Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Vấn đề Y đức, từ góc nhìn cặp phạm trù bản chất và hiện tượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.25 KB, 20 trang )



BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
HỌC VIỆN CHÍNH SÁCH VÀ PHÁT TRIỂN
HỌC VIỆN CHÍNH SÁCH VÀ PHÁT TRIỂN

Đề tài: Vấn đề Y đức , từ góc nhìn cặp phạm
trù bản chất và hiện tượng
Giáo viên hướng dẫn
Giáo viên hướng dẫn
: Thầy NGÔ MINH THUẬN
: Thầy NGÔ MINH THUẬN
Sinh viên thực hiện
Sinh viên thực hiện
: NGUYỄN THỊ HOÀNG MAI
: NGUYỄN THỊ HOÀNG MAI
Lớp
Lớp


: KTĐN 4B
: KTĐN 4B
Mã số sinh viên :
HÀ NỘI, 12/2013



MỤC LỤC
1.
1.Tính c p thi t c a tàiấ ế ủ đề 1


2. M c ích và nhi m v nghiên c uụ đ ệ ụ ứ 3
S th ng nh t gi a b n ch t và hi n t ngự ố ấ ữ ả ấ ệ ượ 7
B n ch t và hi n t ng th ng nh t trong s v t. i u này th hi n:ả ấ ệ ượ ố ấ ự ậ Đề ể ệ 7
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người và của toàn xã hội…
Có sức khỏe, con người có hàng trăm ước mơ. Không có sức khỏe, con
người có ước mơ duy nhất là “được khỏe”
“Một thân thể không đau, một tinh thần không loạn, đó là chân hạnh phúc
của con người”
1
Ba điều tạo nên hạnh phúc là: thân thể khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn và
trái tim trong sạch.
Sức khỏe còn là nhân tố cơ bản để nâng cao năng suất lao động và chất
lượng sản phẩm dịch vụ, là một đòi hỏi bắt buộc đối với nguồn nhân lực trong
quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hoá đất nước.
Ngành quan trọng trong xã hội – Y tế trong các giai đoạn
Vì vậy y tế luôn luôn là một trong những ngành được nhà nước chú trọng
hàng đầu. Xu thế xã hội hoá các ngành nghề một cách mạnh mẽ, với mục tiêu là
cung cấp hệ thống các cơ sở y tế phục vụ tốt nhất cho tất cả các đối tượng trong
xã hội, giúp người dân được chăm sóc, bảo vệ và tiếp cận các dịch vụ y tế thuận
lợi nhất. Những năm qua, các cơ sở y tế trong nước đã và đang phát triển mạnh
mẽ về cả số lượng và chất lượng phục vụ, hình thức đa dạng, phong phú.
Từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, đang hàng ngày hàng giờ tác động đến mọi mặt,
trong đó có lĩnh vực Y đức – đạo đức của người cán bộ y tế, bên cạnh những
yếu tố tích cực đã và đang xuất hiện không ít những vấn đề tiêu cực.
Trong mọi giai đoạn lịch sử, cán bộ công chức, viên chức nói chung, cán
bộ công chức, viên chức ngành y tế nói riêng có một vai trò hết sức quan trọng.
Đội ngũ này ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng. Trong số đó, có

những người không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn là tấm gương sáng về đạo
1
Tác giả Epicure
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoàng Mai – KTĐN4B Page 1
đức và lối sống. Họ luôn hăng hái tham gia các hoạt động của ngành cũng như
trong đời sống xã hội.
Tuy vậy, dưới tác động của kinh tế thị trường cũng xuất hiện một số cán
bộ, công chức viên chức y tế có những biểu hiện lệch lạc trong suy nghĩ và hành
động. Một số có lối sống hưởng thụ, thực dụng, chạy theo đồng tiền, lười lao
động, không nhiệt tình trong công việc… tất cả đó đã và đang gây ảnh hưởng
không tốt đến niềm tin của nhân dân, cũng như ảnh hưởng lớn đến ngành.
Đây cũng là lý do tôi chọn đề tài tiểu luận: “Vấn đề Y đức dưới góc nhìn
của cặp phạm trù Bản chất và Hiện tượng”.
Y đức – đạo đức của người thầy thuốc, không phải vấn đề mới mẻ. Từ xa
xưa đây đã là một vấn đề nóng được rất nhiều người đề cập tới ở những góc độ,
khía cạnh khác nhau. Qua các giai đoạn lịch sử, các triều đại, y đức được đè cập
tới bằng những điều luật áp dụng cho nghề y, qua lời thề, các tuyên ngôn về y tế
của tổ chức y tế thế giới. Đến nay vấn đề này đã được nhiều nước đưa vào nghĩa
vụ luật thầy thuốc.
Lịch sử y học phương Tây vẫn luôn luôn nhắc đến lời thề Hippocrate (thế
kỷ IV TCN) như một bài học y đức đầu tiên cho người thầy thuốc mới ra trường.
Ở nước ta từ xa xưa đến nay, có không ít người thầy thuốc tiêu biểu cho lòng
nhân đạo, tính bất danh lợi của nghề y. Chu Văn An (1292-1370) có nói: “Chữ
Nhân là mấu chốt của người thầy thuốc, rồi mới đến chữ minh chữ tài” – nghĩa
là người thầy thuốc phải lấy lòng nhân đức làm đầu rồi mới đến sự thông minh,
khôn khéo, tài năng xử lý bệnh tật. Hải Thượng Lãn Ông (1720 – 1791), vị danh
sư của nước ta vào TK XVIII mà tài năng và đức độ được phong hàng “y thánh”
đã để lại tấm gương sáng về đạo đức, y đức của mình qua chín quan điểm di
huấn của ông, hay Nguyễn Đình Chiểu qua “Ngư tiều y thuật vấn đáp”.
Ngay khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc

biệt quan tâm đến giáo dục đạo đức Cách mạng cho cán bộ Đảng viên nói chung
và cán bộ ngành y tế nói riêng, Người đã để lại nhiều di huấn quý báu về y đức.
“Lương y như từ mẫu”
2
– lời nói của Bác – vị anh hùng giải phóng dân tộc, danh
2
Hồ Chí Minh – Thư gửi các bộ y tế cả nước năm 1955
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoàng Mai – KTĐN4B Page 2
nhân văn hóa kiệt xuất, vị lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của Đảng ta, dân
tộc ta vẫn còn nguyên giá trị của nó. Người thầy thuốc phải đồng thời như một
người mẹ hiền, “Người thầy thuốc chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa bệnh tật,
mà còn phải nâng đỡ tinh thần những người ốm yếu”
3
. Hiện nay, trong hầu hết
các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước đối với công tác y tế,
vấn đề y đức đều được đề cập. Nghị quyết hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành
Trung ương Đảng Khóa VII “Những vấn đề cấp bách trong lĩnh vực chăm sóc
sức khỏe bảo vệ nhân dân” (ngày 14/01/1993). Ngày 06/11/1996 ngành Y tế đã
có quyết định của Bộ trương bộ y tế Đỗ Nguyên Phương về thực hiện 12 điều y
đức cùng nhiều văn bản pháp quy khác có liên quan đến y đức. Đỗ Nguyên
Phương đã nói về vấn đề y đức, y đạo đòi hỏi cấp bách phải nâng cao ý thức của
người thầy thuốc trong giai đoạn hiện nay
4
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích của tiểu luận
Trên cơ sở phân tích thực trạng y đức của đội ngũ cán bộ y tế trong thời
gian qua cũng như tìm ra nguyên nhân của nó. Từ đó đưa ra phương hướng và
một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hơn nữa y đức cho cán bộ y tế trong
giai đoạn hiện nay. Làm rõ vấn đè y đức dưới góc nhìn của cặp phạm trù Bản
chất và Hiện tượng.

2.2. Nhiệm vụ của tiểu luận
Làm rõ tầm quan trọng và yêu cầu của việc nâng cao y đức cho cán bộ
ngành y tế trong giai đoạn hiện nay.
Phân tích thực trạng y đức trong giai đợn hiện nay và tìm ra nguyên nhân
của nó.
Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm naang cao y đức
của cán bộ nhân viên trong ngành y tế.
Dưới góc nhìn của cặp phạm trù Bản chất và hiện tượng, vấn đề y đức hiện
lên như thế nào, liệu có những mâu thuẫn nào xuất hiện?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
3
Hồ Chí Minh – Thư gửi Hội nghị Quân y – Tháng 3/1948
4
Đỗ Nguyên Phương – Phát triển sự nghiệp y tế ở nước ta hiện nay, Nxb Y học HN, 1996
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoàng Mai – KTĐN4B Page 3
Tiểu luận tập trung nghiên cứu: vấn đề y đức dưới góc nhìn của cặp phạm
trù triết học bản chất và hiện tượng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của tiểu luận là toàn bộ cán bộ nhân viên y tế cả nước.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở của chủ nghĩa Duy vật Biện chứng đặc biệt là cơ sở lý luận
của cặp phạm trù bản chất và hiện tượng trong phép biện chứng duy vật, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức và y
đức. Ngoài ra tác giả tiểu luận còn tham khảo, tiếp thu, kế thừa kết quả đạt được
của các nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài.
Tác giả tiểu luận sử dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật
biện chứng kết hợp với phương pháp phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn
dịch, điều tra xã hội học… nhằm thực hện mục đích mà đề tài đặt ra.
5. Kết cấu của tiểu luận

-Phần mở đầu
-Phần nội dung:
+Chương 1: Cơ sở lý luận cặp phạm trù Bản chất và Hiện tượng.
Vấn đề y đức dưới góc nhìn của cặp phạm trù này.
+Chương 2: Thực trạng y đức hiện nay, liệu có còn “Lương y như từ
mẫu”?
+Chương 3: Nguyên nhân, đề ra phương hướng, giải pháp cho vaasn
đề y đức của cán bộ nhân viên y tế.
-Phần kết luận: Ý kiến cá nhân về vấn đề trên, đưa ra quan điểm, nhận xét.
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoàng Mai – KTĐN4B Page 4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Cặp phạm trù bản chất và hiện tượng
1.1.1. Định nghĩa phạm trù và phạm trù triêt học
“Phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc
tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc
một lĩnh vực nhất định của hiện thực khách quan”
5
Mỗi bộ môn khoa học đều có một hệ thống phạm trù riêng của mình phản
ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến của
hiện thực thuộc phạm vi khoa học đó nghiên cứu.
Ví dụ: Trong Toán học có các phạm trù “số”, “hình”, “điểm”, “mặt
phẳng”, “hàm số”,… Trong Vật lý học có các phạm trù “gia tốc”, “vận tốc”,
“lực”,… Trong kinh tế học có các phạm trù “hàng hóa”, “tiền tệ”, “thặng dư”,
“lợi nhuận”,… Ví dụ, phạm trù “vật chất”, “ý thức”, “vận động”, “đứng im”,
v.v phản ánh những mối liên hệ phổ biến không chỉ của tự nhiên mà cả xã hội,
tư duy của con người.
Phạm trù triết học khác phạm trù của các khoa học khác ở chỗ, nó mang
tính quy định về thế giới quan và tính quy định về phương pháp luận.
Phạm trù triết học là công cụ của nhận thức, đánh dấu trình độ nhận thức của

con người.
1.1.2. Khái niệm Cặp phạm trù bản chất và hiện tượng
Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương
đối ổn định ở bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật đó.
Còn hiện tượng là biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ ấy ra bên ngoài
6
Qua định nghĩa trên, bản chất là cái bên trong, là cái bản chất tạo nên sự
vật, có tính cách tương đối ổn định; còn hiện tượng là những biểu hiện bên ngoài
của sự vật, nó dễ dàng biến đổi theo không gian và thời gian.
Cặp phạm trù này xuyên suốt từ vật chất, con người cho đến các hiện tượng
kinh tế xã hội. Vì vậy sự nhận thức đúng đắn sẽ có ý nghĩa vô cùng to lớn quan
trọng với xã hội ngày nay.
5
PGS, TS. Trần Đình Thảo – giáo trình triết học, Nxb. CTQG, H 2010
6
GS. VS. Nguyễn Duy Quý và tgk, Giáo trình Triết học Mác – Lenin, Hà Nội, Nxb. CTQG, 2008, trang 275 - 276
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoàng Mai – KTĐN4B Page 5
Bản chất diễn tả những đặc tính cơ bản của sự vật và những quá trình hoạt
động sâu xa bên trong sự vật. Vì bản chất nằm bên trong sự vật nên mắt thường
không thể nào nhìn thấy được. Hiện tượng là cái biểu hiện bên ngoài nên trong
khả năng nào đó những giác quan có thể nhận thức được. Tuy nhiên có thể
những nhận thức đó là sai lầm.
Thí dụ : -Khi ta nhìn ánh sáng mặt trời chiếu xuống, ta nói rằng
ánh sáng này không có màu. Nhưng khi dùng một kính lúp đưa lên
trước ánh sáng đó thì ta sẽ thấy vô số màu trong đó có bảy màu cơ
bản như đỏ, da cam, vàng, lục, lam, chàm, tím,… Liệu rằng đó là
màu đỏ, cam, lục,…? Hay đó là cái tên mà chúng ta đã từng áp đặt
lên những sự vật có tính chất tương tự? Như vậy, cái nhìn của
chsng ta đến hiện tượng không hẳn là đúng sự vật nên đừng vội
vàng luận điều gì chỉ sau cái nhìn ban đầu mà không xét đến bản

chất thực sự của nó là gì.
-Về một con người, những biểu hiện bên ngoài của họ
như sự lịch lãm, oai nghiêm, đĩnh đạc, thật thà,… nhưng hãy dè
chừng, đừng nhìn những biểu hiện bên ngoài ấy mà kết luận bản
chất thật sự của họ.
Thales (625? – 546? B.C), đã cho rằng “nguyên chất của vạn vật là nước
mà từ đó vạn vật xuất phát và trong nó vạn vật đều tiêu tán”
7
Có lẽ ông nhìn
thấy hiện tượng vạn vật sống được đều là nhờ nước và ba phần của quả địa cầu
này là biển nên đã kết luận bản chất của vạn vật như vậy.
Heraclitus (570? – 475? B.C), thì cho rằng “lửa là bản thể hoặc nguyên lý,
thông qua sự phân tán và cô tụ, tạo nên những hiện tượng của thế giới của thế
giới cảm giác”.
8
1.1.3 Quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan là hai mặt vừa thống nhất
vừa đối lập với nhau.
7
Mai Sơn biên soạn, 101 Triết gia, Hà Nội, Nxb. Tri thức 2007 , trang 14
8
Sđd 2, trang 24
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoàng Mai – KTĐN4B Page 6
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
Bản chất và hiện tượng thống nhất trong sự vật. Điều này thể hiện:
Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, chính nhờ sự thống nhất này
mà người ta có thể tìm ra cái bản chất, tìm ra quy luật trong vô vàn các hiện
tượng bên ngoài. Biểu hiện là:
Bản chất luôn luôn được bộc lộ ra qua hiện tượng, còn hiện tượng nào cũng
là sự biểu hiện của bản chất ở mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại

thuần túy ngoài hiện tượng; đồng thời cũng không có hiện tượng nào hoàn toàn
không biểu hiện bản chất. Nhấn mạnh sự thống nhất này
“ Bản chất hiện ra. Hiện tượng là có tính
bản chất ”
—Lenin
9
Bản chất và hiện tượng về căn bản là phù hợp với nhau. Bản chất được bộc
lộ ra ở những hiện tượng tương ứng. Bản chất nào thì có hiện tượng ấy, bản chất
khác nhau sẽ bộc lộ ở những hiện tượng khác nhau. Bản chất thay đổi thì hiện
tượng biểu hiện nó cũng thay đổi theo. Khi bản chất biến mất thì hiện tượng biểu
hiện nó cũng mất theo.
Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ
cũng là sự thể hiện của bản chất nhất định. Bản chất nào thì sẽ thể hiện ra qua
hiện tượng ấy.
Không có bản chất thuần tuý tách rời hiện tượng, không thể hiện ra qua hiện
tượng và ngược lại, không có hiện tượng nào mà lại không thể hiện bản chất
nhất định.
Bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ra qua các hiện tượng khác nhau.
9
giáo trình triết học Mac-Lenin, Bộ giáo dục và đào tạo, nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, HN 2006
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoàng Mai – KTĐN4B Page 7
Liên hệ với vấn đề y đức hiện nay… Việc các bác sĩ nhận phong bì hay
tiền đút lót không đơn giản chỉ là "con sâu làm sầu nồi canh" mà đã phổ biến,
trở thành một căn bệnh có tên là "ung thư phong bì". Căn bệnh này, đặc biệt
nghiêm trọng ở các bệnh viện công. Đây là một hiện tượng khá phổ biến. nó
cũng thể hiện phần nào bản chất của vấn đề: y đức của các y bác sĩ! phong bì
không những không làm tăng chất lượng điều trị như người dân mong muốn, mà
còn làm xấu đi hình ảnh của người thầy thuốc trong con mắt người dân. Khi
niềm tin vào ngành y của người dân ngày càng giảm sút, người bệnh dùng
phong bì để cạnh tranh lẫn nhau và người nghèo sẽ là đối tượng chịu nhiều thiệt

thòi nhất. Tuy nhiên, cả người dân và nhân viên y tế còn thiếu niềm tin vào khả
năng giải quyết dứt điểm nạn phong bì, và trông chờ sự can thiệp của nhà nước,
thay vì tập trung vào sự thay đổi trong suy nghĩ và hành động của chính họ.
Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng
Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, nhưng đây là sự thống nhất
của hai mặt đối lập. Do vậy không phải bản chất và hiện tượng phù hợp nhau
hoàn toàn mà luôn bao hàm cả sự mâu thuẫn nhau.
“ Nếu hiện tượng và bản chất của sự vật là nhất trí với nhau thì tất
thảy khoa học sẽ trở nên thừa—Các Mác
10

Mâu thuẫn này thể hiện ở chỗ:
• Bản chất phản ánh cái chung, cái tất yếu, quyết định sự tồn tại và
phát triển của sự vật trong khi hiện tượng phản ánh cái riêng, cái cá biệt.
• Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan,
còn hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan đó. Bản chất
10
Giáo trình Triết học Mác – Lê nin, Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ
môn khoa học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
năm 2004
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoàng Mai – KTĐN4B Page 8
không được biểu lộ hoàn toàn ở một hiện tượng mà biểu hiện ở rất nhiều
hiện tượng khác nhau.
• Hiện tượng không biểu hiện hoàn toàn bản chất mà chỉ biểu hiện
một khía cạnh của bản chất, biểu hiện bản chất dưới hình thức đã biến đổi,
nhiều khi xuyên tạc bản chất (ví dụ: Hiện tượngkhúc xạ, ảo ảnh).
Cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ở nhiều hiện tượng khác nhau tùy
theo sự thay đổi của điều kiện và hoàn cảnh. Vì vậy hiện tượng phong phú hơn
bản chất, còn bản chất sâu sắc hơn hiện tượng. Bản chất là cái tương đối ổn
định, ít biến đổi, còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi.


Cái không bản chất, cái bề ngoài, cái trên mặt, thường biến mất,
không bám “chắc”, không “ngồi vững” bằng “bản chất” —V.I.Lênin
[1]
Nạn phong bì hay còn gọi là “ung thư phong bì” nguyên nhân không chỉ
hoàn toàn do đội ngũ cán bộ y bác sĩ mà nó còn là sản phẩm cộng hưởng của
cả ý thức người dân, đặc biệt là những người bệnh nhân và người thân của họ.
Không ai nói ra, nhưng cô, cùng rất nhiều người Việt Nam khác tin
rằng, việc đưa phong bì cho các y bác sĩ sẽ giúp người nhà của họ được
ưu ái và chăm sóc cẩn thận hơn. Theo một nghiên cứu đáng tin cậy, số
lượng người nhận phong bì tại các cơ sở y tế ở Việt Nam đã tăng gấp đôi
trong sau ba năm, từ 13% vào năm 2007 lên tới 29% trong năm 2010. Y
tế giờ đây đã được gọi là dịch vụ hay dịch vụ y tế. Ở đây, không bàn gì
đến kinh tế vĩ mô, chiến lược y tế quốc gia, thu nhập bác sĩ nước giàu thế
này thế nọ. Bạn có thể nhìn một mô hình dịch vụ y tế bằng con mắt của
một người nông dân thuần túy " Mua cái gì - bán cái đó ".
Lẽ thường, cần cái gì thì bỏ tiền ra mua cái đó. Khi bạn dùng đồng
tiền đưa cho nhân viên y tế để được khám nhanh, được chăm sóc tận tình
hơn thì cũng đừng tỏ ra quá ngạc nhiên. Trước và sau phong bì thái độ

SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoàng Mai – KTĐN4B Page 9
nó khác hẳn vì chính bạn mong muốn điều đó. Bạn bỏ tiền ra để muốn
khám trước vượt qua mấy chục người đang đợi, bỏ tiền ra để điều dưỡng
chăm sóc mình tốt hơn. Điều đó hiển nhiên vì cái bạn muốn mua đã được
bán.
Một cuộc khảo sát được Ngân hàng Quốc tế và Thanh tra Chính phủ thực
hiện hồi năm ngoái cũng cho thấy, 76% những người dùng phong bì để
cảm ơn các y bác sĩ đều hoàn toàn tự nguyện, chỉ có 21% làm việc đó vì
bị yêu cầu. Điều này chứng bệnh “ung thư phong bì” đến từ cả hai phía.
Cũng không thể không nhắc đến những y bác sĩ liêm khiết, không nhận

phong bì, không vì phong bì mà làm hoen blouse trắng!
1.2. Ý nghĩa phương pháp luận
Muốn nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng thì không
dừng lại ở bên ngoài mà phải đi vào bản chất. Phải thông qua nhiều hiện
tượng khác nhau mới nhận thức đúng bản chất. Hơn nữa, bản chất của sự
vật không biểu hiện đầy đủ trong một hiện tương nhất định nào và biến
đổi trong quá trình phát triển, do vậy, trong quá trình phân tích, tổng hợp
sự biến đổ của nhiều sự vật, hiện tượng, đặc biệt là những hiện tượng
điển hình mới hiểu rõ được bản chất của sự vật.
Bản chất phản ánh tính tất yếu,tính quy luật nên trong nhận thức và
thực tiễn cần phải căn cứ vào bản chất thì mới có thể đánh giá một cách
chính xác về sự vật, hiện tượng đó và mới có thể cải tạo căn bản sự vật.
Cũng như việc đánh giá y đức, đạo đức của cán bộ nhân viên y tế, ta
phải đi sâu tìm hiểu, tránh việc lấy hiện tượng kết luận bản chất.
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoàng Mai – KTĐN4B Page 10
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG Y ĐỨC . LIỆU CÓ CÒN “LƯƠNG Y NHƯ TỪ MẪU”.
1.Các quan điểm về y đức trong lịch sử
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại nói chung, lịch sử tư tưởng đạo đức nói
riêng, y đức luôn luôn trở thành đối tượng quan tâm của nhiều thế hệ, trong
nhiều thời đại khác nhau. “Tôi xin thề trước Apollon thần chữa bệnh, trước
Esculape thần Y học, trước thần higic và Panacu và trước sự chứng giám của các
nam nữ thiên thần…….
Tôi suốt đời hành nghề trong sự vô tư và thân thiết. Dù bất cứ giá nào tôi
cũng chỉ vì lợi ích của người bệnh, tránh mọi hành vi xấu xa, cố ý và đồi bại…
Nếu tôi làm tròn lời thề này và không có gì vi phạm tôi sẽ hưởng một cuộc
sống sung sướng và sẽ được hành nghề trong sự quý trọng mãi mãi của mọi
người. Nếu tôi vi phạm lời thề này hay tôi tự phản bội thì tôi sé chịu một số
phận khổ sở”
11

Như vậy, ngay từ buổi bình minh của lịch sử y học phương Tây,
Hippocrate đã đưa ra những quan điểm quan trọng, cốt lõi cho y đức của người
thầy thuốc như chữa bệnh cho người nghèo, tận tâm, tận lực, hết lòng vì người
bệnh. Ngoài lời thề của Hippocrate ra, lời thề y khoa (Amates Lusitanus) của y

12
Bồ Đào Nha gốc Do Thái.
Còn ở phương Đông, y đức có nguồn gốc từ quan niệm cái đức của người
thầy thuốc phải rộng như bieernn cả và tự mình phải minh. Với lòng nhân ái cao
cả “Thương người như thể thương thân” nhân dân ta rất quý trong nghề y và tôn
vinh những người thầy thuốc hết lòng vì người bệnh. Mà các bậc danh y như
Tuệ Tĩnh (TK XIV), Hải Thượng Lãn Ông (1720 – 1791) đều hết sức chú trọng
xây dựng và truyền đạt tới người thầy thuốc. Người thầy thuốc phải đồng thời
như một người mẹ hiền, “Người thầy thuốc chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa
bệnh tật, mà còn phải nâng đỡ tinh thần những người ốm yếu”
13
2.Thực trạng y đức trong giai đoạn hiện nay
11
Hippocrate
12
13
Hồ Chí Minh – Thư gửi Hội nghị Quân y – Tháng 3/1948
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoàng Mai – KTĐN4B Page 11
Rất nhiều y, bác sĩ đã và đang làm tốt vai trò của mình. Không những thế
họ còn đảm đương nhiều công việc, vị trí quan trọng trong xã hội.
“12h đêm, phòng bệnh đèn vẫn bật sáng trưng. Trên chiếc giường bệnh bên
cạnh, một người đàn ông vừa qua phẫu thuật cột sống phải nằm cố định với
chiếc áo giáp nẹp cứng người không thể cử động. Khi thuốc giảm đau hết tác
dụng, tiếng rên rỉ mỗi lúc một lớn vọng ra bên ngoài hành lang… Những âm
thanh đó không lạ lẫm với bác sĩ, y tá, điều dưỡng của khoa Phẫu thuật thần

kinh. Nhiều khi chính tiếng rên xiết đó làm họ cảm thấy yên lòng, vì bệnh nhân
tỉnh táo và biết đau đớn, chứ sau phẫu thuật mà người bệnh hôn mê bất tỉnh thì
tiên lượng rất xấu”
14
. Họ như những ngọn đèn, mang ánh sáng hi vọng cho bệnh
nhân và người thân.
“Dẫu biết y khoa không thể trọn vẹn và làm nên tất cả, song vẫn hi vọng 70
trí tuệ và trái tim sẽ làm nên điều kỳ diệu” - TS.BS Trương Quang Định, phó
giám đốc Bệnh viện Nhi Đồng 2 TP.HCM, chia sẻ trên trang Facebook cá nhân
trước ca phẫu thuật tách rời hai bé song sinh 14 tháng tuổi Nguyễn Hoàng Phi
Long và Nguyễn Hoàng Phi Phụng, nặng tổng cộng 13kg.
Và điều kỳ diệu đã đến sau gần 12 giờ gây mê và phẫu thuật. 17g30 ngày
26-11 tại Bệnh viện Nhi Đồng 2, êkip y bác sĩ đã tách rời thành công cặp song
sinh bị dính nhau phức tạp này. Ngay sau đó, hai bé trai Phi Long và Phi Phụng
(Ninh Thuận) đã được chuyển đến khoa hồi sức. “Ca phẫu thuật đến nay là
thành công. Hiện giờ sức khỏe hai bé tương đối ổn định nhưng vẫn phải theo dõi
đặc biệt” - TS.BS Trương Quang Định cho biết.
…Bên cạnh đó, còn một bộ phận không nhỏ làm hoen áo blouse trắng
Không phải ngẫu nhiên mà tại kì họp thứ 4 Quốc hội khóa XIII, phần chất
vấn Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến mà đặc biệt là chất vấn về vấn đề
y đức lại nhận được nhiều câu hỏi như vậy từ các đại biểu Quốc hội. Điều này
14
hXp://vtc.vn/321-354761/suc-khoe/dem-trang-cung-bac-si-truc-cap-cuu.htm
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoàng Mai – KTĐN4B Page 12
cho thấy đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận không nhỏ những người làm
trong ngành y tế đang có vấn đề nặng. Có tờ báo đã nhận xét một số bác sĩ hiện
nay mắc bệnh “ung thư phong bì”. Nói như đại biểu Quốc hội Nguyễn Sỹ
Cương thì tiêu cực trong ngành y tế, xuống cấp y đức được xem là “căn bệnh
trầm kha” bởi thực trạng này đã kéo dài lâu nay và ngày càng trở nên trầm trọng,
gây bức xúc trong nhân dân. Ngay cả bản thân vị “tư lệnh” của ngành y tế cũng

phải thẳng thắn thừa nhận, tình trạng xuống cấp y đức và tiêu cực trong lĩnh vực
y tế đang diễn ra rất phức tạp, chẳng khác gì cuộc đấu tranh dai dẳng giữa cái
thiện và cái ác. Những nhận định, đánh giá trên cùng với thực tế cuộc sống cho
thấy một điều rõ ràng rằng vấn đề y đức ở nước ta hiện nay đang ở mức “báo
động” !
Trong số những vụ việc gây ra cái chết cho bệnh nhân thì có lẽ tai biến sản
khoa chiếm số lượng nhiều nhất. Ví dụ như theo thống kê sơ bộ trên cả nước chỉ
trong vòng 35 ngày (từ 18/4 đến 23/5/2012) đã xảy ra tới 8 vụ tai biến sản khoa
cướp đi sinh mạng của 7 sản phụ và 5 trẻ sơ sinh. Trong 6 tháng đầu năm có 88
vụ tai biến thai sản thì trong đó có tới 64 vụ diễn ra tại các bệnh viện, cơ sở y tế.
Điểm chung của các vụ tai biến này là: Kết quả khám, siêu âm trước sinh của mẹ
và con đều “bình thường”; Sự việc đều xảy ra ở bệnh viện tuyến dưới và chủ
yếu diễn ra về đêm; Gia đình bức xúc nhưng không nhận được lời giải đáp thỏa
đáng từ bệnh viện, các báo cáo giải trình của bệnh viện đều cho thấy họ đã “làm
đúng chuyên môn, xử lý kịp thời”, hoàn toàn không có phần giải trình trách
nhiệm ?!
Một trong những bệnh viện có mức độ tai biến sản khoa nhiều nhất là Bệnh
viện Đa khoa Quảng Ngãi. Theo một thống kê chưa đầy đủ thì sơ bộ từ tháng
4/2012 đến nay đã có tới 5 vụ tai biến sản khoa cướp đi sinh mạng của 3 sản phụ
và 5 trẻ sơ sinh (trong đó có một cặp song sinh). Những kết luận trong báo cáo
giải trình của Sở Y tế Quang Ngãi cho thấy có những sự tắc trách đến kì lạ của
những “lương y”, những “quy định về y đức”. Lời thề Hyppocrates về đạo đức
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoàng Mai – KTĐN4B Page 13
ngành y… được học từ những ngày đầu khi bước vào ngành y cũng dường như
bị lãng quên nhanh chóng. Không rõ là khả năng chuyên môn hay sự thiếu trách
nhiệm trong nghề nghiệp mà vị bác sĩ mổ cho sản phụ Lê Thanh Thủy tại bệnh
viện Phụ sản –Nhi Bình Dương sau khi khâu vết mổ lại khâu luôn cả… ruột vào
thân tử cung khiến sản phụ tử vong ?! Rồi trường hợp của sản phụ Trần Thanh
Nguyệt được BV Phụ sản Tiền Giang xác định là thai nhi đã chết nhưng không
cấp cứu, không kịp thời xử lý thai lưu, mà lại đưa vào phòng chờ sinh gần 48

giờ dẫn đến thai phụ tử vong…
Gần đây nhất là vụ việc Thẩm mỹ viện (TMV) Cát Tường gây xôn xao
dư luận. ngày 19-10, chị Lê Thị Thanh Huyền (SN 1974, ở số 36 phố Hàng
Thiếc, phường Hàng Gai, quận Hoàn Kiếm) đã đến Thẩm mỹ viện Cát Tường để
hút mỡ bụng, nâng ngực. Chủ cơ sở thẩm mỹ, bác sĩ Nguyễn Mạnh Tường trực
tiếp làm phẫu thuật.
Sau đó, chị Huyền có biểu hiện sùi bọt mép, người co giật. Bác sĩ Tường
tìm các biện pháp cấp cứu nhưng chị Huyền không qua khỏi cơn nguy kịch. 23
giờ cùng ngày, bác sĩ Nguyễn Mạnh Tường cùng nhân viên bảo vệ Đào Quang
Khánh đưa xác chị Huyền ra ôtô chở đến cầu Thanh Trì, vứt xuống sông Hồng.
Khi vụ việc bị phát hiện, Thẩm mỹ viện Cát Tường đã hoạt động chui
khoảng 6 tháng. Cho đến sáng nay 5-11, sau rất nhiều nỗ lực của người thân và
cơ quan chức năng, thi thể chị Lê Thị Thanh Huyền vẫn chưa được tìm thấy.
Hàng loạt vụ việc liên quan tới vấn đề y đức tại các bệnh viện chưa kịp lắng
xuống thì một vụ việc động trời khác lại tiếp tục diễn ra. Vụ "nhân bản" kết quả
xét nghiệm máu tại bệnh viện đa khoa Hoài Đức (Hà Nội) là bê bối có quá trình
kéo dài thời gian nhất, đến nay mới bị phát hiện và khiến dư luận hoang mang
về đạo đức ngành y nhiều nhất. Sự tắc trách nghề nghiệp hay văn hóa phong bì
trong bệnh viện (được ví von là bệnh "ung thư phong bì"-PV) là hai vấn đề nổi
cộm liên quan trực tiếp đến tính mạng người bệnh nhưng xét cho cùng đó cũng
chỉ là hai trong số rất nhiều căn bệnh liên quan đến y đức mà ngành này mắc
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoàng Mai – KTĐN4B Page 14
phải. Điều đáng buồn, ngay ở bệnh viện, nơi đứng giữa ranh giới mong manh sự
sống chết của con người thì vai trò của văn hóa phong bì càng được bộc lộ một
cách rõ ràng và phát huy vai trò của nó hơn bao giờ hết.
CHƯƠNG 3
NGUYÊN NHÂN GIẢI PHÁP
1.1. Nguyên nhân tình trạng y đức xuống cấp
Về nguyên nhân xuống cấp đạo đức có rất nhiều nguyên nhân, chúng tôi
chỉ nêu nguyên nhân chính:

 Thứ nhất, bản thân con người đó không rèn luyện chính mình, từ xã
hội, gia đình và trong quá trình đào tạo.
 Thứ hai là cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của
chúng ta có những mặt tích cực, tuy nhiên cũng có tác động tiêu cực, đó là lợi
nhuận, đó là mong muốn kiếm được nhiều tiền, bất chấp và vượt quá khả năng
cho phép của mình về nghề nghiệp cũng như trách nhiệm.
 Thứ ba, trong bệnh viện công lập vì quá tải nên thái độ, đạo đức
không đáp ứng được cả vấn đề về thái độ lẫn trách nhiệm.
 Thứ tư, vì quảng cáo, người dân tin vào quảng cáo và tự đi đến
những nơi không có cơ sở vật chất đầy đủ để làm dịch vụ y tế.
1.2. Phương hướng nhằm nâng cao y đức cho cán bộ y tế
Về giải pháp sắp tới, đây là một lời cảnh tỉnh toàn bộ hệ thống ngành y tế
để có thể vượt qua mọi khó khăn và quyết tâm sửa chữa.
 Quán triệt quan điểm của Đảng về đạo đức của người cán bộ nói
chung và cán bộ y tế nói riêng.
 Gắn việc nâng cao y đức với yêu cầu phát triển của đất nước.
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoàng Mai – KTĐN4B Page 15
Kết hợp giáo dục học tập y đức truyền thống với những giá trị y đức phổ
quát toàn nhân loại Phải có lời chào thân thiện khi tiếp xúc với người bệnh,
người nhà người bệnh.
Khi tiếp xúc với người bệnh phải thực hiện: Ba không:
• Không thờ ơ, vô cảm trước tình cảnh của người bệnh (vấn đề
của pháp lý, đạo lý)
• Không từ chối yêu cầu của người bệnh (không phải từ lời yêu
cầu của người bệnh mà từ kiến thức chuyên môn, quy định
của nghề nghiệp, từ lòng nhân ái.
• Không có cử chỉ, hành động làm người bệnh phật lòng, lo
toan, sợ hãi, tránh né chúng ta (hiểu thấu tâm lý…)
Người bệnh khi mới vào khoa bệnh,điều dưỡng,nữ hộ sinh …,phải tận tình giới
thiệu hướng dẫn thực hiện nội quy bệnh viện,nội quy bệnh phòng. Khi được

người bệnh hỏi thăm, yêu cầu CBVC phải dừng việc làm của mình lại,vui vẻ chỉ
dẫn cho người bệnh.
Nói không với phong bì. Tuyệt đối không trục lợi từ người bệnh và người nhà
người bệnh:
Bệnh nhân và người thân: nâng cao ý thức của mình khi đến khám, chữa
bệnh tại các trung tâm y tế. Cùng với đội ngũ cán bộ, nhân viên trong bệnh viện
tạo môi trường thân thiện, tình cảm trong bệnh viện.
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoàng Mai – KTĐN4B Page 16
PHẦN KẾT LUẬN
Qua những gì chúng ta đã trình bày và nghiên cứu ở trên, thì vấn đề y đức
hiện nay là vấn đề rất nóng. Thực trạng y đức hiện nay đã gióng lên một
chuông cảnh báo về vấn đề bức thiết này. Vậy giải pháp nào cho đạo đức
ngành y?
Đã và đang ngồi trên ghế giảng đường, đặc biệt được học tập, rèn luyện
trong môi trường của Học viện Chính sách và Phát triển, em thấy rằng đạo đức
ngành y và ý thức người dân cần được chú trọng hơn. Chúng ta nên đề cao và
phát huy những ưu điểm hiện nay đã đạt được. Đồng thời cần có sự hợp tác,
quyết tâm từ cả hai phía Bệnh nhân và Bác sĩ.
Tóm lại, y đức là nội dung nhân văn lớn của người hành nghề y, là truyền
thống cao đẹp, là trách nhiệm và danh dự của cán bộ y tế, là niềm tin yêu của
Đảng và nhà nước, là tình cảm của nhân dân với người thầy thuốc. Con người là
vốn quý nhất của xã hội, và vốn quý nhất của con người là sức khỏe. Ngành y
có vinh dự trực tiếp chăm sóc sức khỏe cho con người, do vậy người hành nghề
y đòi hỏi phải có phẩm chất đặc biệt được thể hiện ở tinh thần trách nhiệm cao,
phục vụ tận tình, yêu thương hết lòng chăm sóc người bệnh. Y đức phải được
thực hiện thông qua các nguyên tắc chuẩn mực đạo đức và được xã hội thừa
nhận.
- GS. TSKH Phạm Mạnh Hùng, chuyên viên cao cấp Ban Tuyên giáo
Trung ương, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế cho biết
15

. “Tôi cho rằng một bộ phận
lớn các thầy thuốc hiện nay không thích thú gì với phong bì bồi dưỡng của bệnh
nhân, thậm chí còn coi đó là sự xúc phạm. Nhưng đúng là còn một bộ phận y,
bác sỹ còn ứng xử chưa đúng mực, thiếu văn hóa, thậm chí sách nhiễu, vòi tiền
bệnh nhân” - thể hiện quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
15
hXp://giadinhvn.vn/vn/Tintuc/BATMACHTAINHA/3340-De-nang-cao-y-duc-phai-giai-quyet-nhieu-van-
de.aspx?print=1
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoàng Mai – KTĐN4B Page 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học – TS. Trần Đình Thảo – Nxb CTQG 2010
2. Hồ Chí Minh – Thư gửi Hội nghị Quân y – Tháng 3/1948
3. GS. VS. Nguyễn Duy Quý và tgk, Giáo trình Triết học Mác –
Lenin, Hà Nội, Nxb. CTQG, 2008
4. Nhập môn Marx, Rius (Eduardo del Rio), người dịch: Nguyễn
Hà, hiệu đính: Bùi Văn Nam Sơn, Nhà xuất bản Trẻ, thành
phố Hồ Chí Minh, năm 2006
5. Một số vấn đề Triết học Mác – Lênin: Lý luận và thực tiễn (tái
bản có bổ sung), Lê Doãn Tá, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
- Sự thật, Hà Nội, năm 2003
6. Chính trị, Bộ Giáo dục và Đào tạo – Chủ biên: Lê Thế
Lạng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
năm 2004 (tái bản có bổ sung, sửa chữa)
7. />8. />SV thực hiện: Nguyễn Thị Hoàng Mai – KTĐN4B Page 18

×