Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tiểu luận cao học, củng cố và nâng cao uy tín chính trị của đảng cộng sản việt nam hiện này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.4 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
Trang
Mục lục
Mở đầu
Chương 1: Quan niệm về uy tín chính trị của Đảng
1.1. Quan niệm về uy tín và uy tín chính trị của Đảng
1.2. Tiêu chí đánh giá uy tín chính trị của Đảng
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến uy tín chính trị của Đảng
1.3.1. Các yếu tố khách quan
1.3.2. Các yếu tổ chủ quan

1


MỞ ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, là
đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, là
một tổ chức thống nhất về chính trị tư tưởng và tổ chức trên nền tảng của chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng định ra đường lối chủ trương đúng đắn
cho cách mạng Việt Nam. Hơn 85 năm qua, Đảng đã giành hết thắng lợi này đến
thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích vẻ vang, làm cho cả thế giới khâm phục, kính
nể. Một trong những yếu tố làm nên
Với vị thế là đội tiên phong chính trị của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao
động và toàn dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam có nhiệm vụ lãnh đạo chính trị, đề
ra những quyết sách chính trị đúng đắn, dẫn dắt giai cấp, nhân dân, dân tộc vững
bước đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ thành công Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Trách nhiệm nặng nề và vinh quang đó địi hỏi Đảng phải rất vững
vàng, độc lập, sáng tạo trong việc đề ra và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách cũng như xây dựng nội bộ Đảng đoàn kết, vững mạnh; khơng dao động
trước khó khăn, thử thách. Tức là Đảng phải có bản lĩnh chính trị cao – đó chính là
yếu tố hàng đầu khẳng định uy tín chính trị và tư tưởng của Đảng. Uy tín, bản lĩnh


chính trị của Đảng thể hiện ở tính kiên định về mục tiêu, lý tưởng đã lựa chọn.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, tác động từ mặt trái của kinh tế thị
trường và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động dẫn tới một
số biểu hiện lệch lạc trong nhận thức, trong hành động của một bộ phận cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân. Cịn tồn tại tình trạng suy thối đạo đức, lối
sống, tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí…gây tổn hại nghiêm trọng đến uy
tín chính trị của Đảng.
Chính vì vậy, em chọn vấn đề “ Củng cố và nâng cao uy tín chính trị của
Đảng cộng sản Việt Nam hiện này” làm tiểu luận kết thúc môn học
2


CHƯƠNG 1: QUAN NIỆM VỀ UY TÍN CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG
1.1. Quan niệm về uy tín và uy tín chính trị của Đảng
“Uy tín” khơng phải là một khái niệm mới mà đã được nhiều nhà khoa học
nghiên cứu từ các góc độ tiếp cận và mục đích nghiên cứu khác nhau.
Từ góc độ nghiên cứu của xã hội học, uy tín được nhìn nhận là một hiện
tượng xã hội biểu hiện ở những hành động, suy nghĩ của một người hay một nhóm
người phụ thuộc vào người khác. Nhà xã hội học người Nga V.K.Calinhichev
(1971) cho rằng,: “Uy tín là một dạng quan hệ xã hội đặc biệt, trong đó có sự tơn
trọng, tin tưởng từ phía tập thể, quần chúng đối với cá nhân (tổ chức) có kiến
thức, kinh nghiệm, phẩm chất. Quần chúng tự nguyện tiếp thu, phục tùng các quyết
định của cá nhân (tổ chức) đó khơng có sự cưỡng ép từ bên ngồi”.
Trong lĩnh vực Tâm lý học quân sự, tác giả A.V.Barabansicốp (1967) đã đề
cập tới khái niệm uy tín thơng qua hiện tượng chịu ảnh hưởng và phục tùng. Uy tín
là một hiện tượng phức tạp hơn nhiều so với sự tôn trọng và tin tưởng. Các yếu tố
tạo nên uy tín cá nhân như kiến thức, kinh nghiệm, phẩm chất của cá nhân phải
thoả mãn nhu cầu xã hội của các cá nhân trong tập thể.
Trong cuốn “Tâm lý học quân sự”, tác giả Bùi Xn Hồn đã nghiên cứu uy
tín cá nhân trong tập thể quân đội. Theo tác giả, uy tín được hình thành phụ thuộc

rất lớn vào các nhân tố bao gồm các nhân tố chủ quan và khách quan. Các nhân tố
chủ quan là những phẩm chất chính trị, đạo đức; năng lực hoạt động chuyên môn
nghề nghiệp quân sự; các nét tính cách tạo nên giá trị xã hội của nhân cách của
quân nhân cách mạng (phong cách làm việc khoa học trung thực, lời nói đi đôi với
việc làm, sự quan tâm, quý trọng con người, thái độ khiêm tốn, lịch sự, tế nhị...).
Những nhân tố khách quan bao gồm vai trò, vị thế xã hội đang chiếm giữ; trình độ
nhận thức và giác ngộ chung của tập thể; bầu khơng khí tâm lý trong tập thể; uy tín
3


của tập thể mà cá nhân là thành viên, sự quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện của cấp
trên. Khi phân tích khái niệm uy tín, tác giả đã đưa ra định nghĩa như sau: “Uy tín
là một hiện tượng tâm lý xã hội hình thành trên cơ sở những phẩm chất, năng lực
và các giá trị xã hội của cá nhân (hay tổ chức xã hội) có sức cảm hố lớn, thu hút,
lơi kéo người khác, được mọi người (xã hội) thừa nhận, tin tưởng tuân theo”.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng làm rõ khái niệm uy tín
từ góc độ chính trị. Trong bài viết “Bàn về quyền uy”, F.Ăngghen đã viết: “Uy tín
là một loại quan hệ giữa người với người. Trong đó, một mặt địi hỏi ý chí của một
người nào đó phải phát huy tác dụng và mặt khác, sự phục tùng theo ý chí này”.
Người cho rằng uy tín nảy sinh cùng với sự phát triển của xã hội, cùng với giao
tiếp, phụ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế, mang tính giai cấp và tính lịch sử rõ rệt.
V.I.Lênin nói nhiều về uy tín, đặc biệt là uy tín của người quản lý, lãnh đạo.
Người cho rằng, vai trò lãnh đạo quần chúng “không phải là sức mạnh của quyền
hành, mà là sức mạnh của ý chí, sức mạnh của lịng cương nghị, của kinh nghiệm
dồi dào, của tính đa dạng lớn lao, của tài năng xuất sắc”. Theo V.I.Lênin, uy tín
thực sự của người lãnh đạo là kết quả của sự tác động biện chứng giữa uy tín chính
trị, uy tín đạo đức và uy tín nghề nghiệp, là sự kết hợp giữa phẩm chất chính trị,
đạo đức và năng lực hoạt động nghề nghiệp. Uy tín của Đảng, của Nhà nước xã hội
chủ nghĩa, sự tin tưởng của quần chúng nhân dân vào đường lối lãnh đạo, sự
nghiệp chính của Đảng và Nhà nước là điều kiện cần thiết để tạo nên uy tín của

người lãnh đạo. Chính uy tín này mới gây dựng quyền uy thực sự mạnh mẽ, buộc
những người khác phải phục tùng, tuân theo một cách tự nguyện, tự giác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “Người có uy tín chân chính bao giờ cũng
được quần chúng q mến. Người có uy tín phải có đức và có tài, có năng lực
hành động, làm gương cho mọi người noi theo”. Trong hệ thống tư tưởng của
Người, chữ tín ln được coi trọng. Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ có uy tín là
4


người phải giữ chữ tín với nhân dân “tín là phải làm cho người ta tin ở mình... tín
cũng có nghĩa là tự tin vào sức mình nữa, nhưng khơng phải tự mãn, tự cao”. Uy
tín của người cán bộ thể hiện ở lòng tin của quần chúng đối với phẩm chất đạo đức
cách mạng và năng lực công tác của người cán bộ. Người chỉ rõ, phẩm chất nhân
cách quan trọng nhất của người cán bộ để xây dựng uy tín là đạo đức cách mạng,
năng lực chun mơn, năng lực hoạt động thực tiễn.
Như vậy, Uy tín là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố, trong đó có một số
yếu tố cơ bản: quyền lực của người cán bộ lãnh đạo; phẩm chất, năng lực phải
tương xứng với chức vụ được giao; có sự tín nhiệm phục tùng, tự nguyện của mọi
người dưới quyền; có sự tin tưởng đánh giá cao của cấp trên; sự khâm phục của
bạn bè, đồng nghiệp; có phong thái thích hợp với cương vị chức vụ
Uy tín chính trị của Đảng bao gồm quyền uy chính trị và niềm tin, sự thừa
nhận của nhân dân, tổ chức chính trị khác đối với Đảng. Đây là hai yếu tố không
thể thiếu được để tạo nên uy tín chính trị của Đảng.như vậy, uy tín chính trị của
Đảng do Đảng quyết định. Đảng muốn có uy tín chính trị thì phải có quyền uy
chính trị và phải có niềm tin, sự tín nhiệm của nhân dân và các tổ chức chính trị
khác.
1.2. Tiêu chí đánh giá uy tín chính trị của Đảng
Năm 1945, với việc lãnh đạo thành công cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, đưa tới sự ra đời nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Đảng cộng sản Việt
Nam trở thành đảng cầm quyền. Từ đây bắt đầu quá trình Đảng thực hiện vai trị

lãnh đạo của mình với cơng cụ bạo lực đặc biệt là Nhà nước. Nói cách khác, khi
trở thành Đảng cầm quyền, vai trò lãnh đạo của Đảng được thể chế hóa, được đảm
bảo bằng pháp luật – tức là có quyền lực cưỡng chế đối với tồn xã hội.
Tuy nhiên, vai trị lãnh đạo chính trị của Đảng không chỉ được đo đếm bởi
quyền lực cưỡng chế (tạm gọi là quyền lực cứng, sức mạnh cứng) buộc đối tượng
5


bị lãnh đạo phải tuân theo. Bản chất của lãnh đạo là giáo dục, là thuyết phục, là vận
động… đối tượng phục tùng sự lãnh đạo một cách tự nguyện, tự giác. Điều này chỉ
có được khi Đảng gây dựng được uy tín chính trị - tư tưởng - sức mạnh mềm - tài
sản vơ hình và vơ giá của Đảng. Uy tín chính trị - tư tưởng là cơ sở đảm bảo cho
Đảng thực hiện thành cơng vai trị lãnh đạo thực sự đối với Nhà nước và toàn xã
hội và ngược lại, những thành công đạt được trong quá trình lãnh đạo càng củng
cố, bồi đắp thêm uy tín chính trị - tư tưởng của Đảng.
Như vậy, uy tín chính trị của Đảng được xác định bằng nhiều yếu tố, cả định
tính và định lượng
Trước hết, đó là khả năng lựa chọn chính xác hệ tư tưởng nền tảng - chủ
nghĩa Mác - Lênin – làm kim chỉ nam cho mọi cho hành động Đảng. Nền tảng tư
tưởng ấy – như chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Đảng muốn vững thì
phải có chủ nghĩa làm cốt... Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”
Hai là, khả năng vận dụng chủ nghĩa Mác-Lenin vào thực tiễn cách amngj
Việt Nam
Lựa chọn đúng hệ tư tưởng nền tảng là yếu tố căn bản đầu tiên, nhưng chưa
đủ để đánh giá về uy tín chính trị - tư tưởng của Đảng. Thực tiễn xây dựng chủ
nghĩa xã hội ln làm nảy sinh khơng ít những vấn đề cần được giải quyết thấu đáo
về mặt lý luận mà khơng có sẵn lời giải trong kho tàng di sản lý luận của các nhà
kinh điển. Khả năng vận dụng lý luận nền tảng trong điều kiện thực tiễn Việt Nam,
khả năng bảo vệ và phát triển sáng tạo học thuyết là tiêu chí thứ hai thể hiện uy tín

Ba là, xác định mục tiêu chính trị một cách rõ ràng, đường lối chính trị đúng
đắn cho cách mạng Việt Nam ở từng thời kỳ lịch sử cụ thể. Khơng những thế, đó
cịn là cơ sở để Đảng cộng sản Việt Nam có đủ năng lực lãnh đạo, tổ chức thực
hiện đường lối đó một cách hiệu quả trong thực tiễn. Những thành quả đạt được
6


trong phát triển kinh tế, sự ổn định về chính trị, kinh tế, an ninh quốc phòng được
giữ vững, an sinh xã hội được đảm bảo…, cùng với những dấu mốc đạt được trên
con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng là
những minh chứng hùng hồn cho tính đúng đắn, khoa học và cách mạng của cương
lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng.
Những thành quả đó cũng cắt nghĩa cho việc nhân dân Việt Nam một lòng
tin yêu và đi theo Đảng, trìu mến, thân thương dành cho Đảng hai chữ “Đảng ta”.
Niềm tin tưởng ấy đã được thể hiện bằng tinh thần sẵn sàng hy sinh bảo vệ Đảng
trong suốt hai cuộc trường kỳ kháng chiến đầy khó khăn, gian khổ, bằng sự kiên
định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng ngay trong bối cảnh ngặt nghèo của cách
mạng thế giới, khi chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng, sụp đổ ở Liên Xơ và
Đơng Âu – thành trì của chủ nghĩa xã hội thế giới, bằng sự quyết tâm trong sự
nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hiện nay.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến uy tín chính trị của Đảng
1.3.1. Các nhân tố khách quan
Một là, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu
Trong hơn 70 năm tồn tại, phát triển của mình, Liên bang cộng hồ xã hội
chủ nghĩa Xơ viết đã từng là cái nôi của phong trào cách mạng thế giới, chỗ dựa
vững chắc, là hậu thuẫn cho phong trào cả về vật chất và tinh thần. Những thành
tựu đạt được của Liên Xô trong 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội đã giúp phe xã
hội chủ nghĩa vươn lên đạt được thế cân bằng tương đối với phe tư bản chủ nghĩa cả về tiềm lực kinh tế lẫn tiềm lực quân sự - thậm chí có những lĩnh vực cịn vượt
cả phe tư bản (nghiên cứu khoa học vũ trụ, năng lượng nguyên tử…). Đây cũng là
nguồn cổ vũ, động viên lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là ở

các nước thuộc địa, phụ thuộc.
Vào cuối những năm 80 của thế kỷ XX, bắt nguồn từ những sai lầm trong
7


việc hoạch định đường lối và trong công tác xây dựng đảng, Đảng Cộng sản Liên
Xô và nhiều Đảng Cộng sản cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã
rơi vào khủng hoảng sâu sắc. Cùng với đó, là sự tác động của các thế lực phương
Tây đã từng bước làm cho Liên Xô tan vỡ, các nước xã hội chủ nghĩa Đơng Âu sụp
đổ. Đó là điểm đánh dấu thời kỳ thoái trào của chủ nghĩa xã hội. Sự sụp đổ của
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu gây bất lợi lớn cho phong trào
cách mạng thế giới. Phong trào cách mạng thế giới mất đi “người cầm cờ”, thủ lĩnh
của phong trào; uy tín của các Đảng Cộng sản và lịng tin của quần chúng nhân dân
vào chủ nghĩa xã hội và Đảng Cộng sản bị tổn hại nghiêm trọng.
Hai là, sự chống phá của các thế lực thù địch trong và ngồi nước
Từ khi Liên Xơ và Đơng Âu sụp đổ cho đến nay, mục tiêu xóa bỏ chủ nghĩa
xã hội của chủ nghĩa đế quốc vẫn không hề thay đổi. Bên cạnh đối tượng tấn cơng
chính là các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, các Đảng cộng sản cầm quyền thì các
nhà nước, dân tộc tiến bộ có xu hướng phát triển phi tư bản chủ nghĩa, kể cả các
nước không chia sẻ quan niệm giá trị của Mỹ và phương Tây hiện nay cũng là đối
tượng phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch, phản động.
Những biến cố chính trị dữ dội ở Liên Xơ và Đông Âu đúng vào thập niên
bản lề chuyển giao giữa hai thế kỷ đã tác động rất lớn đến đời sống chính trị, xã hội
ở Việt Nam, trong đó có cả đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Sự sụp đổ của
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu làm nảy sinh tâm lý hoang mang,
dao động, hoài nghi về con đường xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đã lựa chọn, hoài
nghi về học thuyết Mác - Lênin - vốn được coi là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ
nam cho mọi hành động của Đảng và Nhà nước Việt Nam, mất niềm tin về vai trò,
về năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản... Tận dụng triệt để thời cơ đó, lực lượng
phản động quốc tế và các phần tử cơ hội chính trị, bất mãn với chế độ... đã chĩa

mũi nhọn tăng cường chống phá các nước xã hội chủ nghĩa.
8


Trong số các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, Việt Nam trở thành trọng điểm
chống phá quyết liệt, nhiều mặt - cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, trên nhiều
lĩnh vực - cả chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội... - của chủ nghĩa đế quốc và các thế
lực thù địch thông qua chiến lược "Diễn biến hồ bình”. Chúng xác định Việt Nam
có Đảng cộng sản mạnh, là lá cờ đầu trong phong trào đấu tranh vì hồ bình, độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xoá được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sẽ tạo
thuận lợi cho chúng trong việc xoá chủ nghĩa xã hội ở các nước còn lại, cũng như
dễ dàng khuất phục phong trào đấu tranh ở các quốc gia khác. Vì vậy, các thế lực
thù địch tập trung mũi nhọn chống phá vào Việt Nam, trong đó trọng tâm là lĩnh
vực tư tưởng, nhằm vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng
tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam. Lợi dụng sự phát triển của cách mạng khoa
học và công nghệ, đặc biệt là internet, chúng lập ra nhiều website, blog bằng tiếng
Việt và tiếng Anh với các địa chỉ khác nhau ở nước ngoài dưới sự hỗ trợ của các
thế lực phản động ở nước ngồi, nhằm đưa nhiều thơng tin công khai lên mạng,
phổ biến rộng rãi những luận điệu xun tạc về vai trị lãnh đạo của Đảng, chính
sách, pháp luật Nhà nước trong quá trình đổi mới đất nước, đồng thời lợi dụng
thông tin qua internet để tập hợp lực lượng, tổ chức kế hoạch, phối hợp hành động
chống phá Việt Nam. Những luận điệu xuyên tạc, bóp méo, cắt xén nội dung, hạ
thấp vai trò, những luồng thơng tin thiếu thiện chí… hàng ngày, hàng giờ thơng
qua các đài phát thanh, các báo, các website… của các thế lực phản động không
ngừng hướng vào Việt Nam, gây khó khăn khơng nhỏ đối với việc thống nhất nhận
thức của công chúng và củng cố niềm tin, quyết tâm của họ đối với sự nghiệp cách
mạng của đất nước. Nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh trong thực tiễn không được lý
giải thấu đáo về mặt lý luận, chưa được giải quyết kịp thời đã bị các thế lực thù
địch lợi dụng để thổi phồng, tuyên truyền kích động khiến một bộ phận nhân dân
hiểu sai lệch về bản chất chế độ. Theo báo cáo của Trung tâm nghiên cứu dư luận

xã hội, Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương (năm 2005) về "Tác động của các quan
9


điểm, hành động sai trái, thù địch tới tâm trạng, thái độ cán bộ, đảng viên và nhân
dân" thì có tới 33% đối tượng cán bộ, 45% đối tượng nhân dân được hỏi trả lời
rằng, các thông tin xuyên tạc, vu cáo, bịa đặt, nói xấu chế độ, bơi nhọ lãnh đạo của
các thế lực thù địch, các tổ chức người Việt phản động ở bên ngoài đã tác động lớn
đến sự phai nhạt lý tưởng xã hội chủ nghĩa trong xã hội ta hiện nay1.
Các lực lượng cực hữu của Mỹ và Tây Âu tiếp tục duy trì “chính sách hai
mặt”, lợi dụng việc tham gia WTO của Việt Nam để dùng kinh tế gây sức ép thông
qua các nghị quyết, đạo luật, hướng lái Việt Nam theo quỹ đạo phương Tây. Sự mở
rộng giao lưu và hợp tác quốc tế trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng
tạo ra những thách thức gay gắt hơn, phức tạp hơn đối với công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, khi có nhiều trào lưu, khuynh hướng tư tưởng sai trái dễ dàng xâm
nhập vào nước ta, tác động nhanh và mạnh vào tư tưởng, tâm lý tình cảm, lối sống
của con người Việt Nam.
Sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động cộng với việc chậm khắc
phục các hạn chế, yếu kém trong Đảng và sự thoái hoá về phẩm chất đạo đức, lối
sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã làm tổn hại đến thanh danh của Đảng ta
và phần nào đã làm suy giảm lòng tin của quần chúng đối với Đảng và chế độ xã hội
chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đang nỗ lực phấn đấu xây dựng.
1.3.2. Các nhân tố chủ quan
Với tư cách là Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng chịu trách nhiệm trước nhân
dân về vận mệnh của dân tộc và sự phát triển của đất nước. Từ khi trở thành Đảng
cầm quyền, Đảng cộng sản Việt Nam lãnh sứ mệnh cao cả: hoạch định cho được
đường lối chiến lược, nhiệm vụ chính trị đúng đắn; xây dựng cho được một nhà
nước thực sự của dân, do dân và vì dân; đào tạo cho được một đội ngũ cán bộ có
đủ phẩm chất và năng lực hoàn thành nhiệm vụ; phát huy cho được sức mạnh của
1


10


toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hoàn thành sứ mệnh lịch sử đó là yếu tố
có tính quyết định xác định uy tín chính trị của Đảng.
Năng lực xác định đường lối chiến lược, nhiệm vụ chính trị đúng đắn ứng
với từng thời kỳ cụ thể, phục vụ cho thực hiện nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam
trong từng giai đoạn cụ thể là yếu tố thể hiện tầm nhìn, sự nhạy bén chính trị - tư
tưởng của Đảng. Trong thực tiễn lãnh đạo, thực tiễn xây dựng đường lối chiến
lược, nhiệm vụ chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam ln qn triệt nền tảng tư
tưởng có tính khoa học, cách mạng nhất – chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh để vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện Việt Nam trên cơ sở bám sát
thực tiễn đất nước trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, đồng thời gắn với thực tiễn
thời đại và kế thừa những kinh nghiệm đã được đúc rút từ lịch sử trong nước và
quốc tế. Có lý luận cách mạng và khoa học mới giúp Đảng xác định rõ mục tiêu,
đường lối cách mạng, không bị lúng túng, mất phương hướng khi khó khăn. Có
đường lối chính trị đúng đắn, sự lãnh đạo của Đảng mới vững vàng, cán bộ, đảng
viên của Đảng mới tin tưởng, kiên định. Nhờ vậy, các chủ trương, đường lối của
Đảng thể hiện được tính đúng đắn, khoa học, đáp ứng được nguyện vọng của nhân
dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ.
Xác định đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng đắn là điều kiện tiên quyết thể
hiện uy tín chính trị - tư tưởng của Đảng, song điều quan trọng hơn nữa là năng
lực tổ chức thực hiện đường lối, nhiệm vụ đó một cách hiệu quả trong thực tiễn
cuộc sống. Với phương thức lãnh đạo chủ yếu của Đảng là giáo dục, thuyết phục,
vận động quần chúng nhân dân thực hiện các quyết sách chính trị thì vai trị nêu
gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Sức mạnh trí
tuệ, sự vững vàng của Đảng, uy tín chính trị - tư tưởng của Đảng do toàn Đảng tạo
nên, trực tiếp và cụ thể là do từng cán bộ, đảng viên của Đảng. Chỉ có một đội ngũ
cán bộ, đảng viên có ý thức rõ về mục tiêu lý tưởng cách mạng và có tinh thần

11


cách mạng cao, đồng thời có trí tuệ, gương mẫu đi đầu trong thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước mới giúp Đảng xây dựng
được niềm tin trong nhân dân.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG UY TÍN CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG TA HIỆN NAY

2.1. Những thành tựu đạt được
Với vị thế là đội tiên phong chính trị của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao
động và tồn dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam có nhiệm vụ lãnh đạo chính trị, đề
ra những quyết sách chính trị đúng đắn, dẫn dắt giai cấp, nhân dân, dân tộc vững
bước đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ thành công Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Trách nhiệm nặng nề và vinh quang đó địi hỏi Đảng phải rất vững
vàng, độc lập, sáng tạo trong việc đề ra và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách cũng như xây dựng nội bộ Đảng đồn kết, vững mạnh; khơng dao động
trước khó khăn, thử thách. Tức là Đảng phải có bản lĩnh chính trị cao – đó chính là
yếu tố hàng đầu khẳng định uy tín chính trị và tư tưởng của Đảng. Uy tín, bản lĩnh
chính trị của Đảng thể hiện ở tính kiên định về mục tiêu, lý tưởng đã lựa chọn.

12


Ngay từ khi ra đời cho đến nay, Đảng ta luôn khẳng định độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân ta; đi lên chủ nghĩa
xã hội là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn lịch sử dân tộc
hơn 80 năm qua đã chứng tỏ con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn của Đảng
và cũng chính là sự lựa chọn của nhân dân.
Dù trong hồn cảnh nào, lúc thuận lợi hay khó khăn, kể cả khi trong tình thế

"hiểm nghèo", Đảng ta vẫn không rời xa mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Điều đó được thể hiện ở sự kiên định mục tiêu, con đường đã chọn,
vừa biết mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo để thực hiện mục tiêu đã định; có sức chiến
đấu cao, khơng hoang mang, dao động trước khó khăn; khơng giấu diếm khuyết
điểm, sai lầm mà dám thẳng thắn thừa nhận sai lầm, khuyết điểm để tự sửa chữa,
không ngừng đổi mới để phát triển.
Năm 1930, giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ bé về kinh tế, non yếu về chính trị,
khơng nắm được vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Với sự thất bại của khởi
nghĩa Yên Bái năm 1930, vai trị của nó cũng chấm dứt. Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời nắm lấy ngọn cờ lãnh đạo cách mạng, đặt nền móng cho con đường độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, lập nên Nhà nước dân chủ
nhân dân đầu tiên ở Đông-Nam Á. Đảng ta trở thành đảng cầm quyền.
Năm 1954, hoàn thành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,
giải phóng miền bắc, đưa miền bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đại thắng mùa xuân
năm 1975, đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền nam, thống nhất Tổ
quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Năm 1986, trong bối cảnh cực kỳ khó khăn do chủ nghĩa xã hội lâm vào
khủng hoảng, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đứng trước nguy cơ tan rã và
khủng hoảng kinh tế - xã hội trong nước kéo dài, Đảng ta đã khởi xướng công cuộc
13


đổi mới, tạo một bước ngoặt mang ý nghĩa cách mạng cho công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Nhờ công cuộc đổi mới hơn 25 năm qua, đất nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi căn bản bộ mặt đất
nước, tạo ra thế và lực mới cho đất nước, nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc
tế.
Thực tiễn với những thay đổi lớn lao của đất nước, gắn liền với vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản trong hơn 80 năm qua, trong đó có 30 năm đổi mới đã trở

thành một đảm bảo hàng đầu để người dân Việt Nam tiếp tục gửi gắm niềm tin và
kỳ vọng của mình đối với thắng lợi của cơng cuộc đổi mới, phát triển đất nước
hiện nay dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong 30 năm đổi mới được đánh
giá là những thành tựu “to lớn và có ý nghĩa lịch sử”, không chỉ đối với dân tộc
Việt Nam mà đối với cả thế giới, bởi đó là minh chứng hùng hồn cho thấy: chủ
nghĩa xã hội không phải là sự bế tắc của lịch sử như các thế lực thù địch, phản
động vẫn thường rêu rao, mà chủ nghĩa xã hội hồn tồn có khả năng tự đổi mới để
phát triển. Các đảng viên Đảng Cộng sản Pháp trong Chi bộ Thành phố Păng-tanh
qua theo dõi Đại hội XI của Đảng ta đã bày tỏ: Trong thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh thắng mọi kẻ thù thực dân,
đế quốc sừng sỏ, giành độc lập dân tộc. Ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam lại
tiếp tục lãnh đạo đất nước quyết tâm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Bài
học thành công của Đảng Cộng sản Việt Nam kể từ khi lãnh đạo nhân dân giành
chính quyền và giành độc lập dân tộc cũng như trong thời kỳ đổi mới là những
kinh nghiệm vô cùng quý báu để các Đảng Cộng sản, các đảng cánh tả tiến bộ trên
toàn thế giới học hỏi. Ơng Y-a-xư-ơ Ơga-ta, Phó chủ tịch Đảng Cộng sản Nhật
Bản, khẳng định: vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam mang tính quyết định trong
việc lãnh đạo đất nước để đạt được các thành tựu phát triển kinh tế-xã hội. Ông
14


Hc-hê Crây-nết, Bí thư phụ trách quan hệ Quốc tế của Đảng Cộng sản Ác-henti-na, đánh giá: con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam là tấm gương
sáng và công cuộc đổi mới tại Việt Nam là nguồn cổ vũ cho cuộc đấu tranh vì chủ
nghĩa xã hội tại Mỹ Latinh...
Báo Nước Mỹ ngày nay (USA Today) - một trong những tờ báo có số phát
hành lớn nhất ở Mỹ, đăng bài của Đa-vít Lin-chơ, đã từng viết: “Việt Nam giờ đây
đang trên con đường trở thành quốc gia châu Á mới nhất chuyển từ đất nước
nghèo nàn thời thuộc địa thành một quốc gia phồn thịnh. Khơng khí hoạt động
nhộn nhịp tại các nhà máy, cơng xưởng và người đi lại như mắc cửi trên các

đường phố phản ánh rõ một thực tế là người Việt Nam hướng tới những ngày
tháng tốt đẹp ở phía trước”. Tại Luân Đôn, ngày 23 và 24-9-2008, trong báo cáo
nhan đề “Các thị trường của tương lai”, Cơ quan Thương mại và Đầu tư của Chính
phủ Anh (UKTI) nhận định: Việt Nam là thị trường có sức hấp dẫn nhất, đứng đầu
trong mười nước có tốc độ tăng trưởng cao trong tương lai. Theo mạng EMFIS
(Đức), “Về trung hạn, Việt Nam vẫn tiếp tục là một trong những nước được quan
tâm nhất của các nhà đầu tư”. Báo cáo của Ban tổ chức Hội nghị Tồn cầu các
quốc gia hịa bình tại Oa-sinh-tơn diễn ra từ ngày 1 đến ngày 3-11-2009 nêu rõ:
“Việt Nam đang đạt được ổn định trong nước thông qua công cuộc phát triển kinh
tế được cả thế giới biết đến với tên gọi “Đổi mới”.
Đó là những đánh giá độc lập, khách quan và đầy triển vọng về kinh tế Việt
Nam – tuy không trực tiếp khẳng định tính đúng đắn của những chủ trương, đường
lối lãnh đạo của Đảng, nhưng đã gián tiếp thừa nhận sự nghiệp xây dựng, phát triển
đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là trong hơn 25 năm đổi mới đã đem
lại những chuyển biến căn bản trên đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, làm đổi
thay diện mạo của đất nước.

15


Có thể nói những thành tựu mà đất nước ta đã đạt được trong 30 năm đổi
mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã góp phần nâng cao uy tín chính trị của Đảng
2.1.2. Những hạn chế:
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử mà Đảng
và nhân dân ta giành được trong hơn 25 năm đổi mới, trong bối cảnh hiện nay, tác
động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường và sự chống phá quyết liệt của các thế
lực thù địch, phản động dẫn tới một số biểu hiện lệch lạc trong nhận thức, trong
hành động của một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Còn tồn tại
tình trạng suy thối về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên; tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn ra

nghiêm trọng, chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn, đẩy lùi; những biểu hiện
“tự diễn biến” dưới tác động của “diễn biến hồ bình” dẫn đến việc giảm sút niềm
tin vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa,
gây tổn hại khơng nhỏ đến uy tín chính trị - tư tưởng của Đảng.
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã nhận định: "Tình trạng suy thối về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội
chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân
hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành
làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát
triển của đất nước. Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh" chưa thực sự đi vào chiều sâu, ở một số nơi cịn mang tính hình thức,
hiệu quả chưa cao, làm theo chưa đạt u cầu"1.
Sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống biểu hiện ở các dạng
chủ yếu sau đây:
Một là, về tư tưởng chính trị:
16


Sự phai nhạt về lý tưởng, hoài nghi về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đường lối
cách mạng của Đảng.
Nói và làm khơng nhất quán, không đúng đường lối, quan điểm, quy định
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phụ họa theo các quan điểm lệch lạc; xa rời
mục tiêu, lý tưởng của Đảng, tệ quan liêu, xa dân, lãnh đạm, vô cảm trước những
khó khăn, bức xúc và u cầu, địi hỏi chính đáng của nhân dân.
Ngại học tập lý luận chính trị, ngại tham gia các phong trào cách mạng; kém
ý chí đấu tranh phê bình và tự phê bình; khơng thường xuyên trau dồi đạo đức cách
mạng, lối sống trong sáng, chính trực vì chân lý, vì hịa bình, vì người lao động,
người nghèo...

Khơng có hồi bão, khơng cịn ý thức vì nước, vì dân, khơng làm trịn bổn
phận, chức trách được giao, không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức, sinh
hoạt của Đảng; không báo cáo đúng sự thật, khơng trung thực, thẳng thắn trong tự
phê bình và phê bình, thiếu dân chủ hoặc dân chủ hình thức; sa sút ý chí chiến đấu,
thấy đúng khơng bảo vệ, thấy sai không đấu tranh.
- Xa dân, vô cảm trước sự khó khăn, bức xúc của dân...
- Thiếu gương mẫu trong việc chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, quy định của cơ quan, đơn vị và đời sống sinh hoạt hằng
ngày.
Hai là, về đạo đức, lối sống:
Chủ nghĩa cá nhân, lối sống vị kỷ, vụ lợi, buông thả, hưởng thụ, thiếu lý
tưởng, thiếu ý chí phấn đấu; hành động cơ hội, vì lợi ích cá nhân, đua đòi...

17


Cực đoan, cơ hội, vụ lợi, thực dụng; dĩ hòa, vi q, nói dựa, lấy lịng nhau;
tư duy nhiệm kỳ, bệnh thành tích; bè phái, cục bộ, lợi ích nhóm, mất đoàn kết; lối
sống xa hoa, hưởng lạc.
Tham nhũng, hối lộ, bịn rút của cơng, lãng phí, quan liêu, chạy chức, chạy
quyền, chạy chỗ, chạy tội, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng.
Có các hành vi vơ đạo đức trong quan hệ gia đình và quan hệ giữa cá nhân
với xã hội, như: gia trưởng, vũ phu, bất hiếu...
Những hạn chế tiêu cực trên đã ảnh hưởng xấu, làm suy giảm lòng tin của
nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP CỦNG CỐ VÀ NÂNG CAO UY TÍN CHÍNH
TRỊ CỦA ĐẢNG
3.1. Phương hướng củng cố nâng cao uy tín chính trị của Đảng
Uy tín chính trị - tư tưởng của Đảng khơng tự nhiên mà có - nó được hình

thành, được thử thách và được khẳng định qua thưc tiễn đấu tranh và lãnh đạo cách
mạng của Đảng cùng dân tộc. Uy tín chính trị - tư tưởng của Đảng phải được củng
cố không ngừng bằng nỗ lực của toàn Đảng. Trong giai đoạn hiện nay, để nâng cao
18


uy tín chính trị - tư tưởng của Đảng, cần quán triệt một số phương hướng chủ yếu
sau:
Một là, kiên định vận dụng, bổ sung, phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng:
chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nguyên nhân cơ bản dẫn đến những thất bại của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô
và các nước Đông Âu là việc xa rời những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lê-nin về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội, sa vào chủ nghĩa giáo
điều, chủ nghĩa kinh nghiệm, không phát triển và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
lên ngang tầm những đòi hỏi mới của các giai đoạn lịch sử; chủ quan, duy ý chí,
vội vã đốt cháy giai đoạn, vượt lên những giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội
mà thực tiễn chưa cho phép...
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh địi hỏi
phải nghiên cứu sâu sắc, tồn diện và có hệ thống những di sản tư tưởng, lý luận
của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh; phải đổi mới tư duy để trở về
với chính thực chất hệ thống luận điểm của các ơng đã hình thành trong những
điều kiện lịch sử cụ thể, trong đó cần hết sức chú ý đến những bổ sung, phát triển
mà chính các ơng phác họa trước những thay đổi của thực tiễn. Điều quan trọng là
phải đặt những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
trong cả hệ thống như một chỉnh thể, không được cắt xén, phải xác định rõ những
luận điểm nào trước đây đúng, nay vẫn đúng và về sau vẫn đúng; những luận điểm
nào khơng cịn phù hợp do thực tiễn đã thay đổi; những luận điểm gì vốn đúng,
nhưng bị nhận thức và vận dụng sai; những luận điểm mới gì cần được phát triển,
cần nhận thức lại, bổ sung vào lý luận cách mạng...
Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh phải trên cơ sở
khách quan, khơng được có thái độ cực đoan đối với những sai lầm cũng như sự

sụp đổ của mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu để từ đó phủ nhận
19


hoàn toàn chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội; cũng khơng vì bảo vệ chủ
nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội mà biến nó thành giáo điều, xơ cứng, trở
thành bảo thủ, coi nhẹ yêu cầu đổi mới và phát triển. Phải cương quyết phê phán
những quan điểm đi ngược lại những gì thuộc về bản chất, nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội, đồng thời, phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm xuất phát điểm, làm cơ sở phương pháp luận khoa học
để đánh giá đúng đắn về tính chất, hiệu quả từng bước đi, từng sách lược xây dựng,
phát triển đất nước, khắc phục những sai lầm để tiếp tục phát triển đi lên.
Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh phải trên cơ sở
thực tiễn xây dựng đất nước và những điều kiện cụ thể của thế giới đương đại.
Song song với việc kiên định mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội, phải ln tìm
tịi sáng tạo những giải pháp đặc thù cho sự phát triển đất nước. Đi đôi với việc đề
cao cảnh giác chống nguy cơ chệch hướng, cũng cần phải đặt ra vấn đề chống chủ
nghĩa giáo điều, bảo thủ - một thứ nguy cơ có thể dẫn tới những hậu quả tiêu cực
đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Hai là, bám sát thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, rèn luyện qua thực tiễn
Như đã đề cập ở trên, một trong những yếu tố có tính quyết định để Đảng đề
ra quyết sách chính trị đúng đắn là việc bám sát tình hình thực tiễn đất nước. Thực
tiễn cũng là thước đo chân lý, là sự kiểm nghiệm sống động và đầy đủ nhất về năng
lực lãnh đạo, tổ chức, điều hành, dẫn đắt… của Đảng. Việc bổ sung, phát triển
sáng tạo hệ tư tưởng nền tảng cũng phải bắt nguồn từ thực tiễn, trên cơ sở thâm
nhập, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn thành công cũng như chưa thành công để khái
quát lên thành lý luận, để đến lượt mình lý luận lại tiếp tục soi đường, chỉ đạo thực
tiễn. Niềm tin yêu của đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân đối với
Đảng được gây dựng và củng cố bởi những thành quả đạt được trong thực tiễn lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện các quyết sách chính trị. Cũng nhờ trải nghiệm thực tiễn mà

20



×