Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

Tiểu luận cao học chính sách xã hội chính sách xóa đói giảm nghèo ở huyện ở huyện mường nhé – tỉnh điện biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.28 KB, 49 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
ĐỀ TÀI:
CHÍNH SÁCH XĨA ĐĨI GIẢM NGHÈO Ở HUYỆN Ở HUYỆN MƯỜNG
NHÉ – TỈNH ĐIỆN BIÊN


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài.

Mường nhé, có vị trí hết sức quan trọng cả về chính trị, kinh tế, xã hội, mơi
trường và an ninh quốc phịng của tỉnh Điện Biên. Song đây cũng là huyện có địa
hình núi cao hiểm trở, giao thơng đi lại khó khăn, kết cấu hạ tầng kinh tế xã - hội
chậm phát triển so với các huyện khác trong tỉnh. Mường Nhé là nơi tập trung sinh
sống của phần lớn đồng bào các dân tộc thiểu số chiếm tỉ lệ 80,56% dân số tồn
huyện. So sánh mức độ đói nghèo của nhóm DTTS với người dân tộc Kinh, thì
mức độ đói nghèo của nhóm DTTS có tỷ kệ cao hơn từ 50% đến 250%. Tức là cứ
39% người Kinh nghèo thì nhóm DTTS người nghèo sẽ là 58% với người Tày,
89% với người Dao và gần 100% với người Mông. Mức chi tiêu của các hộ nghèo
DTTS cũng chỉ bằng 60% mức chi tiêu của hộ nghèo người Kinh. Mặt khác với
đặc thù là vùng có đơng đồng bào DTTS sinh sống cộng với lối sống du canh du
cư, phong tục, tập quán đa dạng của đa dân tộc. Trình độ sản xuất lạc hậu chủ yếu
là tự cung tự cấp, tập quán lao động sản xuất của đồng bào chậm được thay đổi,
sản xuất thuần nông tự sản, tự tiêu là phổ biến, chậm thích ứng với cơ chế của kinh
tế thị trường. Rõ ràng vấn đề giảm nghèo của Mường nhé đang đứng trước nhiều
khó khăn, mang tính đặc thù của vùng do bất lợi về vị trí địa lý, phân bố dân cư,
trình động văn hóa và phong tục tập quán, lối sống... Thực tế trên cho thấy, để đạt
được các mục tiêu của chính sách XĐGN ở các huyện là vấn đề hết sức khó khăn,
và đây cũng là một trong những trở ngại, thách thức lớn đối với phát triển bền


vững của tồn vùng. Vì vậy, tiểu luận “Thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở
huyện Mường Nhé (Tỉnh Điện Biên)”. với mong muốn làm sáng tỏ những vấn đề
lý luận và thực tiễn về quá trình thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở huyện
Mường Nhé từ đó xây dựng các giải pháp nhằm nâng cao kết quả trong thực hiện
chính sách xóa đói giảm nghèo ở huyện.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


2.1. Mục đích nghiên cứu .
- Nghiên cứu và hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện
chính sách xóa đói giảm nghèo ở huyện mường Nhé tỉnh Điện Biên;
- Đánh giá thực trạng quy trình tổ chức thực hiện chính sách xóa đói giảm
nghèo ở huyện Mường Nhé đồng thời chỉ ra những kết quả ở từng bước trong quy
trình thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở huyện Mường Nhé .
- Xây dựng hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao kết quả thực hiện các
bước trong quy trình thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở Huyện trong giai
đoạn 2016 - 2018 và những năm tiếp theo;
- Kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những cơ chế chính
sách để tổ chức thực hiện chính sách XĐGN có kết quả và hiệu quả trên địa bàn
các xã trong huyện.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .
- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách xóa đói
giảm nghèo trong đó tập trung nghiên cứu về ảnh hưởng của đói nghèo đến phát
triển kinh tế xã hội, về vai trò của nhà nước trong xóa đói giảm nghèo. Nghiên cứu
khung lý thuyết về cách thức tổ chức thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo, mơ
hình tổ chức thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở huyện hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận là chính sách xóa đói giảm nghèo ở
huyện Mường nhé tỉnh Điện Biên.
Phạm vi nghiên cứu của tiểu luận là chính sách xóa đói giảm nghèo ở huyện

Mường Nhé .
NỘI DUNG
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA CHÍNH
SÁCH XĨA ĐĨI GIẢM NGHÈO


1.Khái niệm nghèo đói.
Đói nghèo từ tiếng nói của chính người nghèo.
Tiếng nói của người nghèo cho ta những cảm nhận cụ thể, rõ ràng nhất về
các khía cạnh của nghèo đói (nghèo đói khơng chỉ bao hàm sự khốn cùng về vật
chất mà còn là sự thụ hưởng thiếu thốn về giáo dục và y tế. Một người nghèo ở
Kênia đã nói về sự nghèo đói: “Hãy quan sát ngơi nhà và đếm xem có bao nhiêu lỗ
thủng trên đó. Hãy nhìn những đồ đạc trong nhà và quần áo tôi đang mặc trên
người. Hãy quan sát tất cả và ghi lại những gì ơng thấy. Cái mà ơng thấy chính là
nghèo đói”. Một nhóm thảo luận Braxin đã định nghĩa về đói nghèo là: “Tiền
lương thấp và thiếu việc làm, và cũng có nghĩa là khơng được hưởng thụ về y tế,
khơng có thức ăn và quần áo”. Ngồi ra, khái niệm đói nghèo cịn được mở rộng để
tính đến cả nguy cơ dễ bị tổn thương, khơng có tiếng nó và quyền lực. Từ tiếng nói
của người nghèo, các nhà nghiên cứu đã đưa ra các khái niệm về đói nghèo. Tuỳ
thuộc vào cách tiếp cận, thời gian nghiên cứu và sự phát triển kinh tế của một quốc
gia mà ta có các quan điểm khác nhau về nghèo đói.
Quan niệm trước đây
Trước đây người ta thường đánh đồng nghèo đói với mức thu nhập thấp. Coi
thu nhập là tiêu chí chủ yếu để đánh giá sự nghèo đói của con người. Quan niệm
này có ưu điểm là thuận lợi trong việc xác định số người nghèo dựa theo chuẩn
nghèo, ngưỡng nghèo. Nhưng thực tế đã chứng minh việc xác định đói nghèo theo
thu nhập chỉ đo được một phần của cuộc sống. Thu nhập thấp không phản ánh hết
được các khía cạnh của đói nghèo, nó không cho chúng ta biết được mức khốn khổ
và cơ cực của những người nghèo. Do đó, quan niệm này còn rất nhiều hạn chế.

Quan điểm hiện nay
Hiện nay do sự phát triển của nền kinh tế thế giới, quan điểm đói nghèo đã
được hiểu rộng hơn, sâu hơn và cũng có thể được hiểu theo các cách tiếp cận khác
nhau:


- Hội nghị bàn về giảm nghèo đói ở khu vực châu á Thái Bình Dương do
ESCAP tổ chức tháng 9 năm 1993 tại Băng Cốc - Thái Lan đã đưa ra khái niệm về
định nghĩa đói nghèo: Nghèo đói bao gồm nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
+ Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã
hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế và phong tục tập quán của địa
phương.
+ Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức trung
bình của cộng đồng.
+ Theo khía cạnh kinh tế: Nghèo là do sự thiếu lựa chọn dẫn đến cùng cực
và thiếu năng lực tham gia vào đời sống kinh tế xã hội của quốc gia, chủ yếu là
trong lĩnh vực kinh tế.
+ Theo khía cạnh khác: Nghèo là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế xã
hội trong từng giai đoạn lịch sử, trong phạm vi một quốc gia, một khu vực, một
vùng.
- Năm 1998 UNĐP công bố một bản báo cáo nhan đề “khắc phục sự nghèo
khổ của con người” đã đưa ra những định nghĩa về nghèo.
+ Sự nghèo khổ của con người: thiếu những quyền cơ bản của con người
như biết đọc, biết viết, được tham gia vào các quyết định cộng dồng và được nuôi
dưỡng tạm đủ.
+ Sự nghèo khổ tiền tệ: thiếu thu nhập tối thiểu thích đáng và khả năng chi
tiêu tối thiểu.
+ Sự nghèo khổ cực độ: nghèo khổ, khốn cùng tức là khơng có khả năng
thoả mãn những nhu cầu tối thiểu.

+ Sự nghèo khổ chung: mức độ nghèo kém nghiêm trọng hơn được xác định
như sự khơng có khả năng thoả mãn những nhu cầu lương thực và phí lương thực


chủ yếu, những nhu cầu này đôi khi được xác định khác nhau ở nước này hoặc
nước khác.
Quan niệm của Việt Nam
Hiện nay ở Việt Nam có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh khái niệm
nghèo đói, song ý kiến chung nhất cho rằng:
Ở Việt Nam thì tách riêng đói và nghèo thành 2 khái niệm riêng biệt.
- Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn một
phần những nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức
sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
- Đói: là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu và vật chất để duy trì cuộc sống. Đó
là các hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ 1 đến 3 tháng, thường vay mượn
cộng đồng và thiếu khả năng chi trả. Giá trị đồ dùng trong nhà không đáng kể, nhà
ở dốt nát, con thất học, bình quân thu nhập dưới 13kg gạo/người/tháng (tương
đương 45.000VND).
Qua các định nghĩa trên, ta có thể đưa ra định nghĩa chung về nghèo đói:
“Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư khơng có những điều kiện về cuộc
sống như ăn, mặc, ở, vệ sinh, y tế, giáo dục, đi lại, quyền được tham gia vào các
quyết định của cộng đồng”
Qua các cách tiếp cận trên đã giúp chúng ta nâng cao sự hiểu về các nguyên
nhân gây ra nghèo đói nhằm có những phương hướng cách thức hành động đúng
đắn để tấn công đẩy lùi nghèo đói, làm cho chất lượng cuộc sống của người dân
ngày càng tốt đẹp hơn.
Các khía cạnh của đói nghèo.
Về thu nhập:
Đa số những người nghèo có cuộc sống rất khó khăn, cực khổ. Họ có mức

thu nhập thấp. Điều này do tính chất cơng việc của họ đem lại. Người nghèo


thường làm những công việc đơn giản, lao động chân tay nhiều, công việc cực
nhọc nhưng thu nhập chẳng được là bao. Hơn thế nữa, những công việc này lại
thường rất bấp bênh, không ổn định, nhiều công việc phụ thuộc vào thời vụ và có
tính rủi ro cao do liên quan nhiều đến thời tiết (chẳng hạn như mưa, nắng, lũ lụt,
hạn hán, động đất...). Các nghề thuộc về nơng nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp là
những ví dụ cho vấn đề này. Do thu nhập thấp nên việc chi tiêu cho cuộc sống của
những người nghèo là rất hạn chế. Hầu hết các nhu cầu cơ bản, tối thiểu của con
người như cái ăn, cái mặc, chỗ ở chỉ được đáp ứng với mức độ rất thấp, thậm chí
cịn không đủ. Nhiều người rơi vào cảnh thiếu ăn liên miên: chưa nói đến vấn đề
đủ dinh dưỡng, riêng việc đáp ứng lượng Kcalo cần thiết, tối thiểu cho con người
để có thể duy trì hoạt động sống bình thường họ cũng chưa đáp ứng được, hoặc
đáp ứng một cách khó khăn. Điều này đã kéo theo hàng loạt các vấn đề khác như
làm giảm sức khoẻ của người nghèo, do đó giảm năng suất lao động, từ đó giảm
thu nhập... cứ như thế, nó đã tạo nên vịng luẩn quẩn mà người nghèo rất khó thốt
ra được.
Thu nhập thấp đã tạo nên tình trạng thiếu tài sản ở những người nghèo. Tài
sản ở đây có thể là tài sản vật chất, tài sản con người, tài sản tự nhiên, tài sản tài
chính, tài sản xã hội. Tài sản con người thể hiện ở khả năng có được sức lao động
cơ bản, kỹ năng và sức khoẻ tốt. Như đã trình bày ở trên, do thu nhập thấp nên
người nghèo không thể đáp ứng một cách đầy đủ nhu cầu về lương thực thực
phảam. Ăn uống cực kì thiếu thốn cộng với lao động nặng nề đã làm giảm sức
khoẻ của người nghèo do đó cũng khơng đảm bảo được các kỹ năng cũng như sức
lao động cơ bản. Tài sản tự nhiên như đât đai, thiếu tài sản tự nhiên có nghĩa là
thiếu, khơng có hoặc có nhưng đất đai quá cằn cỗi, không thể canh tác được. Tài
sản vật chất ở đây như nhà ở, phương tiện sản xuất - người nghèo có rất ít hoặc hầu
như khơng có các phương tiện sản xuất. Điều này đã hạn chế khả năng lao động
của họ, làm họ khó khăn hơn nhiều so với những người có đủ phương tiện sản xuất



nó cũng làm giảm thu nhập của họ. Cịn về nhà ở, đại đa số người nghèo sống
trong những căn nhà tạm bợ, dột nát, chật chội. Nhiều căn nhà khơng đủ đảm bảo
an tồn, khơng bảo đảm sức khoẻ cho những người sống trong đó. Do khơng có
những tài sản giá trị để bảo đảm nên người nghèo cũng có rất ít khả năng tiếp cận
với các tổ chức cho vay vốn, do thu nhập thấp nên người nghèo cũng khơng có khả
năng tiết kiệm nhiều. Đó chính là thiếu hụt tài sản tài chính. Cịn tài sản xã hội,
như các mối quan hệ và trách nhiệm đối với nhau để khi cần có thể nhờ cậy và ảnh
hưởng chính trị đối với các nguồn lực, đối với người nghèo điều này cũng rất hạn
chế, do thu nhập thấp, lúc nào cũng phải lo chạy ăn đủ bữa nên người nghèo khơng
quan tâm hoặc khơng có khả năng tham gia nhiều vào các mối quan hệ xã hội. Một
điều cản trở nữa là, hầu hết khi tham gia vào các nhóm, tổ chức nào đó cũng đều
phải đóng một khoản phí nhất định, người nghèo lo ăn cịn chưa đủ, nói gì đến việc
bỏ tiền tham gia nhóm, hội nào đó. Điều này đã làm cho người nghèo dần bị cơ lập
và do đó khó nhận được sự giúp đỡ từ các nhóm, hội khi gặp khó khăn.
Y tế - giáo dục
Những người nghèo có nguy cơ mắc phải các bệnh thông thường cao như
ốm đau, các bệnh về đường giao tiếp, tình trạng sức khoẻ khơng được tốt do ăn
uống không đảm bảo, lao động cực nhọc. Người nghèo thường sống ở những vùng
có điều kiện vệ sinh, y tế thấp, còn nhiều hạn chế, chẳng hạn, họ khơng được sử
dụng nguồn nước sạch, khơng có cơng trình phụ hợp vệ sinh, điều này cũng làm
giảm đáng kể sức khoẻ của họ. Nó đã dẫn đến tình trạng tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh
trong nhóm hộ nghèo, số trẻ bị suy dinh dưỡng và số bà mẹ mang thai thiếu máu
rất cao. Có điều này là do người nghèo có thu nhập thấp, khơng đủ trả khoản tiền
viện phí lớn cũng như các chi phí thuốc men khác, thêm vào đó có thể do đối xử
bất bình đẳng trong xã hội, người nghèo không được quan tâm chữa trị bằng người
giàu nên tỷ lệ tiếp cận các dịch vụ y tế của người nghèo là rất thấp. Bên cạnh đó,
do nhận thức của người nghèo, họ thường khơng quan tâm lắm bệnh tật của mình,



khi bị bệnh họ thường cố tự chạy chữa bằng mọi biện pháp rẻ tiền, chỉ đến khi
bệnh trở nên trầm trọng họ mới vào viện vì vậy việc điều trị đem lại hiệu quả
khơng cao mà cịn tốn thêm nhiều khoản tiền khơng đáng có.
Tình trạng giáo dục đối với người nghèo cũng là vấn đề đáng thất vọng. Hầu
hết những người nghèo không đủ điều kiện học đến nơi đến chốn. Tỷ lệ thất học,
mù chữ ở hộ nghèo, đói cao. Có tình trạng như vậy là do các gia đình này khơng
thể trang trải được các chi phí về họctập của con cái họ như tiền học phí, tiền sách
vở... đi học, họ sẽ mất đi một lao động trong gia dình. Những người nghèo cũng đã
nhận thức rõ được tầm quan trọng của học thức với nghèo đói nhưng vấn đề học
phí của con em họ quả là vấn đề q khó khăn với tình hình tài chính của gia đình.
Một phụ nữ đã nói: “Các con tôi đã sẵn sàng tới trường vào tháng 9, nhưng tơi
khơng biết làm thế nào để có thể cho cả ba đứa tới trường. ở một số nước, trẻ em
phải thơi học bởi lỡ hạn nộp học phí đến đúng vào lúc mà gia đình khơng có khả
năng thanh tốn nhất.
Tóm lại, y tế - giáo dục là vấn đề được nhiều người nghèo quan tâm, họ
cũng đã hiểu rõ tầm quan trọng của các yếu tố này tới bản thân họ cũng như tương
lai của họ và gia đình nhưng do thu nhập thấp, khơng đủ trang trải, học phí, viện
phí, họ đành phải để con cái thơi học, người bệnh không được khám và chữa chạy
đúng mức, kịp thời, hầu hết các người nghèo không được tiếp cận với các dịch vụ
y tế. Điều này đã làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của họ, giảm sức khoẻ cũng như
hạn chế cơ hội phát triển của các thế hệ sau.
Nguy cơ dễ bị tổn thương
Ở những người nghèo, nguy cơ dễ bị tổn thương là nhân tố luôn đi kèm với
sự khốn cùng về vật chất và con người. Vậy nguy cơ dễ bị tổn thương là gì? Nó
chính là nguy cơ mà người nghèo phải đối mặt với nhiều loại rủi ro như bị ngược
đãi, đánh đập, thiên tai, bị thơi việc, phải nghỉ học... Nói cách khác, những rủi ro
mà người nghèo phải đối mặt do tình trạng nghèo hèn của họ chính là ngun nhân



khiến họ rất dễ bị tổn thương. Những người nghèo do tài sản ít, thu nhập thấp, họ
chỉ có thể trang trải hạn chế, tối thiểu các nhu cầu thiết yếu nhất của cuộc sống. Vì
vậy, khi rủi ro xảy ra họ rất dễ bị tổn thương và rất khó vượt qua được các cú sốc
có hại, những cú sốc mang tính tạm thời mà những người có nhiều tài sản hơn dễ
dàng vượt qua được. Do thu nhập thấp, người nghèo có rất ít khả năng tiếp cận với
các cơ hội tăng trưởng kinh tế, vì thế họ thường phải bỏ thêm các chi phí khơng
đáng có hoặc giảm thu nhập. ở các hộ nghèo, khi có rủi ro xảy ra như mất cắp hay
có người bị ốm đau thì họ dễ bị rơi vào tình trạng khủng hoảng, làm đảo lộn cuộc
sống của cả gia đình mà một thời gian lâu sau mới có thể phục hồi được. Cũng có
khi việc khắc phục những rủi ro trong ngắn hạn có thể làm trầm trọng thêm sự
khốn cùng của họ trong dài hạn. Chẳng hạn, ví dụ trên, do thiếu tài sản nên để chạy
chữa cho một người bị ốm, gia đình đã buộc phải quyết định cho một đứa con nghỉ
học hay họ phải bán trâu, bò, ngựa... những phương tiện lao động cần thiết của gia
đình. Cũng có thể người bệnh thì khơng khỏi được cịn gia đình từ cảnh khá giả rơi
vào cảnh khốn cùng. Như vậy, nếu có thêm một vài sự kiện nghiêm trọng nữa xảy
ra thì sự suy sụp đến cùng kiệt là điều khó tránh khỏi với người nghèo.
Nguy cơ dễ bị tổn thương đã tạo nên một tâm lý chung của người nghèo là
sợ phải đối mặt với rủi ro, vì vậy họ luôn né tránh với những vấn đề mang tính rủi
ro cao, kể cả khi điều đó có thể đem lại nhiều lợi ích cho họ nếu thành cơng (ví dụ
đầu tư vào giống lúa mới, áp dụng phương thức sản xuất mới...) chính điều này đã
làm họ sống tách biệt với xã hội bị cô lập dần với guồng quay của thị trường và do
vậy cuộc sống của họ càng trở nên bần cùng hơn.
Khơng có tiếng nói và quyền lực
Những người nghèo thường bị đối xử không cơng bằng, bị gạt ra ngồi lề xã
hội do vậy họ thường khơng có tiếng nói quyết định trong các công việc chung của
cộng đồng cũng như các công việc liên quan đến chính bản thân họ. Trong cuộc
sống những người nghèo chịu nhiều bất công do sự phân biệt đối xử, chịu sự thô


bạo, nhục mạ, họ bị tước đi những quyền mà những người bình thường khác

nghiễm nhiên được hưởng. Người nghèo luôn cảm thấy bị sống phụ thuộc, luôn
nơm nớp lo sợ mọi thứ, trở nên tự ti, khơng kiểm sốt được cuộc sống của mình.
Đó chính là kết quả mà ngun nhân khơng có tiếng nói và quyền lực đem lại. Một
người nghèo ở Trà Vinh nói họ chẳng được gọi đi họp vì nhà ở xa, khi nào phải đi
lao động thì mới được gọi tới. Kể cả khi họ tham gia được các cuộc họp của cộng
đồng thì họ cũng khơng thể quyết định được vấn đề gì dù rằng vấn đề đó liên quan
đến lợi ích của chính họ.
Khơng có tiếng nói và quyền lực cịn thể hiện ở chỗ những người phụ nữ bị
đối xử bất bình đẳng trong chính gia đình của họ. Người phụ nữ khơng có quyền
quyết định việc gì và phải phụ thuộc hồn tồn vào người chồng của họ.
Tóm lại, Chính sách xố đói giảm nghèo là tổng thể các quan điểm, tư
tưởng, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các
chủ
thể kinh tế xã hội nhằm giải quyết vấn đề nghèo đói, thực hiện mục tiêu xố
đói
giảm nghèo, từ đó xây dựng một xã hội giầu đẹp
2. Những chính sách xóa đói giảm nghèo
Mục tiêu của chính sách xố đói giảm nghèo cho các đối tượng thuộc
diện nghèo đói ở nước ta, giảm bớt khoảng cách giầu nghèo trong xã hội,
nhằm
mục tiêu tổng quát xây dựng một đất nước dân giầu, nước mạnh, xã hội công
bằng dân chủ văn minh.
Đối tượng là đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta, những vùng sâu
vùng xa nơi mà cuộc sống cịn nhiều khó khăn và có cuộc sống cách biệt với
đời


sống kinh tế xã hội của cả nước
Chính sách xóa đói giảm nghèo là sự cụ thể hóa chủ trương, đường lối của
Đảng bằng những quyết định, quy định của nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề

về đói nghèo. Nó phản ánh lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng, của các nhóm xã
hội nhằm tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến bộ phận dân cư nghèo đói, đảm bảo
quyền con người và an toàn xã hội cho người nghèo, tạo sự phát triển bình thường
cho người nghèo cũng như cho tồn xã hội. Chính sách xóa đói giảm nghèo được
thiết kết theo một cấu trúc cụ thể, bao gồm các bộ phận cơ bản sau:
- Phạm vi và đối tượng của chính sách.
- Mục tiêu của chính sách.
- Giải pháp của chính sách.
- Nguyên tắc chỉ đạo thực hiện chính sách.
- Nguồn vốn thực hiện chính sách.
- Cơ quan quản lý và thực hiện chính sách.
- Thời gian triển khai chính sách.
3.Khái niệm thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo.
Thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo là tồn bộ q trình đưa chính
sách vào đời sống xã hội theo một quy trình, thủ tục chặt chẽ và thống nhất nhằm
giải quyết vấn đề đói nghèo đang diễn ra đối với những đối tượng cụ thể trong một
phạm vi không gian và thời gian nhất định.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA CHÍNH SÁCH XĨA ĐĨI GIẢM
NGHÈO Ở HUYỆN MƯỜNG NHÉ TỈNH ĐIỆN BIÊN
I.Điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội.
Điều kiện tự nhiên.
Mường Nhé là một huyện nằm ở phía tây bắc tỉnh Điện Biên, là huyện cực
bắc của tỉnh Điện Biên và đồng thời là huyện cực tây của Việt Nam.


Mường Nhé là một huyện miền núi, nằm trên ngã ba biên giới giữa Việt
Nam với hai nước láng giềng là Trung Quốc và Lào.
Phía Tây Bắc giáp tỉnh Vân Nam, Trung Quốc.
Phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Phongsaly, Lào.
Phía Tây Nam giáp huyện Nậm Pồ cùng tỉnh Điện Biên.

Phía Đơng và Đơng Bắc giáp huyện Mường Tè tỉnh Lai Châu.
Điểm cực Tây của Việt Nam là A Pa Chải-Tá Miếu, chính là ngã ba biên
giới, nằm tại xã Sín Thầu, có tọa độ địa lý kinh độ 102°8' Đơng, vĩ độ 22°44' Bắc.
Diện tích tự nhiên ở đây chủ yếu là rừng, chiếm 55% [3].Thời điểm tháng 8
năm 2012, huyện Mường Nhé có 157.372,94 ha diện tích tự nhiên và 32.977 nhân
khẩu.
Huyện Mường Nhé được thành lập theo Nghị định 08/2002/NĐ-CP ngày 14
tháng 1 năm 2002 trên cơ sở điều chỉnh địa giới hai huyện Mường Tè và Mường
Lay (cũ) của tỉnh Lai Châu cũ. Khi mới thành lập, huyện Mường Nhé có 6 xã: Chà
Cang, Chung Chải, Mường Nhé, Mường Toong, Nà Hỳ, Sín Thầu[4] với diện tích
hơn 2500 km².
Ngày 26 tháng 12 năm 2003, Quốc hội ra Nghị quyết trong đó chia tỉnh Lai
Châu thành tỉnh Lai Châu (mới) và tỉnh Điện Biên; huyện Mường Nhé thuộc tỉnh
Điện Biên.
Ngày 21 tháng 3 năm 2006, thành lập 5 xã: Nà Khoa, Nà Bủng, Pa Tần,
Quảng Lâm, Nậm Kè.[6]
Ngày 16 tháng 9 năm 2009, thành lập 5 xã: Nậm Vì, Na Cơ Sa, Pá Mỳ, Sen
Thượng, Leng Su Sìn.[7]
Ngày 25 tháng 8 năm 2012, thành lập 5 xã: Nậm Tin, Nậm Nhừ, Nậm Chua,
Vàng Đán, Huổi Lếch. Cùng năm này, 10 xã: Pa Tần, Chà Cang, Nà Khoa, Nà
Bủng, Nà Hỳ, Na Cô Sa, Nậm Tin, Nậm Nhừ, Nậm Chua, Vàng Đán cắt sang


huyện Nậm Pồ. Đến thời điểm này, huyện Mường Nhé có 1.573,7294 km² diện
tích tự nhiên và 32.977 nhân khẩu.
Điều kiện dân cư.
Điều kiện về dân cư Mường Nhé là nơi tập trung sinh sống của phần lớn
đồng bào các dân tộc thiểu số Tính đến tháng 3 năm 20016, huyện Mường Nhé có
9.591 hộ với 52.684 nhân khẩu.
Hiện có 11 dân tộc anh em sinh sống trên địa bàn tồn huyện, trong đó dân

tộc Mơng chiếm đa số với 36.811 nhân khẩu (chiếm 69,6%); dân tộc Thái (8,3%);
Hà Nhì (8,8%); Dao (5,4%) và một số dân tộc khác như Khơ Mú, Cống, Kháng,
Kinh, Sila, Sán Chỉ, Xạ Phang.... Mặt khác với đặc thù là huyện có đơng đồng bào
dân thiểu số sinh sống cộng với lối sống du canh du cư, phong tục, tập quán đa
dạng của đa dân tộc. Trình độ sản xuất lạc hậu chủ yếu là tự cung tự cấp, tập quán
lao động sản xuất của đồng bào chậm được thay đổi, sản xuất thuần nông tự sản, tự
tiêu là phổ biến, chậm thích ứng với cơ chế của kinh tế thị trường.
Điều kiện cơ sở hạ tầng.
Huyện Mường Nhé (tỉnh Điện Biên) là địa bàn trọng điểm, chiến lược thuộc
khu vực biên giới phía Tây của Tổ quốc. Vùng “phên dậu biên cương” Mường Nhé
nhiều năm qua được sự quan tâm đầu tư về cơ sở hạ tầng và thực hiện các chính
sách hỗ trợ theo Nghị quyết 30a, Chương trình 135, Chương trình xây dựng nông
thôn mới, đặc biệt là Đề án 79 về sắp xếp, ổn định dân cư, phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh và các chương trình hỗ trợ giảm nghèo khác,
nhưng đến nay Mường Nhé vẫn là một trong 62 huyện nghèo nhất của cả nước, tỷ
lệ hộ nghèo chiếm đến 69,34%.
Điều kiện kinh tế - xã hội.
Vấn đề phá rừng
Vào đầu những năm 1980, rừng Mường Nhé giữ kỷ lục trên cả nước ta, với
diện tích được khoanh đếm bảo vệ hơn 310.000ha. Cán bộ bảo tồn từng ước tính


những đàn voi đi rinh rợp, đi nườm nượp khắp Mường Nhé, là khoảng 250 con;
đàn bị tót khoảng 300 cá thể; nai, hoẵng, sơn dương, cầy cáo thì rất nhiều.
Thế nhưng, đến nay, kho báu thiên nhiên ở khu bảo tồn Mường Nhé và vùng
lân cận đã và đang bị tàn sát đến khó tin.
Đến năm 2009, diện tích chính thức được bảo vệ nghiêm ngặt của Khu bảo
tồn thiên nhiên Mường Nhé chỉ cịn có 45.000ha. Trừ một số diện tích bị cắt sang
Mường Tè (do q trình tách huyện), số cịn lại: Cả trăm nghìn hécta rừng đã bị
phá, nói đúng hơn, vì khu bảo tồn hơn ba trăm nghìn hécta kia bị rỗng ruột từ rất

lâu, nay đang tiếp tục bị xẻ thịt trên diện rộng...
Năm 2009, tỉnh Điện Biên vừa có quyết định thành lập thêm 33 bản mới ở
Mường Nhé, còn hàng chục bản nữa đang cố cơng, cố sức địi được...cơng
nhận. Tồn là người di dân tự do, họ chiếm hết những cánh rừng giàu có nhất, họ
"cố thủ" ở đó, họ chống đối quyết liệt với sự vận động hồi hương của lực lượng
chức năng - thế là "ta" phải chấp nhận cho họ "định cư" bằng cách công nhận thêm
các bản làng.
Bây giờ Mường Nhé có tới 149 bản làng, với 54.000 dân. Nếu so với năm
2002, khi huyện Mường Nhé (vốn là một phần của huyện Mường Tè, tỉnh Lai
Châu) được thành lập với 27.000 người, thì dân số huyện nhà nay đã tăng gấp đơi;
trung bình mỗi năm tăng thêm khoảng 4.600 người.
Cả các xã mênh mông từ Mường Nhé, Sín Thầu, Chung Chải, xưa - vốn chỉ
có duy nhất bản Nậm là nơi sinh sống của đồng bào Mơng - thì nay, dân số của
Mường Nhé đã đến mức... nửa già là người Mông. Hầu hết họ đến bằng con đường
di dân tự do.
II.Thực trạng của chính sách xóa đói giảm nghèo đói ở Mường NhéTỉnh Điện Biên
Xác định cơng tác xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ quan trọng trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Chương trình giảm nghèo của tỉnh Điện


Biên đã đạt được những kết quả cơ bản và tồn diện, tạo được sự chuyển biến tích
cực, rõ nét, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, nhất
là đối với người nghèo, vùng nghèo, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, xây dựng
tỉnh

Điện

Biên

ngày


càng

phát

triển

bền

vững.

Là tỉnh miền núi, biên giới đặc biệt khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh còn cao so
với bình quân chung của cả nước, nhất là khu vực đồng bào dân tộc thiểu số. Năm
2011, kết quả điều tra theo chuẩn nghèo được quy định tại Quyết định số 09/2011/
QĐ-TTg ngày 30/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ, số hộ nghèo của tỉnh Điện
Biên là 71.431 hộ, chiếm tỷ lệ hơn 50%.
Các huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao từ trên 70% là Tủa Chùa, Mường Nhé,
Nậm Pồ, Mường Ảng và Điện Biên Đông, đây cũng là các huyện thuộc hơn 60
huyện nghèo nhất nước được hỗ trợ theo Nghị quyết 30a của Chính phủ. Điện Biên
xác định cơng tác giảm nghèo là nhiệm vụ quan trọng và được đặt trong chương
trình tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Vì vậy, trong cả hai giai đoạn
2011-2016, và 2016 – 2020, các cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền, các tổ chức
đồn thể tỉnh Điện Biên đã tích cực triển khai đồng bộ các chủ trương, giải pháp
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo và thu được kết quả quan
trọng: Kinh tế tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, hạ
tầng kinh tế - xã hội được tăng cường đầu tư, các ngành và lĩnh vực sản xuất, dịch
vụ tiếp tục tăng trưởng, chuyển đổi cơ cấu cây trồng - vật nuôi theo hướng sản xuất
hàng hóa, cải thiện điều kiện sản xuất, góp phần tạo việc làm và nâng cao đời sống
cho người lao động.
Trong 7 năm (2011-2018), tỉnh Điện Biên đã huy động được gần 20 nghìn tỷ

đồng (giai đoạn 2011-2015 là 12.293,87 tỷ đồng; năm 2016 và 2017 là gần 700 tỷ
đồng) cho cơng tác giảm nghèo. Góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 50,01%
(năm

2011)

xuống

còn

41%

năm

2017.


Năm 2017, với tổng kinh phí đầu tư và huy động lồng ghép các nguồn lực để thực
hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo là hơn 326 tỷ đồng đã tạo thành
nguồn lực quan trọng giúp cho nông dân và các hộ nghèo trên địa bàn tỉnh có vốn
sản xuất, có việc làm, nâng cao hiệu quả sản xuất nơng nghiệp, nâng cao trình độ
dân trí, tạo điều kiện giúp người nghèo vươn lên thốt nghèo. Các chính sách, dự
án hỗ trợ người nghèo được quan tâm thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, góp phần
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân.
100% người dân thuộc hộ nghèo, cận nghèo được cấp thẻ BHYT miễn phí
với tổng kinh phí hàng trăm tỷ đồng/năm, được khám chữa bệnh thuận lợi; 100%
con em hộ nghèo được hỗ trợ miễn giảm học phí và các khoản đóng góp theo quy
định. Nhiều dự án, chương trình mục tiêu về giáo dục và đào tạo được triển khai
hiệu quả như phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, dự án tăng cường cơ sở
vật chất trường học, dự án hỗ trợ giáo dục miền núi và vùng dân tộc, đề án đào tạo

nghề cho lao động nông thôn đã góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo
dục và đào tạo, từng bước nâng cao trình độ dân trí ở các vùng núi khó khăn.
Việc thực hiện các chính sách dạy nghề đã góp phần tạo việc làm, tăng thu
nhập cho bà con nông dân. Năm 2017, thực hiện Chương trình dạy nghề cho nơng
dân theo Quyết định 1956 của Thủ tướng Chính phủ, các địa phương đã tổ chức
cho trên 7.000 người trong độ tuổi được tham gia học nghề, trong đó số lao động
thuộc diện hộ nghèo chiếm trên 40%, góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo từ
hơn 30% năm 2015 lên trên 40% năm 2017, giải quyết việc làm mới cho trên 7.200
người.
Công tác xuất khẩu lao động được coi là mũi nhọn, hướng đột phá trong giải
quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo của tỉnh. Đến nay, trên địa bàn tỉnh có gần 400
con em đồng bào các dân tộc đang lao động xuất khẩu ở các nước, bình quân mỗi
năm có trên 60 người đi làm việc có thời hạn tại các thị trường lao động ngoài


nước với số tiền gửi về cho gia đình và quê hương hằng năm từ 3 đến 4 tỷ đồng.
Đây là nguồn lực khá lớn, góp phần tích cực vào công tác giảm nghèo và phát triển
kinh tế của tỉnh.
Cùng với đó, việc xây dựng và nhân rộng mơ hình giảm nghèo ln được
chú trọng với nhiều mơ hình sản xuất kinh tế mới phù hợp với điều kiện của người
dân. Đã có trên 30% hộ nghèo tham gia thực hiện mơ hình giảm nghèo như: Thâm
canh lúa cải tiến SRI, mơ hình trồng nấm, mơ hình chăn ni gà, ngan, vịt, mơ
hình ni Dê, trâu, Bị sinh sản... góp phần thay đổi diện mạo kinh tế - xã hội các
xã miền núi. Bên cạnh nguồn lực của Chương trình mục tiêu, từ năm 2015 đến nay,
đã có nhiều tập đồn, tổng cơng ty, ngân hàng hỗ trợ an sinh xã hội cho tỉnh Điện
Biên với tổng giá trị hàng trăm tỷ đồng, tập trung giúp hộ nghèo xây dựng, sửa
chữa nhà ở; hỗ trợ hộ nghèo vốn, điều kiện sản xuất; hỗ trợ bệnh nhân nghèo khám
chữa bệnh; hỗ trợ học sinh nghèo đến trường; hỗ trợ huyện nghèo 30a xây dựng cơ
sở hạ tầng, trường lớp học...
Nhắc đến Tủa Chùa ai cũng biết, đó là một địa bàn vùng cao nghèo, cách

trung tâm thành phố Điện Biên Phủ hơn 130km. Tủa Chùa là 1 trong hơn 60 huyện
nghèo nhất nước thuộc Nghị quyết 30a của Chính phủ. Huyện Tủa Chùa xác định:
Xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu. Là một địa phương
hội nhiều khó khăn đặc thù của vùng đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi.
Nhưng so với những năm trước đây, thì nay Tủa Chùa đã đổi thay “Vượt bậc”.
Đi đến đâu chúng tôi cũng cảm nhận được sự thay đổi trên mọi phương diện
của đời sống xã hội. Với dân số hơn 5 vạn người, hầu hết là đồng bào các dân tộc
thiểu số là: Thái, Mông, Dao, sinh sống ở 12 xã và thị trấn. Tủa Chùa có diện tích
tự nhiên rộng lớn, nhưng mật độ rất thưa thớt, chỉ khoảng 55 người/km2. Mấy năm
nay, kết cấu hạ tầng cơ sở được đầu tư xây dựng và từng bước hoàn thiện; đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân các dân tộc Tủa Chùa đổi thay rõ nét so với 15
năm trước đây.


Có được kết quả đó, là nhờ sự nỗ lực vươn lên của chính người dân và sự
đầu tư, giúp đỡ to lớn của Chính phủ thơng qua các chương trình, dự án thiết thực
và hiệu quả. Khơng những được đầu tư về kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội như:
Đường giao thông thuận tiện, lưới điện quốc gia, các cơng trình thủy lợi, máy nơng
cụ... nhằm tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy cơng cuộc xóa đói giảm nghèo mà
nơng dân cịn được hỗ trợ trực tiếp từ kỹ thuật, con giống, vật nuôi, hỗ trợ làm
chuồng trại cho gia súc...
Theo chuẩn nghèo mới, nếu như vào đầu năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận
nghèo của Tủa Chùa là hơn 67% thì đến cuối năm 2017 giảm xuống cịn hơn
60,1%. Chỉ tính riêng năm 2017, huyện Tủa Chùa giảm được hơn 5% số hộ nghèo.
Tập trung cho cơng cuộc xóa đói giảm nghèo trên địa bàn, Huyện ủy, UBND
huyện Tủa Chùa chú trọng chỉ đạo lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế xã hội của địa phương gắn với chương trình mục tiêu giảm nghèo; thực hiện tốt
chương trình đầu tư xây dựng cơ bản, công tác cho vay từ Quỹ quốc gia về giải
quyết việc làm và chương trình cho vay vốn hộ nghèo từ Ngân hàng chính sách xã
hội.
Thực hiện cơng tác xố đói giảm nghèo, nhất là sau khi thực hiện chính sách

giảm nghèo nhanh và bền vững, Tủa Chùa đã có được những chuyển biến tích cực.
Những năm gần đây, Tủa Chùa chủ trương quy hoạch vùng trong sản xuất nông
nghiệp; chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu mùa vụ, cơ cấu giống cây trồng, giống vật
ni. Từ đó tập trung nguồn lực khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của từng


để

phát

triển

nhanh,

bền

vững.

Là huyện mới chia tách, huyện Nậm Pồ gặp nhiều khó khăn trong việc ổn định
chính trị, phát triển kinh tế xã hội tại địa phương đặc biệt là cơng tác xóa đói giảm
nghèo, những cảm nhận đầu tiên khi chúng tôi về với huyện biên giới Nậm Pồ là


sự đổi thay trên đà phát triển. Đổi thay ấy cho chúng tôi niềm tin rằng: Nậm Pồ sẽ
vững bước đi lên, bởi khơng cịn cách trở, khó khăn.
Sau 5 năm thực hiện các mục tiêu giảm nghèo bền vững, đến năm 2017,
huyện Nậm Pồ đã huy động được 800 tỷ đồng từ các nguồn vốn đầu tư của Nhà
nước để phát triển cơ sở hạ tầng, xóa nhà tạm bợ, hỗ trợ người nghèo phát triển sản
xuất và thực hiện các chính sách an sinh xã hội. Đây chính là nguồn lực quan
trọng giúp cho huyện nghèo Nậm Pồ từng bước chuyển mình thay đổi diện mạo

nơng thơn vùng biên và nâng cao đời sống cho Nhân dân các dân tộc.
Dù tình hình kinh tế - xã hội cịn nhiều khó khăn, song có thể khẳng định rằng, với
sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và cộng đồng trong công tác giảm nghèo,
cùng với việc triển khai đồng bộ, hiệu quả các chính sách giảm nghèo, sự nỗ lực
vươn lên của người nghèo đã tạo chuyển biến tích cực trong Chương trình giảm
nghèo bền vững, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của Nhân dân các dân tộc trên địa bàn tỉnh. Đến hết năm 2017, tỷ lệ hộ nghèo
tồn tỉnh giảm cịn trên 41%, hồn thành các mục tiêu chương trình kinh tế - xã hội
theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII đề ra.
Bước sang giai đoạn mới, nhận diện nghèo và Chương trình giảm nghèo có
nhiều thay đổi. Theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 2020, số hộ nghèo toàn tỉnh chiếm tỷ lệ trên 41%, số hộ cận nghèo chiếm tỷ lệ trên
9% tổng số hộ. Mục tiêu đặt ra của Chương trình giảm nghèo bền vững tỉnh Điện
Biên là phấn đấu hết năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh cịn dưới 33% (bình qn
giảm 5%/năm); đưa các huyện thuộc Nghị quyết 30a xóa đói giảm nghèo bền
vững.
Với mục tiêu trên, để tiếp tục triển khai hiệu quả Chương trình giảm nghèo,
thời gian tới, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, cơ quan thường trực Chương
trình mục tiêu giảm nghèo của tỉnh phối hợp với các sở, ngành, UBND các huyện,



×