Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Vấn đề y đức dưới góc nhìn của cặp phạm trù bản chất và hiện tượng trong xã hội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.97 KB, 22 trang )

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
HỌC VIỆN CHÍNH SÁCH VÀ PHÁT TRIỂN
--------

Đề tài: Vấn đề Y đức , từ góc nhìn cặp phạm

trù bản chất và hiện tượng

HÀ NỘI, 12/2013


MỤC LỤC
1.
Tính cấp thiết của đề tài.................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................3
2.1. Mục đích của tiểu luận............................................................................3
2.2. Nhiệm vụ của tiểu luận...........................................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................4
3.1. Đối tượng nghiên cứu.............................................................................4
3.2. Phạm vi nghiên cứu................................................................................4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu................................................4
5. Kết cấu của tiểu luận.................................................................................4
CHƯƠNG 1...................................................................................................5
CƠ SỞ LÝ LUẬN.........................................................................................5
1.1. Cặp phạm trù bản chất và hiện tượng.....................................................5
1.1.1. Định nghĩa phạm trù và phạm trù triêt học.........................................5
1.1.2. Khái niệm Cặp phạm trù bản chất và hiện tượng................................5
1.1.3 Quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng................................7
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng.....................................................
1.2. Ý nghĩa phương pháp luận....................................................................11
CHƯƠNG 2.................................................................................................12


THỰC TRẠNG Y ĐỨC . LIỆU CĨ CỊN “LƯƠNG Y NHƯ TỪ MẪU”12
1.Các quan điểm về y đức trong lịch sử..........................................................
2.Thực trạng y đức trong giai đoạn hiện nay...................................................
CHƯƠNG 3.....................................................................................................
1.1 Nguyên nhân tình trạng y đức xuống cấp…………………………….16
1.2Phương hướng nhằm nâng cao y đức cho cán bộ y tế…………………17
NGUYÊN NHÂN GIẢI PHÁP.......................................................................


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chăm sóc, bảo vệ sức khỏe con người là một hoạt động hết sức đặc biệt
của xã hội. Trong điều kiện kinh tế thị trường, nghề y sẽ được xã hội định danh
như thế nào. Là một nghề kiến sống hay là một nghề phục vụ xã hội. Một vấn đề
nổi lên trong những thảo luận này đó là vấn đề đạo đức nghề nghiệp - vấn đề y
đức. Mọi chuyện càng trở nên phức tạp hơn khi chúng ta bước vào kinh tế thị
trường từ một xã hội bao cấp - mà ở đó người thầy thuốc là người phục vụ vơ
điều kiện trong chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Trong bất kỳ thời nào hay xã hội nào, nghề y luôn luôn là một nghề được
đề cao nhiều nhất với việc rèn luyện và giáo dục đạo đức nghề nghiệp hay còn
gọi là y đức. Nội dung bất di bất dịch của y đức là sự hy sinh của người thầy
thuốc trong việc phụng sự sức khỏe của người bệnh. Tuy vậy, điều kiện để thể
hiện y đức lại thay đổi theo tình hình thực tế của mỗi thời kỳ mà người thầy
thuốc phải có bản lĩnh cao cả trong sự thay đổi ấy.
Trong khi thực hiện cơ chế bao cấp triệt để, bình đẳng được đề cao, xã
hội khơng có cách biệt giầu nghèo, người thầy thuốc khơng phải lo đến việc
kiếm sống bằng hành nghề và chỉ toàn tâm toàn ý phục vụ sức khỏe của người
bệnh. Vì vậy lúc bấy giờ, đức tính hy sinh khơng địi hỏi một điều kiện hoặc lợi
ích gì cho bản thân thầy thuốc là tiêu chí duy nhất để đánh giá đạo đức nghề
nghiệp y tế. Y tế của thời bao cấp mang tính phục vụ vơ điều kiện, nhưng nay

khi cơ chế thị trường được thiết lập thì y tế được thực hiện dưới dạng dịch vụ;
sức khỏe cũng mang những đặc trưng của hàng hóa (tuy là một loại hàng hóa
đặc biệt) và trong quan hệ giữa thầy thuốc với người bệnh tất yếu dẫn đến sự
trao đổi.


Mặt khác, do những nhu cầu (need) và yêu cầu (demand) trong chăm sóc
sức khỏe ngày một đa dạng và tăng lên rõ rệt. Khơng một quốc gia nào có thể
bao cấp hồn tồn cho nền y tế trong đó có thu nhập của thầy thuốc mà địi hỏi
sự tham gia của người dân và của toàn xã hội vào chăm sóc sức khỏe (trong đó
có sự tham, gia về nhân lực và tài lực). Chính trong hồn cảnh ấy, khi đề cập
đến việc giáo dục và rèn luyện y đức, chúng ta cần bàn đến một số khía cạnh
khác với những hiểu biết và phương pháp thời kỳ bao cấp.
Những vấn đề nổi lên khi bàn đến vấn đề này là:
1. Hiện nay nghề y có được xem là nghề kiếm sống của thầy thuốc hay
khơng? Chúng ta có thừa nhận rằng người thầy thuốc trong hành nghề cũng có
động cơ kiếm sống để lo cho cuộc sống của họ và gia đình họ hay khơng?
Sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người và của toàn xã hội…
Có sức khỏe, con người có hàng trăm ước mơ. Khơng có sức khỏe, con
người có ước mơ duy nhất là “được khỏe”
“Một thân thể không đau, một tinh thần khơng loạn, đó là chân hạnh phúc
của con người”1
Ba điều tạo nên hạnh phúc là: thân thể khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn và
trái tim trong sạch.
Sức khỏe còn là nhân tố cơ bản để nâng cao năng suất lao động và chất
lượng sản phẩm dịch vụ, là một đòi hỏi bắt buộc đối với nguồn nhân lực trong
quá trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hố đất nước.
Ngành quan trọng trong xã hội – Y tế trong các giai đoạn
Vì vậy y tế ln ln là một trong những ngành được nhà nước chú trọng
hàng đầu. Xu thế xã hội hoá các ngành nghề một cách mạnh mẽ, với mục tiêu là

cung cấp hệ thống các cơ sở y tế phục vụ tốt nhất cho tất cả các đối tượng trong
xã hội, giúp người dân được chăm sóc, bảo vệ và tiếp cận các dịch vụ y tế thuận
lợi nhất. Những năm qua, các cơ sở y tế trong nước đã và đang phát triển mạnh
mẽ về cả số lượng và chất lượng phục vụ, hình thức đa dạng, phong phú.

1


Từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, đang hàng ngày hàng giờ tác động đến mọi mặt,
trong đó có lĩnh vực Y đức – đạo đức của người cán bộ y tế, bên cạnh những
yếu tố tích cực đã và đang xuất hiện khơng ít những vấn đề tiêu cực.
Trong mọi giai đoạn lịch sử, cán bộ cơng chức, viên chức nói chung, cán
bộ cơng chức, viên chức ngành y tế nói riêng có một vai trò hết sức quan trọng.
Đội ngũ này ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng. Trong số đó, có
những người khơng chỉ giỏi về chun mơn mà cịn là tấm gương sáng về đạo
đức và lối sống. Họ luôn hăng hái tham gia các hoạt động của ngành cũng như
trong đời sống xã hội.
Tuy vậy, dưới tác động của kinh tế thị trường cũng xuất hiện một số cán
bộ, cơng chức viên chức y tế có những biểu hiện lệch lạc trong suy nghĩ và hành
động. Một số có lối sống hưởng thụ, thực dụng, chạy theo đồng tiền, lười lao
động, khơng nhiệt tình trong cơng việc… tất cả đó đã và đang gây ảnh hưởng
khơng tốt đến niềm tin của nhân dân, cũng như ảnh hưởng lớn đến ngành.
Đây cũng là lý do tôi chọn đề tài tiểu luận: “Vấn đề Y đức dưới góc nhìn
của cặp phạm trù Bản chất và Hiện tượng”.
Y đức – đạo đức của người thầy thuốc, không phải vấn đề mới mẻ. Từ xa
xưa đây đã là một vấn đề nóng được rất nhiều người đề cập tới ở những góc độ,
khía cạnh khác nhau. Qua các giai đoạn lịch sử, các triều đại, y đức được đè cập
tới bằng những điều luật áp dụng cho nghề y, qua lời thề, các tuyên ngôn về y tế
của tổ chức y tế thế giới. Đến nay vấn đề này đã được nhiều nước đưa vào nghĩa

vụ luật thầy thuốc.
Lịch sử y học phương Tây vẫn luôn luôn nhắc đến lời thề Hippocrate (thế
kỷ IV TCN) như một bài học y đức đầu tiên cho người thầy thuốc mới ra trường.
Ở nước ta từ xa xưa đến nay, có khơng ít người thầy thuốc tiêu biểu cho lịng
nhân đạo, tính bất danh lợi của nghề y. Chu Văn An (1292-1370) có nói: “Chữ
Nhân là mấu chốt của người thầy thuốc, rồi mới đến chữ minh chữ tài” – nghĩa
là người thầy thuốc phải lấy lòng nhân đức làm đầu rồi mới đến sự thông minh,
khôn khéo, tài năng xử lý bệnh tật. Hải Thượng Lãn Ông (1720 – 1791), vị danh


sư của nước ta vào TK XVIII mà tài năng và đức độ được phong hàng “y thánh”
đã để lại tấm gương sáng về đạo đức, y đức của mình qua chín quan điểm di
huấn của ơng, hay Nguyễn Đình Chiểu qua “Ngư tiều y thuật vấn đáp”.
Ngay khi Cách mạng Tháng Tám thành cơng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc
biệt quan tâm đến giáo dục đạo đức Cách mạng cho cán bộ Đảng viên nói chung
và cán bộ ngành y tế nói riêng, Người đã để lại nhiều di huấn quý báu về y đức.
“Lương y như từ mẫu”2– lời nói của Bác – vị anh hùng giải phóng dân tộc, danh
nhân văn hóa kiệt xuất, vị lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của Đảng ta, dân
tộc ta vẫn cịn ngun giá trị của nó. Người thầy thuốc phải đồng thời như một
người mẹ hiền, “Người thầy thuốc chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa bệnh tật,
mà còn phải nâng đỡ tinh thần những người ốm yếu” 3. Hiện nay, trong hầu hết
các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước đối với công tác y tế,
vấn đề y đức đều được đề cập. Nghị quyết hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành
Trung ương Đảng Khóa VII “Những vấn đề cấp bách trong lĩnh vực chăm sóc
sức khỏe bảo vệ nhân dân” (ngày 14/01/1993). Ngày 06/11/1996 ngành Y tế đã
có quyết định của Bộ trương bộ y tế Đỗ Nguyên Phương về thực hiện 12 điều y
đức cùng nhiều văn bản pháp quy khác có liên quan đến y đức. Đỗ Nguyên
Phương đã nói về vấn đề y đức, y đạo địi hỏi cấp bách phải nâng cao ý thức của
người thầy thuốc trong giai đoạn hiện nay4


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích của tiểu luận
Trên cơ sở phân tích thực trạng y đức của đội ngũ cán bộ y tế trong thời
gian qua cũng như tìm ra nguyên nhân của nó. Từ đó đưa ra phương hướng và
một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hơn nữa y đức cho cán bộ y tế trong
giai đoạn hiện nay. Làm rõ vấn đè y đức dưới góc nhìn của cặp phạm trù Bản
chất và Hiện tượng.
2.2. Nhiệm vụ của tiểu luận
2

Hồ Chí Minh – Thư gửi các bộ y tế cả nước năm 1955
Hồ Chí Minh – Thư gửi Hội nghị Quân y – Tháng 3/1948
4
Đỗ Nguyên Phương – Phát triển sự nghiệp y tế ở nước ta hiện nay, Nxb Y học HN, 1996
3


Làm rõ tầm quan trọng và yêu cầu của việc nâng cao y đức cho cán bộ
ngành y tế trong giai đoạn hiện nay.
Phân tích thực trạng y đức trong giai đợn hiện nay và tìm ra ngun nhân
của nó.
Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm naang cao y đức
của cán bộ nhân viên trong ngành y tế.
Dưới góc nhìn của cặp phạm trù Bản chất và hiện tượng, vấn đề y đức hiện
lên như thế nào, liệu có những mâu thuẫn nào xuất hiện?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tiểu luận tập trung nghiên cứu: vấn đề y đức dưới góc nhìn của cặp phạm
trù triết học bản chất và hiện tượng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của tiểu luận là toàn bộ cán bộ nhân viên y tế cả nước.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở của chủ nghĩa Duy vật Biện chứng đặc biệt là cơ sở lý luận
của cặp phạm trù bản chất và hiện tượng trong phép biện chứng duy vật, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức và y
đức. Ngồi ra tác giả tiểu luận cịn tham khảo, tiếp thu, kế thừa kết quả đạt được
của các nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài.
Tác giả tiểu luận sử dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật
biện chứng kết hợp với phương pháp phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn
dịch, điều tra xã hội học… nhằm thực hện mục đích mà đề tài đặt ra.
5. Kết cấu của tiểu luận
-Phần mở đầu
-Phần nội dung:
+Chương 1: Cơ sở lý luận cặp phạm trù Bản chất và Hiện tượng.
Vấn đề y đức dưới góc nhìn của cặp phạm trù này.
+Chương 2: Thực trạng y đức hiện nay, liệu có cịn “Lương y như từ
mẫu”?


+Chương 3: Nguyên nhân, đề ra phương hướng, giải pháp cho vaasn
đề y đức của cán bộ nhân viên y tế.
-Phần kết luận: Ý kiến cá nhân về vấn đề trên, đưa ra quan điểm, nhận xét.


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Cặp phạm trù bản chất và hiện tượng
1.1.1. Định nghĩa phạm trù và phạm trù triêt học
“Phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc
tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc

một lĩnh vực nhất định của hiện thực khách quan”5
Mỗi bộ mơn khoa học đều có một hệ thống phạm trù riêng của mình phản
ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến của
hiện thực thuộc phạm vi khoa học đó nghiên cứu.
Ví dụ: Trong Tốn học có các phạm trù “số”, “hình”, “điểm”, “mặt
phẳng”, “hàm số”,… Trong Vật lý học có các phạm trù “gia tốc”, “vận tốc”,
“lực”,… Trong kinh tế học có các phạm trù “hàng hóa”, “tiền tệ”, “thặng dư”,
“lợi nhuận”,… Ví dụ, phạm trù “vật chất”, “ý thức”, “vận động”, “đứng im”,
v.v.. phản ánh những mối liên hệ phổ biến không chỉ của tự nhiên mà cả xã hội,
tư duy của con người.
Phạm trù triết học khác phạm trù của các khoa học khác ở chỗ, nó mang
tính quy định về thế giới quan và tính quy định về phương pháp luận.
Phạm trù triết học là công cụ của nhận thức, đánh dấu trình độ nhận thức của
con người.
1.1.2. Khái niệm Cặp phạm trù bản chất và hiện tượng
Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương
đối ổn định ở bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật đó.
Cịn hiện tượng là biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ ấy ra bên ngoài6
Qua định nghĩa trên, bản chất là cái bên trong, là cái bản chất tạo nên sự
vật, có tính cách tương đối ổn định; còn hiện tượng là những biểu hiện bên ngồi
của sự vật, nó dễ dàng biến đổi theo khơng gian và thời gian.
5
6

PGS, TS. Trần Đình Thảo – giáo trình triết học, Nxb. CTQG, H 2010
GS. VS. Nguyễn Duy Quý và tgk, Giáo trình Triết học Mác – Lenin, Hà Nội, Nxb. CTQG, 2008, trang 275 - 276


Cặp phạm trù này xuyên suốt từ vật chất, con người cho đến các hiện tượng
kinh tế xã hội. Vì vậy sự nhận thức đúng đắn sẽ có ý nghĩa vô cùng to lớn quan

trọng với xã hội ngày nay.
Bản chất diễn tả những đặc tính cơ bản của sự vật và những quá trình hoạt
động sâu xa bên trong sự vật. Vì bản chất nằm bên trong sự vật nên mắt thường
khơng thể nào nhìn thấy được. Hiện tượng là cái biểu hiện bên ngoài nên trong
khả năng nào đó những giác quan có thể nhận thức được. Tuy nhiên có thể
những nhận thức đó là sai lầm.
Thí dụ : -Khi ta nhìn ánh sáng mặt trời chiếu xuống, ta nói rằng
ánh sáng này khơng có màu. Nhưng khi dùng một kính lúp đưa lên
trước ánh sáng đó thì ta sẽ thấy vơ số màu trong đó có bảy màu cơ
bản như đỏ, da cam, vàng, lục, lam, chàm, tím,… Liệu rằng đó là
màu đỏ, cam, lục,…? Hay đó là cái tên mà chúng ta đã từng áp đặt
lên những sự vật có tính chất tương tự? Như vậy, cái nhìn của
chsng ta đến hiện tượng khơng hẳn là đúng sự vật nên đừng vội
vàng luận điều gì chỉ sau cái nhìn ban đầu mà khơng xét đến bản
chất thực sự của nó là gì.
-Về một con người, những biểu hiện bên ngoài của họ
như sự lịch lãm, oai nghiêm, đĩnh đạc, thật thà,… nhưng hãy dè
chừng, đừng nhìn những biểu hiện bên ngoài ấy mà kết luận bản
chất thật sự của họ.
Thales (625? – 546? B.C), đã cho rằng “nguyên chất của vạn vật là nước
mà từ đó vạn vật xuất phát và trong nó vạn vật đều tiêu tán”7 Có lẽ ơng nhìn
thấy hiện tượng vạn vật sống được đều là nhờ nước và ba phần của quả địa cầu
này là biển nên đã kết luận bản chất của vạn vật như vậy.
Heraclitus (570? – 475? B.C), thì cho rằng “lửa là bản thể hoặc ngun lý,
thơng qua sự phân tán và cô tụ, tạo nên những hiện tượng của thế giới của thế
giới cảm giác”.8
1.1.3 Quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
7
8


Mai Sơn biên soạn, 101 Triết gia, Hà Nội, Nxb. Tri thức 2007 , trang 14
Sđd 2, trang 24


Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan là hai mặt vừa thống nhất
vừa đối lập với nhau.
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
Bản chất và hiện tượng thống nhất trong sự vật. Điều này thể hiện:
Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, chính nhờ sự thống nhất này
mà người ta có thể tìm ra cái bản chất, tìm ra quy luật trong vơ vàn các hiện
tượng bên ngồi. Biểu hiện là:
Bản chất ln ln được bộc lộ ra qua hiện tượng, cịn hiện tượng nào cũng là sự biểu
hiện của bản chất ở mức độ nhất định. Khơng có bản chất nào tồn tại thuần túy ngồi hiện
tượng; đồng thời cũng khơng có hiện tượng nào hồn tồn khơng biểu hiện bản chất. Nhấn
mạnh sự thống nhất này



Bản chất hiện ra. Hiện tượng là có tính
bản chất


—Lenin9

Bản chất và hiện tượng về căn bản là phù hợp với nhau. Bản chất được bộc
lộ ra ở những hiện tượng tương ứng. Bản chất nào thì có hiện tượng ấy, bản chất
khác nhau sẽ bộc lộ ở những hiện tượng khác nhau. Bản chất thay đổi thì hiện
tượng biểu hiện nó cũng thay đổi theo. Khi bản chất biến mất thì hiện tượng biểu
hiện nó cũng mất theo.
Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ

cũng là sự thể hiện của bản chất nhất định. Bản chất nào thì sẽ thể hiện ra qua
hiện tượng ấy.
Khơng có bản chất thuần tuý tách rời hiện tượng, không thể hiện ra qua hiện
tượng và ngược lại, khơng có hiện tượng nào mà lại không thể hiện bản chất
nhất định.
Bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ra qua các hiện tượng khác nhau.
9

giáo trình triết học Mac-Lenin, Bộ giáo dục và đào tạo, nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, HN 2006


Liên hệ với vấn đề y đức hiện nay… Việc các bác sĩ nhận phong bì hay
tiền đút lót khơng đơn giản chỉ là "con sâu làm sầu nồi canh" mà đã phổ biến,
trở thành một căn bệnh có tên là "ung thư phong bì". Căn bệnh này, đặc biệt
nghiêm trọng ở các bệnh viện công. Đây là một hiện tượng khá phổ biến. nó
cũng thể hiện phần nào bản chất của vấn đề: y đức của các y bác sĩ! phong bì
khơng những khơng làm tăng chất lượng điều trị như người dân mong muốn, mà
còn làm xấu đi hình ảnh của người thầy thuốc trong con mắt người dân. Khi
niềm tin vào ngành y của người dân ngày càng giảm sút, người bệnh dùng
phong bì để cạnh tranh lẫn nhau và người nghèo sẽ là đối tượng chịu nhiều thiệt
thòi nhất. Tuy nhiên, cả người dân và nhân viên y tế còn thiếu niềm tin vào khả
năng giải quyết dứt điểm nạn phong bì, và trơng chờ sự can thiệp của nhà nước,
thay vì tập trung vào sự thay đổi trong suy nghĩ và hành động của chính họ.
Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng
Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, nhưng đây là sự thống nhất của hai mặt đối
lập. Do vậy không phải bản chất và hiện tượng phù hợp nhau hoàn tồn mà ln bao hàm cả
sự mâu thuẫn nhau.




Nếu hiện tượng và bản chất của sự vật là nhất trí với nhau thì tất
thảy khoa học sẽ trở nên thừa—Các Mác10

Mâu thuẫn này thể hiện ở chỗ:


Bản chất phản ánh cái chung, cái tất yếu, quyết định sự tồn tại và

phát triển của sự vật trong khi hiện tượng phản ánh cái riêng, cái cá biệt.


Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan,

còn hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan đó. Bản chất

10

Giáo trình Triết học Mác – Lê nin, Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ

mơn khoa học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
năm 2004




khơng được biểu lộ hồn tồn ở một hiện tượng mà biểu hiện ở rất nhiều
hiện tượng khác nhau.


Hiện tượng khơng biểu hiện hồn tồn bản chất mà chỉ biểu hiện


một khía cạnh của bản chất, biểu hiện bản chất dưới hình thức đã biến đổi,
nhiều khi xuyên tạc bản chất (ví dụ: Hiện tượngkhúc xạ, ảo ảnh).
Cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ở nhiều hiện tượng khác nhau tùy theo sự thay
đổi của điều kiện và hồn cảnh. Vì vậy hiện tượng phong phú hơn bản chất, còn bản chất sâu
sắc hơn hiện tượng. Bản chất là cái tương đối ổn định, ít biến đổi, cịn hiện tượng là cái
thường xuyên biến đổi.



Cái không bản chất, cái bề ngồi, cái trên mặt, thường biến mất, khơng bám “chắc”, khơng “ngồi vững” bằng “bản
chất” —V.I.Lênin[1]

Nạn phong bì hay cịn gọi là “ung thư phong bì” ngun nhân khơng chỉ
hồn tồn do đội ngũ cán bộ y bác sĩ mà nó cịn là sản phẩm cộng hưởng của
cả ý thức người dân, đặc biệt là những người bệnh nhân và người thân của họ.
Khơng ai nói ra, nhưng cô, cùng rất nhiều người Việt Nam khác tin
rằng, việc đưa phong bì cho các y bác sĩ sẽ giúp người nhà của họ được
ưu ái và chăm sóc cẩn thận hơn. Theo một nghiên cứu đáng tin cậy, số
lượng người nhận phong bì tại các cơ sở y tế ở Việt Nam đã tăng gấp đôi
trong sau ba năm, từ 13% vào năm 2007 lên tới 29% trong năm 2010. Y
tế giờ đây đã được gọi là dịch vụ hay dịch vụ y tế. Ở đây, khơng bàn gì
đến kinh tế vĩ mô, chiến lược y tế quốc gia, thu nhập bác sĩ nước giàu thế
này thế nọ. Bạn có thể nhìn một mơ hình dịch vụ y tế bằng con mắt của
một người nông dân thuần túy " Mua cái gì - bán cái đó ".
Lẽ thường, cần cái gì thì bỏ tiền ra mua cái đó. Khi bạn dùng đồng
tiền đưa cho nhân viên y tế để được khám nhanh, được chăm sóc tận tình
hơn thì cũng đừng tỏ ra quá ngạc nhiên. Trước và sau phong bì thái độ
nó khác hẳn vì chính bạn mong muốn điều đó. Bạn bỏ tiền ra để muốn





khám trước vượt qua mấy chục người đang đợi, bỏ tiền ra để điều dưỡng
chăm sóc mình tốt hơn. Điều đó hiển nhiên vì cái bạn muốn mua đã được
bán.
Một cuộc khảo sát được Ngân hàng Quốc tế và Thanh tra Chính phủ
thực hiện hồi năm ngối cũng cho thấy, 76% những người dùng phong bì
để cảm ơn các y bác sĩ đều hồn tồn tự nguyện, chỉ có 21% làm việc đó
vì bị u cầu. Điều này chứng bệnh “ung thư phong bì” đến từ cả hai
phía. Cũng khơng thể không nhắc đến những y bác sĩ liêm khiết, khơng
nhận phong bì, khơng vì phong bì mà làm hoen blouse trắng!
1.2. Ý nghĩa phương pháp luận
Muốn nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng thì khơng
dừng lại ở bên ngoài mà phải đi vào bản chất. Phải thông qua nhiều hiện
tượng khác nhau mới nhận thức đúng bản chất. Hơn nữa, bản chất của sự
vật không biểu hiện đầy đủ trong một hiện tương nhất định nào và biến
đổi trong quá trình phát triển, do vậy, trong q trình phân tích, tổng hợp
sự biến đổ của nhiều sự vật, hiện tượng, đặc biệt là những hiện tượng
điển hình mới hiểu rõ được bản chất của sự vật.
Bản chất phản ánh tính tất yếu,tính quy luật nên trong nhận thức và
thực tiễn cần phải căn cứ vào bản chất thì mới có thể đánh giá một cách
chính xác về sự vật, hiện tượng đó và mới có thể cải tạo căn bản sự vật.
Cũng như việc đánh giá y đức, đạo đức của cán bộ nhân viên y tế, ta
phải đi sâu tìm hiểu, tránh việc lấy hiện tượng kết luận bản chất.


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG Y ĐỨC . LIỆU CĨ CỊN “LƯƠNG Y NHƯ TỪ MẪU”.


1.Các quan điểm về y đức trong lịch sử
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại nói chung, lịch sử tư tưởng đạo đức nói
riêng, y đức ln luôn trở thành đối tượng quan tâm của nhiều thế hệ, trong
nhiều thời đại khác nhau. “Tôi xin thề trước Apollon thần chữa bệnh, trước
Esculape thần Y học, trước thần higic và Panacu và trước sự chứng giám của các
nam nữ thiên thần…….
Tôi suốt đời hành nghề trong sự vô tư và thân thiết. Dù bất cứ giá nào tôi
cũng chỉ vì lợi ích của người bệnh, tránh mọi hành vi xấu xa, cố ý và đồi bại…
Nếu tôi làm trịn lời thề này và khơng có gì vi phạm tôi sẽ hưởng một cuộc
sống sung sướng và sẽ được hành nghề trong sự quý trọng mãi mãi của mọi
người. Nếu tôi vi phạm lời thề này hay tôi tự phản bội thì tơi sé chịu một số
phận khổ sở”11
Như vậy, ngay từ buổi bình minh của lịch sử y học phương Tây,
Hippocrate đã đưa ra những quan điểm quan trọng, cốt lõi cho y đức của người
thầy thuốc như chữa bệnh cho người nghèo, tận tâm, tận lực, hết lịng vì người
bệnh. Ngồi lời thề của Hippocrate ra, lời thề y khoa (Amates Lusitanus) của y
sĩ12 Bồ Đào Nha gốc Do Thái.
Cịn ở phương Đơng, y đức có nguồn gốc từ quan niệm cái đức của người
thầy thuốc phải rộng như bieernn cả và tự mình phải minh. Với lòng nhân ái cao
cả “Thương người như thể thương thân” nhân dân ta rất quý trong nghề y và tôn
vinh những người thầy thuốc hết lịng vì người bệnh. Mà các bậc danh y như
Tuệ Tĩnh (TK XIV), Hải Thượng Lãn Ông (1720 – 1791) đều hết sức chú trọng
xây dựng và truyền đạt tới người thầy thuốc. Người thầy thuốc phải đồng thời

11
12

Hippocrate



như một người mẹ hiền, “Người thầy thuốc chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa
bệnh tật, mà cịn phải nâng đỡ tinh thần những người ốm yếu”13
2.Thực trạng y đức trong giai đoạn hiện nay
Rất nhiều y, bác sĩ đã và đang làm tốt vai trị của mình. Khơng những thế
họ cịn đảm đương nhiều cơng việc, vị trí quan trọng trong xã hội.
“12h đêm, phòng bệnh đèn vẫn bật sáng trưng. Trên chiếc giường bệnh bên
cạnh, một người đàn ông vừa qua phẫu thuật cột sống phải nằm cố định với
chiếc áo giáp nẹp cứng người không thể cử động. Khi thuốc giảm đau hết tác
dụng, tiếng rên rỉ mỗi lúc một lớn vọng ra bên ngoài hành lang… Những âm
thanh đó khơng lạ lẫm với bác sĩ, y tá, điều dưỡng của khoa Phẫu thuật thần
kinh. Nhiều khi chính tiếng rên xiết đó làm họ cảm thấy n lịng, vì bệnh nhân
tỉnh táo và biết đau đớn, chứ sau phẫu thuật mà người bệnh hôn mê bất tỉnh thì
tiên lượng rất xấu”14. Họ như những ngọn đèn, mang ánh sáng hi vọng cho bệnh
nhân và người thân.
“Dẫu biết y khoa không thể trọn vẹn và làm nên tất cả, song vẫn hi vọng 70
trí tuệ và trái tim sẽ làm nên điều kỳ diệu” - TS.BS Trương Quang Định, phó
giám đốc Bệnh viện Nhi Đồng 2 TP.HCM, chia sẻ trên trang Facebook cá nhân
trước ca phẫu thuật tách rời hai bé song sinh 14 tháng tuổi Nguyễn Hoàng Phi
Long và Nguyễn Hoàng Phi Phụng, nặng tổng cộng 13kg.
Và điều kỳ diệu đã đến sau gần 12 giờ gây mê và phẫu thuật. 17g30 ngày
26-11 tại Bệnh viện Nhi Đồng 2, êkip y bác sĩ đã tách rời thành cơng cặp song
sinh bị dính nhau phức tạp này. Ngay sau đó, hai bé trai Phi Long và Phi Phụng
(Ninh Thuận) đã được chuyển đến khoa hồi sức. “Ca phẫu thuật đến nay là
thành công. Hiện giờ sức khỏe hai bé tương đối ổn định nhưng vẫn phải theo dõi
đặc biệt” - TS.BS Trương Quang Định cho biết.

13
14

Hồ Chí Minh – Thư gửi Hội nghị Quân y – Tháng 3/1948

/>

…Bên cạnh đó, cịn một bộ phận khơng nhỏ làm hoen áo blouse trắng
Khơng phải ngẫu nhiên mà tại kì họp thứ 4 Quốc hội khóa XIII, phần chất
vấn Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến mà đặc biệt là chất vấn về vấn đề
y đức lại nhận được nhiều câu hỏi như vậy từ các đại biểu Quốc hội. Điều này
cho thấy đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận không nhỏ những người làm
trong ngành y tế đang có vấn đề nặng. Có tờ báo đã nhận xét một số bác sĩ hiện
nay mắc bệnh “ung thư phong bì”. Nói như đại biểu Quốc hội Nguyễn Sỹ
Cương thì tiêu cực trong ngành y tế, xuống cấp y đức được xem là “căn bệnh
trầm kha” bởi thực trạng này đã kéo dài lâu nay và ngày càng trở nên trầm trọng,
gây bức xúc trong nhân dân. Ngay cả bản thân vị “tư lệnh” của ngành y tế cũng
phải thẳng thắn thừa nhận, tình trạng xuống cấp y đức và tiêu cực trong lĩnh vực
y tế đang diễn ra rất phức tạp, chẳng khác gì cuộc đấu tranh dai dẳng giữa cái
thiện và cái ác. Những nhận định, đánh giá trên cùng với thực tế cuộc sống cho
thấy một điều rõ ràng rằng vấn đề y đức ở nước ta hiện nay đang ở mức “báo
động” !

Trong số những vụ việc gây ra cái chết cho bệnh nhân thì có lẽ tai biến sản
khoa chiếm số lượng nhiều nhất. Ví dụ như theo thống kê sơ bộ trên cả nước chỉ
trong vòng 35 ngày (từ 18/4 đến 23/5/2012) đã xảy ra tới 8 vụ tai biến sản khoa
cướp đi sinh mạng của 7 sản phụ và 5 trẻ sơ sinh. Trong 6 tháng đầu năm có 88
vụ tai biến thai sản thì trong đó có tới 64 vụ diễn ra tại các bệnh viện, cơ sở y tế.
Điểm chung của các vụ tai biến này là: Kết quả khám, siêu âm trước sinh của
mẹ và con đều “bình thường”; Sự việc đều xảy ra ở bệnh viện tuyến dưới và chủ
yếu diễn ra về đêm; Gia đình bức xúc nhưng không nhận được lời giải đáp thỏa
đáng từ bệnh viện, các báo cáo giải trình của bệnh viện đều cho thấy họ đã “làm
đúng chuyên môn, xử lý kịp thời”, hồn tồn khơng có phần giải trình trách
nhiệm ?!
Một trong những bệnh viện có mức độ tai biến sản khoa nhiều nhất là Bệnh

viện Đa khoa Quảng Ngãi. Theo một thống kê chưa đầy đủ thì sơ bộ từ tháng


4/2012 đến nay đã có tới 5 vụ tai biến sản khoa cướp đi sinh mạng của 3 sản phụ
và 5 trẻ sơ sinh (trong đó có một cặp song sinh). Những kết luận trong báo cáo
giải trình của Sở Y tế Quang Ngãi cho thấy có những sự tắc trách đến kì lạ của
những “lương y”, những “quy định về y đức”. Lời thề Hyppocrates về đạo đức
ngành y… được học từ những ngày đầu khi bước vào ngành y cũng dường như
bị lãng qn nhanh chóng. Khơng rõ là khả năng chuyên môn hay sự thiếu trách
nhiệm trong nghề nghiệp mà vị bác sĩ mổ cho sản phụ Lê Thanh Thủy tại bệnh
viện Phụ sản –Nhi Bình Dương sau khi khâu vết mổ lại khâu luôn cả… ruột vào
thân tử cung khiến sản phụ tử vong ?! Rồi trường hợp của sản phụ Trần Thanh
Nguyệt được BV Phụ sản Tiền Giang xác định là thai nhi đã chết nhưng không
cấp cứu, không kịp thời xử lý thai lưu, mà lại đưa vào phòng chờ sinh gần 48
giờ dẫn đến thai phụ tử vong…
Gần đây nhất là vụ việc Thẩm mỹ viện (TMV) Cát Tường gây xôn xao
dư luận. ngày 19-10, chị Lê Thị Thanh Huyền (SN 1974, ở số 36 phố Hàng
Thiếc, phường Hàng Gai, quận Hoàn Kiếm) đã đến Thẩm mỹ viện Cát Tường để
hút mỡ bụng, nâng ngực. Chủ cơ sở thẩm mỹ, bác sĩ Nguyễn Mạnh Tường trực
tiếp làm phẫu thuật.
Sau đó, chị Huyền có biểu hiện sùi bọt mép, người co giật. Bác sĩ Tường
tìm các biện pháp cấp cứu nhưng chị Huyền khơng qua khỏi cơn nguy kịch. 23
giờ cùng ngày, bác sĩ Nguyễn Mạnh Tường cùng nhân viên bảo vệ Đào Quang
Khánh đưa xác chị Huyền ra ôtô chở đến cầu Thanh Trì, vứt xuống sơng Hồng.
Khi vụ việc bị phát hiện, Thẩm mỹ viện Cát Tường đã hoạt động chui
khoảng 6 tháng. Cho đến sáng nay 5-11, sau rất nhiều nỗ lực của người thân và
cơ quan chức năng, thi thể chị Lê Thị Thanh Huyền vẫn chưa được tìm thấy.
Hàng loạt vụ việc liên quan tới vấn đề y đức tại các bệnh viện chưa kịp lắng
xuống thì một vụ việc động trời khác lại tiếp tục diễn ra. Vụ "nhân bản" kết quả
xét nghiệm máu tại bệnh viện đa khoa Hồi Đức (Hà Nội) là bê bối có q trình

kéo dài thời gian nhất, đến nay mới bị phát hiện và khiến dư luận hoang mang
về đạo đức ngành y nhiều nhất. Sự tắc trách nghề nghiệp hay văn hóa phong bì


trong bệnh viện (được ví von là bệnh "ung thư phong bì"-PV) là hai vấn đề nổi
cộm liên quan trực tiếp đến tính mạng người bệnh nhưng xét cho cùng đó cũng
chỉ là hai trong số rất nhiều căn bệnh liên quan đến y đức mà ngành này mắc
phải. Điều đáng buồn, ngay ở bệnh viện, nơi đứng giữa ranh giới mong manh sự
sống chết của con người thì vai trị của văn hóa phong bì càng được bộc lộ một
cách rõ ràng và phát huy vai trị của nó hơn bao giờ hết.

CHƯƠNG 3
NGUYÊN NHÂN GIẢI PHÁP
1.1.

Nguyên nhân tình trạng y đức xuống cấp

Về nguyên nhân xuống cấp đạo đức có rất nhiều ngun nhân, chúng tơi
chỉ nêu ngun nhân chính:


Thứ nhất, bản thân con người đó khơng rèn luyện chính mình, từ xã

hội, gia đình và trong q trình đào tạo.


Thứ hai là cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của

chúng ta có những mặt tích cực, tuy nhiên cũng có tác động tiêu cực, đó là lợi
nhuận, đó là mong muốn kiếm được nhiều tiền, bất chấp và vượt quá khả năng

cho phép của mình về nghề nghiệp cũng như trách nhiệm.


Thứ ba, trong bệnh viện cơng lập vì q tải nên thái độ, đạo đức

không đáp ứng được cả vấn đề về thái độ lẫn trách nhiệm.


Thứ tư, vì quảng cáo, người dân tin vào quảng cáo và tự đi đến

những nơi không có cơ sở vật chất đầy đủ để làm dịch vụ y tế.
1.2.

Phương hướng nhằm nâng cao y đức cho cán bộ y tế

Về giải pháp sắp tới, đây là một lời cảnh tỉnh toàn bộ hệ thống ngành y tế
để có thể vượt qua mọi khó khăn và quyết tâm sửa chữa.


Quán triệt quan điểm của Đảng về đạo đức của người cán bộ nói

chung và cán bộ y tế nói riêng.




Gắn việc nâng cao y đức với yêu cầu phát triển của đất nước.

Kết hợp giáo dục học tập y đức truyền thống với những giá trị y đức phổ
quát tồn nhân loại Phải có lời chào thân thiện khi tiếp xúc với người bệnh,

người nhà người bệnh.
Khi tiếp xúc với người bệnh phải thực hiện: Ba không:
 Không thờ ơ, vơ cảm trước tình cảnh của người bệnh (vấn đề
của pháp lý, đạo lý)
 Không từ chối yêu cầu của người bệnh (không phải từ lời yêu
cầu của người bệnh mà từ kiến thức chuyên môn, quy định
của nghề nghiệp, từ lịng nhân ái.


Khơng có cử chỉ, hành động làm người bệnh phật lòng, lo
toan, sợ hãi, tránh né chúng ta (hiểu thấu tâm lý…)

Người bệnh khi mới vào khoa bệnh,điều dưỡng,nữ hộ sinh …,phải tận tình giới
thiệu hướng dẫn thực hiện nội quy bệnh viện,nội quy bệnh phòng. Khi được
người bệnh hỏi thăm, yêu cầu CBVC phải dừng việc làm của mình lại,vui vẻ chỉ
dẫn cho người bệnh.
Nói khơng với phong bì. Tuyệt đối khơng trục lợi từ người bệnh và người nhà
người bệnh:
Bệnh nhân và người thân: nâng cao ý thức của mình khi đến khám, chữa
bệnh tại các trung tâm y tế. Cùng với đội ngũ cán bộ, nhân viên trong bệnh viện
tạo môi trường thân thiện, tình cảm trong bệnh viện.



×