Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Thực trạng công tác cán bộ của đảng ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.99 KB, 15 trang )

3.1. Thực trạng công tác cán bộ của Đảng ta hiện nay
3.1.1. Ưu điểm
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, truyền thống đoàn kết
trong đội ngũ cán bộ đảng không ngừng được giữ vững và củng cố trên cơ sở
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; thống nhất cao về đường lối
và chủ trương; không có mâu thuẫn, phe phái. Điều đó đã tạo ra sức mạnh
giúp cán bộ ta vượt qua nhiều khó khăn phức tạp của giai đoạn chuyển đổi
nền kinh tế và hội nhập quốc tế.
Nhiều cán bộ chủ chốt các cấp có ý thức kỷ luật, trung thực, gương
mẫu về đạo đức, lối sống; được quần chúng tín nhiệm, tin yêu; trong đấu
tranh cách mạng và sẵn sàng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc và bảo vệ
thành quả của cách mạng.
Trong đội ngũ cán bộ đảng các cấp, nhiều người giữ được phẩm chất
đạo đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư; có ý thức tổ chức
kỷ luật, giữ gìn đồn kết trong Đảng; gắn bó với nhân dân, lời nói đi đơi với
việc làm. Đội ngũ này có tinh thần chủ động, độc lập suy nghĩ, hành động;
kiên trì tìm tịi cái mới, có khả năng dự báo các tình huống và có ý thức tích
cực lựa chọn các cách giải quyết thích hợp.
Như vậy, phẩm chất (chính trị, đạo đức, lối sống) là nét nổi bật hơn cả
của cán bộ đảng so với các cán bộ khác. Trong đó, trước hết phải kể đến cán
bộ đảng ở cấp Trung ương.
Công cuộc đổi mới thu được những thành quả to lớn, có ý nghĩa rất
quan trọng, là kết quả của đường lối đúng đắn do Đảng khởi xướng và lãnh
đạo, là bằng chứng sinh động về sự năng động, sáng tạo đề ra đường lối cũng
như tổ chức thực hiện có hiệu quả về kinh tế - chính trị - xã hội của đội ngũ
cán bộ đảng trong thời kỳ mới. Ở đây, trước hết phải kể đến vai trò của Ban
Chấp hành Trung ương và Bộ chính trị.


Còn ở các cấp lãnh đạo đảng, năng lực lãnh đạo được hình thành ngày
càng rõ hơn, thơng qua hệ thống quan điểm chỉ đạo công cuộc đổi mới, đi sâu


vào nhiện vụ trọng tâm là đổi mới kinh tế, nhiệm vụ then chốt là xây dựng
đảng, đồng thời trong quá trình lãnh đạo đã khẳng định được hướng đổi mới
đồng bộ trên các lĩnh vực khác.
Ở mỗi cấp trên cương vị lãnh đạo của mình, đội ngũ cán bộ đảng đã kịp
thời đánh giá tình hình kinh tế - xã hội, đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu thích hợp, đưa công cuộc cách mạng
tiến lên; nhạy bến trước những tình hình phức tạp mới nảy sinh, có biện pháp
ngăn chặn các hành động vi phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của
đất nước và đề ra nhiệm vụ chống âm mưu “diễn biến hịa bình” của các thế
lực thù địch.
Trí tuệ của cán bộ đảng được thể hiện rõ trong các Nghị quyết của
Đảng, là tiền đề để tạo cơ sở thống nhất tư tưởng và hành động của toàn
Đảng, toàn dân. Các Nghị quyết của Đảng đã được cơ qun nhà nước thể chế
hóa, các cấp ủy của đảng, các đoàn thể nhân dân xây dựng thành chương trình
hành động và chỉ đạo triển khai thực hiện trong cuộc sống, là nhân tố bảo đảm
và quyết định cho công cuộc đổi mới đi đúng định hướng, giành được những
thành tựu to lớn, tạo tiền đề thuận lợi để đưa đất nước chuyển sang thời kỳ
phát triển mới.
3.1.2. Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, đội ngũ cán bộ đảng cũng cịn có
những yếu kém sau đây:
Một số ít cán bộ dao động, giảm sút niềm tin, nhận thức mơ hồ vè chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa xã hội, hồi nghi
đường lối của Đảng.


Có cán bộ do bất mãn cá nhân mà đi đến phản bội Đảng, phản bội Tổ
quốc và lợi ích cảu nhân dân. Nguy hại là trong số đó có cả những người đã
từng là cán bộ cao cấp của Đảng.
Một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt có biểu hiện chủ quan, thiếu dân chủ;

ở một số ngành, địa phương có tình trạng mất đồn kết; có một bộ phận cán
bộ thối hóa, biến chất về đạo đức, lối sống, lợi dụng chức quyền để tham
nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính, lãng phí của cơng, quan liêu, gia trưởng,
độc đoán, tham vọng cá nhân, cục bộ, cơ hội.
Một số tuy có tâm huyết với sự nghiệp cách mạng nhưng chưa thực sự
yên tâm gắn bó với cương vị của mình. Có những cán bộ đảng, thậm chí cả Bí
thư, Thường vụ khơng thích làm cơng tác đảng, mà muốn coi chức danh Đảng
là một chức danh kiêm nhiệm. Trong các cơ quan chuyên môn của Nhà nước,
trong các doanh nghiệp, vai trò của cán bộ đảng còn mờ nhạt.
Trong đội ngũ cán bộ đảng, trước hết là Ban Thường vụ, Ban Chấp
hành đảng bộ các cấp còn chưa có sự coi trọng đúng mức việc đấu tranh với
những tiêu cực của cơ chế thị trường, với những hành động vi phạm pháp luật
và trái với đạo đức của người cộng sản. Phương án tổng thể về đổi mới
phương thức lãnh đạo cảu Đảng nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát
huy hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước và vai trò chủ động, sáng tạo
của nhân dân… chưa được xác định rõ. Tình trạng lấn sân, bao biện, làm thay,
v.v., khơng phải là ít, nhất là ở các địa phương.
Số lượng và cơ cấu đội ngũ cán bộ lãnh đạo đảng cịn tình trạng “vừa
thừa, vừa thiếu”, không đồng bộ giữa cấp Trung ương với địa phương, giữa
các ngành, lĩnh vực với các vùng lãnh thổ, các địa phương ví dụ như 88,4%
Ủy viên Ban Thường vụ tỉnh ủy vùng đồng bằng sơng Hồng có trình độ
chun mơn đại học, trong khi đó ở vùng đồng bằng sơng Cửu Long chỉ có
17,7%, v.v..


Cơ cấu cán bộ đảng còn thiếu đồng bộ. Rõ nhất là có sự hẫng hụt thế
hệ, bất cập so với yêu cầu mà Đại hội VIII của Đảng để ra: “đảm bảo tiêu
chuẩn thực hiện trẻ hóa đội ngũ cán bộ, đồng thời kết hợp tốt các độ tuổi, bảo
đảm tính liên tục, tính phát triển của đội ngũ cán bộ”. Số liệu điều tra cán bộ
năm 1997 cho thấy, tuổi đời cán bộ các cấp đều ở mức cao. Số lượng cán bộ

tuổi đời trên 56 chiếm tỷ lệ lớn trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo đảng: Trưởng
ban Đảng chiếm 68,5%, Bí thư tỉnh, thành ủy chiếm 40%; Bộ trưởng chiếm
66,3%; Thứ trưởng chiếm 56%; trưởng đơn vị thuộc Chính phủ chiếm 72,8%.
Trong đó cán bộ chủ chốt có tuổi đời trên 60 chiếm tỷ lệ cao. Vì vậy, đến đầu
thế kỷ XXI, số cán bộ đang cùng một lúc phải thay thế nhiều có thể dẫn đến
không đảm bảo yêu cầu cơ cấu hợp lý giữa ba độ tuổi ở các cấp.
Ngoài những điểm chung đã nói trên, đội ngũ cán bộ đảng ở từng cấp
có những mặt mạnh, mặt yếu khác nhau. Nhưng nhìn chung, đội ngũ cán bộ
đảng hiện nay, xét về các chỉ tiêu chất lượng, số lượng và cơ cấu, có nhiều
mặt chưa đáp ứng được đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Ở cấp Trung ương, trong thời kỳ đổi mới, đội ngũ cán bộ lãnh đạo đảng
đã nêu cao ý thức rèn luyện, học tập trong thực tiễn và ở trường lớp với các
hình thức học tập khác nhau; trình độ kiến thức chuyên mơn, lý luận chính trị,
kiến thức quản lý kinh tế, quản lý hành chính nhà nước được nâng lên cao
hơn so với thời gian trước đó (như đã nêu ở phần trên).
Tuy vậy, trong nhiều năm qua, ta thường có khuynh hướng quá nhấn
mạnh vào cơ cấu, coi đó là cái bảo đảm cho sự lãnh đạo toàn diện. Do vậy,
trong thực tế đã xem nhẹ tiêu chuẩn dẫn đến chủ quan, bỏ sót khơng ít cán bộ
giỏi. Số cán bộ xuất thân từ công nhân chưa được chú ý đào tạo, bồi dưỡng,
thử thách, giao việc một cách có kế hoạch dài hạn. Tỷ lệ Ủy viên Ban Chấp
hành Trung ương xuất thân từ cơng nhân các khóa giảm dần: khóa V là
16,4%, khóa VI là 12,7%, khóa VII là 11,76%; đến khóa VIII là 10%. Về tuổi


đời: Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương (nhiệm kỳ 1996 – 2000) so với
nhiệm kỳ trước (1990 – 1995) đã hạ tuổi bình qn từ 57,1 xuống cịn 54,5
tuổi.
Ở cấp tỉnh, thành phố, Ủy viên Ban Chấp hành tỉnh, thành: bầu mới
34,8%; nữ chiếm 11,2%; xuất thân từ công nhân 2,2%; trình độ lý luận chính

trị cao cấp 79,3%; trình độ chun mơn cao đẳng, đại học trở lên 65%; đã học
quản lý kinh kế 32,2%; đã học quản lý nhà nước 27,3%. Ủy viên Thường vụ
tỉnh, thành: bầu mới 77,7%; nữ chiếm 8,2%; xuất thân từ công nhân 5,9%;
trình độ lý luận chính trị cao cấp 85,4%; trình độ chuyên môn cao đẳng, đại
học trở lên 61,5%; đã học quản lý kinh tế 31,5%; đã học quản lý nhà nước
36,3%; tuổi đời từ 56 trở lên chiếm 21,3%. Bí thư tỉnh, thành: bầu mới
78,3%; nữ chiếm 8,3%; xuất thân từ cơng nhân11,7%; trình độ lý luận chính
trị cao cấp 98,3%; trình độ chun mơn cao đẳng, đại học trở lên 75%; đã học
quản lý kinh tế 55%; đã học quản lý nhà nước 45%; tuổi đời từ 56 trở lên
chiếm 40%. Phó bí thư tỉnh, thành: bầu mới 85,1%; nữ chiếm 1,8%; xuất thân
từ cơng nhân 6,1%; trình độ lý luận chính trị cao cấp 86,8%; trình độ chuyên
môn cao đẳng quản lý nhà nước 50,9%; tuổi đời từ 56 trở lên chiếm 26,3%.
Ở cấp huyện, quận, Ủy viên Ban Chấp hành quận, huyện: bầu mới
27,8%; nữ chiếm 11,7%; xuất thân từ cơng nhân 4,6%; trình độ lý luận chính
trị cao cấp 26,3%; trình độ chun mơn cao đẳng, đại học trở lên 39,3%; đã
học quản lý kinh kế 14,6%; đã học quản lý nhà nước 16,6%. Bí thư huyện,
quận: bầu mới 76%; nữ chiếm 3,7%; thành phần bản thân cơng nhân 4,9%;
trình độ lý luận chính trị cao cấp 69,4%; trình độ chun mơn cao đẳng, đại
học trở lên 44,2%; đã học quản lý kinh tế 29,4%; đã học quản lý nhà nước
40,6%; tuổi đời từ 56 trở lên chiếm 1,7%. Phó bí thư huyện, quận: bầu mới
76,7%; nữ chiếm 5,1%; xuất thân từ công nhân 4,1%; trình độ lý luận chính
trị cao cấp 65,6%; trình độ chuyên môn cao đẳng, đại học trở lên 47,1%; đã


học quản lý kinh tế 24,1; đã học quản lý nhà nước 39,2%; tuổi đời từ 56 trở
lên chiếm 5,6%.
Ở cấp cơ sở: Bí thư đảng ủy xã, phường, và thị trấn cả nước có trên
10.000 người. Trong đó có 3% là nữ; cán bộ, công nhân nghỉ hưu chiếm
7,7%; bộ đội xuất ngũ, nghỉ hưu chiếm 34,6%; bầu mới là 66,5%; tuổi đời từ
50 trở lại chiếm 81,1%; trình độ văn hóa cấp I chỉ chiếm 8% và cấp II là

41,8%; trình độ chun mơn trung cấp là 11,8% và cao đẳng, đại học trở lên
là 6,0%; trình độ lý luận chính trị cao cấp 8,0% và trung cấp 58,3%; đã học
quản lý nhà nước 20,2% và quản lý kinh tế 6,9%.
3.2. Nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ
mới
3.2.1. Quy hoạch cán bộ
Quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ, bảo
đảm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động đáp ứng nhiệm vụ trước
mắt và lâu dài.
Quy hoạch cán bộ là việc lập dự án thiết kế xây dựng tổng hợp đội ngũ
cán bộ, dự kiến bố trí, sắp xếp tổng thể đội ngũ cán bộ theo một ý đồ rõ rệt,
với một trình tự hợp lý, trong một thời gian nhất định, làm cơ sở cho việc lập
kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ.
Như vậy, quy hoạch cán bộ ở giữa chiến lược cán bộ và kế hoạch cán
bộ. Chiến lược cán bộ đề cập đến những quan điểm, phương châm và phương
hướng có tính tồn cục; xác định mục tiêu chủ yếu và sắp xếp lực lượng trong
suốt cả một thời kỳ. Đặc điểm của chiến lược cán bộ là đề cập tới vấn đề rộng
lớn, những vấn đề chủ yếu, có tính bao qt, định hướng trong một thời gian
dài. Trên cơ sở chiến lược cán bộ mà xây dựng quy hoạch cán bộ.
Sau khi có quy hoạch cán bộ mới xây dựng kế hoạch cán bộ. Kế hoạch
cán bộ là toàn bộ những điều vạch ra một cách hệ thống về nội dung những


công việc dự định làm trong một thời gian nhất định với những cách thức,
trình tự và thời hạn tiến hành cụ thể.
Trên cơ sở chiến lược cán bộ và quy hoạch cán bộ đúng mới có thể xây
dựng kế hoạch cán bộ tốt. Đây là ba nội dung rất trọng yếu trong cơng tác cán
bộ có quan hệ hữu cơ với nhau. Chất lượng công tác cán bộ trước hết phụ
thuộc vào việc xác định đứng và thực hiện tốt ba vấn đề quan trọng đó.
Như vậy, nội hàm khái niệm quy hoạch cán bộ có hai nội dung chính:

Một là, việc lập dự án thiết kế xây dựng tổng hợp đội ngũ cán bộ. Nội
dung này rất gần với chiến lược cán bộ, cụ thể những quan điểm, phương
châm, nguyên tắc và mục tiêu, giải pháp trong chiến lược cán bộ. Đặc biệt
những vấn đề sau đây phải xác định thật rõ trong quy hoạch cán bộ:
Thứ nhất, mục tiêu của quy hoạch. Tùy phạm vi, tính chất của từng loại
quy hoạch cán bộ mà mục tiêu sẽ khác nhau. Quy hoạch cán bộ của cả nước
có mục tiêu khác mục tiêu quy hoạch cán bộ của từng cấp, từng ngành.
Thứ hai, quán triệt cơ cấu cán bộ trong quy hoạch cán bộ. Cơ cấu chất
lượng, cơ cấu độ tuổi, cũng như cơ cấu giai cấp, dân tộc và giới tính phải
được thể hiện trong quy hoạch cán bộ một cách hợp lý.
Thứ ba, tiêu chuẩn hóa các chức danh cán bộ thuộc diện quy hoạch. Có
xác định đúng tiêu chuẩn chức danh cán bộ mới có cơ sở đánh giá, lựa chọn
để quy hoạch đúng, mới đào tạo theo tiêu chuẩn và phấn đấu theo tiêu chuẩn.
Thứ tư, xác định nguồn cán bộ và con đường hình thành của cán bộ
trong quy hoạch. Hiện nay mỗi cấp, mỗi ngành phải có kế hoạch tạo nguồn
cán bộ, cần phải chú trọng: Những cán bộ lãnh đạo, quản lý, cơng chức có
thành tích xuất sắc trong cơng cuộc đổi mới dưới 45 tuổi; những cơng nhân,
nơng dân, trí thức, cán bộ và chiến sĩ lực lượng vũ trang ưu tú, cán bộ dân tộc
thiểu số, cán bộ nữ, con em gia đình có cơng với cách mạng có triển vọng, có
thành tích xuất sắc; các sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, các nhà khoa học trẻ
tuổi.


Hai là, dự kiến bố trí, sắp xếp tổng thể đội ngũ cán bộ theo một ý đồ rõ
rệt, với một trình tự hợp lý, trong một thời gian nhất định… Nội dung nầy rất
gần với kế hoạch cán bộ. Trong quy hoạch cán bộ khơng đi sâu trình bày cách
thức, trình tự và thời hạn tiến hành một cách cụ thể như kế hoạch cán bộ.
Ở nội dung này, quy hoạch cán bộ cần chú trọng:
Thứ nhất, xác định rõ phạm vi và đối tượng quy hoạch. Quy hoạch tổng
thể hoặc quy hoạch từng loại cán bộ. Quy hoạch cán bộ đảng, chính quyền

hay đồn thể… Các chức danh trong quy hoạch phải được xác định rõ ràng.
Thứ hai, gắn quy hoạch cán bộ với các khâu trong công tác cán bộ, nư
xác định tiêu chuẩn, đánh giá, tuyển chọn, sử dụng, quản lý và chính sách đãi
ngộ cán bộ.
Tóm lại, quy hoạch cán bộ phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị, nhiệm
vụ tổ chức; đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ, cơng chức hiện có; dự kiến
nhu cầu và khả năng phát triển của đội ngũ cán bộ, cơng chức để chủ động, có
phương hướng đào tạo, bồi dưỡng. Đặc biệt chú trọng tạo được nguồn cán bộ
dồi dào, đủ tiêu chuẩn để kịp thời đáp ứng yêu cầu, tập trung vào cán bộ lãnh
đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân các cấp, cán bộ lãnh đạo lực lượng
vú trang, cán bộ khoa học và chuyên gia, cán bộ quản lý doanh nghiệp.
3.2.2. Xây dựng và thực hiện tốt các quy chế công tác cán bộ
Để đạt được mục tiêu và thực hiện đưng các quan điểm chỉ đạo công
tác cán bộ, cần xây dựng hệ thống các quy chế trong từng khâu công tác cán
bộ thật sự khoa học, cụ thể và thực hiện tốt các quy chế đó. Trên cơ sở các
quy chế chung, từng cấp, từng ngành cần quán triệt, vận dụng để xây dựng
các quy định thích hợp. Nghi quyết Trung ương 3 khóa VIII về chiến lược cán
bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nêu mười quy
chế:
Thứ nhất, về đánh giá cán bộ.


Trong quy chế đánh giá cán bộ phải thể hiện được các quan điểm,
nguyên tắc, nội dung và phương pháp sau đây:
Việc đánh giá cán bộ phải làm hàng năm, trước khi cán bộ kết thúc
nhiệm kỳ hoặc chuyển công tác hay hết thời hạn tập sự.
Đánh giá cán bộ phải căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ; chất lượng hiệu quả
cơng việc thực tế, có tính đến mơi trường và điều kiện cơng tác; mức độ tín
nhiệm của quần chúng nơi công tác và nhân dân nơi cán bộ sinh sống.
Trách nhiệm đánh giá cán bộ thuộc về cấp ủy, tổ chưc đảng nơi cán bộ

sinh hoạt, cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp của cán bộ và bản thân cán bộ tự
đánh giá. Việc đánh giá cán bộ phải trên cơ sở thực hiện nghiêm túc chế độ tự
phê bình và phê bình, theo nguyên tắc tập thể, dân chủ, công khai, kết luận
theo đa số.
Cán bộ được thông báo ý kiến nhận xét của cơ quan có thẩm quyền về
bản thân mình được trình bày ý kiến, có quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp
trên nhưng phải chấp hành ý kiến kết luận của cơ quan có thẩm quyền.
Thứ hai, về tuyển chọn cán bộ
Thực hiện chế độ dân chủ, công khai trong việc tuyển chọn cán bộ,
công chức, bảo đảm tuyển chọn đúng những người có đủ tiêu chuẩn theo từng
chức danh. Xây dựng và thực hiện quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm một cách
chặt chẽ.
Các tổ chức, cơ quan trong hệ thống chính trị có nhu cầu tuyển cán bộ,
cơng chức cần cơng bố công khai, rộng rãi nhu cầu, đối tượng, tiêu chuẩn cán
bộ cần tuyển. Kết quả sát hạch, thi tuyển là một căn cứ chủ yếu đề ra quyết
định tuyển dụng cán bộ.
Tùy theo loại cán bộ cần tuyển mà lập hội đồng thi tuyển quốc gia, hội
đồng thi tuyển ngành hoặc địa phương. Quy định nhiệm vụ, chức năng, quy
chế làm việc của các hội đồng thi tuyển, bảo đảm việc thi tuyển tiến hành một
cách chặt chẽ, khách quan và công bằng.


Thứ ba, về bầu cử
Việc bầu cử phải thực hiện đúng pháp luật của Nhà nước và Điều lệ
của Đảng, đoàn thể. Các cán bộ do tổ chức đảng giới thiệu tham gia vào các
cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể phải được tập thể cấp ủy thảo
luận và nhất trí giới thiệu đúng thể lệ, quy chế, quy trình bầu cử.
Người được bầu vào các chức vụ cấp trưởng phải đề xuất được đề án,
chương trình cơng tác trong nhiệm kỳ, cam kết hồn thành nhiệm vụ, giữ gìn
phẩm chất đạo đức.

Cán bộ đứng đầu từ cấp huyện, quận trở lên không giữ chức vụ quá hai
nhiệm kỳ ở cùng một đơn vị, địa phương.
Thứ tư, về bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ
Để thực hiện chủ trương cán bộ “có vào có ra, có lên có xuống” thì bầu
cử phải có nhiệm kỳ và bổ nhiệm phải có thời hạn. Cán bộ được bổ nhiệm khi
hết thời hạn thì thơi khơng giữ chức vụ đó nữa. Chỉ khi có cấp thẩm quyền
xem xét quyết định tiếp tục bổ nhiệm thêm thì cán bộ mới được tiếp tục đảm
nhiệm chức vụ đó trong thời hạn nhất định.
Trong thời gian đảm nhiệm chức vụ, người nào vì cơng việc, vì lý do
sức khỏe hoặc vì hồn cảnh cá nhân được từ chức, miễn chức. Người khơng
hồn thành nhiệm vụ, có sai phạm, uy tín giảm sút thì tùy theo mức độ mà bị
miễn chức hoặc cách chức kịp thời.
Cán bộ đứng đầu cơ quan, đơn vị có trách nhiệm cùng với tập thể lãnh
đạo đào tạo, bồi dưỡng người kế nhiệm.
Việc bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ phải thực hiện đúng pháp luật của
Nhà nước và Điều lệ của Đảng, đoàn thể.
Thứ năm, về luân chuyển cán bộ
Luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các vùng, các ngành, các cấp
nhằm sử dụng có hiệu quả và tạo nên sự đồng đều trong đội ngũ cán bộ, bồi
dưỡng toàn diện cán bộ, tạo điều kiện cho cán bộ trẻ có triển vọng, cán bộ


trong quy hoạch được rèn luyện trong thực tiễn; khắc phục tình trạng khép
kín, cục bộ trong từng ngành, từng địa phương, từng tổ chức.
Căn cứ vào đặc điểm từng vùng, từng ngành, từng cấp, nhu cầu công
tác và năng lực, sở trường cán bộ, cấp ủy đảng lập quy hoạch, kế hoạch luân
chuyển cán bộ theo quy trình chặt chẽ và có chế độ, chính sách thích hợp.
Điều quan trọng là luân chuyển do nhu cầu công tác và phải trên cơ sở đủ tiêu
chuẩn. Mọi cán bộ đảng viên phải phục tùng tuyệt đối quyết định điều động,
luân chuyển của Đảng và Nhà nước.

Thứ sáu, về chế độ học tập
Học tập là quyền lợi và nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi cán bộ, đảng
viên. Mọi cán bộ, cơng chức phải có kế hoạch thường xun học tập nâng cao
trình độ chính trị, chun mơn và năng lực hoạt động thực tiễn, bồi dưỡng đạo
đức cách mạng. Tinh thần và kết quả học tập lý luận chính trị là một tiêu
chuẩn để xem xét đề bạt, bổ nhiệm cán bộ. Có chế độ chính sách, kinh phí,
tạo điều kiện thuận lợi để công tác giáo dục lý luận chính trị đạt chất lượng và
hiệu quả cao.
Thứ bảy, về việc nhân dân tham gia xây dựng và giám sát cán bộ
Xây dựng cơ chế để nhân dân phát hiện, tiến cử những người có đức,
có tài cho các cơ quan lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đoàn thể; lựa chọn,
bầu cử những người lãnh đạo trực tiếp của mình.
Nhân dân giám sát các cơng việc và phẩm chất của cán bộ, trước hết là
những cán bộ có quan hệ trực tiếp với mình; biểu dương cán bộ tốt, phát hiện
đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực, quan liêu, tham nhũng… Bảo đảm thực
hiện quyền khiếu nại của nhân dân đối với cán bộ theo pháp luật.
Có chế độ định kỳ cán bộ tự phê bình, lắng nghe và tiếp thu những ý
kiến của dân, sửa chữa những khuyết điểm mà nhân dân nêu ra.
Thứ tám, về chế độ kiểm tra


Tổ chức đảng và cấp ủy Đảng có trách nhiệm xây dựng chế độ kiểm tra
cán bộ và công tác cán bộ. Kịp thời nêu gương cán bộ tốt, giúp đỡ cán bộ gặp
khó khăn, ngăn chặn những biểu hiện lệch lạc, cơ hội, thồi hóa, biến chất.
Kịp thời kiểm tra, kết luận các vụ việc có liên quan đến cán bộ để đánh giá
chính xác cán bộ. Phát hiện và uốn nắn những sơ hở, thiếu sót trong cơng tác
cán bộ.
Thứ chín, về bảo vệ chính trị nội bộ
Xây dựng quy chế bảo vệ chính trị nội bộ nhằm: Bảo vệ chủ nghĩa Mác
– Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Cương lĩnh và đường lối của Đảng,

pháp luật của Nhà nước; chống “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch;
bảo vệ sự trong sạch chính trị nội bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo cấp chiến
lược và cán bộ lãnh đạo trong hệ thống chính trị, phát hiện và ngăn chặn kịp
thời các phần tử chống đối và cơ hội về chính trị; thẩm tra kết luận các cán bộ
có vấn đề về lịch sử chính trị hoặc có quan hệ chính trị phức tạp; phát hiện và
xử lý kịp thời các tổ chức chống đối ngay từ khi chúng nhen nhóm hoạt động;
bảo vệ bí mật của Đảng và Nhà nước.
Thứ mười, về phân công, phân cấp quản lý cán bộ
Tăng cường sự lãnh đạo, thống nhất cảu Đảng và trách nhiệm quản lý
của các cơ quan quản lý nhà nước, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức sản
xuất kinh doanh đối với công tác cán bộ.
Đổi mới công tác quản lý cán bộ nhằm nắm chắc cả đội ngũ cán bộ,
từng loại cán bộ và từng người cán bộ. Muốn vậy, quản lý cán bộ phải theo
một quy chế chặt chẽ trong đó có nguyên tắc Đảng trực tiếp thống nhất lãnh
đạo công tác cán bộ.
Cần đổi mới việc quy định, phân công, phân cấp quản lý cán bộ, xác
định quyền hạn, trách nhiệm và mối quan hệ giữa cơ quan đảng và nhà nước,
ngành và địa phương, cấp trên và cấp dưới trong việc quản lý cán bộ.


Quản lý cán bộ xuất phát từ nhiệm vụ chính trị, quản lý người gắn với
quản lý việc. Quản lý hồ sơ, lý lịch đi đôi với quản lý cán bộ trong hoạt động
thực tiễn, chú trọng quản lý cán bộ trong hoạt động thực tiễn.
Cán bộ lãnh đạo chủ chốt mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi đơn vị phải đích
thân chăm lo công tác cán bộ và chịu trách nhiệm trước tập thể về tình hình
chất lượng đội ngũ cán bộ và quá trình đổi mới cán bộ thuộc cấp mình quản
lý.
3.2.3. Đổi mới và hồn thiện hệ thống chính sách cán bộ
Chính sách cán bộ trong thời kỳ mới có ba nội dung chủ yếu.
Thứ nhất, chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

Đầu tư thích đáng cho việc đào tạo, bồi dưỡng những người ưu tú trở
thành cán bộ chủ chốt. Có chính sách học bổng và miễn giảm học phí cho con
em các gia đình có cơng với cách mạng, gia đình liệt sĩ, thương binh, con các
gia đình nghèo vượt khó, cho học sinh giỏi, đạo đức tốt, sinh viên các ngành
sư phạm. Bồi dưỡng tài năng ngay từ các trường phổ thông, đại học và trung
học chuyên nghiệp. Dành kinh phí để cử cán bộ ưu tú và sinh viên xuất sắc đi
đào tạo, tham quan, bồi dưỡng ở nước ngoài. Tổ chức tố trường bổ túc văn
hóa, dự bị đại học, trường dân tộc nội trú.
Thứ hai, chính sách sử dụng và quản lý cán bộ.
Việc bố trí và sử dụng cán bộ phải bảo đảm đúng tiêu chuẩn phù hợp
với sở trường. Đề bạt cán bộ phải đúng người, đúng việc, đúng chỗ, đúng lúc,
đúng sở trường.
Có chính sách đồn kết tập hợp rộng rãi các loại cán bộ, trọng dụng
những người có đức, có tài trong Đảng và ngồi Đảng, người ở trong nước và
người Việt Nam định cư ở nước ngồi.
Có chế độ quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ. Các cấp ủy, thủ trưởng các
cơ quan phải nắm chắc cả về đức, tài và tình trạng sức khỏe của từng cán bộ.
Thứ ba, chính sách bảo đảm lợi ích vật chất và động viên tinh thần.


Tiền lương phải thật sự trở thành bộ phận cơ bản trong thu nhập của
cán bộ, bảo đảm tái sản xuất mở rộng sức lao động. Thực hiện tiếp tục tiền tệ
hóa tiền lương.
Tơn vinh những người có cơng với nước. Biểu dương, khen thưởng kịp
thời những người có thành tích xuất sắc trong lao động sản xuất, trong phát
minh sáng chế khoa học và công nghệ, trong sáng tạo văn hóa nghệ thuật,
trong quản lý và cơng tác. Nghiên cứu đổi mới chính sách tặng thưởng hn
chương.
Đi đơi với khuyến khích lợi ích vật chất, chú trọng giáo dục lý tưởng
cách mạng cho cán bộ. Mục tiêu lý tưởng cách mạng là động lực lớn nhất để

thúc đẩy sự phấn đấu vươn lên của từng cán bộ.
3.2.4. Đổi mới và chỉnh đốn tổ chức bộ máy làm công tác cán bộ
Xây dựng đội ngũ cán bộ phải tiến hành đồng thời với việc đổi mới và
củng cố tổ chức đảng, bộ máy nhà nước, các đoàn thể nhân dân, các đơn vị
sản xuất kinh doanh sự nghiệp, công tác; đổi mới cơ chế chính sách, phương
thức, lề lối làm việc. Trong đó chú trọng đổi mới chỉnh đốn các tổ chức bộ
máy làm công tác cán bộ.
Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ công tác của các cơ
quan làm công tác cán bộ. Khắc phục tình trạng chồng chéo, phân tán, khơng
rõ trách nhiệm, khơng nắm chắc cán bộ.
Nâng cao phẩm chất, trình độ kiến thức và năng lực của đội ngũ làm
công tác cán bộ. Có chính sách đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn những người
cơng tâm, trung thực, trong sáng có kinh nghiệm làm công tác cán bộ.
Đổi mới phong cách và phương pháp làm công tác cán bộ. Nâng cao
chất lượng nghiên cứu khoa học về công tác tổ chức cán bộ. Trang bị các
phương tiện làm việc hiện đại cho công tác tổ chức cán bộ.
Công cuộc đổi mới là dịp phát triển, thử thách, sàng lọc cán bộ. Tiến
hành công tác cán bộ tỉnh táo, sáng suốt, có quan điểm chủ trương chính sách


đúng đắn, tồn diện; có biện pháp thích hợp và quyết tâm cao nhất định sẽ tạo
ra được đội ngũ cán bộ tốt, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.



×