Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Tiểu luận cao học môn chính sách xã hội thực hiện chính sách giáo dục – đào tạo ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.71 KB, 37 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong đời sống xã hội, giáo dục và đào tạo là lĩnh vực có vai trị quan
trọng đối với mọi quốc gia, dân tộc ở mọi thời đại. Trong xu thế phát triển tri
thức ngày nay, giáo dục - đào tạo được xem là chính sách, biện pháp quan
trọng hàng đầu để phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới và Việt Nam
khơng phải là ngoại lệ.
Chính sách phát triển giáo dục – đào tạo ln đóng vai trị quan trọng
trong việc hoạch định chính sách quốc gia ở tất cả các nước trên thế giới. hiện
nay, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật tiếp tục phát triển mạnh mẽ cùng với
sự phát triển của kinh tế tri thức. Nhân loại đang hướng tới một cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ ba, lấy tri thức làm động lực phát triển, khoa học –
công nghệ trở thành động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế - xã hội. Giáo
dục – đào tạolà nền tảng của sự phát triển khoa học – công nghệ, phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại và đóng vai trog chủ yếu
trong việc nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm và năng lực của các
thế hệ tương lai. Tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi giáo dục –
đào tạo phải đáp ứng nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội.
Sau hơn 30 năm, công cuộc đổi mới đất nước do Đảng cộng sản Việt
Nam khởi xướng và lạnh đạo đã đạt được những thành tựu to lớn. Việt Nam
đang bước vào thời kỳ phát triển mạnh với vị thế và diện mạo mới. Kinh tế
phát triển đạt tốc độ tăng trưởng cao. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
CNH, HĐH. Việt Nam ngày càng tích cực tham gia vào q trình hội nhập
quốc tế. Mặc dù vậy, nền kinh tế Việt Nam vẫn ở mức thấp so với các nước
trong khu vực và trên thế giới, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đồng bộ.
Nhận thức rõ vai trò của giáo dục - đào tạo đối với sự phát triển, Đảng
và Nhà nước ta khẳng đinh: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Việc đổi mới
giáo dục trong giai đoạn hiện nay đang là mối quan tâm của các cấp, ngành,
1



các nhà khoa học và toàn xã hội. Chọn khoa học và giáo dục làm khâu đột
phá cho phát triển. Chọn giáo dục làm tiền đề, làm xương sống của phát triển
bền vững là xác định đúng đắn và khoa học. Chính vì vậy, em chọn “Thực
hiện chính sách giáo dục – đào tạo ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài tiểu
luận kết thúc học phần mơn Chính sách xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu
Có nhiều cơng trình nghiên cứu về Chính sách giáo dục – đào tạo ở Việt
Nam với nhiều góc độ khác nhau được trình bày với nhiều hình thức như: đề tài
khoa học, giáo trình, báo chí, … Một số cơng trình tiêu biểu như sau:
- Phạm Tất Dong (1993), Giáo dục – đào tạo – nền tảng của chiến
lược con người, Tạp chí Cộng sản.
- Phạm Văn Đồng (1999), Về giáo dục – đào tạo, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
- Trung tâm thơng tin, Bộ Giáo dục và đào tạo (2000), Toàn cảnh giáo
dục Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Đình Hịa (2001), Mối quan hệ giữa giáo dục, đào tạo và
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp chí triết học.
- Nguyễn Danh Thuận (2005), Cơ sở khoa học để xây dựng chính
sách đầu tư đào tạo tài năng nghệ thuận ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ chuyên
ngành Quản lý kinh tế.
Các đề tài nghiên cứu đã chỉ ra ưu điểm, hạn chế của nền giáo dục Việt
Nam ở nhiều khía cạnh. Một số tác giả đã phân tích, đánh giá q trình phát triển
của giáo dục qua các thời kỳ phát triển của đất nước trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế. Tuy vậy, sau 30 năm đổi mới đất nước, chưa có đề tài nào
nghiên cứu đến chính sách giáo dục ở Việt Nam dưới góc độ chính trị học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.

Mục đích


Nghiên cứu q trình thực hiện chính sách giáo dục ở Việt Nam hiện
nay, từ đó đưa ra một số giải pháp thực hiện hiệu quả chính sách giáo dục và
2


đào tạo đáp ứng yêu cầu xây dựng nguồn nhân lực phát triển trong thời kỳ
mới.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu việc thực hiện chính sách giáo dục – đào tạo dưới góc độ
lý luận.
- Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách giáo dục – đào tạo ở Việt
Nam giai đoạn 2015 – 2018.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần thực hiện hiệu quả chính sách
giáo dục – đào tạo ở Việt Nam giai đoạn 2018 – 2020.

3


NỘI DUNG
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC –
ĐÀO TẠO
1.1.

Một số khái niệm


1.1.1. Khái niệm chính sách
Chính sách là một hệ thống ngun tắc có chủ ý hướng dẫn các quyết
định và đạt được các kết quả hợp lý. Một chính sách là một tuyên bố về ý
định, và được thực hiện như một thủ tục hoặc giao thức. Các chính sách
thường được cơ quan quản trị thơng qua trong một tổ chức. Chính sách có thể
hỗ trợ cả việc đưa ra quyết định chủ quan và khách quan. Các chính sách hỗ
trợ trong việc ra quyết định chủ quan thường hỗ trợ quản lý cấp cao với các
quyết định phải dựa trên thành tích tương đối của một số yếu tố và do đó
thường khó kiểm tra khách quan. Các chính sách tương phản để hỗ trợ việc ra
quyết định khách quan thường hoạt động trong tự nhiên và có thể được kiểm
tra khách quan.
Theo Từ điển tiếng Việt thì “chính sách” là “sách lược và kế hoạch cụ
thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và
tình hình thực tế mà đề ra”.
Theo tác giả Vũ Cao Đàm thì “chính sách là một tập hợp biện pháp
được thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra,
trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ
hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến
lược phát triển của một hệ thống xã hội”. Theo tác giả thì khái niệm “hệ
thống xã hội” được hiểu theo một ý nghĩa khái quát. Đó có thể là một quốc
gia, một khu vực hành chính, một doanh nghiệp, một nhà trường.
Cũng có một định nghĩa khác, “chính sách là chuỗi những hoạt động
mà chính quyền chọn làm hay khơng làm với tính tốn và chủ đích rõ ràng,
có tác động đến người dân”.
4


Vậy, chính sách là gì? Đây là một thuật ngữ được sử dụng rất rộng rãi
trong đời sống xã hội, đặc biệt là được sử dụng rất nhiều trong các vấn đề liên
quan đến chính trị và pháp quyền. Theo em, chính sách cần được hiểu ở

những góc nhìn nhất định: xem xét nó một cách độc lập hay trong mối quan
hệ với các phạm trù khác, chẳng hạn như chính trị hay pháp quyền.
Nếu nhìn nhận chính sách như một hiện tượng tĩnh và tương đối độc
lập thì theo chúng tơi, chính sách được hiều là những tư tưởng, những định
hướng, những mong muốn cần hướng tới, cần đạt được. Cịn chiến lược hay
kế hoạch, thậm chí pháp luật chẳng qua chỉ là hình thức, là phương tiện để
chuyển tải, để thể hiện chính sách. Chính vì vậy, so với khái niệm pháp
luật, chính sách được hiểu rộng hơn nhiều. Nếu xét nội hàm của khái niệm
này trong mối quan hệ với chính trị và pháp quyền thì khái niệm chính sách
cần được tìm hiểu ở một số khía cạnh sau đây:
– Chính sách là sự thể hiện cụ thể của đường lối chính trị chung. Dựa
vào đường lối chính trị chung, cương lĩnh chính trị của đảng cầm quyền mà
người ta định ra chính sách.
– Chính sách là cơ sở nền tảng để chế định nên pháp luật. Hay nói cách
khác, pháp luật là kết quả của sự thể chế hóa chính sách. Có thể có chính sách
chưa được luật pháp hóa (thể chế hóa), hoặc cũng có thể khơng bao giờ được
luật pháp hóa vì nó khơng được lựa chọn để luật pháp hóa khi khơng cịn phù
hợp với tư tưởng mới hay sự thay đổi của thực tiễn. Nhưng sẽ khơng có pháp
luật phi chính sách hay pháp luật ngồi chính sách. Theo nghĩa đó, chính sách
chính là linh hồn, là nội dung của pháp luật, cịn pháp luật là hình thức, là
phương tiện thể hiện của chính sách khi nó được thừa nhận, được “nhào nặn”
bởi “bàn tay công quyền”, tức là được ban hành bởi nhà nước theo một trình
tự luật định.
Như vậy, chính sách ln gắn liền với quyền lực chính trị, với đảng
cầm quyền và với bộ máy quyền lực công – nhà nước.

5


1.1.2. Khái niệm giáo dục – đào tạo

Từ khi xã hội lồi người xuất hiện, các thế hệ ln gắn bó với nhau
trong nhiều lĩnh vực hoạt động: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học,
kỹ thuật, … Trong đó, giáo dục là hiện tượng nảy sinh, tồn tại và phát triển
mãi với xã hội loài người. hiện tượng này biểu hiện ở chỗ, thế hệ trước truyền
lại kinh nghiệm xã hội cho thế hệ sau nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển mọi
mặt của đời sống xã hội trong từng giai đoạn lịch sử, thế hệ sau lĩnh hội có
chọn lọc những kinh nghiệm xã hội đó để tham gia các hoạt động xã hội, qua
đó nhân cách được hình thành và phát triển. Kinh nghiệm xã hội bao gồm tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo, niềm tin, thái độ, … của con người trong mọi hoạt
động.
Như vậy, về cơ bản, “Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất
của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử – xã hội của các thế hệ
loài người”. Định nghĩa này nhấn mạnh về sự truyền đạt và lĩnh hội giữa các
thế hệ, nhấn mạnh đến yếu tố dạy học, nhưng không đề cập đến mục đích sâu
xa hơn, mục đích cuối cùng của việc đó.
Theo ơng John Dewey (1859 – 1952), nhà triết học, nhà tâm lí học và
nhà cải cách giáo dục người Mỹ, ông cho rằng cá nhân con người không bao
giờ vượt qua được quy luật của sự chết và cùng với sự chết thì những kiến
thức, kinh nghiệm mà cá nhân mang theo cũng sẽ biến mất. Tuy nhiên, tồn tại
xã hội lại đòi hỏi phải những kiến thức, kinh nghiệm của con người phải vượt
qua được sự khống chế của sự chết để duy trì tính liên tục của sự sống xã hội.
Giáo dục là “khả năng” của loài người để đảm bảo tồn tại xã hội. Ngoài ra,
ông John Dewey cũng cho rằng, xã hội không chỉ tồn tại nhờ truyền dạy,
nhưng cịn tồn tại chính trong quá trình truyền dạy ấy. Như vậy, theo quan
điểm của ông John Dewey, ông cũng đề cập đến việc truyền đạt, nhưng ơng
nói rõ hơn về mục tiêu cuối cùng của việc giáo dục, là dạy dỗ.
Như vậy, có thể kết luận rằng, “giáo dục” là sự hoàn thiện của mỗi cá
nhân, đây cũng là mục tiêu sâu xa của giáo dục; người giáo dục, hay có thể
6



gọi là thế hệ trước, có nghĩa vụ phải dẫn dắt, chỉ hướng, phải truyền tải lại cho
thế hệ sau tất cả những gì có thể để làm cho thế hệ sau trở nên phát triển hơn,
hoàn thiện hơn.Với ý nghĩa đó, giáo dục đã ra đời từ khi xã hội lồi người
mới hình thành, do nhu cầu của xã hội và trở thành một yếu tố cơ bản để làm
phát triển loài người, phát triển xã hội. Giáo dục là một hoạt động có ý thức
của con người nhằm vào mục đích phát triển con người và phát triển xã hội.
Giáo dục ban đầu được thực hiện một cách đơn giản, trực tiếp ngay
trong lao động và trong cuộc sống, ở mọi lúc, mọi nơi. Khi xã hội ngày càng
phát triển lên, kinh nghiệm xã hội được đúc kết nhiều hơn, yêu cầu của xã hội
đối với con người ngày càng cao hơn, các loại hình hoạt động xã hội ngày
càng mở rộng hơn thì giáo dục theo phương hướng trực tiếp khơng cịn phù
hợp mà địi hỏi phải có một phương thức giáo dục khác có hiệu quả hơn. Giáo
dục gián tiếp theo phương thức nhà trường, được thực hiện một cách chuyên
biệt ra đời và ngày càng phát triển đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu của xã hội.
Do đó, xã hội ngày càng phát triển, giáo dục ngày càng trở nên phức tạp hơn
và mang tính chuyên biệt hơn. Sự phát triển đó là do yêu cầu tất yếu của xã
hội và do những sức mạnh to lớn của giáo dục tạo ra sự phát triển của xã hội.
Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển về mọi mặt của xã hội thì khơng ai
có thể phủ nhận về nó.
Từ khi ra đời, giáo dục đã trở thành một yếu tố cơ bản thúc đẩy sự phát
triển thông qua việc thực hiện các chức năng xã hội của nó. Đó chính là
những tác động tích cực của giáo dục đến các mặt hay các quá trình xã hội và
tạo ra sự phát triển cho xã hội. Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm
“giáo dục”:
– Giáo dục được hiểu là quá trình hình thành và phát triển nhân cách
dưới ảnh hưởng của tất cả các hoạt động từ bên ngoài, được thực hiện một
cách có ý thức của con người trong nhà trường, gia đình và ngồi xã hội. Ví
dụ: Ảnh hưởng của các hoạt động đa dạng nội khóa, ngoại khóa của nhà


7


trường; ảnh hưởng của lối dạy bảo, nếp sống trong gia đình; ảnh hưởng của
sách vở, tạp chí; ảnh hưởng của những tấm lòng nhân từ của người khác;…
– Giáo dục còn được hiểu là hệ thống những tác động có mục đích xác
định được tổ chức một cách khoa học (có kế hoạch, có phương pháp, có hệ
thống) của các cơ quan giáo dục chuyên biệt (nhà trường) nhằm phát triển
tồn diện nhân cách. Qua những mơn học trên trường, lớp cũng như qua
những hoạt động như báo cáo thời sự, biểu diễn văn nghệ, cắm trại, thăm
quan,… được tổ chức ngoài giờ lên lớp, sẽ tạo ra những ảnh hưởng tích cực
đến sự hình thành và phát triển nhân cách của người được giáo dục, dưới tác
động của giáo viên, của nhà giáo dục.
– Giáo dục được hiểu là quá trình hình thành và phát triển nhân cách
người giáo dục dưới quan hệ của những tác động sư phạm của nhà trường, chỉ
liên quan đến các mặt giáo dục như: trí học, đức học, mĩ dục, thể dục, giáo
dục lao động.
– Ngồi ra, giáo dục cịn được hiểu là quá trình hình thành và phát triển
nhân cách người được giáo dục chỉ liên quan đến giáo dục đạo đức. Sự ra đời
và phát triển của giáo dục gắn liền với cự ra đời và phát triển của xã hội. Một
mặt, giáo dục phục vụ cho sự phát triển xã hội, bởi lẽ, xã hội sẽ không phát
triển thêm một bước nào nếu như khơng có những điều kiện cần thiết cho giáo
dục tạo ra. Mặt khác, sự phát triển của giáo dục luôn chịu sự quy định của xã
hội thông qua những yêu cầu ngày càng cao và những điều kiện ngày càng
thuận lợi do sự phát triển xã hội mang lại. Chính vì vậy, trình độ phát triển
của giáo dục phản ánh những đặc điểm phát triển của xã hội.
1.1.3. Khái niệm chính sách giáo dục – đào tạo
Giáo dục là một quá trình bao gồm tất cả các hoạt động hướng vào sự
phát triển và rèn luyện năng lực, phẩm chất ở con người để có thể phát triển
nhân cách đầy đủ và trở nên có giá trị tích cực đối với xã hội. Đào tạo là q

trình phát triển có hệ thống các kỹ năng, kỹ xảo và thái độ, tư cách, … đòi hỏi
ở một cá nhân để thực hiện nhiệm vụ chuyên môn nhất định. Như vậy, đào
8


tạo là một dạng đặc thù của giáo dục, trong đó đào tạo hướng về chun mơn
nghề nghiệp.
Chính sách giáo dục và đào tạo là một trong những chính sách xã hội
cơ bản trong hệ thống các chính sách kinh tế -- xã hội của một quốc gia.
Chính sách giáo dục và đào tạo là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối
với các hoạt động giáo dục và đào tạo, nhằm thực hiện các mục tiêu của Nhà
nước về lĩnh vực này. Chính sách giáo dục và đào tạo là một hệ thống các
quan điểm, mục tiêu của Nhà nước về giáo dục – đào tạo cùng các phương
hướng, giải pháp nhằm thực hiện các mục tiêu đó trong một giai đoạn nhất
định của sự phát triển đất nước.
Chính sách giáo dục và đào tạo có mối quan hệ biện chứng với các
chính sách kinh tế - xã hội khác, đặc biệt là mối quan hệ với chính sách lao
động và việc làm, chính sách an sinh xã hội, … Chẳng hạn như, chính sách
giáo dục và đào tạo thực hiện tốt thì cơ hội việc làm tăng và nguồn nhân lực
được sử dụng có hiệu quả. Kết quả là hiện tượng thất nghiệp giảm và chính
sách bảo hiểm xã hội giảm được chi phí cho các trợ cấp thất nghiệp. Ngược
lại, khi chính sách giáo dục và đào tạo không được giải quyết tốt dẫn đến tình
trạng trình độ dân trí thấp, các tệ nạn xã hội dễ nảy sinh, tỷ lệ thất nghiệp gia
tăng. Khi đó, gánh nặng đối với các chính sách về bảo trợ xã hội, an sinh xã
hội tăng lên, thậm chí cịn có thể gây ra bất ổn về chính trị xã hội.
Đối tượng của chính sách giáo dục và đào tạo là con người, là vốn quý
nhất, là nguồn nội lực cốt lõi đối với sự tồn tại và phát triển của đất nước. Do
vậy, giáo dục và đào tạo là mối quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia nhằm
tạo ra nguồn nhân lực có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt
đáp ứng ở mức cao nhất những yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất

nước.
Trong thời đại ngày nay, kỷ nguyên phát triển mới coi đầu tư, phát triển
nguồn nhân lực là quan trọng là quan trọng hơn các loại đầu tư khác. Kinh
nghiệm của nhiều nước cho thấy nếu khơng có chính sách giáo dục và đào tạo
9


đúng đắn sẽ không thể tạo động lực để phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, các
quốc gia trên thế giới đều thực hiện chiến lược phát triển của mình theo
hướng chú trọng đến giáo dục – đào tạo. Nhiều quốc gia coi giáo dục và đào
tạo là nguồn nhân lực hàng đầu cho phát triển kinh tế.
1.2.

Quá trình phát triển chính sách giáo dục Việt Nam

Năm 1986, Đại hội Đảng lần thứ VI đã khởi động chương trình đổi
mới, được biết đến như là chủ trương lớn của đất nước chúng tơi. Kể từ năm
1987 “ Chính sách mở cửa “đã bắt đầu thực hiện với quá trình đổi mới và phát
triển nền kinh tế, chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, định
hướng XHCN. Nền kinh tế Việt Nam từng buớc đã thay đổi căn bản. Nhưng
trong giai đoạn đầu tiên của quá trình đổi mới, giáo dục phải đối mặt với
nhiều khó khăn. Dựa trên những phân tích của Dự án quốc gia “Phân tích lĩnh
vực giáo dục và nguồn nhân lực”(1992) có 7 vấn đề gay cấn chính đối với
giáo dục là:
1. Sự giảm sút về chất lượng ở tất cả các cấp học từ mầm non đến đại
học
2. Sự thiếu liên kết giữa giáo dục nghề nghiệp với sản xuất và việc làm
3. Sự không tương xứng trong hệ thống giáo dục đại học về mối liên
kết giữa nghiên cứu, sản xuất, và việc làm.
4. Sự yếu kém và hạn chế của đội ngũ giáo viên

5. Sự khơng tương thích trong tổ chức, quản lý trong hệ thống giáo dục
đào tạo.
6. Mất cân đối trong giáo dục đào tạo với sự chuyển đổi của xã hội.
7. Sự thiếu hụt và yếu kém trong việc sử dụng có hiệu qủa nguồn lực
cho giáo dục và đào tạo.
Sau 10 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII (1996), Đảng cộng sản Việt Nam đã quyết định đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện thắng
10


lợi mục tiêu này, phát huy đến mức cao nhất nguồn lực con người được coi là
nhân tố quyết định, trong đó giáo dục – đào tạo là địn xeo quan trọng nhất.
Với ý nghĩa đó và để thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, Hội nghị lần thứ hai
Ban Chấp hành Trung ương đã ra Nghị quyết về định hướng chiến lược phát
triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm
vụ đến năm 2000.
Theo Hiến pháp mới năm 1992, vai trò của giáo dục được xác định
như sau:
Điều 35
Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhà nước phát triển giáo
dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Mục tiêu
của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực
của cơng dân; đào tạo những người lao động có nghề, năng động và sáng tạo,
có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân
giầu nước mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Điều 36
Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu,
chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi

cử và hệ thống văn bằng.
Nhà nước phát triển cân đối hệ thống giáo dục: giáo dục mầm non, giáo
dục phổ thông, giáo dục nghề nghiêp, giáo dục đại học và sau đại học, phổ
cập giáo dục tiểu học, xoá nạn mù chữ; phát triển các hình thức trường quốc
lập, dân lập và các hình thức giáo dục khác. Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo
dục, khuyến khích các nguồn đầu tư khác. Nhà nước thực hiện chính sách ưu
tiên bảo đảm phát triển giáo dục ở miền núi, các vùng dân tộc thiểu số và các
vùng đặc biệt khó khăn.
Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001-2010 được thông qua
vào tháng 12 năm 2000 đã khẳng định:
1. Giáo dục là quốc sách hàng đầu
11


2. Xây dựng một nền giáo dục khoa học, hiện đại, ngang tầm quốc tế,
dựa trên chủ nghĩa Mác –Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Phát triển xã hội phải gắn liền với yêu cầu phát triển kinh tế -xã hội.
4. Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của tồn dân
Chính sách phát triển giáo dục đã được thể chế hoá trong Luật Giáo dục
mới 2005 với các nội dung cơ bản như sau:
- Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu
phát triển kinh tế-xã hội, tiến bộ khoa học,công nghệ, củng cố quốc phịng, an
ninh; thực hiện chuẩn hố, hiện đại hố, xã hội hố; bảo đảm cân đối về cơ
cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng, miền; mở rộng quy mô trên cơ
sở bảo đảm chất lượng và hiệu quả; kết hợp giữa đào tạo và sử dụng.
- Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt nam phát triển tồn diện,
có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp. Trung thành với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Nền giáo dục Việt nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân
dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng
- Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với
hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn với thực tiễn, giáo
dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.

12


Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH GIÁO DỤC VIỆT NAM
HIỆN NAY
2.1. Thời cơ, thách thức đối với giáo dục Việt Nam
2.1.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế
Giáo dục nước ta trong thập kỷ tới phát triển trong bối cảnh thế giới có
nhiều thay đổi nhanh và phức tạp. Tồn cầu hoá và hội nhập quốc tế về giáo
dục đã trở thành xu thế tất yếu. Cách mạng khoa học công nghệ, công nghệ
thông tin và truyền thông, kinh tế trí thức ngày càng phát triển mạnh mẽ, tác
động trực tiếp đến sự phát triển của các nền giáo dục trên thế giới.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã khẳng định phấn
đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế tiếp tục được nâng cao; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao
hơn trong giai đoạn sau. Chiến lược cũng đã xác định rõ một trong ba đột phá
là phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao,
tập trung vào việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân, gắn kết

chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công
nghệ. Sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới sẽ tạo ra nhiều cơ hội và
thuận lợi to lớn, đồng thời cũng phát sinh nhiều thách thức đối với sự nghiệp
phát triển giáo dục.
2.1.2. Thời cơ và thách thức
- Thời cơ
Đảng và Nhà nước luôn khẳng định phát triển giáo dục là quốc sách
hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển; giáo dục vừa là mục
tiêu vừa là động lực để phát triển kinh tế - xã hội. Những thành tựu phát triển
kinh tế - xã hội trong 10 năm vừa qua và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
13


2011 - 2020 với yêu cầu tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mơ hình tăng
trưởng, cùng với Chiến lược và Quy hoạch phát triển nhân lực trong thời kỳ
dân số vàng là tiền đề cơ bản để ngành giáo dục cùng các bộ, ngành, địa
phương phát triển giáo dục.
Cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và
truyền thông sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi để đổi mới cơ bản nội dung,
phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục, đổi mới quản lý giáo dục, tiến tới
một nền giáo dục điện tử đáp ứng nhu cầu của từng cá nhân người học.
Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng về giáo dục đang diễn ra ở quy mơ
tồn cầu tạo cơ hội thuận lợi để tiếp cận với các xu thế mới, tri thức mới,
những mơ hình giáo dục hiện đại, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, tạo thời
cơ để phát triển giáo dục.
- Thách thức
Ở trong nước, sự phân hóa trong xã hội có chiều hướng gia tăng.
Khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm dân cư, khoảng cách phát triển giữa
các vùng miền ngày càng rõ rệt, gây nguy cơ dẫn đến sự thiếu bình đẳng trong
tiếp cận giáo dục, gia tăng khoảng cách về chất lượng giáo dục giữa các vùng

miền và cho các đối tượng người học.
Nhu cầu phát triển nhanh giáo dục đáp ứng địi hỏi của sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế theo chiều sâu tri thức
với công nghệ tiên tiến và hội nhập quốc tế, trong khi đó nguồn lực đầu tư
cho giáo dục là có hạn, sẽ tạo sức ép đối với phát triển giáo dục.
Nguy cơ tụt hậu có thể làm cho khoảng cách kinh tế, tri thức, giáo
dục giữa Việt Nam và các nước ngày càng gia tăng. Hội nhập quốc tế và phát
triển kinh tế thị trường làm nảy sinh những vấn đề mới, như nguy cơ xâm
nhập của văn hóa và lối sống khơng lành mạnh làm xói mịn bản sắc dân tộc,
dịch vụ giáo dục kém chất lượng có thể gây nhiều rủi ro lớn đối với giáo dục
đặt ra yêu cầu phải đổi mới cả về lý luận cũng như những giải pháp thực tiễn
phù hợp để phát triển giáo dục.
14


2.2. Những chuyển biến trong chính sách giáo dục Việt Nam
Chính sách giáo dục và đào tạo được thể hiện trong Hiến pháp năm
1992, Luật Giáo dục ban hành năm 2005 và sửa đổi năm 2009. Chính sách
giáo dục và đào tạo được chú trọng trên tất cả các mặt: phổ cập giáo dục các
cấp; tăng cường đào tạo và giáo dục nghề nghiệp trên cả 3 mặt kiến thức, kỹ
năng và phẩm chất người lao động; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao và lao động có kỹ thuật; chú trọng đầu tư và hỗ trợ của nhà nước
cho giáo dục; thực hiện xã hội hóa giáo dục bằng việc khuyến khích sự tham
gia của khu vực tư nhân vào cung cấp dịch vụ giáo dục.
Cùng với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, chính sách giáo dục và đào tạo của Việt Nam đã có những
thay đổi trên các mặt sau:
- Thay đổi về nhận thức:
Quan niệm “Giáo dục như một bộ phận của cuộc cách mạng tư tưởng
văn hóa” đã được thay thế bởi cách hiểu “đầu tư cho giáo dục là nguồn đầu tư

phát triển”. Đabge và Nhà nước Việt Nam đã khẳng định quan điểm “giáo dục
– đào tạo cùng với khoa học và công nghệ được xem là quốc sách hàng đầu”.
Đây là một sự đổi mới về nhận thức và lần đầu tiên được quy định tại điều 35
Hiến pháp 1992, sau đó là Nghị quyết trung ương II khóa VIII. Luật Giáo dục
năm 2005 một lần nữa lại nhấn mạnh: “phát triển giáo dục là quốc sách hàng
đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Để thực
hiện quan điểm này, Quốc hội khóa X đã thơng qua hai nghị quyết quan
trọng: Nghị quyết số 40 về đổi mới chương trình giáo dục phổ thơng và Nghị
quyết số 41 về thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
Ngoài ra, Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm ưu tiên cho công tác giáo
dục và đào tạo ở vùng dân tộc thiểu số, như: Chính sách ưu đãi đối với cán bộ
quản lý và nhà giáo công tác ở vùng dân tộc theo Nghị định số 61/2006/NĐCP ngày 20/6/2006 của Chính phủ; Chính sách ưu đãi đối với học sinh dân
tộc thiểu số được thực hiện theo Quyết định số 152/2007/QĐ-TTg ngày
15


14/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ về học bổng đối với học sinh, sinh viên
học tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân; Chính sách về
phát triển cơ sở hạ tầng, trang thiết bị giáo dục với chương trình kiên cố hóa
trường, lớp học. Ngồi ra cịn có các Chương trình mục tiêu Quốc gia giáo
dục và đào tạo (Dự án Hỗ trợ giáo dục miền núi, vùng dân tộc thiểu số và
vùng có nhiều khó khăn); Dự án giáo dục tiểu học cho trẻ em có hồn cảnh
khó khăn; Dự án phát triển giáo dục trung học cơ sở... Trang thiết bị giáo dục
cũng được ưu tiên đầu tư cho vùng dân tộc thiểu số, như trang thiết bị phục vụ
giảng dạy và học tập (máy vi tính, dụng cụ thí nghiệm, sách tham khảo...), cấp
sách giáo khoa, hỗ trợ học phẩm tối thiểu cho học sinh nghèo, học sinh có
hồn cảnh khó khăn ở vùng dân tộc thiểu số.
- Bảo đảm phát triển cân đối hệ thống giáo dục từ phía Nhà nước
Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu,
chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, quy chế thi cử và hệ thống văn

bằng. Nhà nước chủ trương phát triển đồng đều tất cả các cấp và trình độ đào
tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân. Bên cạnh giáo dục chính quy, nhà nước
mở rộng và tạo điều kiện thuận lợi cho giáo dục thường xuyên. Bên cạnh hệ
thống các trường công lập, nhà nước còn phát triển hệ thống các trường dân
lập và tư thục và có chính sách đa dạng hóa các loại hình trường. Ngân sách
cho giáo dục tuy có sự khác nhau giữa các cấp học và trình độ đào tạo nhưng
được cân đối và phát triển đồng đều.
- Chính sách xã hội hóa giáo dục
Cùng với q trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước đã
chủ trương thực hiện chính sách xã hội hóa giáo dục. Quyết định số 44/HĐBT
ngày 24/04/1989 của Hội Đồng Bộ Trưởng về việc thu một phần học phí
trong giáo dục phổ thơng đã đánh dấu tiến trình xã hội hóa giáo dục và thực
hiện chia sẻ chi phí giáo dục giữa người dân và nhà nước.
Thông qua Nghị quyết số 90/CP ngày 21/8/1997 của Chính Phủ về
phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn
16


hóa, Nhà nước khuyến khích mở rộng nhiều hình thức giáo dục, tạo điều kiện
thuận lợi để phát triển các loại trường, lớp bán công, dân lập, tư thục tại thành
phố, thị xã và những vùng có điều kiện kinh tế thuận lợi. Bên cạnh đó, Luật
Giáo dục cũng khẳng định việc thực hiện đa dạng hóa các loại hình trường và
các hình thức giáo dục, khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức,
cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục.
- Chính sách hỗ trợ và thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục
Nhằm tăng cường sự công bằng trong tiếp cận giáo dục, Chính phủ đã
thực hiện các chính sách miễn giảm học phí và cấp học bổng cho các nhóm
yếu thế. Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày 14/05/2010 của Chính phủ đã
quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng
học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học

2010-2011 đến năm học 2014-2015. Theo đó, ngân sách nhà nước chi khoảng
4.400 tỷ đồng cho miễn, giảm học phí và hỗ trợ chi phí học tập. Ngồi ra,
cũng áp dụng nhiều chính sách riêng đối với các cấp đào tạo khác nhau:
+ Đối với giáo dục mầm non và giáo dục phổ thơng: Chính phủ đã ban
hành nhiều quyết định quan trọng như: Quyết định số 101/2009/QĐ về sửa
đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 112/2007/QĐ-TTg tiếp tục mở
rộng đối tượng thụ hưởng chính sách (hỗ trợ học tập cho tất cả các học sinh
mẫu giáo, phổ thông là con hộ nghèo thuộc xã 135); Quyết định số
85/2010/QĐ-TTg về một số chính sách hỗ trợ học sinh bán trú và trường phổ
thông dân tộc bán trú; Quyết định số 1640/QĐ-TTg ngày 21/9/2011 về củng
cố, phát triển hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú ở miền núi, vùng dân
tộc thiểu số. Việc hỗ trợ chi phí học tập, hỗ trợ tiền ăn trưa, phát triển hệ
thống trường nội trú đã khuyến khích trẻ em, học sinh vùng dân tộc thiểu số,
miền núi, con hộ nghèo và cận nghèo tiếp cận giáo dục mầm non, giáo dục
phổ thông.
+ Đối với giáo dục nghề nghiệp: Chính sách hỗ trợ đào tạo nghề nhằm
tăng cường cơ hội cho các nhóm lao động yếu thế có việc làm ngày càng
17


được chú trọng, nhất là học sinh, sinh viên thuộc hộ nghèo, khó khăn, gia đình
chính sách, lao động nơng thơn. Đối với học sinh, sinh viên, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành 2 quyết định quan trọng: Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg
ngày 27/9/2007 về tín dụng đối với học sinh, sinh viên có hồn cảnh khó khăn
(mồ cơi, thuộc hộ nghèo, khó khăn về tài chính do gặp thiên tai, tai nạn, hỏa
hoạn,…); và Quyết định số 267/2005/QĐ-TTg ngày 31/10/2005 về chính sách
dạy nghề đối với học sinh dân tộc thiểu số nội trú.
+ Đối với thanh niên: Quyết định số 103/2008/QĐ-TTg ngày 21/7/2008
đã phê duyệt Đề án dạy nghề và tạo việc làm cho thanh niên giai đoạn 20082015 với mục tiêu hỗ trợ, tạo điều kiện cho thanh niên vay vốn học nghề, tạo
việc làm và đi làm việc có thời hạn ở nước ngồi, hỗ trợ đầu tư nâng cao năng

lực và hiện đại hóa 10 trung tâm giới thiệu việc làm và dạy nghề trọng điểm
của Đồn thanh niên.
+ Đối với lao động nơng thơn: Thue tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 1956/11/2009/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 phê duyệt Đề án về
dạy nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 với mục tiêu tăng cường khả
năng tiếp cận của các đối tượng này đến hệ thống dạy nghề.
- Chính sách đầu tư cho giáo dục và đào tạo
Ngân sách đầu tư cho giáo dục được quy định cụ thể trong chương VII
Luật Giáo dục năm 2005. Chính phủ đã thực hiện tăng chi cho các chương
trình mục tiêu của ngành giáo dục như: đổi mới chương trình giáo dục phổ
thơng và thay sách giáo khoa, hỗ trợ giáo dục miền núi và dân tộc, xây dựng
cơ sở vật chất trường sư phạm và bồi dưỡng giáo viên, đào tạo nguồn nhân
lực công nghệ thông tin và đưa công nghệ thông tin vào nhà trường, tăng
cường cơ sở vật chất trường học và xây dựng một số trường đại học, trung
học chuyên nghiệp trọng điểm, tăng cường năng lực đào tạo nghề, … Ngoài
ra, Nhà nước cịn thực hiện các biện pháp kiểm sốt và tăng dần hiệu quả sử
dụng các nguồn lực đầu tư cho giáo dục. Bên cạnh việc tăng ngân sách đầu tư

18


cho giáo dục, Nhà nước đã thực hiện việc huy động nguồn lực trong xã hội
đầu tư cho giáo dục thơng qua chủ trương xã hội hóa.
2.3. Kết quả chính sách giáo dục và đào tạo
2.3.1. Những thành tựu chủ yếu
Thứ nhất, mức hưởng thụ về giáo dục và đào tạo của người dân ngày
càng tăng lên
Theo kết quả điều tra mới đây của Tổng cục Thống kê và Ủy ban Dân
tộc về tình hình kinh tế - xã hội 53 dân tộc thiểu số, tính đến ngày 1/8/2015:
Số lượng người dân tộc thiểu số từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết là

7.465.062 người, đạt 79,8%; số lượng người dân tộc thiểu số từ 15 tuổi trở lên
biết đọc, biết viết chữ phổ thông là 7.416.732 người, đạt 79,2%; tỷ lệ người
dân tộc thiểu số có việc làm từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo, đạt 6,2%; tỷ lệ
học sinh trong độ tuổi đi học, đi học đúng cấp đạt 70,2% (trong đó: cấp tiểu
học 88,9 %; cấp trung học cơ sở 72,6 %; cấp trung học phổ thông 32,3 %).
Tổng số trường học của các xã vùng dân tộc thiểu số là 17.722 trường (trong
đó: mầm non: 5.420; tiểu học: 5.968; trung học cơ sở: 3.652; trung học phổ
thông: 597 và trường ghép hai bậc học tiểu học và trung học cơ sở: 293).
Quy mô giáo dục và mạng lưới cơ sở giáo dục được phát triển, đáp ứng
tốt hơn nhu cầu học tập của xã hội. Về cơ bản, đã xóa được các “xã trắng”
giáo dục mầm non, trường tiểu học đã có ở tất cả các xã, trường trung học cơ
sở có ở các xã hoặc cụm xã, trường trung học phổ thông có ở các huyện. Các
tỉnh và nhiều huyện miền núi đã có trường nội trú và bán trú coho con em
đồng bào dân tộc thiểu số. Các cơ sở đào tạo nghề, cao đẳng và đại học được
thành lập ở hầu hết các địa bàn dân cư lớn, các vùng, các địa phương. Đến
nay, trên cả nước có hơn 11.000 trung tâm học tập cộng đồng, gần 800 trung
tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh và cấp huyện, 1.800 trung tâm tin học,
ngoại ngữ và nhiều trường đại học triển khai các chương trình đào tạo từ xa.
Ngồi ra, có nhiều cơ sở đào tạo ngoại ngữ và bồi dưỡng nâng cao trình độ

19


chuyên môn, nghiệp vụ liên kết với các cơ sở đào tạo nước ngoài đang hoạt
động tại Việt Nam.
Mạng lưới cơ sở dạy nghề phát triển nhanh chóng với 3 cấp trình độ (sơ
cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề). Đến năm 2017, trên cả nước đã
có 214 trường cao đẳng nghề, 329 trường trung cấp nghề. Thời kỳ 2010-2016,
bình quân mỗi năm dạy nghề cho 2,7 triệu lao động, trong đó dạy nghề ngắn
hạn khoảng hơn 1 triệu người.

Thứ hai, công bằng xã hội trong giáo dục được cải thiện
Cơ hội học tập cho trẻ em gái, trẻ em người dân tộc thiểu số, con em
các gia đình nghèo và trẻ em khuyết tật đã tăng lên. Giáo dục ở vùng đồng
bằng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa có những tiến bộ rõ rệt. Việc miễn,
giảm học phí, cấp học bổng và các chính sách hỗ trợ khác đã tạo điều kiện
cho đại bộ phận con em gia đình nghèo, diện chính sách được học tập, trước
hết là ở các cấp học phổ cập. Đến nay, 53% học sinh trên cả nước được miễn,
giảm học phí.
Theo Bộ giáo dục, hệ thống Hội khuyến học đã phủ kín các cấp từ cấp
tỉnh đến cấp xã với trên 17 triệu hội viên là các cựu giáo viên, các nhà hoạt
động chính trị, xã hội quan tâm thúc đẩy sự nghiệp học tập cho mọi lứa tuổi.
Chỉ tính riêng từ năm 2012 đến nay, tồn quốc đã có hơn 120 triệu lượt
người tham gia học tập các chuyên đề tại các trung tâm học tập cộng đồng;
gần 6 triệu lượt người học ngoại ngữ và hơn 1,2 triệu lượt người học bồi
dưỡng tin học ứng dụng; hơn 2,4 triệu lượt người tham gia học nghề ngắn
hạn; gần 300 nghìn người theo học lớp xóa mù chữ và giáo dục tiếp tục sau
khi biết chữ. Số lượt cán bộ, công chức được đào tạo bồi dưỡng đạt hơn 4,7
triệu lượt người; gần 3,3 triệu lao động nông thôn được hỗ trợ học nghề; hơn
140 nghìn người khuyết tật được học nghề và tạo việc làm; 100% xã đạt phổ
cập giáo dục tiểu học mức độ 1 trở lên; 99,04% xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục
THCS; 99,9% đơn vị cấp xã duy trì đạt chuẩn xóa mù chữ; tỷ lệ biết chữ ở độ
tuổi 15-35 của cả nước đạt 98,87%; ở độ tuổi từ 15-60 là 97,57%.
20



×