tài trong nhiều lĩnh vực. Hiện nay truyền thống
đó ngày càng được phát triển và nhân rộng thêm. Việc học tập để lĩnh hội tri thức mới
giúp cho thế hệ trẻ tiếp thu được những tinh hoa văn hóa, khoa học kĩ thuật của nhân
loại, vững vàng hội nhập quốc tế là vấn đề cấp bách đang được toàn đảng toàn dân quan
tâm hàng đầu. Để đáp ứng được vấn đề này hệ thống giáo dục là vấn đề cốt lõi. Trong hệ
thống giáo dục thì giáo dục bậc Tiểu học là rất quan trọng. Trong chương trình Tiểu học,
cùng với mơn Tốn, mơn Tiếng Việt có nhiệm vụ hình thành và phát triển cho học sinh
các kĩ năng sử dụng Tiếng việt để học tập và giao tiếp trong các môi trường của lứa tuổi.
Thơng qua việc dạy học Tiếng Việt góp phần rèn luyện tư duy, cung cấp cho học sinh
những kiến thức sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt
Nam và nước ngồi. Bồi dưỡng tình u Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự
trong sáng, giàu đẹp của Tiếng việt, góp phần thành hình thành con người Việt Nam
trong thời kì đổi mới.
Mơn Tiếng Việt gồm nhiều phân môn khác nhau như Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể
chuyện, Tập viết, Chính tả, Tập làm văn. Song khó hơn cả đối với người dạy cũng như
đối với người học là phân môn Tập làm văn.
Tập làm văn là phân mơn rất quan trọng trong chương trình dạy học Tiểu học, nó khơng
chỉ giúp cho học sinh hình thành các kĩ năng: Nghe , nói, đọc, viết mà cịn rèn cho học
sinh khả năng giao tiếp, quan sát, phân tích tổng hợp và đặc biệt cịn hình thành cho học
sinh những phẩm chất tốt đẹp của con người mới hiện đại và năng động. Dạy Tập làm
văn là dạy học sinh cách nhìn nhận cuộc sống xung quanh trong thực tế vốn có của nó
với cảm xúc thực của các em. Đồng thời cũng dạy các em cách ghi lại sự nhìn nhận ấy
qua các văn bản cịn gọi là đoạn văn, bài văn một cách chính xác về đối tượng, về ngữ
pháp Tiếng Việt.
Tập làm văn lớp 5 gồm nhiều nội dung, một trong những nội dung chính của chương
trình tập làm văn 5 là văn miêu tả nó có hệ thống xây dựng lí thuyết riêng cho từng thể
loại như: Tả người, tả cảnh vật, tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật... và ở từng thể loại địi
hỏi giáo viên phải có những cách rèn khác nhau để đạt được những kĩ năng cần thiết.

Một bài văn hay, có giá trị khơng phải chỉ ở chỗ trình bày mạch lạc, dễ hiểu mà quan
trọng hơn đó là sức truyền cảm. Để viết được bài văn hay các em cần rèn luyện năng lực
quan sát, năng lực thu thập thông tin, năng lực tưởng tượng, năng lực phân tích tổng hợp
và các khả năng biểu đạt, bố cục, tạo phong cách. Làm thế nào để cho học sinh làm văn
hay và có hiệu quả là cả một vấn đề rất khó khăn, cần phải suy nghĩ và dày công nghiên
cứu của những người làm công tác giáo dục.
Trong thực tế giảng dạy tập làm văn phần Tả người, bản thân người giáo viên là người
hướng dẫn đơi khi cũng cảm thấy cịn lúng túng, bí từ và không biết phải hướng dẫn thế
nào để học sinh có thể viết được bài hay, có hình ảnh, có cảm xúc. Một số tài liệu như
sách giáo khoa, sách giáo viên, sách thiết kế thì hướng dẫn chung chung, còn một số


6

sách khác như văn mẫu lại chỉ có các bài văn đã viết sẵn mà khơng có một sự hướng dẫn
nào để định hướng cho giáo viên cũng như học sinh. Do vậy tôi luôn luôn trăn trở suy
nghĩ làm thế nào để cho học sinh thích làm văn, viết văn chân thật, có cảm xúc và sinh
động. Để nâng cao chất lượng bài dạy và giúp các em rèn luyện kĩ năng sản sinh văn
bản, tạo điều kiện cho học sinh tự tìm và tự thể hiện những ý kiến, suy nghĩ của mình
một cách độc lập, chủ động khơng máy móc, rập khn. Để bạn bè và đồng nghiệp cùng
tham khảo và suy nghĩ, tôi mạnh dạn đề xuất: “Một vài kinh nghiệm giúp làm tốt bài
văn tả người qua một số thao tác và khai thác môn học khác đối với học sinh lớp
5 ” để bạn bè đồng nghiệp cùng tham khảo và suy nghĩ.
2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến mới.
Trong thực tế giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh, tôi đưa ra “Một vài kinh
nghiệm giúp làm tốt bài văn tả người qua một số thao tác và khai thác môn học
khác đối với học sinh lớp 5 ” nhằm mục đích sau:
- Tìm hiểu những ưu điểm và hạn chế trong quá trình dạy và học của giáo viên và học
sinh.
- Đưa ra một số biện pháp để phát huy các ưu điểm đó và đặc biệt là đề ra biện pháp

khắc phục những hạn chế khi dạy và học văn miêu tả.
- Giúp học sinh có hứng thú với phân môn Tập làm văn và văn Tả người nói riêng.
IV. Nợi dung sáng kiến:
1. Tiến trình và thời gian thực hiện:
Sau những năm giảng dạy chương trình lớp 5, qua các đợt kiểm tra bài viết của học sinh,
qua dự giờ thăm lớp khối 5 tôi thấy thực trạng dạy Tập làm văn tả người lớp 5 như sau:
1.1.Về giáo viên:
a. Thực trạng dạy những kiến thức thể loại văn Tả người ở lớp 5:
- Giáo viên chỉ có một con đường duy nhất là hình thành các hiểu biết về lí thuyết, thể
loại văn, kĩ năng làm văn...Phần lớn giáo viên lấy sách giá khoa, sách giáo viên làm
chuẩn để dạy. Trong khi đó các lí thuyết về thể loại nhiều khi chưa được sách giáo khoa,
sách giáo viên đề cập đến. Bên cạnh đó cũng có những giáo viên thơng hiểu về các thể
loại bài văn thế nhưng vì phải đảm bảo nội dung, yêu cầu của tiết học (tìm ý, làm dàn
bài hay viết một đoạn) cho một đề bài cụ thể nên họ chưa chú trọng đến việc dạy lí
thuyết này. Hầu hết các giáo viên mới chỉ nói qua về các yêu cầu đối với thể loại, kiểu
bài đang học chứ chưa chú ý đến việc dạy cho học sinh có những hiểu biết khái quát về
thể loại, kiểu bài tập làm văn, so sánh, phân biệt sự giống và khác nhau giữa các thể loại,
mối liên quan giữa các kiểu bài đang học với các kiểu bài đã học. Do khơng được dạy kĩ
về lí thuyết nên nhiều em cịn nhầm lẫn giữa các kiểu bài như Tả người với Kể về một
người.


7

b. Thực trạng dạy tiết tìm ý và lập dàn ý:
Hoạt động của giáo viên bằng lời nói là chủ yếu. Thao tác hoạt động của giáo viên
nhiều: Ghi bảng, gọi học sinh nhận xét. Nhận xét học sinh trả lời. Giáo viên phụ thuộc
vào sách giáo khoa và sách hướng dẫn giảng dạy, trung thành với các tài liệu này nên ít
có biện pháp sáng tạo.
Ví dụ: Khi dạy văn tả người: Tả cụ già, giáo viên chưa tạo điều kiện để học sinh nắm bắt

từ thực tế, nhiều giáo viên cịn dạy chay, khơng hướng dẫn học sinh quan sát thực tế nên
có nhiều trường hợp học sinh trình bày sự quan sát của mình qua tưởng tượng, dẫn đến
sự vơ lí khơng đáng có trong bài văn. Do cách dạy vậy mà học sinh đã tả cụ già như: Bà
em đã già lắm rồi, răng đã rụng hết nhưng bà em vẫn bỏm bẻm nhai trầu. Mắt bà em
sáng rực, tròn như hai hòn bi ve...
c. Thực trạng tiết tập làm văn viết:
Sau khi học xong tiết Tập làm văn miệng hay lập dàn ý. Giáo viên dặn học sinh về nhà
hoàn thiện dàn bài và viết thành bài văn hoàn chỉnh để giờ sau học tiết Tập làm văn viết
và như thế, trong tiết Tập làm văn viết, học sinh chỉ làm nhiệm vụ chép lại bài đã chuẩn
bị vào giấy kiểm tra hoặc vở Tập làm văn và đem nộp, thậm chí có em cịn nộp luôn bài
đã viết ở nhà.
d. Thực trạng tiết trả bài viết:
Mặc dù trong chương trình quy định mỗi đề bài Tập làm văn viết đều có tiết trả bài riêng
nhưng thực tế việc trả bài không được dạy thành tiết (đủ 40 phút). Ở tiết này giáo viên
trả bài cho các em và nêu 1 số lỗi, chữa bài qua loa. Hầu như học sinh không rút được
kinh nghiệm làm bài.
e. Thực trang của việc dạy Tập làm văn trong các phân môn khác.
Việc dạy phân môn Tiếng việt khác như: Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu... thì
ngồi mục đích giải quyết các nhiệm vụ cụ thể của từng phân mơn cịn hướng cho các
em biết vận dụng các kiến thức đó vào Tập làm văn. Nhìn chung giáo viên đã ý thức
được vấn đề này nên biết kết hợp việc dạy Tập làm văn qua các phân môn trên. Tuy vậy,
một số giáo viên vẫn chưa chú ý sâu đến điều đó, dạy tiết nào biết tiết ấy nên đã bỏ qua
nhiều kiến thức cũng như kĩ năng bổ ích, thiết thực cho học sinh trong Tập làm văn.
Tôi đã trực tiếp dạy lớp 5 nhiều năm cùng với việc đi sâu dự giờ thăm lớp mơn Tập làm
văn nói chung và văn Tả người lớp 5 nói riêng tơi nhận thấy rằng:
- Giáo viên chưa nắm vững ý đồ, nội dung các bài tập đưa ra trong tiết tập làm văn tả
người.
- Phương pháp giảng dạy cịn đơn điệu, rập khn máy móc theo sách hướng dẫn.



8

- Giáo viên chưa làm rõ các bước cần thiết của 1 tiết học, chỉ quan tâm đến việc học sinh
làm được, viết được đoạn, được bài theo ý cô sao cho nhanh để giải quyết các bài tập
đưa ra trong tiết học. Từ đó học sinh tiếp thu bài một cách thụ động.
- Giáo viên chưa quan tâm nhiều đến sửa câu, cách dùng từ trong câu, dùng từ sai của
học sinh.
- Chưa tạo được khí thế cho học sinh mở rộng tầm nhìn, liên hệ sâu sắc trong thực tế
hoàn cảnh làm việc, hành động của người được tả để bài viết thêm phong phú, sinh
động.
1.2.Về phía học sinh:
Do hạn chế của chương trình sách giáo khoa và phương pháp giảng dạy của giáo viên
như đã nói ở trên, cùng với sự lơ là trong học tập của các em đã dẫn việc dạy và học Tập
làm văn chưa đạt đến kết quả cao. Phần lớn các em chưa thực sự chủ động trong việc
lĩnh hội kiến thức, do đó càng ít có sự sáng tạo. Nhiều khi chưa nắm vững được các kĩ
năng cơ bản để làm bài (tìm hiểu đề, quan sát lập dàn ý, lập dàn bài, triển khai ý, liên kết
ý, liên kết đoạn...) dẫn đến nhiều em còn làm bài lạc đề, sắp xếp ý lộn xộn, rời rạc. Đặc
biệt là có những em chưa phân tích kĩ đề bài nên chưa làm đúng u cầu của đề và chưa
có thái độ, tình cảm như đề bài yêu cầu.
Ví dụ: Trong bài văn Tả người thân của em, học sinh chỉ viết được bài văn bằng trình độ
của học sinh lớp 2 và thiên về văn kể: "Bố em là thợ xây, bố em rất cao. Bố em có nước
da ngăm đen, tóc xoăn. Em rất yêu bố.”
Hay: "Mẹ có cái tai rất to để nghe em nói cho rõ. Mẹ cịn có cái mũi dài để ngửi. Cái
miệng hay cười. Trông mẹ em rất xinh”.
Hệ thống ý trong bài văn của các em cịn nghèo nàn. Chỉ rập khn theo sách giáo khoa,
theo vở luyện, ít có sáng tạo của bản thân. Số học sinh tìm được ý diễn đạt mới mẻ là rất
hiếm. Khi miêu tả, học sinh chưa biết chọn lọc những nét tiêu biểu để tả nên đã biến bài
văn thành bài kể lan man và cũng ít biết lồng tình cảm, cảm xúc của mình vào bài. Bài
văn của các em đa phần là dùng những câu đơn để diễn đạt nên còn rời rạc, nặng nề về
liệt kê, kể lể. Bài làm còn nhiều nét sơ lược, các chất để làm văn có hồn thì thật là hãn

hữu vì các em chưa thực sự rung động trước đối tượng tả. Một thực trạng rất phổ biến và
dễ thấy ở các em là chưa biết tự lập dàn bài trước khi viết thành bài văn. Do vậy mà
thường thiếu sót, các ý sắp xếp lộn xộn, lủng củng.
Ví dụ: Khi viết bài văn Tả cô giáo (thầy giáo), học sinh viết: "Cô giáo em rất đẹp, hằng
ngày cô giảng bài rất hay, viết chữ rất nhanh, rất đep, rất yêu quý em.
Vậy qua quá trình tìm hiểu thực trạng dạy Tập làm văn lớp 5 tơi thấy có một số vấn đề
đáng lưu ý như sau:


9

- Tập làm văn là phân mơn có tính chất tổng hợp: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chỉnh tả,
Kể chuyện; được thể hiện tập trung ở bài Tập làm văn..
- Việc dạy văn mẫu chưa được chú ý và chưa có phương pháp dạy thích hợp nên học
sinh cịn chép văn mẫu.
- Tiết trả bài chưa được giáo viên nhìn nhận với vai trị xứng đáng của nó, dẫn đến việc
nhiều giáo viên còn dạy qua loa tiết này, nên chưa hình thành cho học sinh thói quen rút
kinh nghiệm bài làm.
2.Chương trình tập làm văn lớp 5 và Thời gian thực hiện.
Chương trình tập làm văn lớp 5 được thiết kế như sau:
Loại văn bản

Học kì I

Học kì II

cẢ NĂM

( Số tiết)


(Số tiết)

(Số tiết)

0

3

3

- Miêu tả đồ vật (ơn tập)

0

4

4

- Miêu tả cây cối (Ơn tập)

0

3

3

- Miêu tả con vật (Ôn tập)

0


3

3

- Miêu tả cảnh

14

4

18

- Miêu tả người

8

7

15

Kể chuyện (ôn tập)
Miêu tả:

Các văn bản khác:
- Báo cáo thống kê

2

2


- Đơn

3

3

- Thuyết trình, tranh luận

2

2

- Biên bản

3

3

- Chương trình hoạt động

0

3

3

- Chuyển đoạn văn thành kich.

0


3

3

Tổng cộng số tiết

32

30

62


10

Vấn đề 1: Dạy Tập làm văn qua các phân môn khác.
Vấn đề 2: Rèn kĩ năng sử dụng văn tham khảo trong dạy học Tập làm văn.
Vấn đề 3: Rèn kĩ năng lập dàn bài chi tiết.
Vấn đề 4: Rèn luyện thao tác kĩ năng làm một bài văn.
- Năm học 2018 – 2019 Học sinh lớp 5D trường Tiểu học B Mỹ Phú ; đầu năm học
khảo sát, điều tra thực trạng giảng dạy và học tập.
- Cuối năm 2018 – 2019 đến năm học 2019 - 2020 tìm hiểu và đề ra những biện pháp
khắc phục và áp dụng vào thực tế giảng dạy.
- Cuối kì I năm học 2020 – 2021 tổng kết đánh giá và rút kinh nghiệm.
- Việc nghiên cứu tìm ra “Một vài kinh nghiệm giúp làm tốt bài văn tả người qua một số
thao tác và khai thác môn học khác đối với học sinh lớp 5” được hoàn thành vào cuối
học kì I năm học 2021 – 2022
(Cảnh giáo viên hướng dẫn học sinh trong giờ tập làm văn)
3. Biện pháp tổ chức tiến hành sáng kiến.
3.1 .Mục tiêucủa đề tài

Từ những thực tế giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh, việc đưa ra “Một vài
kinh nghiệm giúp làm tốt bài văn tả người qua một số thao tác và khai thác môn học
khác đối với học sinh lớp 5” nhằm mục đích sau:
- Tìm hiểu những ưu điểm, hạn chế trong quá trình dạy và học của giáo viên và học sinh.
- Đưa ra một số biện pháp để phát huy các ưu điểm đó và đặc biệt là đề ra biện pháp
khắc phục những hạn chế khi dạy và học văn miêu tả.
- Giúp học sinh có hứng thú với phân mơn Tập làm văn và văn Tả người nói riêng.
3.2. Mơ tả giải pháp của đề tài (những vấn đề cần giải quyết)
Đứng trước thực trạng dạy và học hiện nay yêu cầu đặt ra cấp thiết là phải đổi mới
phương pháp dạy học để học sinh đến với phân môn Tập làm văn thể loại miêu tả một
cách say mê, hứng thú để từ đó có cảm xúc viết văn. Tơi đi sâu vào giải quyết những vấn
đề sau:
Vấn đề 1: Dạy Tập làm văn qua các môn học khác.
Vấn đề 2: Rèn kĩ năng sử dụng văn tham khảo trong dạy học tập làm văn.
Vấn đề 3: Rèn kĩ năng lập dàn bài chi tiết.
Vấn đề 4: Rèn luyện thao tác kĩ năng làm một bài văn.


11

Các vấn đề được nêu ở trên cần được giải quyết đồng thời, xen lẫn vào nhau một cách
nhịp nhàng và linh hoạt thì hiệu quả sẽ cao hơn rất nhiều.
3.3. phương pháp tiến hành
Từ kinh nghiệm dạy học của mình, tơi xin đưa ra một số biện pháp để giải quyết trình
bày các vấn đề được nêu ở trên để học sinh làm tốt bài văn tả người như sau:
1. Giải quyết vấn đề 1: Dạy Tập làm văn qua các phân mơn khác.
Tập làm văn mang tính tích hợp cao. Nó góp phần quan trọng trong việc thực
hiện mục đích của mơn Tiếng việt, phản ánh kết quả giảng dạy và học tập của các phân
môn khác và được xây dựng trên cơ sở kết quả nghiên cứu của nhiều mơn khoa học.
Tập làm văn có tính chất tổng hợp, có quan hệ chặt chẽ với việc dạy học Tập đọc,

Kể chuyện, Luyện từ và câu và cả Chính tả. Đây là nơi tiếp nhận và đây cũng là nơi
luyện tập ngày càng nhuần nhuyễn các kĩ năng và kiến thức của các phân môn trên. Bài
Tập làm văn trở thành sản phẩm tổng hợp, là nơi trình bày kết quả đích thực nhất của
việc học Tập làm văn. Do vậy khi dạy các phân môn của Tiếng việt, giáo viên cần khơi
dạy Tập làm văn cho học sinh.
1.1. Dạy Tập làm văn qua phân môn Luyện từ và câu:
Qua các bài luyện từ và câu, giáo viên giúp các em hiểu biết thêm về sự phong
phú của từ vựng trong cách tạo từ các lớp theo trật tự hoặc trong mối quan hệ về âm, về
ngữ nghĩa. Từ đó các em được củng cố những hiểu biết trong cách dùng từ có chọn lọc
vừa đảm bảo tính chính xác, vừa có tác dụng biểu cảm. Phần kiến thức này ngồi dạy ở
tiết luyện từ và câu, tơi cịn củng cố và hệ thống hóa bằng các loại bài tập đưa ra ở tiết
luyện. Tôi đã xây dựng một số các bài tập nhằm giúp các em có nhiều vốn từ để vận
dụng trong khi làm bài văn Tả người như sau:
1.1.1. Loại bài tập tìm từ theo chủ đề, đề tài.
a. Dạng 1: Yêu cầu học sinh tìm từ theo chủ đề mở rộng vốn từ:
- Các từ ngữ trong chương trình được sắp xếp theo chủ đề. Khi dạy các bài này,
giáo viên giúp học sinh hệ thống lại các từ ngữ đó và có thể tăng cường mở rộng thêm.
- Ví dụ: Các em đã được học bài mở rộng vốn từ : Nhân hậu – Đoàn kết Tuần 3,
lớp 4, do vậy khi dạy bài Tổng kết vốn từ: Bài1/Tiết 31/ Tuần 16, tôi đưa ra bài tập:
"Tìm những từ nói lên lịng nhân hậu và đồn kết của con người?”
(Học sinh có thể tìm các từ: u q, kính trọng, trên kính dưới nhường, hiếu
thảo, gần gũi, thân mật, hòa thuận, đầm ấm, gắn bó, thương yêu, đùm bọc, che chở, san
sẻ, chan hịa...)
Hay trong tiết luyện của tuần này tơi đưa thêm cho các em bài tập:


12

"Tìm các từ miêu tả tính tình vui vẻ của một người?”
(Do đã được học bài mở rộng vốn từ: Lạc quan yêu đời ở lớp 4 nên hầu hết các

em tìm được các từ: Vui vẻ, vui sướng, vui thích, vui tính, vui tươi, vui nhộn...)
Từ đó, tơi đã giúp các em có vốn từ ngữ về miêu tả đặc điểm tính cách của người,
giúp các em vận dụng vào viết văn. Các em dễ dàng viết được như sau:
Bạn Phương là một người vui vẻ, sống chan hòa với mọi người. Phương sẵn sàng
giúp đỡ bạn bè lúc khó khăn. Ở nhà, đối với ơng bà, cha mẹ Phương là người cháu rất
hiếu thảo, đối với em Phương là người chị dịu dàng, luôn nhường nhịn các em...
Lưu ý: Đối với đối tượng học sinh có năng khiếu, song song với việc mở rộng
vốn từ, giáo viên có thể cho các em luyện nói câu, nói đoạn.
b. Dạng 2: Yêu cầu học sinh mở rộng vốn từ dựa trên kiến thức từ loại.
Khi dạy về từ loại, đối với các bài tập: Danh từ - Động từ - Tính từ giáo viên có
thể đưa ra các bài tập để phục vụ trực tiếp cho bài Tập làm văn của các em.
Ví dụ:
* Tìm những từ chỉ hoạt đợng:
- Hoạt động của thầy cô giáo: giảng bài, soạn bài, hướng dẫn, dạy bảo, uốn
nắn...
- Hoạt động học tập của học sinh: học bài, viết bài, đọc bài, nghe giảng, chăm
chú, luyện tập, thực hành, phát biểu...
- Hoạt động nấu ăn của mẹ: Sửa soạn, cặm cụi, tất bật xào, nấu...
* Tìm những từ chỉ hoạt đợng về:
- Tính tình của một bạn học sinh ngoan: ngoan ngoãn, dịu dàng thân thiện, cởi
mở, vui vẻ, hịa nhã...
- Hình dáng của một em bé: hồn nhiên, ngây thơ, nhí nhảnh, mũm mĩm, trắng
hồng, nũng nịu....
Ngồi các u cầu tìm danh từ, động từ, tính từ giáo viên cũng cần chú ý dạy học
sinh bài tập thay thế các danh từ bằng các đại từ chỉ ngơi thích hợp để câu văn không bị
lặp từ. Việc dạy học sinh xác định cách dùng từ đúng với từ loại, tiểu loại của chúng
bằng cách xây dựng các bài tập dựa trên ngữ liệu là các lỗi dùng từ sai của học sinh và
để học sinh tự sửa, giúp các em rút ra được cách dùng từ thế nào cho đúng.
Ví dụ: Sửa đoạn văn sau bằng cách dùng đại từ thay thế.



13

Bàn tay mềm mại của cô giáo viết ra những dịng chữ thật đều và đẹp. Viết xong,
cơ giáo ngắm nhìn bài viết của mình rồi ngắm nhìn chúng em mỉm cười. Cơ giáo như
muốn khuyến khích chúng em hãy viết đẹp giống như mình.
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc lại đoạn văn nhiều lần.
- Tìm các từ bị lặp lại trong đoạn văn: cô giáo, chúng em.
- Hãy tìm các đại từ chỉ người hoặc các từ đồng nghĩa với các từ đó để thay thế.
Học sinh đã tìm và sửa lại như sau:
Bàn tay mềm mại của cơ giáo viết ra những dịng chữ thật đều và đẹp. Viết xong,
cơ ngắm nhìn bài viết của mình rồi ngắm nhìn chúng em mỉm cười. Người mẹ dịu
dàng ấy như muốn khuyến khích đàn con thơ ngây hãy viết đẹp giống như mình.
c. Dạng 3: Yêu cầu học sinh mở rộng vốn từ dựa trên kiến thức cấu tạo từ.
Ví dụ: Khi dạy bài tiết luyện tập làm bài văn Tả người tuần 17, tôi đưa loại bài
tập dựa trên kiến thức từ loại mà các em đã học ở lớp 4. Cụ thể là các bài tập sau:
1). Tìm những tiếng ghép với tiếng hiền để tạo thành từ ghép chỉ tính nết của
người? (hiền lành, hiền hậu, hiền từ, hiền thục...)
2). Tìm những từ chứa tiếng ” xinh” để tả hình dáng của người?
(xinh xinh, xinh xắn, nhỏ xinh...)
3). Tìm nghững từ ghép, từ láy chỉ các hoạt động của người? (nhanh nhẹn, hoạt
bát, cần mẫn, chăm chỉ, thức khuya, dậy sớm, xốc vác...)
Tóm lại khi dạy dạng bài tập này giáo viên cần phải khéo léo khi lồng ghép các
bài tập và hướng dẫn đúng mức, hợp lý nhằm giúp học sinh phát hiện ra các từ ngữ xoay
quanh một đề tài nhất định như tả cụ già hay em bé, tả giáo viên hay cơng nhân, nơng
dân...Tả chân dung hay tả hoạt động...Từ đó giúp các em có thể lựa chọn từ thích hợp đã
tìm được ở dạng bài tập này để miêu tả tính cách, hình dáng của một người nhằm phục
vụ trực tiếp đến việc dùng từ đặt câu chính xác phù hợp văn cảnh khi làm văn Tả người
của các em.
1.1.2 Loại bài tập củng cố. Kiểm tra về nghĩa của từ.

Khi được luyện tập trên những bài này, học sinh nắm chắc được nghĩa của từ và
hiểu rằng trong nhiều trường hợp, để diễn đạt một điều gì đó thì khơng phải chỉ có duy
nhất một từ mà cịn bao nhiêu từ khác gần nghĩa, đồng nghĩa có thể thay thế cho nó. Từ
đó mà bài văn của các em có cách diễn đạt phong phú hơn.
Bài 1: Cho các từ sau:


14

Cao lớn, trung thực, lười nhác, giả dối, nhỏ bé, chăm chỉ, sần sùi, trắng trẻo, mịn
màng, lực lưỡng, mảnh khảnh, đen đủi, mập mạp, còm nhom, gian giảo, nhút nhát, bạo
dạn, chất phác, nhu nhược, hèn yếu, anh dũng, siêng năng, lười biếng...
- Hãy chia các từ trên thành hai nhóm và đặt tên cho mỗi nhóm.
- Tìm những cặp từ trái nghĩa trong cùng nhóm.
Ở bài tập này giúp học sinh có khả năng lựa chọn một từ trong nhóm từ cùng
nghĩa - gần nghĩa - trái nghĩa để diễn đạt chính xác nội dung của một câu văn, đoạn văn
mà mình định viết. Ngồi ra, loại bài tập này không chỉ giúp các em diễn đạt một cách
tinh tế nội dung tư tưởng của mình mà cịn cung cấp thêm vốn từ tránh những trường
hợp sử dụng từ nhầm lẫn (về nghĩa và sắc thái biểu cảm).
Bài 2: Hãy gạch chân dưới những từ dùng chưa phù hợp rồi sửa lại cho đúng.
- Cơ giáo em có nước da đen sì. Giọng nói của cơ oang oang.
- Hùng chạy đuổi nhau trên sân trường thở hồng hộc.
- Bạn Hiếu là người có tấm lịng bác ái.
- Bố mẹ em rất được ông bà trọng vọng.
Với dạng bài tập này, tôi đã tiến hành làm như sau:
1. Phát hiện từ dùng sai
2. Sửa lại cho đúng
Để giải quyết yêu cầu 1, tôi dẫn dắt để học sinh thấy được đối tượng miêu tả là ai,
thái độ của người viết đối với người định tả thế nào, từ dùng ở hồn cảnh đó đúng
chưa?...

Dựa vào định hướng của cơ, học sinh đã xác định được những từ dùng chưa phù
hợp như sau:
- Cơ giáo em có nước da đen sì. Giọng nói của cơ oang oang.
- Hùng chạy đuổi nhau trên sân trường thở hồng hộc.
- Bạn Hiếu là người có tấm lịng bác ái.
- Bố mẹ em rất được ông bà trọng vọng
Để giải quyết yêu cầu 2, giáo viên cần giúp học sinh nhận ra được các từ gạch
chân ở trên dùng chưa thích hợp với đối tượng và văn cảnh tả:
- Đối tượng được tả trong câu văn trên là ai? (Cô giáo, bạn bè, người thân)


15

- Họ có mối quan hệ với em ra sao? (là thầy cơ dạy mình, là bạn bè, là người
thân....)
- Khi muốn nói về người tốt hoặc người thân, bạn bè, nói về tình cảm của bề trên
với bề dưới mà chúng ta dùng các từ gạch chân như văn cảnh trên đã thể hiện được sự
kính trọng hay tơn trọng chưa? (chưa được).
- Vậy ta phải thay thế chúng như thế nào? (Tìm các từ có cùng nghĩa, trái nghĩa,...
để thay thế)
Giáo viên cho học sinh thi đua tìm từ thay thế và tự sửa lại cho phù hợp văn cảnh.
Nếu học sinh yếu khơng tìm được thì giáo viên có thể cung cấp nhóm từ cho học
sinh lựa chọn. Như:
- Đen sì: đen nhẻm, da nâu, da bánh mật, da dám nắng...
- Oang oang: vang vang, ông ổng, thánh thót, trầm ấm, trong trẻo....
- Hồng hộc: hổn hển, phì phị....
- Bác ái: nhân hậu, nhân ái, thương người...(Giáo viên lưu ý khi học sinh lựa
chọn từ bác ái, nhân ái là: dùng từ này không sai nhưng chỉ nên dùng khi nói về một
người quan trọng, một vĩ nhân cịn nói về người bình thường như chúng ta trong cuộc
sống hằng ngày thì khơng nên).

- Trọng vọng: tin yêu, tin tưởng, đề cao, đánh giá cao...
Qua đó học sinh đã sửa được câu như sau:
- Cô giáo em có nước da bánh mật. Giọng nói của cơ trầm ấm (thánh thót).
- Hùng vừa thi chạy xong thở hổn hển.
- Bạn Hiếu có tấm lịng nhân hậu (thương người).
- Bố mẹ em rất được ông bà tin tưởng (tin yêu).
Vậy bài tập này nhằm giúp học sinh nhận biết được lỗi dùng từ sai, biết tìm
từ khác để thay thế, sửa chữa khi dùng từ chưa chính xác. Ngồi ra bài tập còn
cung cấp và làm giàu vốn từ cho học sinh, tạo điều kiện thuận lợi cho các em lựa
chọn khi miêu tả hình dáng, tính nết của một người. Đặc biệt lưu ý là khi tả người,
cách dùng từ phải phù hợp với đối tượng miêu tả, thể hiện được thái đợ, tình cảm
với người được tả.
1.1.3 Loại bài tập về từ láy:
Ví dụ: Khi dạy tiết 30 (tuần 15). Bài 3: Tìm các từ ngữ miêu tả hình dáng người
như mái tóc, đơi mắt, khn mặt, làn da, vóc người, tơi cịn u cầu các em là tìm thêm
các từ láy tả hình dáng, giọng nói của người.


16

Tơi thường u cầu các em như: Hãy tìm các từ láy miêu tả người?
- Tả mái tóc: mượt mà, lơ thơ, dày dặn, xơ xác, lưa thưa, óng ả...
- Tả đôi mắt: lay láy, mơ màng, sâu thăm thẳm, đỏ đọc...
- Tả khn mặt: bầu bĩnh, bầu bầu trịn trịa, bụ bẫm, nhẹ nhõm, vuông vức, đầy
đặn, nho nhã, tươi tỉnh...
- Tả giọng nói: thánh thót, ngân nga, nhẹ nhàng, trong trẻo, ông ổng, oang oang,
khà khà...
- Tả thân hình: vạm vỡ, mập mạp, to bè bè, lực lưỡng, thanh mảnh, dong dỏng,
thon thả, khỏe khoắn...
- Dáng đi: uyển chuyển, thướt tha, ưỡn ẹo, khệnh khạng, tấp tểnh, hấp tấp....

- Tả đôi tay: gầy gầy, xương xương, thon thả, nhỏ nhắn.....
- Tả làn da: trắng treo, trắng nõn nà, ngăm ngăm, mịn màng, nhẵn nhụi, nhăn
nheo, sần sùi, xù xì, đen đúa, hơng hào, xanh xao, vàng vọt...
- Tả hàm răng: Đều đặn, đều như hặt bắp, trắng phau, trắng tinh, khấp khểnh...
- Tả tính tình: gần gũi, dịu dàng, nết na, cầu kì, cẩn thận, chỉn chu, khéo léo, cấm
cảu, gắt gỏng, càu nhàu...
Sau khi học sinh tìm xong các từ theo yêu cầu, tôi giúp các em thấy được tầm
quan trọng của những từ láy, nhất là các từ gợi hình ảnh, gợi âm thanh đều có sức gợi tả,
gợi cảm cao. Nếu sử dụng nó trong văn miêu tả nói chung và văn tả người nói riêng sẽ
tăng giá trị biểu đạt cho câu văn, bài văn, làm cho câu văn, bài văn giàu hình ảnh và sinh
động hơn.Tóm lại loại bài tập này góp phần làm giàu vốn từ cho học sinh, một lần nữa
giúp học sinh có thêm sự lựa chọn từ ngữ để miêu tả sao cho sinh động và giàu hình ảnh
hơn.
1.1.4 Loại bài tập về thành ngữ, quán ngữ, tục ngữ:
Ngoài việc cung cấp, làm giàu thêm vốn từ cho các em thì giáo viên cũng cần
quan tâm đến việc dạy thành ngữ, quán ngữ và tục ngữ thông dụng nhằm giúp cho cách
diễn đạt của các em trong sáng, nhuần nhuyễn và sinh động, ngôn ngữ phong phú mang
đậm bản sắc dân tộc. Sau khi học sinh học xong bài 2 tiết 30 tuần 15 tôi cho thi đố vui
trong mục hoạt động tập thể của tiết sinh hoạt lớp hoặc những giờ luyện Tiếng việt, tiết
mở rộng vốn từ theo chủ đề...nếu thấy thích hợp. Sau đó tơi cho học sinh liên hệ sử dụng
một số thành ngữ, tục ngữ, quán ngữ trong văn miêu tả, giúp các em nhận biết là sử
dụng trong trường hợp nào để tả người:
+ Quan hệ gia đình:
- Chị ngã em nâng.


17

- Anh em như thể chân tay.
Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần

- Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
- Con có cha như nhà có nóc.
- Con hơn cha là nhà có phúc.
- Cá không ăn muối cá ươn,
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.
- Con hát, mẹ khen hay.
- Cắt dây bầu dây bí,
Ai nỡ cắt dây chị dây em
- Khơn ngoan đối đáp người ngồi,
Gà cùng một mẹ chớ hồi đá nhau.
- Kính trên nhường dưới.
- Máu chảy ruột mềm.
- Tay đứt ruột xót.
+ Quan hệ thầy trị:
- Khơng thầy đố mày làm nên.
- Muốn sang thì bắc cầu Kiều
Muốn con hay chữ thì u lấy thầy.
- Kính thầy yêu bạn.
- Tôn sư trọng đạo.
Một chữ là thầy, nửa chữ cũng là thầy.
+ Quan hệ bạn bè:
- Học thầy không tầy học bạn.
- Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ
- Một cây làm chẳng lên non
Ba cây chụm lại lên hòn núi cao.


18


- Bán anh em xa. Mua láng giềng gần.
- Thua thầy một vạn không bằng kém bạm một li.
- Bạn bè con chấy cắn đôi.
- Bạn nối khố.
- Bốn biển một nhà.
- Bn có bạn, bán có phường.
- Bạn bè là nghĩa tương tri,
Sao cho sau trước chọn bề mới yên.
+ Nhận xét về con người:
- Tài sắc vẹn toàn, khôi ngô tuấn tú, đẹp như hoa, đẹp như tiên, nghiêng nước
nghiêng thành, trắng như tuyết, đỏ như son, khỏe như trâu, khỏe như voi, hiền như đất,
hiền như Bụt, nóng như lửa.
+ Nói về như vất vả, khó nhọc:
- Vượt núi băng rừng, trèo đèo lội suối, chân lấm tay bùn, hai sương một nắng,
thức khuya dậy sớm, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời.
Loại bài tập này giúp học sinh làm giàu vốn thành ngữ tục ngữ của mình, hiểu
được nghĩa của thành ngữ tục ngữ. Qua đó các em có thể sử dụng trong mọi tình huống
giáo tiếp và sử dụng trong văn tả người như nêu tình cảm của người viết với người được
tả hay nhận xét về mối quan hệ của đối tượng miêu tả trong bài với mọi người xung
quanh hay nhận xét về tính cách, vẻ đẹp hình dáng, tâm hồn... của đối tượng tả, trong bài
văn tả người không chỉ sử dụng có từ đơn, từ ghép, từ láy mà cịn có cả thành ngữ, tục
ngữ, ca dao... làm cho bài văn có ngơn từ đa dạng, xúc tích, phong phú hơn.
1.1.5. Dạy Tập làm văn qua đơn vị câu, dấu câu:
Một thực trạng khá phổ biến ở các bài văn của học sinh hiện nay là học sinh
thường viết những câu " què”, câu " cụt” và bài viết không có dấu ngắt câu. Có khi
trong cả bài viết các em chỉ ngắt câu để phân biệt ba phần: Mở bài, thân bài, kết bài. Vì
vậy, trước hết giờ học về câu cần rèn cho học sinh kĩ năng viết câu đúng. Có thể thực
hiện điều này qua việc cho các em làm các bài tập thực hành về câu, sửa các viết sai câu
và dùng sai dấu trong tiết Trả bài Tập làm văn. Một số bài học sinh viết như sau:
Bài 1: "Mẹ em đẹp lắm mẹ có dáng người nhỏ nhắn nước da trắng hồng đôi bàn

tay dịu dàng của mẹ làm không biết bao nhiêu là việc cho em và gia đình mẹ đẹp người
và cũng đẹp cả nết..”


19

Bài này học sinh chỉ sai là không chấm câu cịn ý và nội dung thì đảm bảo. Vậy
tơi u cầu học sinh đọc và xác định:
- Đoạn văn trên tác giả tả đến đặc điểm nào của mẹ?
- Mỗi đặc điểm đó có tương tương với một ý khơng?
- Mỗi ý diễn đạt trọn vẹn có tương đương với một câu không?
- Hãy ngắt đoạn văn trên thành các câu tương đương với mỗi ý vừa xác định
được: đặt dấu chấm và viết hoa câu cho đúng.
Qua gợi ý học sinh đã sửa được như sau:
" Mẹ em đẹp lắm. Mẹ có dáng người nhỏ nhắn, nước da trắng hồng. Đôi bàn tay
dịu dàng của mẹ làm không biết bao nhiêu là việc cho em và gia đình. Mẹ đẹp người và
cũng đẹp cả nết...”
Bài 2: Sửa các dòng chưa thành câu cho thành câu:
- Trên gương mặt hồng hào.
- Chịm râu trắng ấy.
- Trong đơi mắt sâu thẳm của mẹ.
- Bằng tình thương u cơ truyền cho tơi.
u cầu học sinh chữa các dòng cho thành câu bằng hai cách khác nhau: bỏ một
từ hoặc thêm bộ phận chủ ngữ, vị ngữ (đây thường là những dịng có các từ "khi”,
"qua”, "trên”,"trong” đứng ở đầu câu đó là những trạng ngữ dài hoặc chỉ là một ngữ
danh từ mà học sinh lầm tưởng là câu). Trong quá trình sửa sai tơi cịn lưu ý thêm cho
học sinh ngồi việc diễn đạt bằng những câu đơn còn phải diễn đạt bằng câu ghép hoặc
câu có nhiều thành phần thì câu văn, đoạn văn sẽ không khô khan cứng nhắc mà trái lại
rất mượt mà, sinh động. Các em có thể viết được những câu văn cấu tạo không chỉ có
thành phần chính (chủ ngữ-vị ngữ) mà cịn có nhiều thành phần phụ nhằm diễn tả sinh

động đối tượng được nói đến (về màu sắc, hình dạng, kích thước, tính chất, hoặc đặc
điểm riêng) qua việc làm các bài tập thực hành phân loại và viết các kiểu câu theo cấu
tạo.
Ví dụ: Tách các bộ phận câu, ghép các bộ phận câu cho trở thành câu đúng, thêm
bộ phận thích hợp vào chỗ trống trong câu, đặt câu theo mô hình, theo đề hoặc cấu trúc
cho sẵn, chuyển hai câu đơn thành câu ghép theo yêu cầu.
Qua các bài tập câu, dấu câu, giáo viên giúp các em rèn luyện kĩ năng sử dụng dấu câu,
đặt câu. Qua đó học sinh thấy rằng: Muốn diễn đạt đúng ý, tình cảm của mình đối với
người định tả và để người đọc, người nghe thông hiểu và cảm nhận được nội dung ý tứ
của bài văn thì phải biết diễn đạt thành câu rõ ý, đủ lời. Từ đó giúp các em làm quen với


20

các kiểu câu khi diễn đạt và cấu trúc của một câu đúng, câu đủ thành phần, có thói quen
và ý thức viết đúng câu, sử dụng đúng dấu câu. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc
viết đoạn, viết bài tốt hơn.
1.1.6 Loại bài tập viết đoạn văn ngắn theo chủ đề, đề tài:
Tiết luyện từ ở lớp 4-5 có loại bài dùng từ đặt câu, viết thành một đoạn văn ngắn
theo chủ đề đã xác định nhằm luyện cho học sinh cuối bậc Tiểu học kĩ năng sử dụng từ
ngữ ở mức độ cao, trực tiếp phục vụ cho việc làm văn nói-viết. Ở những bài tập này,
giáo viên gợi ý hướng làm bài cho các em bằng một số câu hỏi nhằm viết một đoạn văn
mạch lạc, đúng chủ đề cho trước (hoặc vấn đề do học sinh tự chọn theo yêu cầu của đề
bài).
Ví dụ: (Bài tập 2 tiết 28. Ôn tập về từ loại trang 143 Tiếng Việt 5 tập 1) đã yêu
cầu học sinh dựa vào khổ thơ 2 của bài Hạt gạo làng ta để viết một đoạn văn ngắn tả mẹ
đi cấy giữa trưa tháng sáu.
Hay (bài tập 4 tiết 30. Bài tổng kết vốn từ trang 151 Tiếng Việt lớp 5 tập 1). Yêu
cầu của bài là dùng một số từ (khoảng 5 từ ngữ) ở bài 3 để đặt câu viết một đoạn văn
ngắn tả về hình dáng của một người thân hoặc một người em quen biết.

- Sau khi cho học sinh đọc sách giáo khoa, xác định yêu cầu bài tập, giáo viên gợi
ý bằng một số câu hỏi sau:
+ Người em định tả là ai? (bà, bố, mẹ, cô giáo.)
+ Đề bài yêu cầu tả chân dung hay hoạt động của người?
+ Người đó có hình dáng hay hoạt động gì nổi bật?(mái tóc, khn mặt, dáng đi,
tư thế, tác phong, hành động trong lúc làm việc).
- Ngoài việc giúp học sinh nắm vững bài học, hiểu yêu cầu bài tập, giáo viên còn
phải lưu ý thêm: để viết được đoạn văn ngắn theo yêu cầu thì phải xác định được nội
dung và tìm ý, sắp xếp các ý rồi tìm cách diễn đạt sao cho phù hợp với nội dung đó. Nhờ
vào định hướng trên học sinh đã viết như sau:
"Bà nội em đã ngoài 70 tuổi. Mái tóc của bà bạc phơ ln búi cao sau gáy.
Gương mặt già với nhiều nếp nhăn hằn sâu. Lưng đã hơi còng, chân tay gầy guộc nhưng
dáng đi của bà vẫn còn nhanh nhẹn lắm.”(Bài tập 4 tiết 30)
"Mẹ em có dáng người nhỏ bé, lọt thỏm trong bộ quần áo bà ba đen. Mái tóc dài
được mẹ búi cao để khi cúi xuống cấy tóc khơng bi bẩn. Đôi tay của mẹ đang thoăn
thoắt như múa trên mặt ruộng. Thỉnh thoảng mẹ lại đứng lên cho lưng đỡ mỏi và đưa
mắt nhìn những hàng mạ thẳng tắp vừa mới cấy xong có vẻ hài lịng. Nhìn cách mẹ chia
mạ, chăng dây và cấy em thán phục mẹ biết bao.” (bài tập 2 tiết 28).



×